Tải bản đầy đủ (.pdf) (110 trang)

LUẬN VĂN: Tư tưởng "Hiếu" trong Nho giáo và ảnh hưởng của nó đối với đời sống đạo đức gia đình ở Cà Mau ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (891.61 KB, 110 trang )









LUẬN VĂN:

Tư tưởng "Hiếu" trong Nho giáo và ảnh
hưởng của nó đối với đời sống đạo đức
gia đình ở Cà Mau







Mở Đầu

1. Tính cấp thiết của đề tài
Nho giáo là một học thuyết chính trị - đạo đức hình thành rất sớm ở Trung Quốc.
Trên 2000 năm tồn tại của mình, Nho giáo có ảnh hưởng rất lớn tới xã hội Trung Quốc
cũng như các nước trong khu vực.
Nho giáo đề cập đến nhiều nội dung, trong đó có nội dung giáo dục tư tưởng hiếu
cho con người.Trong lịch sử phát triển của Nho giáo, cho dù quan niệm của các nhà nho
mỗi thời kỳ có khác nhau, song họ đều thống nhất với nhau một điểm: đề cao đức tính
"Hiếu" của con người, coi đó là một trong những nội dung chủ yếu của học thuyết Nho
giáo.


Thế kỷ XXI, với những tiến bộ vượt bậc về khoa học và công nghệ, sự toàn cầu
hoá về kinh tế đang kéo theo nhiều biến đổi quan trọng trong đời sống xã hội, đạo đức
con người. Cũng như mọi sự vật hiện tượng khác, đạo đức gia đình không đứng yên mà
vận động theo lịch sử phát triển xã hội. Đạo đức gia đình cũng đang có sự chuyển tiếp từ
truyền thống sang hiện đại. Truyền thống và hiện đại có mối quan hệ hữu cơ, là hai mặt
của một vấn đề, không tách rời với nhau mà tác động lẫn nhau; hiện đại là sự tiếp nối của
truyền thống và truyền thống chỉ được duy trì khi nó phù hợp với sự tiến hoá của xã hội,
trở thành hiện đại.
Nhận diện gia đình Việt Nam hiện nay, có thể thấy đó vốn là nơi duy trì bền vững
các giá trị đạo đức truyền thống nhưng đang đứng trước thách thức, sự tấn công của
những quan niệm tư tưởng mới, lối sống mới.Tác động tiêu cực của mặt trái cơ chế thị
trường đang hàng ngày hàng giờ làm suy thoái đạo đức của một bộ phận người trong xã
hội. Thực tế cho thấy rằng, trong đời sống xã hội đã có những biểu hiện coi nhẹ những
giá trị truyền thống, chạy theo thị hiếu không lành mạnh. Đáng chú ý là:
Tệ sùng bái nước ngoài, coi thường những giá trị văn hóa dân tộc, chạy
theo lối sống thực dụng, chủ nghĩa cá nhân, vị kỷ… đang gây hại đến thuần
phong mỹ tục của dân tộc. Không ít trường hợp vì đồng tiền và danh dự mà


chà đạp lên tình nghĩa gia đình, quan hệ thầy trò, đồng chí, đồng nghiệp [13,
tr.46].
Một điều đáng buồn là tình trạng giáo dục trong một số gia đình bị buông lỏng,
thái độ và hành vi đối xử của con cái đối với cha mẹ đang diễn ra một cách tuỳ tiện và
nhiều lúc thô bạo.
Để thực hiện nhiệm vụ bảo tồn và phát huy giá trị đạo đức truyền thống của gia
đình Việt Nam thì việc nghiên cứu nội dung tư tưởng "Hiếu" trong Nho giáo cùng những
ảnh hưởng tích cực và tiêu cực của nó đối với đời sống đạo đức gia đình Việt Nam nói
chung và ở Cà Mau nói riêng, thông qua đó phát hiện, cải tạo và kế thừa những nhân tố
hợp lý, có giá trị để xây dựng nền đạo đức mới, xây dựng gia đình bình đẳng, tiến bộ, ấm
no; khắc phục những biểu hiện tiêu cực xuống cấp về đạo đức là một việc làm cần thiết

và có ý nghĩa quan trọng trong giai đoạn hiện nay.
Qua những tài liệu tìm được, chúng tôi nhận thấy chưa có công trình nào đặt vấn
đề nghiên cứu một cách có hệ thống nội dung tư tưởng "Hiếu" của Nho giáo và ảnh
hưởng của nó trong đạo đức gia đình Việt Nam hiện nay, từ đó luận chứng cho việc tiếp
thu, kế thừa những yếu tố tích cực để xây dựng gia đình có văn hoá, đồng thời phê phán
và khắc phục những biểu hiện tiêu cực của nó trong gia đình. Để góp phần vào việc tìm
hiểu vấn đề đang cần được nghiên cứu sâu rộng hơn này, tác giả chọn đề tài "Tư tưởng
"Hiếu" trong Nho giáo và ảnh hưởng của nó đối với đời sống đạo đức gia đình ở Cà
Mau".
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong thập niên cuối thế kỷ XX, vấn đề gia đình trở thành vấn đề thời sự nóng
bỏng ở các nước khu vực châu á, khu vực vốn có truyền thống đề cao gia đình trong sự
hình thành nhân cách con người, sự tồn tại và phát triển xã hội. Chưa bao giờ vấn đề này
thu hút sự nghiên cứu của giới chuyên môn cũng như giới chính trị như thời gian này.
Xu thế toàn cầu hoá đang tạo ra nhiều cơ hội chưa từng thấy cho các gia đình phát
triển thì đồng thời cũng đặt ra nhiều thách thức, các loại hình gia đình đang đứng trước
nguy cơ bị đồng hoá, làm suy kiệt những hệ thống giá trị và chuẩn mực đạo đức gia đình.
Chính vì vậy, vấn đề củng cố, phát triển gia đình đã và đang trở thành mối quan tâm


chung của cộng đồng quốc tế. Những cuộc tranh luận về các "giá trị châu á" thì mối quan
hệ trong gia đình thường là trọng điểm. Về vấn đề này, ông Lý Quang Diệu (cựu thủ
tướng Singapore), người cổ vũ nhiệt thành cho nét đặc thù Châu á đã đưa ra nhận xét: sự
sụp đổ các cấu trúc gia đình là nguyên nhân của các vấn đề nan giải trong xã hội phương
Tây. Ngược lại, ở Châu á sức mạnh kinh tế lại bắt nguồn từ những con người ngoan
ngoãn, biết tôn trọng quyền lực của cha mẹ; cùng chung sức đầu tư thì giờ và tiền bạc cho
tương lai của con cái, sở dĩ như vậy vì cấu trúc gia đình ở nhiều nước châu á bền vững
hơn.
ở Việt Nam, vấn đề này đã được một số nhà nghiên cứu về Nho giáo đề cập đến.
Trần Trọng Kim với "Nho giáo", Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, năm 1990. Vũ Khiêu với

“Nho giáo và gia đình”, Nxb Khoa học xã hội, năm 1995. Nguyễn Hiến Lê với "Khổng
tử", Nxb Văn hóa, năm 1991. Nguyễn Khắc Viện với "Bàn về đạo nho", Nxb Trẻ, năm
1993. Quang Đạm với "Nho giáo xưa và nay", Nxb Văn hóa thông tin, năm 1999. Vũ
Khiêu với "Nho giáo và sự phát triển của Việt Nam", Nxb Khoa học xã hội, năm 1997.
Nguyễn Tài Thư "Nho học và Nho học ở Việt Nam", Nxb Khoa học xã hội, năm 1997. Hà
Thúc Minh với "Đạo Nho và văn hoá phương Đông", Nxb Giáo dục, năm 2001.
Ngoài ra còn một số bài viết và luận văn, luận án nghiên cứu khá công phu, chẳng
hạn: “Vấn đề con người trong Nho học sơ kỳ” của Nguyễn Tài Thư; “ảnh hưởng của Nho
giáo đối với chủ nghĩa yêu nước Việt Nam truyền thống” của Trần Thị Hồng Thúy; “Từ
đạo hiếu truyền thống, nghĩ về đạo hiếu ngày nay” của Nguyễn Thị Thọ, Tạp chí Triết
học số 6 năm 2007; “Một số suy nghĩ về đặc điểm của Nho giáo ở Việt Nam” của Nguyễn
Hùng Hậu, Tạp chí Triết học, số 5 năm 1998; “Tìm hiểu tư tưởng đức trị trong Nho giáo”
của Nguyễn Thế Kiệt, Tạp chí Nghiên cứu lyự luận, số 10 năm 1999.
Trong những công trình, luận án và các bài viết trên, nhiều vấn đề quan trọng của
Nho giáo đã được đem ra bàn luận, như: Vì sao Nho giáo lại có sức sống dai dẳng hàng
nghìn năm ở nhiều nước phương Đông? Nho giáo là học thuyết chính trị - xã hội hay là
học thuyết về đạo đức, nhân luân; về Trung - Hiếu - Lễ và ảnh hưởng của nó đối với đời
sống đạo đức con người ? Mặc dù vậy, việc nghiên cứu tư tưởng “Hiếu” trong Nho giáo


và ảnh hưởng của nó đối với đời sống đạo đức gia đình ở Cà Mau hiện nay thì chưa có
công trình nghiên cứu nào đề cập một cách có hệ thống.
Thách thức lớn nhất đối với gia đình Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ XXI
là cùng với việc tiếp thu những giá trị nhân văn trong xu thế hội nhập, đồng thời phải
phát huy những giá trị đạo đức truyền thống của gia đình Việt Nam, đảm bảo cho sự phát
triển lâu dài của đất nước. Chính vì thế, định hướng cơ bản cho gia đình Việt Nam phát
triển bền vững trong xu thế hội nhập quốc tế đã được Đảng và Nhà nước ta xác định
trong Chỉ thị 49- CT/TW (ngày 21 tháng 02 năm 2005) của Ban Bí thư về "Xây dựng gia
đình thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước". Tư tưởng chủ đạo của văn bản
quan trọng này đòi hỏi chúng ta cần nhận thức rõ: "Gia đình là một trong những nhân tố

quan trọng quyết định sự thành công của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội" [65, tr.12].
Với việc quan tâm vấn đề sâu rộng này, tác giả đề cập qua luận văn: Tư tưởng
"Hiếu" trong Nho giáo và ảnh hưởng của nó đối đời sống đạo đức gia đỡnh ở Cà
Mau.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn
Nghiên cứu nội dung tư tưởng "Hiếu" trong Nho giáo và phân tích ảnh hưởng của
nó đối với đời sống đạo đức gia đình ở Cà Mau hiện nay. Trên cơ sở đó kiến nghị những
giải pháp cơ bản để kế thừa những giá trị và loại bỏ mặt hạn chế của tư tưởng "Hiếu"
trong Nho giáo nhằm xây dựng đời sống đạo đức gia đình ở Cà Mau hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
Để đạt được mục đích trên, luận văn tập trung giải quyết các nhiệm vụ sau:
Thứ nhất, trình bày nội dung tư tưởng "Hiếu'' và sự biến đổi của nó trong Nho giáo
Trung Quốc và Việt Nam.
Thứ hai, phân tích những ảnh hưởng tích cực và tiêu cực của tư tưởng "Hiếu" đối
với đời sống đạo đức gia đình ở Cà Mau.


Thứ ba, đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm phát huy ảnh hưởng tích cực, hạn
chế ảnh hưởng tiêu cực của tư tưởng "Hiếu" đối với đời sống đạo đức gia đình ở Cà Mau
hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu của luận văn
Tư tưởng "Hiếu" trong Nho giáo và ảnh hưởng của nó đối với đời sống đạo đức
gia đình ở Cà Mau.
4.2. Phạm vi nghiên cứu của luận văn
Nho giáo là một học thuyết chính trị - đạo đức có nội dung rất phong phú, bao quát
nhiều lĩnh vực của đời sống con người. Trong phạm vi luận văn thạc sĩ, đề tài được giới
hạn trong việc nghiên cứu nội dung tư tưởng "Hiếu" của Nho giáo, những biến đổi của nó

trong ba giai đoạn phát triển chủ yếu (Nho giáo thời Tiên Tần, Nho giáo thời Hán, Nho
giáo thời Tống); tư tưởng "Hiếu" trong Nho giáo Việt Nam và ảnh hưởng của nó đối với
đời sống đạo đức gia đình ở Cà Mau.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Để thực hiện được những yêu cầu trên, luận văn dựa trên quan điểm triết học và
đạo đức học Mác - Lênin, tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng
sản; đồng thời có kế thừa kết quả nghiên cứu của một số công trình khoa học đã được
công bố của các tác giả (hoặc tập thể tác giả) trong và ngoài nước có liên quan đến đề tài.
5.2. Phương pháp nghiên cứu của luận văn
Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, kết hợp với một số phương pháp cụ thể như:
Phân tích và tổng hợp, lịch sử và logic, hệ thống, điều tra anket, đối chiếu, so sánh, thống
kê để trình bày những vấn đề đặt ra trong luận văn
6. Đóng góp mới về khoa học và ý nghĩa của luận văn
Nghiên cứu một cách có hệ thống nội dung cơ bản của tư tưởng "Hiếu" trong Nho
giáo ở Trung Quốc. Phân tích sự du nhập và biến đổi của tư tưởng "Hiếu" ở Việt Nam,


chỉ ra những ảnh hưởng của nó trong việc giáo dục đạo đức gia đình ở một địa phương cụ
thể là Cà Mau.
Công trình này có thể được dùng làm tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu
và giảng dạy triết học.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn
gồm 2 chương, 5 tiết.


Chương 1
TƯ TƯởNG “hiếu” trong nho giáo trung quốc

và việt nam

Nho giáo là một học thuyết chính trị - đạo đức ra đời trong thời Xuân Thu chiến
quốc, là giai đoạn lịch sử đầy biến động của xã hội Trung Hoa cổ đại trong quá trình
chuyển biến sang xã hội phong kiến, kéo dài từ thế kỷ thứ VII trước Công nguyên đến thế
kỷ thứ III trước Công nguyên. Trong Sử ký, Tư Mã Thiên miêu tả thời kỳ này là thời đại
“vương đạo suy vi”, “bá đạo” cường thịnh, lấn át “vương đạo”, chế độ tông pháp của nhà
Chu bị đảo lộn, đạo lý nhân luân suy đồi “vua không phải đạo vua, tôi không phải đạo
tôi, cha không phải đạo cha, con không phải đạo con ” (quân bất quân, thần bất thần, phụ
bất phụ, tử bất tử) [84, tr.28].
Trước bối cảnh xã hội như vậy, các nhà tư tưởng có tâm huyết đua nhau tìm kiếm
nguyên nhân và đưa ra các giải pháp nhằm ổn định trật tự xã hội. Đây là thời kỳ tư tưởng
Triết học Trung Quốc phát triển nở rộ, nhiều triết thuyết xuất hiện như: Nho gia, Pháp
gia, Mặc gia, Đạo gia… Người ta gọi đó là thời kỳ “bách hoa đề phóng, bách gia tranh
minh” (trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng). Trong số bách gia xuất hiện thời Tiên Tần ở
Trung Quốc thì Nho giáo là một trong những học thuyết có sức sống lâu dài nhất. Hơn
2000 năm của chế độ phong kiến Trung Quốc, đã trải qua bao triều đại khác nhau, bao
biến động, thăng trầm của xã hội nhưng địa vị thống trị của Nho giáo trong thượng tầng
kiến trúc vẫn được giữ vững. Các triều đại Phong kiến Trung Quốc xem Khổng Tử là
người thầy của muôn đời “Vạn thế sư biểu”. Khổng Tử cho rằng: xã hội loạn lạc là bởi
con người “vô đạo”, cần đưa con người trở về “hữu đạo” bằng con đường giáo hóa. “Đạo
hiếu” là một trong những phạm trù đạo đức cơ bản của Nho giáo để giáo hóa con người
góp phần ổn định trật tự xã hội. Nối tiếp tinh thần trên, các nhà Nho đời sau tiếp tục bổ
sung và củng cố luận điểm đó của Khổng Tử.
1.1. Quan niệm của Nho giáo về tầm quan trọng của giáo dục đạo đức trong
gia đình


Nho giáo từ đời nhà Hán trở thành hệ tư tưởng của giai cấp phong kiến Trung quốc,
nhằm bảo vệ quyền lợi của giai cấp phong kiến, bản thân nó mang nhiều yếu tố bảo thủ,

tiêu cực. Tuy nhiên, đó là một học thuyết tồn tại hàng nghìn năm, nên cũng có những giá
trị mang tính phổ biến và chứa đựng nhiều tư tưởng triết học sâu sắc không thể không
thừa nhận, trong đó có nội dung giáo dục đạo đức gia đình.
Trong học thuyết Nho giáo, gia đình là một phạm trù lớn, chứa đựng nhiều nội dung
thâm thúy, ý nghĩa sâu xa có nhiều ảnh hưởng đến những phạm trù khác về đạo đức và
cuộc sống con người. Coi gia đình là cơ sở của xã hội, Nho giáo nêu cao nguyên lý thiên
hạ quốc gia và dẫn giải rằng: gốc của thiên hạ là nước, gốc của nước là nhà, gốc của nhà
là bản thân (Thiên hạ chi bản tại quốc, quốc chi bản tại gia, gia chi bản tại thân) [6, tr.13].
Chính vì thế, muốn trị nước trước hết phải yên nhà (Dục trị kỳ quốc giả, tiên tề kỳ gia)
[7, tr.21]. Bậc quân tử trước hết phải làm cho nhà mình tề chỉnh thì dân chúng mới làm
theo, do đó mà tề chỉnh được mọi nhà dân, trị yên được cả nước. “Một nhà nhân hậu thì
cả nước dấy lên nhân hậu. Một nhà lễ nhượng thì cả nước dấy lên lễ nhượng” (Nhất gia
nhân, nhất quốc hưng nhân; nhất gia nhượng, nhất quốc hưng nhượng) [7, tr.20]. Đạo Khổng
xem gia đình là một trong ba khâu không thể thiếu của hoạt động con người: Tu thân, tề gia,
trị quốc.
Nho giáo xây dựng nên những mối quan hệ chặt chẽ trong gia đình. “Cha ra cha,
con ra con, anh ra anh, em ra em, chồng ra chồng, vợ ra vợ, thế là gia đạo chính”. Trong
ba mối quan hệ (cha con, chồng vợ, anh em) làm nên cái gọi là “gia đạo chính” ấy, thì
quan hệ cha con, anh em tiêu biểu bằng chữ Hiếu và chữ Đễ, đã được Nho giáo tôn lên
rất cao, đặt vào một vị trí đặc biệt quan trọng, trở thành cốt lõi của các quan hệ trong toàn
xã hội.
Nho giáo rất chú trọng yếu tố giáo dục gia đình, coi giáo dục gia đình là toàn bộ
giáo dục xã hội. Khổng Tử quan niệm, đạo đức gắn liền với chính trị, chính trị chẳng qua
là sự mở rộng của đạo đức. Trong học thuyết của ông, đạo đức gắn liền với chính trị,
quan hệ chặt chẽ với chính trị, bởi vì nó dựa trên cơ sở huyết thống, lấy huyết thống để
xác định liều lượng đậm nhạt của nhân ái. Cho nên, quan hệ huyết thống trong gia đình là
cơ sở học thuyết nói về người quân tử chú tâm vào gốc rễ, gốc rễ có vững thì đạo mới


phát sinh được và Hiếu Đễ chính là gốc rễ của Nhân, là hạt nhân của nội dung giáo dục

đạo đức.
Xưa nay, chưa một học thuyết nào, một trường phái nào như Nho giáo đã đề cập
chữ Hiếu một cách sâu sắc, cụ thể và đầy đủ đến thế. Nho giáo có chủ đích rõ ràng trong
việc xây dựng những quan hệ chặt chẽ trong gia đình và phát triển chúng thành những
quan hệ trong toàn xã hội, trong việc xây dựng những tình cảm và đức tính tốt trong gia
đình, từ đó vun đắp chúng trở thành những tình cảm và đức tốt trong đạo thờ vua, trị
nước. Nho giáo nói không che đậy: “Hiếu là để phụng sự nhà vua đấy, Đễ là để phụng sự
bề trên đấy, Từ là để sai khiến dân chúng đấy” (Hiếu giả sở dĩ sự quân giã; đễ giả sở dĩ sự
trưởng giã, Từ giả sở dĩ sử chúng giã) [7, tr.20]. Nho giáo vì thế rất coi trọng việc giáo
dục trong gia đình. Đó là trường học đầu tiên để giáo dục con người đi vào xã hội. “Thân
yêu cha mẹ mình, vì đó mà cư xử có nhân với người đời” (Thân thân, nhi, nhân dân) [6,
tr.252].
Cũng từ quan điểm huyết thống, Nho giáo đòi hỏi sự gắn bó chặt chẽ giữa những
thành viên trong cùng một gia đình, một dòng họ. Nho giáo kêu gọi họ yêu thương đùm
bọc lẫn nhau, khuyến khích nhau giữ gìn danh dự và phát huy truyền thống của gia đình,
của dòng họ. Những nghi thức ứng xử hàng ngày, những lời răn dạy của cha ông với
những gia huấn, gia ngữ được lưu truyền đến các đời con cháu. Việc thờ cúng ông bà cha
mẹ trong nhà gắn với việc thờ cúng tổ tiên trong họ, việc xây dựng nhà thờ, sửa sang mồ
mả, sưu tầm ghi chép gia phả đều góp phần làm khắng khít thêm các mối quan hệ trong
gia đình, gia tộc. Đã có nhiều biểu hiện tốt đẹp của tình người được nảy sinh từ đó.
Gia đình trở thành hòn đá tảng của lâu đài phong kiến. Từ đạo đức trong gia đình
đến chính trị ngoài xã hội đều có liên quan đến nhau. Cũng vì vậy, muốn đánh giá được
phẩm chất của một người ở ngoài xã hội, muốn xem có nên cân nhắc và sử dụng họ không,
trước tiên người ta phải xem tư cách, thái độ của người ấy trong gia đình ra sao. Có đối xử
tốt trong gia đình, mới có thể đối xử tốt ngoài xã hội. “Bậc quân tử có ăn ở hợp lý ở trong
nhà, mới có thể dạy người trong nước” (Nghi kỳ gia nhân, nhi hậu khả dĩ giáo quốc nhân) [7,
tr.20], và “đã là người hiếu đễ mà lại thích phạm thượng điều đó có ít thôi. Đã không
thích phạm thượng mà lại thích làm loạn thì điều đó chưa có bao giờ” (Kỳ vi nhơn giã,



hiếu đễ, nhi háo phạm thượng giả, tiển hỹ. Bất háo phạm thượng, nhi háo tác loạn giả, vi
chi hữu giã) [5, tr.4]. Từ đó, Nho giáo khẳng định rằng sự giáo dục từ trong gia đình có tác
động mạnh mẽ, thậm chí quyết định sự thành công trong việc trị nước. “Đem những điều ấy
ra mà thi thố trong thiên hạ thì không có điều gì mà không làm được” (Thố chư thiên hạ vô
sở bất hành) (lễ ký).
Có thể nói, toàn bộ giáo dục gia đình theo Nho giáo nhằm tạo nên “phụ phụ tử tử,
huynh huynh đệ đệ” (cha ra cha, con ra con, anh ra anh, em ra em). Trong mối quan hệ
cha con, anh em ấy thì “phụ từ tử hiếu, huynh lương đệ đễ” (cha nhân từ, con có hiếu, anh
rộng lượng, em kính trọng). Tác dụng của giáo dục gia đình theo Nho giáo là nhằm tạo ra
con người có nhân trong gia đình, từ đó có nhân với người khác. Thậm chí, chỉ cần mọi
người thực sự yêu thương cha mẹ bà con mình, thì tự nhiên thiên hạ sẽ được thái bình:
“Nhơn nhơn thân kỳ thân, trưởng kỳ trưởng, nhi thiên hạ bình” [6, tr.22]. Theo Nho giáo,
giáo dục gia đình là nhằm tạo ra nhà nhà hòa mục, cả nước dấy lên hòa mục, gia đình hòa
thuận là cái gốc góp vào mối quan hệ xóm làng đất nước hòa thuận. Do vậy, muốn xây
dựng một xã hội hòa mục thân ái, ổn định trật tự xã hội, cần phải có một chính quyền
thống nhất quy về đầu mối duy nhất là thiên tử, khắp nơi có trật tự, thế giới hòa mục
trong gia đình.
Tóm lại, theo Nho giáo, “Hiếu” có một ư nghĩa quan trọng nhằm xây dựng một xã
hội trật tự, ổn định, hòa mục. Gia đình là đơn vị kết cấu cơ bản nhất của xã hội, sự ổn
định của gia đình có tác dụng trong việc củng cố xã hội. “Hiếu” có tác dụng tích cực
trong việc củng cố gia đình. Khổng Tử đã dùng đạo hiếu với mấu chốt là quan hệ huyết
thống để gắn kết xã hội tông pháp dòng tộc.
1.2. Tư tưởng “Hiếu” và sự biến đổi của nó trong lịch sử Nho giáo Trung
Quốc
1.2.1. Khái niệm “Hiếu"
Đạo hiếu theo nghĩa hẹp: Là chỉ sự hiếu thuận đối với cha mẹ của con cái, đó là
kính yêu, phụng dưỡng cha mẹ, vâng theo di huấn của tổ tiên, thực hiện đầy đủ giỗ kợ…
Lòng hiếu của những người cùng huyết thống còn bao gồm “hiếu đễ”, tức là lòng kính
yêu đối với anh chị.



Chẳng hạn, Khổng Tử đặc biệt nhấn mạnh sự hiếu thuận đối với cha mẹ và xem đó
là một phẩm chất đạo đức cao đẹp của con người. Ông nói: “Làm cha mẹ, ai cũng lo cho
con, sợ con phóng túng mà hư thân mất nết, sợ con theo bạn xấu mà làm chuyện phi
pháp, mắc vòng tù tội. Cho nên đi chơi nhà ai thì nên cho cha mẹ biết trước, phòng khi
giao du với kẻ chẳng xứng đáng thì cha mẹ khuyên can” (phụ mẫu tại, bất viễn du; du,
tất hữu phương) [5, tr.58], hay: “Làm con nên xem xét chí hướng của cha. Đến khi cha
thác, người con được trọn quyền hành động, cho nên phải nhớ tới những việc làm của
cha. Nhưng khi cha thác trong ba năm, bấy giờ người con đương để tang, cho nên chẳng
có vui sướng gì mà cải tạo, vì vậy nên được gọi là hiếu” (phụ tại, quan kỳ chí. Phụ một,
quan kỳ hạnh. Tam niên vô cải ư phụ chi đạo, khả vị hiếu kỹ) [5, tr.8].
Bên cạnh lòng "Hiếu" đối với cha mẹ, Khổng Tử còn nhấn mạnh sự kính yêu của
em đối với anh và gọi đó là “đễ”. Do đó, Khổng Tử cho rằng “Làm con khi vào thì thảo
với cha mẹ, khi ra thì kính anh chị và người lớn tuổi” (Đệ tử nhập tắc hiếu; xuất tắc đễ)
[5, tr.6]. Đây là chuẩn mực cơ bản nhất của Đạo hiếu và là quy phạm sơ đẳng nhất cho
hành vi con người.
Đạo hiếu nghĩa rộng: Là trung hiếu, đó là lòng kính yêu giữa người với người
trong xã hội, bao gồm lòng hiếu của trẻ đối với già, của kẻ dưới với người trên, lòng
trung của tôi thần với quân vương, của dân đối với nước.
Đó là bước sáng tạo lớn nhất của Khổng Tử, Đạo Hiếu còn là kính yêu giữa những
người không cùng quan hệ huyết thống. “Trung Hiếu là đạo hiếu được xã hội hóa, chính
trị hóa, là người nào nói lời chi cũng trung thành, tín thật, làm việc chi cũng đối hậu, kính
cẩn, dẫu cho đến xứ thô - tục của người miền Nam hay miền Bắc, cũng được thông hành”
(Ngôn trung tín, hạnh đốc kính, tuy Man Mạch chi bang, hành hỹ) [5, tr.240]. Hai chữ
“Trung hiếu” đã gây nên những ảnh hưởng sâu sắc đối với lịch sử Trung Quốc, dù rằng
tích cực hay tiêu cực, nó có tác dụng mạnh mẽ trong việc duy trì sự thống trị của xã hội
phong kiến. Nhưng đây cũng là chiếc gông tinh thần được giai cấp thống trị dùng để kìm
kẹp, trói buộc và nô dịch người dân.
Chữ “Hiếu” không phải là của giai cấp phong kiến vì từ khi có xã hội loài người, có
các thế hệ thì mối quan hệ giữa thế hệ sau với thế hệ trước chính là chữ “Hiếu“. Mối quan



hệ giữa thế hệ sau và thế hệ trước trong xã hội không phải là bất biến, xã hội luôn biến
đổi thì mối quan hệ giữa con cái với ông bà, cha mẹ cũng có những biến đổi cho phù hợp,
nhưng cái cốt lõi vẫn không thay đổi là sự biết ơn, kính trọng, vâng lời và chăm sóc cha
mẹ. Quan niệm về chữ “Hiếu” thể hiện sớm nhất ở Kim Văn:
“Thiên tử anh minh cầu hiếu với thần linh”
“Dùng lễ để tỏ hiếu với người xưa”
“Lấy việc truyền ngôi để tỏ hiếu với vua xưa”
“Dùng lễ để tỏ hiếu với Tổ tiên hoàng tộc” [73, tr.249].
Quan niệm về “Hiếu“ trong Kim Văn vẫn chưa phát triển đến trình độ cao. Sau này
người Ân đặc biệt coi trọng tang lễ nên tục thờ cúng của người Ân là trung tâm sinh hoạt
của tôn giáo. Người Chu kế thừa tôn giáo thờ cúng tổ tiên của người Ân và có sự phát
triển hơn, làm cho quan hệ giữa người với thượng đế mật thiết hơn nhiều và sau khi hóa
thần thì trở thành đối tượng hiếu kính chung. Vì vậy, ý nghĩa nguyên thủy của chữ
“Hiếu” là sự kết hợp giữa tôn giáo và luân lý, nhằm đẩy mạnh sự đoàn kết dân tộc và sự
thống nhất về chính trị.
Thời Xuân thu - Chiến quốc, Nho giáo là một học thuyết chính trị - đạo đức đã đề
cập đến nhiều nội dung, trong đó có nội dung giáo dục tư tưởng “Hiếu” cho con người.
Mỗi thời kỳ lịch sử đều có những quan điểm khác nhau về “Hiếu”, người đầu tiên bàn
nhiều đến tư tưởng về “Hiếu” là Khổng tử và Mạnh tử, về sau Đổng Trọng Thư phát triển
tư tưởng này.
1.2.2. Nội dung tư tưởng “Hiếu” và sự biến đổi của nó trong lịch sử Nho giáo
Trung Quốc
1.2.2.1. Nội dung tư tưởng “Hiếu” của Nho giáo thời Tiền Tần (Thế kỷ VI trước
Công nguyên - Thế kỷ III trước Công nguyên)
Sự hình thành và phát triển của Nho giáo thời Tiên Tần gắn liền với tên tuổi của
người sáng lập là Khổng Tử và hai nhà tư tưởng lớn là Mạnh Tử và Tuân Tử.
Thời đại Khổng Tử là thời đại suy tàn của chế độ nô lệ và chế độ sơ kỳ phong kiến
đang lên, mệnh lệnh "Thiên tử" nhà Chu không còn được tuân thủ, trật tự lễ nghĩa, cương

thường xã hội đảo lộn, đạo đức suy đồi. Nạn chư hầu chiếm ngôi "Thiên tử", đại phu lấn


quyền chư hầu, tôi giết vua, cha giết con, anh hại em, vợ lìa chồng thường xuyên xảy
ra….Để lập lại trật tự xã hội, các nhà Nho chủ trương dùng “đức trị". Có thể nói, “Nhân"
là quan niệm tiêu biểu trong tư tưởng Khổng - Mạnh, trong đó “Hiếu đễ" là gốc của
Nhân.
Đề cao tột bậc hai chữ “Hiếu đễ", thầy trò Khổng Khâu đã tốn rất nhiều công phu
để định rõ nội dung ý nghĩa của hai chữ ấy, nhất là của chữ “Hiếu“ theo yêu cầu giáo dục
của mình. Hiếu kính cha mẹ tức là phải tôn trọng, kính yêu, phụng dưỡng cha mẹ, làm
con phải cảm kích đối với công ơn sinh thành, nuôi dưỡng giáo dục của cha mẹ, thực
hiện trách nhiệm và nghĩa vụ của người con đối với cha mẹ. Nho giáo cho rằng: “làm cho
cha mẹ được tôn trọng là bậc hiếu cao nhất, không làm nhục cha mẹ là bậc hiếu thứ hai,
có thể nuôi cha mẹ là bậc hiếu cuối cùng" (Hiếu hữu Tam: Đại hiếu tôn thân, kỳ hiếu
phất nhục, kỳ hạ năng dưỡng) [73, tr.265].
Thông thường, người ta hiểu rằng “Hiếu“ là đức của con người, làm con hết lòng
kính yêu cha mẹ khi cha mẹ còn sống, kế thừa ý chí, đạo lý của cha mẹ sau khi cha mẹ
qua đời. Nhưng Nho giáo còn coi nhà là gốc của nước, cũng như nước là gốc của thiên
hạ, do đó muốn bình thiên hạ phải biết trị quốc, muốn trị quốc phải biết tề gia. “Hiếu đễ"
không chỉ là đức tốt của con người làm anh em, làm con trong nhà mà còn luyện cho con
người trở thành hữu đạo, hữu đức trong nước, trong thiên hạ nữa. Trong phạm vi nhà, sợi
dây thiêng liêng đầu tiên buộc chặt con người với người khác sau khi ra đời là tình nghĩa
của người con đối với cha mẹ, nên khi bắt đầu có tình cảm và tư duy, trẻ con phải bắt đầu
học tập để giữ đúng đạo làm con và có đức hiếu. Đồng thời, trong cuộc sống gia đình có
đạo làm con và có đức hiếu với cha mẹ thì khi lớn lên cũng trở thành người cha Từ.
Trong phạm vi nước và thiên hạ, những người con như vậy cũng dễ trở thành những
người làm nên nghiệp lớn hoặc có phần cống hiến trong công việc trị quốc. Từ đó suy ra,
Tăng Sâm viết trong cuốn Đại học, “Hiếu là để phụng sự nhà vua đấy, Đễ là để phụng sự
bề trên đấy, Từ là để sai khiến dân đấy" (Hiếu giả sở dĩ sự quân giã; đễ giã sở dĩ sự
trưởng giã; Từ giã sở dĩ sử chúng giã) [7, tr.20].

Có thể nói rằng, nội dung chữ “Hiếu" của Khổng - Mạnh chủ yếu nhấn mạnh vào
những điều có ý nghĩa cao sâu hơn về mặt tư duy triết học. Từ nhiều luận điểm trong Tứ


thư, Ngũ kinh và nhiều tài liệu diễn giải của những danh Nho về sau, ta thấy nguyên lý
“dương danh hiển thân" là cách báo hiếu tốt nhất, vì có “dương danh hiển thân" mới
mang lại cho cha mẹ uy tín và làm cho cha mẹ được tôn trọng “đại hiếu tôn thân". Rất sợ
con em “đổi khác", Nho giáo làm mọi cách cho con cháu đi theo đúng đạo của cha ông,
cứ kế thừa và hoàn thành sự nghiệp của cha ông mà làm nên sự nghiệp lớn, vươn cao lên
mãi, con hơn cha thì nhà càng tốt phúc. Nghiệp lớn đòi hỏi phải vượt ra ngoài phạm vi
“nhà“. Gắn chặt việc phụng sự cha mẹ, phục vụ cha mẹ với giữ gìn bản thân mình, “việc
phụng sự là lớn? Việc phụng sự cha mẹ là lớn. Việc giữ gìn gì là lớn? Việc giữ gìn thân
thể là lớn" (Sự thục vi đại? Sự thân vi đại, Thủ thục vi đại? Thủ thân vi đại”) [6, tr.30].
“Hiếu" là phải tôn kính cha mẹ, không làm gì để cho cha mẹ mang nhục; người con phải
làm nên nghiệp lớn không chỉ rạng danh cho mình mà còn làm vinh hiển cho cha mẹ, làm
cho cha mẹ được người đời kính trọng - đó mới chí cực là Hiếu. Mạnh Tử từng nói rằng,
“chỗ chí hiếu của người con, không chi lớn bằng làm cho cha mẹ được tôn trọng, chỗ làm
cho cha mẹ được tôn trọng chí cực, không chi lớn bằng đem huê lợi trong thiên hạ mà
phụng dưỡng cha mẹ” (Hiếu - tử chi chí, mạc đại hồ tôn thân; tôn thân chi chí, mạc đại
hồ dĩ thiên - hạ dưỡng) [6, tr.88]. Từ chỗ đẻ ra một người bình thường đi đến chỗ trở
thành “quốc phụ”, “quốc mẫu”, có khi trở thành phụ mẫu cả thiên hạ, chẳng phải là cao
quý cực độ ư? Trong cuốn Hiếu kinh (kinh về đạo hiếu), có câu “lập thân hành đạo, nêu
cao thanh danh đến đời sau để làm vinh hiển cho cha mẹ”.
Dạy người ta Đạo hiếu, khuyên người ta “phụng sự cha mẹ, giữ gìn bản thân”, “nối
tiếp - làm theo cha ông” và chỉ dẫn cho người ta “Tu thân - Tề gia - Trị quốc - Bình thiên
hạ”, Khổng - Mạnh thường đưa Nghiêu -Thuấn ra làm mẫu mực. Là người có hiếu,
Thuấn được vua Nghiêu gả cho cả hai con gái một lúc và truyền ngôi báu cho, trở thành
Thiên tử, “dương danh hiển thân” đến tột bậc, càng rõ ràng là hiếu hơn ai cả.
Đạo hiếu của Nho giáo thật là cao siêu, kỳ diệu và huyền ảo. Đó là chưa kể đến biện
pháp giáo dục đức Hiếu của Nho giáo về vấn đề nuôi dưỡng cha mẹ. Với Nho giáo,

người làm con trước hết phải thực hành đạo hiếu. Khổng Tử không nhấn mạnh đến của
cải do con cái làm cho cha mẹ mà chủ yếu nói đến “tâm” để đánh giá lòng hiếu thảo.
Theo ông, hiếu của con cái đối với cha mẹ, không chỉ phụng dưỡng người đã sinh ra


mình mà trước hết phải có lòng thành kính nuôi được cha mẹ, nuôi dưỡng được cha mẹ là
điều tốt nhưng phải bằng tấm lòng kính yêu chân thành chứ đừng như đời nay “hễ thấy ai
nuôi được cha mẹ thì khen là có hiếu. Nhưng chó ngựa thì người ta cũng nuôi nên nuôi
cha mẹ mà chẳng kính trọng thì khác gì nuôi súc vật” (Kim chi hiếu giả, thị vị năng
dưỡng. Chí ư khuyển mã, giai năng hữu dưỡng. Bất kính, hà dĩ biệt hồ) [5, tr.18]. Đồng
thời, “làm con đối với cha mẹ lúc nào cũng tỏ vẻ hòa vui, giữ được như vậy mới khó, mới
đáng gọi là hiếu” (Sắc nan. Hữu sự, đệ tử phục kỳ lao) [5, tr.18], nghĩa là:
Đối xử với cha mẹ, việc cho ăn cho uống là dễ làm, làm việc thay cho
cha mẹ cũng dễ dàng, còn lo toan cho cha mẹ khi đau yếu bệnh tật là khó làm
và khó làm tốt. Còn trước mặt cha mẹ, bất cứ hoàn cảnh nào đều giữ được nét
mặt vui vẻ là điều hết sức khó làm. Đối xử với cha mẹ, không có sự quan tâm
tự đáy lòng được xem là hiếu ư? [61, tr.53].
Khi cha mẹ còn sống, không bao giờ làm gì để cho cha mẹ ưu tư phiền muộn bực
mình, không đưa lại phiền phức cho cha mẹ, bởi vậy “không nên đi đâu xa, có đi xa thì phải
nói cha mẹ biết chỗ để cha mẹ khỏi lo và nhỡ có việc gì, có thể tìm gọi được” (Phụ mẫu tại,
bất viễn du; du, tất hữu phương) [5, tr.58]. Khi có tang gia, giữa tiền bạc và tấm lòng,
Khổng tử cho rằng “buồn thương thực sự cao hơn tiền bạc” (tang, dữ kỳ dị giã, ninh
thích) [5, tr.32].
Hiếu là “nết đầu trong trăm nết”. Hành vi của người ta không gì lớn bằng chữ
“Hiếu”, người con có hiếu có ý thức đầy đủ về tình cảm và bổn phận của mình đối với
cha mẹ, đó là sự biết ơn, cù lao chín chữ “cha sinh ra ta, mẹ nuôi ta, thương thay cha mẹ” (ai
ai phụ mẫu, sinh ngã cù lao). Đó là ý nguyện thường xuyên làm sao để cha mẹ được vui
sướng, dù mình có phải ăn gạo xấu, uống nước lã cũng thỏa lòng (lễ ký). Đó là lòng người
con suốt đời yêu mến cha mẹ “trọn đời lúc nào cũng luyến mộ cha mẹ. Đến năm mươi tuổi mà
còn luyến mộ cha mẹ như lúc còn nhỏ, ta chỉ gương ấy ở vua Đại Thuấn mà thôi” (Đại - hiếu

chung thân mộ phụ mẫu. Ngũ thập nhi mộ giả, dư ư Đại - Thuấn kiến chi hỹ) [6, tr.78]. Đó là
quyết chí lập thân hành đạo làm vinh hiển cho cha mẹ.
Hiếu là đức của người con tận tâm, thành kính khi cha mẹ còn sống và cả tình cảm,
thái độ đối xử với cha mẹ trong quan hệ với người khác sau khi cha mẹ mất, nghĩa là phải


biết “kính những người mà cha mẹ tôn trọng, yêu những người mà cha mẹ thân yêu”
(kính kỳ sở tôn, ái kỳ sở thân) [7, tr.64]. Nho giáo còn đặt ra yêu cầu, đòi hỏi trong đạo
làm con, rằng người con hiếu thảo phải nhớ được tuổi của cha mẹ mình - “Nhớ biết như
vậy, một là để vui mừng vì cha mẹ được sống lâu, hai là để lo sợ cho cha mẹ già yếu”
(Phụ mẫu chi niên, bất khả bất tri giã. Nhứt tắc dĩ hỹ, nhứt tắc dĩ cụ) [5, tr.60]… Việc tôn
trọng, phụng sự cha mẹ của người con có hiếu, theo Nho giáo còn phải giữ gìn bản thân
mình, chớ để cha mẹ lo lắng - tức là, việc thờ cha mẹ phải gắn với việc giữ bản thân (sự
thân và thủ thân phải gắn liền với nhau), người con biết giữ gìn thân thể lành mạnh, trọn
vẹn để cha mẹ yên tâm thì cũng đã là việc báo hiếu rồi bởi “bậc cha mẹ chỉ lo sợ con cái
mang bệnh tật mà thôi”. Trong các việc phải phụng sự thì việc phụng sự cha mẹ là lớn,
còn trong những cái phải giữ gìn thì giữ gìn thân thể mình là căn bản. Chính vì thế, người
con làm việc gì cũng phải thận trọng như “đi trên lớp băng mỏng”, không được phép làm
càn mà hủy hoại thân thể khiến cha mẹ đau lòng.
Đạo hiếu của Khổng Tử là nguyên tắc cơ bản duy trì trật tự trên dưới và có đóng
góp lớn đối với xã hội truyền thống, đó là ông đã đưa ra một chuẩn mực về đạo đức luân
lý, mà “Hiếu” được tạo nên bằng những chuẩn mực. Điều cơ bản trong chuẩn mực đó là
“vô vi”. “Vô vi” nghĩa là không được vi phạm lễ, Khổng Tử giải thích “vô vi” nghĩa là
“sống thì phụng dưỡng thân thể, chết thì an táng theo lễ, thờ cúng theo lễ” (sanh, sự chi
dĩ lễ; tử, táng chi dĩ lễ; tế chi dĩ lễ) [5, tr.16]. Như vậy, có nghĩa là phận làm con phải có
hiếu với cha mẹ, không những lúc còn sống mà cả sau lúc cha mẹ đã mất, “tất cả mọi
biểu hiện tâm lý trước mặt cha mẹ đều không được vi phạm yêu cầu của lễ. Đây được gọi
là có hiếu, là điều cơ bản của đạo hiếu” [61, tr.53]. Do vậy, ta thấy quan niệm về “Hiếu”
của Nho giáo vừa mang tính luân lý, vừa thuộc lĩnh vực tôn giáo và tục thờ cúng tổ tiên
đã được truyền lại đi vào tâm lý của người Trung Quốc, trở thành phổ biến. Những giải

thích khác của Khổng Tử về đạo Hiếu như “để tang cha ba năm”, “có lời khuyên mà cha
mẹ không nghe thì vẫn phải tôn kính, không được làm điều sai” đều xuất phát từ
nguyên tắc vô vi. Nguyên tắc này giúp ích cho việc duy trì chế độ gia tộc.
Mặt khác, Nho giáo đều lấy “Hiếu Đễ" và “lễ nhạc" làm nền tảng cơ sở cho sự giáo
hóa, coi Nhân là đỉnh cao chót vót của tháp ngà đạo đức. Khổng tử lại đặt vấn đề: “Hiếu


đễ là cái gốc của đức nhân chăng ?" (Hiếu đễ giã giả, kỳ vi nhân, chi bổn dự) [5, tr.5],
nên người có nhân phải có đức “Hiếu đễ " - nuôi dưỡng và thành kính với cha mẹ, có
lòng kính yêu cha mẹ và người lớn trong nhà thì mới biết kính yêu người ngoài. Khi
chúng ta nói "nhân là chuẩn mực tối cao của hành vi con người" thì chỉ là một cách nói
trừu tượng, phải qua hành vi chuẩn mực cụ thể là Hiếu thì Nhân mới được thể hiện. Nhân
là nguyên tắc phổ biến, Hiếu là nguyên tắc đặc thù. Nhưng trong hành vi thực tế, Nhân và
Hiếu tuy một mà hai, tuy hai mà một. Điển hình, có lần vì Tể Ngã không muốn tuân theo
việc để tang ba năm, Khổng Tử mắng “Tể Ngã bất nhân" (Dư chi bất nhân giã) [5,
tr.280], vì bất hiếu, không nhớ công cha mẹ bồng bế ba năm mà muốn rút ngắn thời gian
để tang từ ba năm xuống một năm. Như vậy, trong hành động cụ thể, bất hiếu cũng có
nghĩa là bất nhân vì theo Khổng Tử, “Hiếu“ không chỉ thể hiện thái độ của người con đối
với cha mẹ khi còn sống mà còn thể hiện hành vi của mình khi cha mẹ đã mất. “Nếu ba
năm (có nghĩa là nhiều năm) không thay đổi những quy tắc, quy phạm của đạo làm con
với cha, người như vậy được gọi là người có hiếu" (phụ một, quan kỳ hành. Tam niên vô
cải vu phụ chi đạo, khả vị hiếu hĩ) [61, tr.32].
Đặc biệt, quan niệm về Hiếu của Khổng Tử không phải là quan điểm một chiều,
không phải là cái nhất nhất nghe theo lời cha mẹ, mà khi cha mẹ có lầm lỗi gì, kẻ làm con
phải khuyên can một cách cung kính với lời lẽ dịu ngọt, dẫu cho cha mẹ không nghe hay
trừng phạt, đánh đập cũng chớ có oán hờn, khi cha mẹ phạm lỗi mà chẳng can gián thì đó
là con bất hiếu, nhưng nếu oán hận bất bình cũng không phải là hiếu vậy.Mạnh Tử dạy
các học trò rằng:
Khi cha mẹ phạm lỗi lầm lớn mà mình chẳng tỏ ý oán trách, đó là mình
coi cha mẹ như người dưng kẻ lạ, lúc cha mẹ phạm lỗi nhỏ mà mình đem lòng

oán hận thì đó là mình chẳng dằn nổi sự bất bình sơ sài. Coi cha mẹ như người
dưng kẻ lạ hay chẳng dằn nổi sự bất bình sơ sài cũng đều là bất hiếu (Thân chi
quá đại nhi bất oán, thị dũ sơ giã. Thân chi quá tiểu nhi oán, thị bất khả cơ giã.
Dũ sơ, bất - hiếu giã, bất khả cơ diệc, bất - hiếu giã) [6, tr. 184].


Hoặc quan điểm “cha ra cha, con ra con” của Khổng tử đòi hỏi cha mẹ phải đối xử với
con cái theo đúng đạo của mình “cha từ, con hiếu“ vì cha có chính từ thì không lâm vào điều
vô lễ cho nên con theo lệnh cha há đã là có hiếu.
Quan niệm về “Hiếu“ của Nho giáo còn đòi hỏi kẻ làm con phải biết che giấu những
lỗi lầm của cha mẹ, điều đó đã được các thánh hiền coi như hợp đạo. Bởi thế, khi Diệp
Công (vị tướng công cai trị huyện Diệp nước Sở) kể về gương một người ngay thẳng ở
xóm mình - cha bắt trộm dê mà con đi tố cáo, Khổng Tử trả lời “… cha che lỗi cho con,
con che lỗi cho cha, tính ngay thẳng ngụ trong đó rồi" (phụ vị tử ẩn, tử vị phụ ẩn; trực tại
kỳ trung hỹ) [5, tr.206], tình cha con là phải thương yêu che chở cho nhau. Giả sử, nếu
ông Cổ Tẩu (cha của Vua Thuấn) mà phạm tội giết người, ông Cao Dao làm quan sĩ nắm
giữ binh pháp thì cứ bắt Cổ Tẩu, nhưng "vua Thuấn lúc ấy cũng sẽ coi thiên hạ như một
đôi dép rách, quẳng nó đi để lén cõng cha mình đến một nơi bãi biển xa xôi, suốt đời vui
vẻ mà quên đi thiên hạ". (Thuấn thị khí thiên hạ, du khí tệ tỹ giã. Thiết phụ nhi đào; Tuân
hải tân nhi xử; chung thân hân nhiên lạc nhi vong thiên hạ) [6, tr.241], nghĩa là khi tình
riêng và phép nước xuất hiện mâu thuẫn thì các thánh sẽ đặt tình riêng lên trước, coi tình
nhà cao hơn phép nước. Đó là lôgic tất yếu xuất phát từ quan niệm coi “nhà là gốc của
nước" mà người quân tử thì coi trọng cái gốc.
Khổng Tử và các nhà nho thời Tiên Tần đề ra bổn phận, nghĩa vụ đạo đức về cả hai
phía, có đi có lại, "phụ từ -tử hiếu, quân nhân - thần trung". Tư tưởng ấy càng được Nho
giáo suy tôn và củng cố bền vững bằng những thuyết giáo về mặt tình cảm, huyết thống
và bằng sự nối liền hai chữ Hiếu - Trung. Qúy Khương Tử hỏi: "Muốn cho dân cung kính
mình, trung thành với mình và khuyên nhau làm lành, nhà cầm quyền phải làm thế
nào ?". Khổng Tử trả lời: "Nhà cầm quyền khi đến với dân, nên giữ cốt cách cho nghiêm
trang, thì dân cung kính. Đối với cha mẹ nên hiếu thuận; đối với con em và mọi người,

nên từ ái; thì dân sẽ trung thành với mình" (Lâm chi dĩ trang, tắc kính; hiếu từ, tắc trung)
[5, tr.24]. Chu Hy giải thích “Hiếu từ tắc Trung”, có nghĩa là hiếu với cha mẹ, nhân từ
với dân thì được dân trung thành với mình. Như vậy, ở đây Trung cũng là hệ quả của việc
lãnh tụ chính trị có hiếu với cha mẹ, nhân từ với dân chúng, không liên quan gì đến quan
niệm Trung quân, phục tùng vô điều kiện như người đời sau nói tới.


Tóm lại, đối với Khổng Tử, Hiếu là nguyên tắc cơ bản để duy trì trật tự trên dưới -
chức năng chủ yếu của nó là ổn định tổ chức gia tộc.
Đến Mạnh Tử thì ý nghĩa của “Hiếu" đã được mở rộng vô hạn định. Theo cách nói
của Mạnh Tử thì ở trên thế gian, ngoài Hiếu đễ ra, hầu như không còn gì có giá trị nữa.
Văn Vương là một tượng trưng của lý tưởng Nho gia nhưng ca ngợi đức độ của Văn
Vương, Mạnh Tử chỉ nói là ông ta biết thờ cha mẹ “vì ông coi việc tôn trọng người thân
là nguyên tắc tối cao". Mạnh Tử nói:
Chỗ đích thật của Nhân là thờ cha. Chỗ đích thật của Nghĩa là kính anh.
Chỗ đích thực của trí là biết rõ hai việc thờ cha, kính anh và chẳng hề bỏ bê
hai việc ấy. Chỗ đích thực của Lễ là khéo sắp đặt và tô điểm hai việc ấy. Chỗ
đích thực của nhạc là vui hòa trong hai việc ấy. Hễ mình vui hòa thì hai việc
thờ cha và kính anh sanh nở thêm [6, tr.35].
Mạnh Tử cho rằng bản chất của con người là thiện, là cơ sở tiên nghiệm của Hiếu
đễ.
Theo Mạnh Tử, Hiếu là đạo đức cao nhất ở đời, phụng sự cha mẹ, tôn kính cha mẹ
là biểu hiện đạo đức cao nhất của con người, Mạnh Tử nói “Thờ phụng ai quan trọng
nhất? Thờ phụng cha mẹ là quan trọng nhất” (Sự thục vi đại? Sự thân vi đại) [6, tr.30].
Mạnh Tử cho rằng: “phàm làm con, nếu cha mẹ có ghét, thì mình làm lụng cực nhọc cho
cha mẹ và chẳng hề than oán” (phụ mẫu ái chi hỷ nhi bất vong. Phụ mẫu ố chi, lao nhi bất
oán) [6, tr.74], có nghĩa là mặc dù cha mẹ không thương ta nhưng không được vì thế mà
giảm sút lòng hiếu thảo. Mạnh Tử còn nói “dẫu được lòng thiên hạ, mà chẳng được lòng
cha mẹ thì chẳng đáng làm người; dẫu thiên hạ quy thuận mình, mà mình chẳng thuận
hòa với cha mẹ thì chẳng đáng làm con” (Bất đắc hồ thân, bất khả dĩ vi nhơn; bất thuận

hồ thân, bất khả dĩ vi tử !) [6, tr.36]. Người con có hiếu đã trở thành ý nghĩa duy nhất của
cuộc đời. Hơn thế nữa “giàu có, sang trọng, đều chẳng đủ giải mối u sầu… chỉ có sự hòa
thuận với cha mẹ mới có thể giải lấp mối u sầu” (phú, quí vô túc dĩ giải ưu giã. Duy
thuận ư phụ mẫu, khả dĩ giải ưu) [6, tr.76]. Đó là chân giá trị của sự “vâng lời”, còn cao
hơn cả “giàu nhất thiên hạ”.


Mạnh Tử không chỉ bổ sung tư tưởng “Đạo Hiếu” về mặt luân lý mà còn tạo ra hai
nét điển hình về người con có hiếu để tăng hiệu quả truyền bá tư tưởng “Hiếu đễ”.
Điển hình thứ nhất là Vua Thuấn, Mạnh Tử ca ngợi đạo hiếu của vua Thuấn, trong
sách “Nhị thập tứ hiếu”, Thuấn đứng đầu danh sách:
“Chữ hiếu niệm cho tròn một tiết
Thì suy ra trăm nết đều nên
Chẳng xem thuở trước thánh hiền
Hiếu hai mươi bốn, thơm nghìn muôn thu”.
Nhân vật điển hình thứ hai là Tăng Tử. Sách “Mạnh Tử” hai lần nói về câu chuyện
Tăng Tử có hiếu. Tăng Tử rõ ràng đã trở thành thần tượng về con người có hiếu trong
tâm khảm của người Trung Quốc. Trong sách “Nhị thấp tứ hiếu” của Quách Cư Nghiệp
đời Nguyên, Tăng Tử xếp thứ ba.
“Đời Chu mạt có thầy Tăng Tử
Thờ cha mẹ thời giữ thì thành
Bữa thường rượu thịt ngon lành
Cho ai, vâng cứ đinh ninh chẳng dời”.
Dạy người ta Đạo Hiếu, Khổng - Mạnh thường đưa Nghiêu - Thuấn ra làm mẫu
mực. Như vậy, Nho giáo có chủ đích rõ ràng trong việc xây dựng những quan hệ chặt chẽ
trong gia đình và phát triển chúng thành những quan hệ trong toàn xã hội, trong việc xây
dựng những tình cảm và đức tính tốt trong gia đình, từ đó vun đắp chúng trở thành những
tình cảm và đức tính tốt trong đạo thờ vua, trị nước. Vì thế, Nho giáo rất coi trọng việc
giáo dục trong gia đình. Đó là trường học đầu tiên để giáo dục con người đi vào xã hội.
“Thân yêu cha mẹ mình, vì đó mà cư xử có nhân với người đời” (Thân thân, nhi nhân

dân) [6, tr.252].
Cũng vì vậy, muốn đánh giá được phẩm chất của một người ở ngoài xã hội, muốn
xem có nên cân nhắc và sử dụng họ hay không, trước tiên ta phải xem tư cách, thái độ
của người ấy trong gia đình ra sao. Có đối xử tốt với gia đình mới có thể đối xử tốt ở
ngoài xã hội; “Như mình có nết hiếu với cha mẹ, là để mở rộng cái nết đó ra mà thờ vua
(quốc - trưởng); mình có nết đễ với anh, là để mở rộng cái nết đó ra mà kính bực quan


trưởng; mình có cái đức từ với cháu, là để mở rộng cái đức đó ra mà sai khiến chúng
dân” (Hiếu giả sở dĩ sự quân giã; đễ giả sở dĩ sự trưởng giã; từ giả sở dĩ sự chúng giã) [7,
tr.20]. Và “trong những người có nết hiếu (thảo với cha mẹ), nết đễ (kính anh chị và
người lớn tuổi), ít ai ưa trái nghịch với bề trên. đã không ưa thích trái nghịch với bề trên,
lại thích gây ra những cuộc phản loạn, người như vậy, ta chưa từng thấy” (Kỳ vi nhơn
giã, hiếu đễ, nhi háo phạm thượng giả, tiển hỹ. Bất háo phạm thượng, nhi háo tác loạn
giả, vị chi hữu giã) [5, tr.4]. Từ đó Nho giáo khẳng định rằng, sự giáo dục từ trong gia
đình có tác động mạnh mẽ, thậm chí quyết định sự thành công trong trị nước.
Với Tuân Tử, thì người con có hiếu có thể không theo mệnh cha, nếu như theo
mệnh thì cha mẹ nguy, theo mệnh thì cha mẹ nhục, theo mệnh thì là cầm thú. Phải chọn
cái đúng mà theo sao cho hợp đạo Trung, đúng đạo nghĩa và giữ được điều kính.
Tóm lại, Nho giáo thời Tiên Tần rất đề cao Hiếu và quan tâm đến vấn đề giáo dục
đạo Hiếu trong gia đình. Bởi lẽ, trong các phạm trù đạo đức của Nho giáo thì Nhân giữ
vai trò là trung tâm. Từ Nhân mà phát sinh ra các đức khác và các đức khác bị quy tụ cả
về với nó. Nhân có nội dung phong phú, ư nghĩa sâu rộng nhưng nghĩa chính là lòng
thương người. Khác với Mặc gia, lòng thương người (tức Nhân) của Nho giáo có phân
biệt thân với sơ, gần với xa, ít nhiều đậm nhạt khác nhau, lấy huyết thống làm cơ sở. Do
vậy lòng thương người phải được thể hiện trước hết từ trong phạm vi gia đình, sau đó
mới mở rộng ra họ hàng, làng, nước. Trong gia đình nổi lên hai mối quan hệ cơ bản: cha
mẹ với con cái (Hiếu), anh với em (Đễ). Từ đó, Hiếu, Đễ trở thành gốc của Nhân; Hiếu là
“nết đầu trong trăm nết”.
Tư tưởng Hiếu trong Nho giáo thời Tiền tần mang tính nhân văn khá sâu sắc. Từ

Khổng Tử đến Mạnh Tử và Tuân Tử đều đòi hỏi nghĩa vụ đạo đức trong gia đình phải
mang tính hai chiều. Bề trên phải gương mẫu, làm gương tốt cho kẻ dưới. Trong hệ cha -
con thì cha phải hiền từ, con phải hiếu thảo, nghĩa là nó yêu cầu cả trách nhiệm làm cha
làm mẹ. Còn Hiếu với cha mẹ là một sự phục tùng vô điều kiện, không phân biệt đúng
sai.
1.2.2.2. Nội dung tư tưởng “Hiếu” của Nho giáo thời Hán (thế kỷ III trước Công
nguyên - đầu thế kỷ III sau Công nguyên)



Sau khi tiêu diệt nhà Tần và kết thúc cục diện “Hán - Sở tranh hùng“, trước yêu cầu
củng cố chế độ phong kiến Trung ương tập quyền hùng mạnh với đường lối chính trị
mềm dẻo để an dân, giai cấp địa chủ phong kiến đã tìm thấy ở Nho giáo khả năng cố kết
và sức hướng tâm mạnh mẽ để đáp ứng được đòi hỏi đó “Trong con mắt của các vị hoàng
đế Hán Triều thì Khổng giáo tỏ ra có lợi cho hoàng đế về các mặt, sắp xếp trật tự tôn ty,
khép chặt thần dân vào các khâu trong cái lưới thống trị bao la của hoàng đế" [31, tr.42].
Trong bối cảnh đó, Đổng Trọng Thư nổi lên như một đại Nho - người có công “chính
thống hóa Nho giáo"và biến nó thành công cụ sắc bén phục vụ cho quyền thống trị của
tập đoàn phong kiến Hán tộc trong một quốc gia thống nhất rộng lớn. Dưới thời Hán Vũ
Đế, Đổng Trọng Thư đã tiến hành việc lựa chọn, sắp xếp lại các sách vở kinh điển cổ của
Nho giáo và phân thành năm loại: kinh thi, kinh thư, kinh lễ, kinh dịch, kinh xuân thu. Từ
đây, ngũ kinh trở thành “thánh kinh"của Nho giáo và không ai được hoài nghi về tính
đúng đắn của nó. "Do tư tưởng của ông phù hợp với nhu cầu của phái bảo thủ trong giai
cấp địa chủ quyựưư tộc thời đó, nên từ thời Hán Nguyên Đế về sau những chủ trương mà
ông đưa ra dần dần đã được nhà Hán thực hiện" [3, tr.360]. Qua sự “chế biến" của Đổng
Trọng Thư, Nho giáo trở thành hệ tư tưởng chính thống và chuẩn mực đạo đức xã hội của
các triều đại phong kiến Trung Quốc.
Sau Khổng - Mạnh - Tuân, quan niệm về “Hiếu" ngày càng được mở rộng, tới mức
coi tất cả mọi hành vi đạo đức trên thế giới đều lấy đạo “Hiếu" làm trung tâm. khuynh
hướng ấy được phát triển đến đỉnh cao từ đời Hán về sau, trở thành hệ thống tư tưởng giữ

vai trò quyết định trong đời sống văn hóa, xã hội suốt nhiều thế kỷ ở Trung Quốc. Trong
sách “Lễ ký", chữ “Hiếu" không chỉ giới hạn trong quan hệ đạo đức mà còn bao trùm lên
vạn vật:
ở không ngăn nắp là không có hiếu; bất trung với vua là không có hiếu; bất
với quan là không có hiếu; bất tín với bạn là không có hiếu; đánh trận không dũng
cảm là không có hiếu. Vua không thành đạt thì tai họa sẽ đến với người thân, ai
dám không thận trọng?. Chặt một cái cây, giết một con vật không đúng lúc cũng là
bất hiếu [73, tr.265].


Đổng Trọng Thư, cây đại thụ của Nho giáo đời Hán cũng tán thành quan điểm cho
rằng: “Bất trung, bất hiếu là có tội với vua với cha, cũng chính là có tội với trời” [3, tr.
364]. Đổng Trọng Thư, xuất phát từ quan điểm duy tâm và thần học, ông đã uốn cái luân
lý của Khổng - Mạnh thành một thứ thiên tính của loài người, giải thích nó như một biểu
hiện của trời:
Người ta chịu mệnh của giời, vốn đã vượt hẳn các sinh vật, ở nhà thì có
tình cha con, anh em; ra ngoài thì có nghĩa vua tôi, trên dưới, khi gặp gỡ giao
dịch với nhau thì có thứ bậc già trẻ, lớn bé, tỏ rõ có văn về tiếp xúc với nhau
niềm nở, lấy ân tình mà thương yêu nhau, đó là những cái làm cho người
thành cao quý [85, tr.378].
Cũng trên lập trường thần học, Đổng Trọng Thư đã quy tác dụng quyết định cho
Trời trên cơ sở quan niệm “trời với người hợp làm một”, ông giải thích quan hệ cha con
nói riêng, quan hệ giữa người với người nói chung dựa vào thuyết âm dương “dương hợp
với âm, âm hợp với dương, chồng hợp với vợ, vợ hợp với chồng, cha hợp với con, con
hợp với cha, vua hợp với bề tôi, bề tôi hợp với vua. Cái nghĩa vua tôi, cha con, vợ chồng
đều chịu đạo phối hợp nó ở âm dương …” [85, tr.380]. Với Đổng Trọng Thư, trong quan
hệ cha - con thì cha có quyền uy tuyệt đối với con, “cha là trời của con”.
Như vậy, tư tưởng Hiếu trong Nho giáo thời Hán được Đổng Trọng Thư và các nhà
Nho bổ sung, phát triển theo hướng duy tâm, một chiều, cực đoan và khắc nghiệt. Nếu
Nho giáo thời Tiên Tần, tư tưởng Hiếu còn thể hiện nghĩa vụ đạo đức hai chiều: giữa trên

và dưới, cha mẹ và con cái thì Nho giáo thời Hán đòi hỏi bề dưới (con) phải tuyệt đối
phục tùng bề trên (cha mẹ), dù cha mẹ có hư đốn. Do vậy, Trung, Hiếu của Nho giáo thời
Hán được đẩy đến mức thành ngu Trung, ngu Hiếu:
“Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung
Phụ xử tử vong, tử bất vong, bất hiếu”.
(Nghĩa là vua bắt bề tôi chết thì bề tôi phải chết; không chết là mắc tội bất trung.
Cha bắt con chết thì con phải chết; không chết là mắc tội bất hiếu).
1.2.2.3. Nội dung tư tưởng “Hiếu” của Nho giáo thời Tống (Thế kỷ X - Thế kỷ
XIII)


ễÛ Trung Quốc, sau những biến loạn thời Mạc Đường và Thời Ngũ đại thập quốc,
đến Bắc Tống thì sự thống nhất được tái lập. Triệu Khuông Dẫn lên ngôi quyết tâm thiết
lập một chế độ quân chủ tập trung cao nhất nhằm thủ tiêu tình trạng cát cứ địa phương.
Lúc này Nho giáo trở lại địa vị quốc giáo và được phát triển thêm một bước để phục vụ
cho yêu cầu “thống nhất tất cả những cái gì chưa thống nhất trong thiên hạ".Vì vậy, về
mặt chính trị, thời Tống không phải là triều đại lớn nhất của Trung Quốc thời phong kiến,
nhưng về phương diện khác thì Tống Nho có thể được xem là trình độ phát triển cao nhất
của Nho giáo trong hơn 1000 năm tồn tại từ sau Khổng - Mạnh.
Nho giáo thời Tống được bổ sung thêm phần bản thể luận triết học trên lập trường
duy tâm, có sự pha trộn của tam giáo Nho, phật, Đạo và kế thừa những tư tưởng đặc sắc
của triết học thời cổ đại, được phân thành hai phái: phái lý học do Chu Hy (1130 - 1200)
và Trình Hạo (1032 - 1085), Trình Di (1033 - 1107) đại diện, phái tâm học do Lục Cửu
Uyên (1139 - 1193)
Từ sau Tần, Hán, “Hiếu" thường bị lẫn lộn với “Trung" nên đã làm cho tư tưởng về
đạo hiếu của Nho giáo sơ kỳ méo mó đi nhiều. Chu Hy thời Tống giải thích rằng, “nếu người
bề trên - người cầm quyền cai trị mà hiếu với cha mẹ, nhân từ với dân thì dân trung thành với
mình" (Hiếu từ, tắc trung) [73, tr. 255]. Quan niệm về “Hiếu" của Nho giáo ngày càng trở
nên phiến diện, cứng nhắc, chỉ nhấn mạnh một chiều - trách nhiệm và nghĩa vụ của con
cái đối với cha mẹ như thế nào, mà không cần nói đến sự đối xử của cha mẹ đối với con

cái. Vì vậy, nên giữa hai thế hệ nảy sinh xung khắc thì đương nhiên trách nhiệm phải
thuộc về con cái. “Hiếu" trở thành sự phục tùng vô điều kiện mà không cần có cơ sở lý
tính. Con cái phải tuyệt đối vâng lời cha mẹ một cách máy móc “cha bắt con chết mà con
không chết là bất hiếu" (phụ xử tử vong, tử bất vong bất hiếu); “trong thiên hạ không có
cha mẹ nào không đúng" để rồi dẫn đến “cha không nhân từ nhưng con không thể không
hiếu".
Nho giáo về sau rất đề cao chữ “Hiếu"để củng cố cho tư tưởng tôn quân, đề cao chế
độ phong kiến quan liêu tập quyền, củng cố gia đình - đề cao quyền huynh thế phụ, đảm
bảo tuyệt đối cho chế độ truyền tử, ngôi vua truyền cho con trưởng. Nó đồng nhất tình

×