Tải bản đầy đủ (.doc) (64 trang)

Các giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại Chi nhánh Ngân hàng VPBank Lý Nam Đế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (345.88 KB, 64 trang )

Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp Nguyễn Đình Tuấn
MỤC LỤC
DANH TỪ VIẾT TẮT
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp Nguyễn Đình Tuấn
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
QH QUỐC HỘI
QĐ QUY ĐỊNH
NHNN NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC
NHNNVN NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
NHVPBVN NGÂN HÀNG VPBANK VIỆT NAM
DAĐT DỰ ÁN ĐẦU TƯ
PASXKD PHƯƠNG ÁN SẢN XUẤT KINH DOANH
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp Nguyễn Đình Tuấn
LỜI MỞ ĐẦU
Đất nước ta đang trong giai đoạn chuẩn bị để bước vào hội nhập toàn cầu
do vậy mà nhu cầu vốn đầu tư cho phát triển, mở rộng và nâng cao chất lượng
sản xuất kinh doanh là rất lớn. Theo nguyên lý chung, nhu cầu vốn lớn và dài
hạn phải được đáp ứng bởi thị trường vốn nhưng trong điều kiện nước ta, khi thị
trường này đang còn nhiều khó khăn và yếu kém thì vai trò này chủ yếu thuộc
về hệ thống ngân hàng thông qua hoạt động tín dụng trung và dài hạn nên việc
đảm bảo chất lượng tín dụng nói chung và chất lượng tín dụng trung và dài hạn
nới riêng sẽ là vấn đề có tính quyết định đến hiệu quả kinh doanh của ngân hàng
thương mại đồng thời cũng là thước đo để đánh giá sự thành công hay thất bại
trong hoạt động của ngân hàng. Với các ngân hàng thương mại Việt Nam, hoạt
động tín dụng đang là lĩnh vực chủ đạo, chiếm tỷ trọng từ 85% đến 95% doanh
thu, trở thành một nhân tố quan trọng là đòn bẩy kinh tế mạnh mẽ để phát triển
nền kinh tế.
Đối với chi nhánh Ngân hàng VPBANK Lý Nam Đế được thành lập và
hoạt động hơn hai mươi năm, hoạt động chủ yếu trên lĩnh vực công nghiệp và
thương mại. Do đó, nghiệp vụ tín dụng trung và dài hạn có ý nghĩa quan trọng
với Đơn vị và với nhu cầu vốn trung và dài hạn của đất nước. Trong mấy năm


gần đây, hoạt động tín dụng đã bộc lộ không ít yếu kém và đã ảnh hưởng không
nhỏ tới kết quả kinh doanh của Chi nhánh. Chính vì vậy mà việc nghiên cứu tìm
ra các giải pháp hữu hiệu để nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn luôn
là mục tiêu và cũng đồng thời là một nhân tố quan trọng nhất để cạnh tranh và
phát triển. Qua thực tế trên, đi sâu vào nghiên cứu công tác tín dụng trung và dài
hạn của Chi nhánh. Tôi chọn đề tài “Các giải pháp nâng cao chất lượng tín
dụng trung và dài hạn tại Chi nhánh Ngân hàng VPBank Lý Nam Đế”
Bài chuyên đề kết cấu gồm 3 chương:
Chương I: Những vấn đề cơ bản về tín dụng trung và dài hạn của ngân
hàng thương mại
Chương II: Thực trạng chất lượng tín dụng trung và dài hạn của Chi nhánh
Ngân hàng VPBANK Lý Nam Đế.
Chương III: Một số giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài
hạn tại Chi nhánh Ngân hàng VPBANK Lý Nam Đế.
1
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp Nguyễn Đình Tuấn
CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CHẤT LƯỢNG
TÍN DỤNG TRUNG VÀ DÀI HẠN CỦA
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Tổng quan về NHTM
1.1.1. khái niệm về NHTM
Ngân hàng là một trong các tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền kinh
tế. Bao gồm nhiều loại tuỳ thuộc vào sự phát triển của nền kinh tế nói chung và
hệ thống tài chính nói riêng, có rất nhiều quan niệm về khái niệm ngân hàng, để
có một khái niệm mang tính chung nhất và bản chất nhất thì chúng ta phải biết
được về lịch sử hình thành của ngân hàng
Nghề ngân hàng bắt đầu với nghiệp vụ đổi tiền hoặc đúc tiền của các thợ
vàng.,những ngân hàng loại này còn được gọi là ngân hàng thợ vàng. Người làm
nghề đúc, đổi tiền, thực hiện kinh doanh tiền tệ bằng cách đổi ngoại tệ lấy bản tệ

và ngược lại. Lợi nhuận thu được là từ chênh lệch giá mua bán.
Do yêu cầu cất trữ tiền của các lãnh chúa, các nhà buôn nhiều người làm
nghề đổi tiền thực hiện luôn cả nghiệp vụ cất trữ hộ. Thực hiện cất trữ hộ làm
tăng thu nhập, tăng khả năng đa dạng các loại tiền, tăng qui mô tài sản của người
kinh doanh tiền tệ.Thanh toán qua trung gian làm nảy sinh thanh toán không
dùng tiền mặt, đến lượt nó, những ưu điểm của thanh toán không dùng tiền mặt
đã thu hút các thương gia gửi tiền nhiều hơn. Trong điều kiện lưu thông tiền kim
loại ,các chủ cửa hàng vàng bạc vừa đổi tiền , thanh toán hộ, vừa đúc tiền và cho
vay nặng lãi.
Họ là những người làm nghề kinh doanh tiền tệ, hay còn gọi là nhà buôn tiền.
Do tính chất vô danh của tiền, nhà buôn tiền có thể sử dụng tạm thời một
phần tiền gửi của khách để cho vay. Hoạt động này làm thay đổi có bản hoat
động của nhà buôn tiền-nhà buôn tiền- thành ngân hàng. Hoạt động cho vay dựa
trên tiền gửi của khách, tạo nên lợi nhuận lớn nên các ngân hàng đều tìm cách
mở rộng thu hút tiền gửi để cho vay bằng cách trả lãi cho người gửi tiền. Bằng
cách cung cấp các tiền ích khác nhau mà ngân hàng huy động được ngày càng
nhiều tiền gửi, là điều kiện để mở rộng cho vay và hạ lãi suất cho vay.
2
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp Nguyễn Đình Tuấn
Từ lịch sử hình thành thấy ngân hàng là một loại hình tổ chức quan trọng
đối với nền kinh tế. Và ngân hàng thương mại được định nghĩa như sau:
Ngân hàng là các tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài
chính đa dạng nhất đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán và thực
hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào
trong nền kinh tế
Luật Các tổ chức tín dụng của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
ghi “Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng
với nội dụng thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín
dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán”
Theo Luật mới nhất của Quốc hội nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt

Nam số 20/2006/QH 11 ngày 15 tháng 6 năm 2006 về sửa đổi, bổ sung một số
điều của Luật các tổ chức tín dụng
“Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt
động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan. Theo tính chất
và mục tiêu hoạt động, các loại hình ngân hàng gồm ngân hàng thương mại,
ngân hàng phát triển, ngân hàng đầu tư, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp
tác và các loại hình ngân hàng khác”
“Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân
hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín
dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán”
1.1.2. Hoạt động kinh doanh chủ yếu của ngân hàng thương mại
Ngân hàng kinh doanh tiền tệ dưới hình thức huy động, cho vay, đầu tư và
cung cấp các dịch vụ khác
* Hoạt động huy động vốn
Ngân hàng cũng như các doanh nghiệp trong nền kinh tế muốn hoạt động
được cũng cần phải có vốn và nguồn vốn của ngân hàng có thể được tạo ra do
nhiều nguồn
- trước tiên đó là vốn chủ sở hữu
Để bắt đầu hoạt động ngân hàng (được pháp luật cho phép) chủ ngân hàng
phải có một lượng vốn nhất định. Đây là loại vốn ngân hàng có thể sử dụng lâu
dài, hình thành nên trang thiết bị, nhà cửa cho ngân hàng. Nguồn hình thành và
nghiệp vụ hình thành loại vốn này rất đa dạng tuỳ theo tính chất sở hữu, năng
3
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp Nguyễn Đình Tuấn
lực tài chính của chủ ngân hàng, yêu cầu và sự phát triển của thị trường.Có thể
là nguồn vốn hình thành ban đầu, nguồn vốn bổ sung trong quá trình hoạt động,
nguồn bổ sung từ phát hành thêm cổ phần, góp thêm, cấp thêm
Vốn của chủ là nguồn vốn rất quan trọng đối với ngân hàng vì nó là cơ sở
để các ngân hàng đưa ra chiến lược hoạt động nó đảm bảo an toàn cho ngân
hàng và củng cố lòng tin cũng như nâng cao uy tín của ngân hàng trên thị

trường. Tuy nhiên nguồn vốn này thường rất nhỏ so với tổng nguồn vốn của
ngân hàng do vậy ngoài nguồn vốn này ra các ngân hàng còn huy động thêm
nhiều nguồn nữa
- Huy động tiền gửi .
Tiền gửi của khách hàng là nguồn quan trọng nhất của ngân hàng thương
mại, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn tiền của ngân hàng.
Ngoài hoạt động huy động tiền gửi các ngân hàng đã không ngừng gia
tăng thêm nguồn vốn cho mình bằng việc đi vay
- Hoạt động đi vay của ngân hàng thương mại
Tiền gửi là nguồn quan trọng nhất của ngân hàng thương mại. Tuy nhiên,
khi cần, ngân hàng thường vay mượn them, có thể vay từ ngân hàng nhà nước,
đây là khoản vay nhằm giải quyết nhu cầu cấp bách trong chi trả của ngân hàng
thương mại, mặc dù vậy nguồn này thường hạn chế vì ngân hàng nhà nước điều
hành khoản vay mượn này rất chặt chẽ, Vay các tổ chức tín dụng khác, đây là
nguồn các ngân hàng vay mượn lẫn nhau và vay của các tổ chức tín dụng khác
trên thị trường liên ngân hàng và nguồn này thường để đáp ứng nhu cầu dự trữ
và chi trả cấp bách và trong nhiều trường hợp nó bổ sung hoặc thay thế cho
nguồn vay mượn từ ngân hàng nhà nước.
Để bổ sung thêm nguồn vốn cho ngân hàng, ngân hàng có thể lấy từ
nguồn tiền uỷ thác, nguồn trong thanh toán, các nguồn khác
* Hoạt động sử dụng vốn
Vì để có được nguồn vốn tạo nên các tài sản của ngân hàng, ngân hàng đã
phải bỏ ra chi phí huy động và những chi phí khác để quản lý nguồn vốn. Do
vậy mà để khỏi bị thiệt hại, ngân hàng luôn luôn phải cho vay hoặc đầu tư ngay
số tài sản ấy vào những dịch vụ sinh lãi
4
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp Nguyễn Đình Tuấn
- Hoạt động tín dụng:
Là hoạt động kinh doanh chủ chốt của ngân hàng thương mại để tạo ra lợi
nhuận. Mang tính chất sống còn đối với hầu hết các ngân hàng thương mại, gồm

có cho vay, chiết khấu thương phiếu và giấy tờ có giá khác, bảo lãnh, cho thuê
tài chính và các hình thức khác trong đó cho vay chiếm tỷ trọng lớn nhất trong
hoạt động tín dụng.
Cho vay có ý nghĩa rất lớn đối với từng chủ thể kinh tế cũng như dối với
nền kinh tế đất nước và nó cũng đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện
chức năng xã hội của ngân hàng trong nền kinh tế.
Hoạt động tín dụng mang lại lợi nhuận cao tuy nhiên sẽ có sự đánh đổi lấy
rủi ro. Ngày nay, các ngân hàng ngoài hoạt động truyền thống tập trung vào tín
dụng còn đa dạng hoá cơ cấu tài sản của mình do vậy mà bên cạnh hoạt động
tín dụng các ngân hàng thương mại đã mở rộng hoạt động của mình sang lĩnh
vực đầu tư
- Hoạt động đầu tư:
Hoạt động đầu tư là một hoạt động đang đựơc các ngân hàng chú trọng
tới.Tuy nhiên hoạt động đầu tư của các ngân hàng Việt Nam hiện nay chưa cao
chủ yếu đầu tư vào trái phiếu chính phủ hoặc tín phiếu kho bạc đây là những sản
phẩm đầu tư mang tín lỏng cao và hầu như các ngân hàng đầu tư vào đó do yêu
cầu của ngân hàng nhà nước hoặc việc sử dụng vốn không có hiệu quả. Còn việc
góp vốn liên doanh, kinh doanh chứng khoán thì rất hạn chế.
* Các dịch vụ trung gian khác
Ngày nay kinh tế ngày một phát triển, để hoà nhập với sự phát triển nhu
cầu đó các ngân hàng thương mại không chỉ bó hẹp ở những hoạt động truyền
thống mà đã đa dạng hoá các nghiệp vụ,mở rộng các loại hình dịch vụ như cung
cấp các dịch vụ uỷ thác và tư vấn, cung ứng dịch vụ bảo hiểm, cung ứng các
dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán
Các hoạt động của ngân hàng thương mại có quan hệ chặt chẽ, hỗ trợ nhau
và tạo cho ngân hàng một sản phẩm hoàn thiện trong môi trường đầy cạnh tranh
5
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp Nguyễn Đình Tuấn
1.2. Tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng thương mại
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm của tín dụng trung và dài hạn

* Khái niệm
Tín dụng trung và dài hạn là các khoản cho vay có kỳ hạn trên 1 năm, từ 1
năm đến 5 năm được coi là tín dụng trung hạn và từ 5 năm trở lên được coi là tín
dụng dài hạn.
Tín dụng trung và dài hạn nhằm thoả mãn các nhu cầu về mua sắm máy
móc, thiết bị, xây dựng cơ sở vật chất của một doanh nghiệp và một phần vốn
lưu động tối thiểu của một doanh nghiệp
* Đặc điểm
- Mục đích và đối tượng cho vay
Trong một nền kinh tế nhu cầu tín dụng trung và dài hạn thường xuyên
phát sinh do các doanh nghiệp luôn luôn tìm cách phát triển mở rộng sản xuất,
đổi mới công nghệ, đổi mới các phương tiện vận chuyển, kỹ thuật tin học
Đối tượng cho vay là các doanh nghiệp đang đầu tư vào các dự án mà giá
trị vật tư, máy móc, thiết bị, công nghệ chuyển giao, chi phí nhân công, giá thuê
mua các tài sản khác, chi phí mua bảo hiểm và các chi phí khá đòi hỏi vốn lớn.
- Thời hạn và giá trị khoản vốn cho vay
Thời hạn cho vay do ngân hàng và khách hàng thoả thuận là khoảng thời
gian được tính từ khi khách hàng bắt đầu nhận vốn vay cho đến thời điểm trả hết
nợ gốc và lãi vốn vay đã được thoả thuận trong hợp đồng tín dụng giữa ngân
hàng và khách hàng và thời hạn này phải căn cứ vào chu kỳ sản xuất kinh doanh,
thời hạn thu hồi vốn của dự án đầu tư, khả năng trả nợ của khách hàng và khả
năng nguồn vốn cho vay của ngân hàng
Các khoản vay trung hạn có thời hạn cho vay trên 12 tháng; các khoản vay
dài hạn có thời hạn cho vay trên 60 tháng trở lên
Do đặc tính của tín dụng trung và dài hạn là đầu tư vào những dự án lớn
và có thời gian dài nên giá trị của các khoản vay trung và dài hạn thường lớn
- Nguồn vốn để cho vay trung và dài hạn
Tín dụng trung và dài hạn dùng để tài trợ cho các dự án, phương án sản
xuất kinh doanh có thời hạn dài và đòi hỏi phải ổn định do vậy mà nguồn vốn
dùng để cho vay trung và dài hạn cũng phải tuơng xứng với thời hạn sử dụng

vốn. Nguồn vốn chủ yếu hình thành nguồn vốn cho vay trung và dài hạn hiện
6
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp Nguyễn Đình Tuấn
nay là vốn tự có của các ngân hàng thương mại do góp vốn hoặc do tích luỹ
trong quá trình kinh doanh, có thể nói đây là nguồn vốn an toàn và ổn định nhất
của ngân hàng, mọi hoạt động kinh doanh của ngân hàng đều phải lấy nguồn
vốn này làm cơ sở để đưa ra quyết định tài trợ của ngân hàng.
Để đảm bảo an toàn trong việc dùng vốn ngắn hạn cho vay trung và dài
hạn ở Việt Nam Luật các tổ chức tín dụng quy định: “Tỷ lệ tối đa của nguồn vốn
ngắn hạn tổ chức tín dụng được sử dụng để cho vay trung hạn và dài hạn:
Ngân hàng thương mại: 40%
Tổ chức tín dụng khác: 30%”
“Nguồn vốn ngắn hạn của tổ chức tín dụng được sử dụng để cho vay trung
và dài hạn bao gồm:
Tiền gửi không kỳ hạn, có kỳ hạn dưới 12 tháng của cá nhân.
Nguồn vốn huy động dưới hình thức phát hành giấy tờ có giá ngắn hạn.
Phần chênh lệch lớn hơn giữa số tiền vay của tổ chức tín dụng khác và tiền
cho tổ chức tín dụng đó vay có kỳ hạn dưới 12 tháng”, Vốn vay từ ngân hàng
nhà nước, nguồn này cũng bị hạn chế vào chính sách tiền tệ của ngân hàng nhà
nước, ngân hàng thương mại không chủ động, các ngân hàng thương mại cũng
rất khó thuyết phục ngân hàng nhà nước cho vay dài hạn vì nó cũng dễ gây ra
lạm phát; vay nợ nước ngoài để cho vay trung và dài hạn, đây là một hình thức
được các ngân hàng trên thế giới sử dụng thường xuyên với khối lượng lớn.
- Rủi ro và lãi suất cho vay
Lãi suất cho vay trung và dài hạn lệ thuộc vào lãi suất chung của nền kinh
tế, thông thường nó bằng lãi suất huy động vốn, cộng với phí ngân hàng cộng
với lợi nhuận ngân hàng.
Do cho vay trung và dài hạn rủi ro cao và ngân hàng không thể sử dụng
vốn theo ý thích và linh hoạt trong một thời gian dài do vậy lãi suất tín dụng
trung và dài hạn cao hơn lãi suất ngắn hạn.

Lãi suất của các khoản cho vay lớn đối với các doanh nghiệp lớn có thể
thấp hơn các khoản cho vay nhỏ, đối với các doanh nghiệp nhỏ, do chi phí điều
hành thấp và ít rủi ro hơn
Lãi suất cho vay trung và dài hạn có thể là lãi suất cố định trong suốt thời
kỳ vay vốn, nhưng cũng có thể quy định một lãi suất biến đổi lên hoặc xuống
tùy thuộc sự biến động của thị trường.
7
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp Nguyễn Đình Tuấn
- Nguyên tắc cho vay trung và dài hạn
Hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại dựa trên một số nguyên tắc
nhất định nhằm đảm bảo tính an toàn và sinh lời.
Việc sử dụng vốn trung và dài hạn phải tuân theo nguyên tắc sử dụng vốn
đúng mục đích được thoả thuận với ngân hàng không trái với vác quy định của
pháp luật và các quy định khác của ngân hàng cấp trên. Muốn vay vốn trung và
dài hạn người vay phải soạn thảo dự án, chương trình sản xuất kinh doanh, dự
án, chương trình sản xuất kinh doanh thể hiện một cách rõ ràng, đầy đủ việc sử
dụng vốn theo các mục đích cụ thể. Dự án đầu tư phải phân chia các khoản mục
sử dụng vốn một cách chi tiết để ngân hàng cho vay có thể thẩm định được khả
năng trả nợ của dự án
Các khoản mục sử dụng vốn trung và dài hạn có thể gồm:
- Chi phí mua đất thuê đất
- Chi phí xây dựng nhà xưởng
- Chi phí mua sắm máy móc, thiết bị
- Chi phí mua công nghệ sản xuất
- Chi phí mua sắm các phương tiện vận chuyển,
- Chi phí xây dựng cơ sở hạ tầng, điện nước, đường xá,
- Một bộ phận vốn lưu động tối thiểu
- Mục tiêu của dự án, chương trình sản xuất phải nằm trong chương trình phát
triển kinh tế chung của địa phương, của vùng, của đất nước. Để đảm bảo cho dự án,
chương trình vay vốn được thực hiện, dự án, chương trình vay vốn phải được các cơ

quan có thẩm quyền thẩm định và thông qua cho phép thực hiện.
Đối với các phương án cải tiến kỹ thuật công nghệ, mở rộng sản xuất cũng
cần phải xem xét kỹ mục đích của sử dụng vốn một cách chặt chẽ bởi ban lãnh
đạo doanh nghiệp vay vốn và ngân hàng cho vay nhằm tránh sử dụng vốn vay
cho mục đích khác, không nằm trong phương án vay vốn
Việc vay vốn trung và dài hạn của khách hàng, ngân hàng cần phải đánh
giá chặt chẽ từ nhiều nguồn thông tín tránh trường hợp khách hàng vay vốn của
ngân hàng này để trả nợ cho ngân hàng khác.
Sử dụng vốn vay trung, dài hạn phải có hiệu quả kinh tế xã hộ cao.
8
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp Nguyễn Đình Tuấn
Sử dụng vốn vay có hiệu quả được thể hiện ở khả năng hoàn vốn của bên
vay đúng thời hạn. Do vậy các dự án, chương trình xin vay vốn trung và dài hạn
phải được thẩm định kỹ càng về mặt hiệu quả kinh tế xã hộ.
Hiệu quả kinh tế xã hội của một món vay trung và dài hạn được thể hiện
qua các chỉ tiêu của dự án như chỉ tiêu phản ánh hiệu quả, chỉ tiêu phản ánh khả
năng thanh toán, chỉ tiêu phản ánh khả năng sinh lời
Vốn vay phải được hoàn trả nợ gốc và lãi đúng hạn
Các khoản tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng chủ yếu có nguồn gốc
từ các khoản tiền gửi của khách hàng và các khoản ngân hàng vay mượn. Ngân
hàng phải có trách nhiệm hoàn trả cả gốc và lãi như đã vam kết. Do vậy, ngân
hàng luôn yêu cầu nguời nhận tín dụng phải thực hiện đúng cam kết này.
1.2.2. Quy trình tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng thương mại
Hoạt động tín dụng mang tín chất phức tạp và có nhiều rủi ro. Để cho việc
quản lý tín dụng một cách dễ dàng, giảm thiểu được rủi ro, các ngân hàng
thương mại đều soạn thảo cho mình một quy trình tín dụng riêng áp dụng thống
nhất toàn ngân hàng và các ngân hàng thương mại dựa vào đó để phân tích,
thẩm định việc cấp tín dụng từ đó có được quyết định tín dụng đúng đắn, hoạt
động tín dụng trung và dài hạn cũng phải tuân theo những quy trìng chung đó,
tuy nhiên do đặc điểm của tín dụng trung và dài hạn là có thời hạn dài, chứa

đưụng nhiều rủi ro, do vậy mà việc soạn thảo ra một quy trình tín dụng trung và
dài hạn dựa trên quy trìng tín dụng chung rất có ý nghĩa đem lại lợi ích cao cho
ngân hàng.
Quy trình tín dụng được soạn thảo linh động với mục đích giúp cho quá
trình vay diễn ra thống nhất, khoa học, hạn chế, phòng ngừa rủi ro và nâng cao
chất lượng tín dụng
Quy trình tín dụng trung và dài hạn gồm 5 bước, các bước trong quy trình
có quan hệ qua lại và hỗ trợ nhau, Kết quả của bước trước là nền tảng, cơ sở để
bước tiếp theo thực hiện và tác động đến chất lượng của bước sau:
Bước 1: Lập hồ sơ yêu cầu cấp tín dụng
Cán bộ tín dụng hướng dẫn khách hàng lập hồ sơ vay vốn. xét về mặt kinh
tế, mặc dù quan hệ tín dụng chưa hình thành, nhưng đây là bước chuẩn bị những
điều kiện cần thiết để quan hệ tín dụng được thiết lập lành mạnh. Xét về mặt thủ
tục hành chính, thì đây là bước hình thành đầy đủ giấy tờ, văn bản chứng tỏ
9
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp Nguyễn Đình Tuấn
khách hàng thực sự có nhu cầu về vốn tín dụng trung và dài hạn, cũng như
chứng minh được tính hợp pháp về nhân thân khách hàng và tính tự nguyện xin
cấp tín dụng cuả khách hàng. Căn cứ vào việc phân tích các nguồn thông tin từ
hồ sơ này và các nguồn liên quan mà ngân hàng ra quyết định là có cấp tín dụng
hay không.
Bước 2: Thẩm định tín dụng
Thẩm định tín dụng là thẩm định khả năng hiện tại và tiềm năng của khách
hàng. Do tính chất phức tạp của tín dụng trung và dài hạn nên cán bộ tín dụng và
cán bộ thẩm định phải dựa vào các thông tin đã có và tiến hành thẩm định một
cách chặt chẽ các yếu tố phi tài chính (như phân tích, kiểm tra tính pháp lý của
khách hàng, uy tín của họ, mục đích của khoản vay ) và các yếu tố tài chính.
Bước 3: Quyết định tín dụng
Đây là bước quan trọng nhất, nó phụ thuộc rất lớn vào trình độ của người
cán bộ tín dụng, ở khâu này cán bộ tín dụng là người chịu trách nhiệm lớn nhất

về việc ra quyết định của mình, khâu này nó không chỉ ảnh hưởng đến tiến trình
hoạt động của khách hàng, mà còn ảnh hưởng đến cả uy tín của ngân hàng. Kết
thúc bước này được được đánh dấu bởi các văn bản thể hiện kết quả ra quyết
định là từ chối cho vay (ngân hàng phải nêu rõ lý do) hay chấp thuận thông qua
ký hợp đồng tín dụng.
Bước 4: Giải ngân và kiểm soát trong khi cấp tín dụng
Sau khi hợp động tín dụng đã được ký kết, ngân hàng phải trách nhiệm
cấp tiền cho khách như đã thoả thuận. Kèm theo việc cấp tín dụng, ngân hàng
kiểm soát khách hàng: Sử dụng tiền vay có đúng mục đích, đúng tiến độ hay
không, quá trình sản xuất kinh doanh có những thay đổi bất lợi gì.Quá trình này
cho phép ngân hàng thu thập thêm các thông tin về khách hàng. Nếu các thông
tin phản ánh chiều hướng tốt, cho thấy chất lượng tín dụng đang được đảm bảo.
Ngược lại, khi chất lượng khoản cho vay bị đe doạ, ngân hàng cần có các biện
pháp xử lý kịp thời. Ngân hàng được quyền thu hồi nợ trước hạn, ngừng giải
ngân, nếu bên vay vi phạm hợp đồng tín dụng. Ngân hàng có thể yêu cầu khách
hàng bổ sung tài sản thế chấp, giảm số tiền vay khi thấy cần thiết để đảm bảo
an toàn tín dụng. Đối với ngân hàng đây là bước đi nguy hiểm. Do vậy cho tài
trợ gắn liền với kiểm soát khách hàng giúp ngân hàng ngăn chặn các ý đồ sử
dụng tiền vay không đúng mục đích của khách hàng. Đây cũng là quá trình ngân
10
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp Nguyễn Đình Tuấn
hàng thu thập thêm các thông tin bổ sung cho các thông tin ở bước 1 và ra các
quyết định cụ thể nhằm ngăn chặn kịp thời các khoản tín dụng xấu.
Bước 5: Thu nợ hoặc đưa ra phán quyết tín dụng mới.
Quan hệ tín dụng kết thúc khi ngân hàng thu hồi hết gốc và lãi. Các khoản
tín dụng đảm bảo hoàn trả đầy đủ và đúng hạn là các khoản tín dụng an toàn.
Một số trường hợp, các khoản tín dụng đã không hoàn trả hoặc không hoàn trả
đủ, đúng hạn. Việc thanh toán nợ không đúng hạn cho ngân hàng cho thấy các
“trục trặc” trong hoạt động của khách hàng. Việc xem xét, tìm nguyên nhân là
rất quan trọng để giúp ngân hàng kịp thời đưa ra các quyết định mới liên quan

đến tính an toàn của khoản tín dụng.
- Trường hợp khách hàng cố tình đảo ngân hàng, cố tình nợ nần dây dưa,
hoặc làm ăn yếu kém không còn phương cách cứu vãn, ngân hàng áp dụng phương
án thanh lý, tức là sử dụng các biện pháp có thể được để thu hồi khoản nợ, bao gồm
phong toả và bán các tài sản thế chấp, tước đoạt các khoản tiền gửi
- Trường hợp khách hàng có khó khăn về tài chính, song vẫn kiên quyết
tìm cách khắc phục để trả nợ, ngân hàng thường áp dụng phương án khai thác,
bao gồm gia hạn nợ, giảm lãi hoặc cho vay thêm.
Các bước trên mang tính chất liên hoàn, theo một trật tự nhất định, đồng thời
có quan hệ chặt chẽ và gắn bó với nhau. Việc các cán bộ tín dụng thực hiện theo
quy trình trên sẽ có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng tín dụng trung và dài hạn.
1.3. Chất lượng tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng thương mại
1.3.1. Quan niệm về chất lượng tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng
thương mại
Ngân hàng là một doanh nghiệp đặc biệt, kinh doanh hàng hoá đặc biệt đó
là tiền tệ. Một doanh nghiệp muốn đứng vững trong nền kinh tế thị trường thì
phải không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm để có thể thắng được trong
cạnh tranh với đối thủ. Ngày nay tín dụng có thể nói là sản phẩm lớn nhất trong
đa số các sản phẩm của ngân hàng vì vậy việc nâng cao chất lượng tín dụng
đang là một đòi hỏi khách quan và cần thiết đối với các ngân hàng thương mại,
khi chất lượng tín dụng tăng lên sẽ đảm bảo thoả mãn mọi yêu cầu ngày càng
cao của khách hàng đồng thời tạo điều kiện cho ngân hàng nâng cao vị thế của
mình trên thị trường trong nước và quốc tế.
11
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp Nguyễn Đình Tuấn
Để có được một khái niệm hoàn chỉnh về chất lượng tín dụng thì trước
tiên cần phải biết về chất lượng, có nhiều quan điểm khác nhau về chất lượng.
Các nhà kinh tế thì cho rằng chất lượng là: “sự phù hợp với mục đích hoặc việc
sử dụng”, là “năng lực của một sản phẩm hoặc một dịch vụ nhằm thoả mãn
những nhu cầu của người sử dụng từ quan điểm về chất lượng” như vậy có thể

đi đến khái niệm về chất lượng tín dụng một cách đơn giản nhất: “ Chất lượng
tín dụng là hiệu quả của việc cho vay (hay đầu tư, bảo lãnh, chiết khấu) mang
lại, là khả năng thu hồi đầy đủ đúng hạn cả vốn gốc và lãi (hoăch phí) theo dự
định”. Hiệu quả và khả năng thu nợ càng lớn thì chất lượng tín dụng càng cao và
ngược lại
Chất lượng tín dụng có thể nói , là một chỉ tiêu tổng hợp, được xác định
bằng tổng thể các chỉ tiêu cả cụ thể lẫn trừu tượng, nhằm phản ánh mức độ thích
nghi của ngân hàng thương mại với môi trường bên ngoài và sức mạnh của một
ngân hàng trong quá trình cạnh tranh để tồn tại. Chất lượng tín dụng nói chung
phản ánh hiệu quả hoạt động của ngân hàng và chất lượng tín dụng trung và dài
hạn phản ánh hiệu quả hoạt động tín dụng trung và dài hạn
Trong một nền kinh tế chuyển đổi như Việt Nam thì nhu cầu tín dụng
trung và dài hạn rất lớn. Tuy nhiên nguồn vốn để tài trợ cho nhu cầu đó thì còn
hạn hẹp do vậy mà chất lượng tín dụng trung và dài hạn luôn được các ngân
hàng quan tâm
1.3.2 Các chỉ tiêu phản ánh chất lượng tín dụng trung và dài hạn
Trong bối cảnh hiện nay của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam
khi mà hoạt động kinh doanh chủ yếu vẫn là hoạt động tín dụng và lợi nhuận có
được từ các nghiệp vụ tín dụng vẫn chiếm tỷ trọng khống chế trong toàn bộ lợi
nhuận có được trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại. Chất
lượng tín dụng trung và dài hạn được phản ánh bằng tổng các chỉ tiêu vừa trừu tượng
vừa cụ thể. Các chỉ tiêu trừu tượng như chỉ tiêu phản ánh mức độ thoả mãn của
khách hàng không thể lượng hoá được mà chỉ có thể kết luận chất lượng qua một
thời gian dài và bằng những phương pháp xác định định tính, thường thì các ngân
hàng dùng những chỉ tiêu mang tính định lượng để đánh giá chất lượng tín dụng
trung và dài hạn vì nó dễ dàng tính toán và dễ lượng hoá được
12
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp Nguyễn Đình Tuấn
* Nhóm chỉ tiêu về tăng trưởng tín dụng
Tăng trưởng tín dụng phần nào cũng phản ánh được chất lượng tín dụng tốt

vì giữa tăng trưởng tín dụng và chất lượng tín dụng có mối quan hệ biện chứng.
- Chất lượng tín dụng tốt mới có điều kện để mà tăng trưởng tín dụng, tăng
trưởng tín dụng là cơ sở để đánh giá chất lượng tín dụng
Nhóm chỉ tiêu này bao gồm :
- Doanh số cho vay trung và dài hạn: Là tổng lượng vốn mà ngân hàng đã
giải ngân cho khách hàng theo hợp đồng tín dụng trung và dài hạn trong một
niên độ kế toán, thường là một năm, chỉ tiêu này phản ánh quy mô tín dụng. khi
doanh số cho vay tăng đồng nghĩa với quy mô tín dụng tăng và các ngân hàng
đều muốn tăng quy mô cho vay của mình nhằm thu được nhiều lợi nhuận hơn.
- Dư nợ tín dụng trung và dài hạn: Đây là một chỉ tiêu mang tính chất thời
điểm, phản ánh lượng vốn ngân hàng đã giải ngân cho các khoản tín dụng trung
và dài hạn mà khách hàng đang còn nợ ngân hàng tại một thời điểm cụ thể,
thông thường các ngân hàng sử dụng chỉ tiêu dự nợ để phản ánh quy mô cũng
như sự tăng trưởng tín dụng của mình bởi chỉ tiêu này nó cho biết một cách cụ
thể về tình hình sử dụng vốn của ngân hàng tại một thời điểm nhất định, giúp
cho ngân hàng dễ dàng đánh giá được chất lượng tài sản của ngân hàng
- Doanh số thu nợ tín dụng trung và dài hạn: Là tổng các khoản thu nợ, chỉ
tiêu này phản ánh lượng vốn cho vay trung và dài hạn đã được thu hồi trong một
thời kỳ, đây là một chỉ tiêu rất được các ngân hàng chú ý bởi chỉ tiêu nói lên lợi
nhuận thực mà ngân hàng đã thu được từ khoản tín dụng đã cấp
- Tỷ trọng dư nợ cho vay trung và dài hạn: Chỉ tiêu này cho biết được dư
nợ tín dụng trung và dài hạn chiếm bao nhiêu % trong tổng dư nợ, nó phản ánh
việc mở rộng hay thu hẹp tín dụng tại một thời điểm và chỉ tiêu này được đo
bằng:
Dư nợ cho vay trung và dài hạn
Tỷ trọng dư nợ cho vay trung và dài hạn =
Tổng dư nợ cho vay
Ngoài các chỉ tiêu trên cũng cần phải kể đến chỉ tiêu về tỷ lệ tăng trưởng
tín dụng đây là một chỉ tiêu mang tính chất so sánh về sự tăng trưởng tín dụng
trung và dài hạn của thời điểm này so với thời điểm trước và được đo bằng, dư

nợ cho vay cuối kỳ trừ dư nợ cho vay đầu kỳ chia cho dư nợ đầu kỳ
13
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp Nguyễn Đình Tuấn
Các nhóm chỉ tiêu về tăng trưởng tín dụng chỉ mang tính chất đánh giá
chung về chất lượng tín dụng chứ chưa phản ánh một cách bản chất về chất
lượng tín dụng. Tuy nhiên không thể chỉ nhìn vào việc mở rộng tín dụng để
đánh giá chất lượng mà phải xem xét đến tính an toàn và lành mạnh của các
khoản tín dụng đó
* Hiệu suất sử dụng vốn
Dư nợ cho vay trung và dài hạn
Hiệu suất sử dụng vốn =
Tổng nguồn vốn trung và dài hạn
Chỉ tiêu này phản ánh một đồng vốn trung và dài hạn huy động được thì
cho vay bao nhiêu vốn; tỷ lệ này càng cao càng tốt vì ta biết là tín dụng trung và
dài hạn mang lại lợi nhuận rất cao cho ngân hàng. Tuy nhiên nếu tỷ lệ này mà
cao quá sẽ dẫn đến rủi ro thanh khoản, hiện nay các ngân hàng thương mại có
nguồn vốn để cho vay trung và dài hạn rất hạn chế do vậy mà để có nguồn vốn
tài trợ cho tín dụng trung và dài hạn hầu như là các ngân hàng thương mại phải
trích thêm một tỷ lệ phần trăm nhất định trong nguồn vốn ngắn hạn (ở Việt Nam
tối đa 40%) để cho vay trung và dài hạn, như vậy việc mở rộng cho vay trung và
dài hạn càng cao thì phải lấy nguồn vốn ngắn hạn càng nhiều do đó mà rất dễ
xảy ra rủi ro thanh khoản khi mà khách hàng ồ ạt đến rút tiền. Để hoạt động của
ngân hàng luôn đảm bảo an toàn và sinh lời các ngân hàng cần phải cơ cấu lại
giữa việc huy động vốn và sử dụng vốn.
Do vậy mà chỉ tiêu này cần phải kết hợp xem xét một cách tổng thể về cơ
cấu nguồn vốn của ngân hàng.
* Chỉ tiêu về tỷ lệ nợ có tài sản đảm bảo
Hoạt động ngân hàng mang tính chất nhạy cảm và mang nhiều rủi ro trong
kinh doanh do vậy mà để đảm bảo an toàn trong hoạt động, các ngân hàng đều
đưa ra những nguyên tắc nhất định trong hoạt động trong đó nguyên tắc quan

trọng nhất là tất cả các khoản cho vay đều phải có tài sản đảm bảo trừ những
trường hợp khoản vay theo chỉ định của chính phủ, tuy nhiên để thoả mãn nhu
cầu của khách hàng, đòi hỏi thủ tục phải đơn giản, nhanh chóng, các ngân hàng
đã nới lỏng nguyên tắc trong cấp tín dụng giúp cho quá trình cho vay đơn giản
hơn nhằm thu hút được nhiều khách hàng đến với ngân hàng tuy vậy việc làm
này có ảnh hưởng đến chất lượng các khoản cho vay của ngân hàng.
14
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp Nguyễn Đình Tuấn
Hoạt động tín dụng trung và dài hạn mang lại lợi nhuận lớn cho ngân
hàng. Tuy nhiên nó cũng đem lại nhiều rủi ro cho ngân hàng. Để đảm bảo an
toàn cho ngân hàng, ngân hàng yêu cầu khách hàng cần phải có tài sản đảm bảo
Chỉ tiêu tỷ lệ nợ có tài sản đảm bảo được tính bằng dư nợ trung và dài hạn
có tài sản đảm bảo chia cho tổng dư nợ trung và dài hạn
Theo quy định của ngân hàng nhà nước thì tổ chức tín dụng không được
cho vay quá 70% giá trị tài sản đảm bảo do vậy mà chỉ tiêu trên chưa phản ánh
được số vốn thực tế thu hồi được từ tài sản đảm bảo nên các ngân hàng cần sử
dụng đồng thời chỉ tiêu tỷ lệ thanh toán nợ từ tài sản đảm bảo được đo bằng số
tiền thực tế thu được từ tài sản đảm bảo chia cho tổng dư nợ trung và dài hạn có
tài sản đảm bảo
* Chỉ tiêu về nợ quá hạn:
Trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng các ngân hàng đều cố gắng
hạn chế đến mức thấp nhất rủi ro có thể xảy ra, trong chính sách cho vay của
ngân hàng các ngân hàng đều có một sổ tay tín dụng hướng dẫn việc cấp tín
dụng cho khách hàng và các ngân hàng có thể dựa vào đó để thực hiện. Tuy
nhiên dù có soạn thảo được một quy trình tín dụng hoàn thiện đến mấy, dù có cố
gắng đến mấy thì trong nền kinh tế thị trường rủi ro luôn xảy ra, do vậy rủi ro
trong hoạt động kinh doanh là khách quan dẫn đến nợ quá hạn Ngân hàng nào
có tỷ lệ quá hạn cao sẽ bị đánh giá là có chất lượng tín dụng thấp như theo quy
định chung của ngân hàng nhà nước, các ngân hàng có tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng
dư nợ


7% được xem như là ngân hàng yếu kém. Các ngân hàng thường sử
dụng tỷ lệ nợ quá hạn để đánh giá chất lượng tín dụng, Tỷ lệ nợ quá hạn trung
và dài hạn là tỷ lệ phần trăm giữa nợ quá hạn tín dụng trung và dài hạn và tổng
dư nợ tương ứng ở một thời điểm nhất định.
Dư nợ quá hạn trung và dài hạn cuối kỳ
Tỷ lệ nợ quá hạn trung và dài hạn =
Tổng dư nợ cho vay trung và dài hạn cuối kỳ
Tỷ lệ này càng cao thể hiện ngân hàng có nhiều khoản nợ trung và dài hạn
quá hạn hay chất lượng tín dụng trung và dài hạn là thấp. Để đảm bảo an toàn
trong hoạt động tín dụng ngân hàng nhà nước yêu cầu các ngân hàng thương mại
phải thực hiện việc phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro
15
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp Nguyễn Đình Tuấn
tín dụng trong hoạt động ngân hàng; Theo quyết định số 493/2007/ QĐ-NHNN
quy định việc phân loại nợ và trích lập dự phòng cụ thể như sau:
Việc phân loại nợ
- Nhóm 1 (nợ đủ tiêu chuẩn) bao gồm:
Các khoản nợ trong hạn mà tổ chức tín dụng đánh giá là có đủ khả năng
thu hồi đầy đủ cả gốc và lãi đúng thời hạn,
- Nhóm 2 (nợ cần chú ý) bao gồm:
+ Các khoản nợ quá hạn dưới 90 ngày.
+ Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ trong hạn theo thời hạn nợ đã cơ
cấu lại.
- Nhóm 3(nợ dưới tiêu chuẩn) bao gồm:
+ Các khoản nợ quá hạn từ 90 ngày đến 180 ngày.
+ Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn dưới 90 ngày theo thời
hạn đã cơ cấu lại.
- nhóm 4(nợ nghi ngờ) bao gồm:
+ Các khoản nợ quá hạn từ 181 đến 360 ngày.

+ Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn trên 180 ngày theo thời
hạn đã được cơ cấu lại.
- Nhóm 5( Nợ có khả năng mất vốn) bao gồm:
+ Các khoản nợ quá hạn trên 360 ngày.
+ Các nợ khoanh chờ chính phủ xử lý.
+ Các khoản nợ đã cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn trên 180 ngày theo
thời hạn đã được cơ cấu lại.
Việc trích lập dự phòng
- Nhóm 1: 0%
- Nhóm 2: 5%
- Nhóm 3: 20%
- Nhóm 4: 50%
- Nhóm 5: 100%
Riêng đối với các khoản nợ khoanh chờ chính phủ xử lý được trích lập dự
phòng cụ thể theo khả năng tài chính của tổ chức tín dụng.
Theo quyết định 127/2007/QĐ-NHNN “Đối với khoản nợ vay không trả
nợ đúng hạn và không chấp thuận cho cơ cấu lại thời hạn trả nợ (điều chỉnh kỳ
16
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp Nguyễn Đình Tuấn
hạn và gia hạn nợ vay), thì số dư nợ gốc của hợp đồng tín dụng đó là nợ quá hạn
và tổ chức tín dụng thực hiện các biện pháp điều chỉnh để thu hồi nợ.Như vậy,
đối với khoản nợ vay không trả đúng hạn dù được cơ cấu lại thời hạn trả nợ hay
không đều bị coi là nợ quá hạn. Như vậy theo như những quy định này thì nợ
quá hạn thực sự là một chỉ tiêu phản ánh chất lượng tín dụng một cách đúng
nhất. Và để đánh giá một món vay đã quá hạn có thể thu hồi được hay không
ngân hàng cần phải xem xét những lý do của việc khách hàng không trả được
nợ, Ngân hàng cần phân loại những khoản nợ quá hạn:
- Nợ quá hạn có khả năng thu hồi: Là những khoản nợ mà người vay vốn
có thể tiếp tục trả nợ cho ngân hàng. Lý do của những khoản nợ bị chậm trễ nay
có thể là do ngân hàng định kỳ trả nợ chưa phù hợp, hoặc do sự thay đổi về cơ

chế, luật pháp, chính sách hoặc do những thay đổi trên thị trường thế giới, thiên
tai, địch hoạ dẫn đến những thay đổi trong môi trường kinh tế làm cho dòng
ngân quỹ của khách hàng không ăn khớp với thời hạn đã định trước. Kết quả là
khách hàng không có khả năng hoàn trả tín dụng theo đúng thời hạn đã cam kết,
do đó nợ quá hạn nảy sinh.
- Nợ quá hạn không có khả năng thu hồi: Là những khoản nợ nguời vay ít
có khả năng trả nợ cho ngân hàng do người vay lừa đảo ngân hàng hoặc làm ăn
thua lỗ dẫn đến không trả được nợ cho ngân hàng, do đó ngân hàng bị mất vốn
Qua việc phân loại nợ quá hạn như vậy ta mới đánh giá thực sự của khoản
tín dụng có chất lượng hay không
* Nhóm chỉ tiêu về khả năng sinh lãi
- Chỉ tiêu vòng quay vốn trung và dài hạn là chỉ tiêu đánh giá tần suất sử
dụng vốn của ngân hàng trong một thời kỳ.
Doanh số thu nợ trung và dài hạn
Vòng quay vốn, trung và dài hạn =
Tổng dư nợ trung và dài hạn bình quân
Nếu vòng quay càng lớn thì chứng tỏ nguồn vốn trung và dài hạn luân
chuyển nhanh, đồng thời phản ánh tình hình tổ chức quản lý vốn tín dụng trung
và dài hạn của ngân hàng là tốt, chất lượng tín dụng trung và dài hạn là cao. Với
một lượng vốn nhất định, nhưng vòng quay vốn nhanh chứng tỏ ngân hàng có
thể đáp ứng được phần lớn nhu cầu khách hàng
17
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp Nguyễn Đình Tuấn
- Chỉ tiêu về lợi nhuận:
Lợi nhuận từ tín dụng trung và dài hạn
Chỉ tiêu lợi nhuận =
×
100%
Tổng dư nợ tín dụng trung và dài hạn
Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sính lời của tín dụng trung và dài hạn.

Một khoản tín dụng dù ngắn hay dài không thể xem là có chất lượng tín dụng cao
nếu nó không đem lại lợi nhuận thực tế cho ngân hàng, Tuy nhiên đối với ngân
hàng thương mại quốc doanh thì lợi nhuận nhiều khi không phải là cái đích để ngân
hàng hướng tới mà thực hiện chủ trương chính sách của nhà nước mới là điều kiện
quan trọng. Nói như vậy không có nghĩa là ngân hàng không quan tâm tới lợi
nhuận . Vì sự tồn tại và phát triển của mình, ngân hàng không thể cho vay các món
vay có lợi nhuận âm hoặc bằng không; Ngân hàng có thể dùng thêm chỉ tiêu tỷ lệ
lợi nhuận tín dụng trung và dài hạn trên tổng lợi nhuận thu được:
Lợi nhuận tín dụng trung và dài hạn
Tỷ lệ lợi nhuận tín dụng trung, dài hạn =
Tổng lợi nhuận từ tín dụng
Chỉ tiêu này cho thấy rõ hơn tầm quan trọng của tín dụng trung và dài hạn.
Thông qua các chỉ tiêu trên, có thể phần nào đánh giá được chất lượng tín
dụng trung và dài hạn của ngân hàng thương mại. Tuy nhiên các chỉ tiêu này
phải được đánh giá trong mối quan hệ tương quan ràng buộc lẫn nhau.
1.3.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng trung và dài hạn
của ngân hàng thương mại
1.3.3.1. Nhân tố thuộc về phía ngân hàng
Ngân hàng là người quyết định mấu chốt của chất lượng tín dụng mà mình
cung cấp cho khách hàng, do vậy mà các nhân tố thuộc về ngân hàng ảnh hưởng
đến chất lượng tín dụng gồm:
* Chính sánh tín dụng
Mỗi một ngân hàng thương mại đều xây dựng một chính sách tín dụng
riêng trong từng thời kỳ, phù hợp với mục tiêu, chiến lược của mình. Chính sách
tín dụng phản ánh cương lĩnh tài trợ của một ngân hàng, trở thành bản hướng
dẫn cho cán bộ tín dụng đưa ra quyết định hợp lý, chính sách tín dụng tạo cho
người cán bộ tín dụng ý thức về phương hướng và một khung tham chiếu xác
định để theo đó xem xét cân nhắc một đơn vị vay nhất định. Việc đánh giá chất
18
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp Nguyễn Đình Tuấn

lượng tín dụng cũng phải được dựa vào những định hướng chính sách tín dụng
đưa ra như vậy một chính sách tín dụng tốt sẽ giúp cán bộ tín dụng có cơ sở
vững chắc để quyết định việc cho vay những khoản vay an toàn hiệu quả.
* Chất lượng thẩm định tín dụng
Tín dụng trung và dài hạn được tiến hành chủ yếu trên các dự án đầu tư và
lượng vốn giải ngân cho một dự án thường rất lớn, với thời hạn dài vì vậy mà rủi
ro là rất lớn, thẩm định dự án đầu tư giúp cho ngân hàng hiểu biết rõ nhất về các
thông tin liên quan đến dự án đầu tư như về chủ đầu tư và hiệu quả của dự án
đầu tư từ đó rút ra các kết luận chính xác về tính khả thi, hiệu quả kinh tế, khả
năng trả nợ, rủi ro của dự án để ra quyết định có cho vay hay không. Cũng qua
việc thẩm định, ngân hàng có thể tham gia góp ý cho chủ đầu tư, đồng thời làm
cơ sở để xác định số tiền vay, thời hạn cho vay, mức độ thu nợ hợp lý, tạo điều
kiện cho các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả
Với mục đích quan trọng như vậy nên thẩm định là khâu phức tạp nhất và
là khâu hay mắc sai sót nhất của ngân hàng. Làm tốt công tác thẩm định sẽ giúp
cán bộ ngân hàng loại bỏ ngay từ đầu những dự án không khả thi tiết kiệm chi
phí cho nền kinh tế, chọn được những dự án đầu tư tốt đem lại lợi nhuận cho
doanh nghiệp cho ngân hàng và mang lại hiệu quả kinh tế xã hội cao, ngược lại
nếu công tác thẩm định không được tiến hành thận trọng, bỏ qua các bước thẩm
định thì dễ chọn phải những dự án không có tính khả thi, gây lãng phí tiền đối
với doanh nghiệp, gây rủi ro cho ngân hàng.
* Chất lượng nhân sự
Trong mọi lĩnh vực, con người là yếu tố quyết định, đó là một chân lý
song nói đến chất lượng nhân sự phải kể đến chất lượng của cán bộ tín dụng, cán
bộ tín dụng hàng ngày phải xử lý nghiệp vụ có tính biến động nhưng liên quan
đến nhiều lĩnh vực, ngành nghề kinh tế, gặp gỡ trực tiếp với nhiều loại khách
hàng; đối mặt với nhiều loại cám dỗ, có nhiều cơ hội có thể thực hiện những
hành vi để vụ lợi , chính vì vậy mà đạo đức , trách nhiệm nghề nghiệp cũng
như kiến thức,trình độ nghiệp vụ cơ bản của người cán bộ tín dụng rất quan
trọng, nếu cán bộ tín dụng mà có trình độ nghiệp vụ kém thì những quyết định

về tín dụng có thể sai sót và gây ra rủi ro cho ngân hàng và khoản tín dụng đó có
chất lượng tồi.
19
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp Nguyễn Đình Tuấn
* Thông tin tín dụng
Trong nền kinh tế thị trường, ai nắm bắt được nhiều thông tin chính xác,
kịp thời hơn, người đó sẽ chiến thắng trong cạnh tranh. Trong hoạt động tín
dụng ngân hàng bỏ tiền ra trên cơ sở chủ yếu là lòng tin. Lòng tin đó có chính
xác hay không phụ thuộc vào chất lượng các thông tin mà ngân hàng thu thập
được. Để việc đầu tư tín dụng có chất lượng, hiệu quả, giảm thiểu rủi ro, ngân
hàng phải có được và phân tích, xử lý chính xác rất nhiều thông tin liên quan.
Thông tin tín dụng có thể thu được từ các nguồn sẵn có ở ngân hàng, từ khách
hàng, từ các tổ chức chuyên cung cấp thông tin tín dụng. Hoạt động tín dụng
trung và dài hạn mang đặc trưng là có thời hạn dài do vậy mà rất dễ nhạy cảm
với những biến động trên thị trường vì lẽ đó mà ngân hàng cần phải thu thập
thêm rất nhiều thông tin cả trong quá khứ lẫn hiện tại và tương lai để có thể tập
hợp đưa ra được một quyết định đúng đắn khi tài trợ tín dụng trung và dài hạn.
* Nguồn vốn để tài trợ tín dụng trung và dài hạn
Đối với hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại nhất là hoạt
động tín dụng thì vốn huy động là nguồn chủ yếu. Tuy nhiên về nguyên tắc để
cho vay trung và dài hạn các ngân hàng thương mại chủ yếu phải sử dụng nguồn
huy động trung và dài hạn. Việc sử dụng vốn huy động đúng chức năng, mục
đích sẽ đảm bảo an toàn cho ngân hàng trong thanh toán. Để tài trợ cho hoạt
động tín dụng cần đòi hỏi về nguồn vốn ổn định, ngoài nguồn vốn tự có, nguồn
vốn huy động trung và dài hạn còn phải sử dụng thêm một lượng nhỏ nguồn vốn
ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn do đó nếu có một sự thay đổi nào đối với
nguồn vốn tài trợ đều ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng, có thể dẫn đến ngân
hàng mất khả năng thanh toán vì giữa huy động vốn và sử dụng vốn không khớp
với nhau về kỳ hạn.
* Công tác tổ chức ngân hàng

Công tác tổ chức tác động tới mọi mặt của hoạt động ngân hàng đặc biệt
tác động mạnh tới hoạt động tín dụng. Công tác này thực hiện tốt được thể hiện
bằng việc tổ chức khoa học trong việc phối hợp nhịp nhàng giữa các phòng ban,
có sự thống nhất đoàn kết nhất chí từ ban lãnh đạo đến cán bộ nhân viên sẽ đáp
ứng kịp thời nhu cầu của khách hàng, giúp ngân hàng quản lý sát sao các khoản
cho vay. Đây là cơ sở để tiến hành các nghiệp vụ tín dụng lành mạnh, nâng cao
chất lượng tín dụng.
20
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp Nguyễn Đình Tuấn
1.3.3.2. Nhân tố thuộc về phía khách hàng
Hoạt động tín dụng tạo nên mối quan hệ hai bên giữa ngân hàng và khách
hàng do vậy những nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng ngoài những
nhân tố thuộc về ngân hàng còn phải kể đến những nhân tố cả bên khách hàng.
Những yếu tố thuộc về khách hàng bao gồm:
+ Năng lực thị trường của khách hàng
Được thể hiện qua chất lượng sản phẩm, giá cả sản phẩm, chu kỳ sống của
sản phẩm, vị thế của doanh nghiệp trên thị trường. Tìm hiểu năng lực thị trường
của doanh nghiệp sẽ giúp ngân hàng đánh giá được mặt mạnh, yếu sản phẩm của
doanh nghiệp trên thị trường
+ Năng lực tài chính
Năng lực tài chính của doanh nghiệp thể hiện ở khối lượng vốn tự có, hệ
số nợ, khả năng sinh lãi
Một doanh nghiệp có năng lực tài chính tốt sẽ phản ánh việc kinh doanh
của doanh nghiệp từ trước là có hiệu quả nó cho thấy khách hàng có thể quản lý
vốn vay một cách tối ưu. Tuy nhiên để đánh giá năng lực tài chính của khách
hàng thì cần có các báo cáo tài chính của khách hàng qua những năm gần đây và
các báo cáo đó phải đảm bảo một cách minh bạch tốt nhất là có kiểm toán của
kiểm toán độc lập để đảm bảo tính trung thực khách quan
1.3.3.3. Nhân tố khách quan khác
* Môi trường kinh tế và các chính sách vĩ mô của Nhà nước:

Một nền kinh tế ổn định sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho tín dụng trung và
dài hạn ngân hàng phát triển. Nền kinh tế ổn định các doanh nghiệp hoạt động
kinh doanh có hiệu quả do vậy sẽ có nguồn vốn để trả nợ ngân hàng, ngược lại
trong thời kỳ suy thoái, môi trường kinh doanh biến động sẽ gây khó khăn cho
hoạt động của doanh nghiệp, nhu cầu vốn tín dụng trung và dài hạn thấp vì rất ít
cơ hội đầu tư do vậy ở thời kỳ này ngân hàng cũng như khách hàng đều rất hạn
chế về nguồn vốn, đối với ngân hàng nếu những nguồn vốn đã giải ngân thì rất
khó thu hồi nợ còn đối với doanh nghiệp khi đồng vốn bỏ ra để đầu tư thì rất
khó thu hồi như vậy ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng tín dụng
Để cho nền kinh tế hoạt động theo một trật tự đảm bảo công bằng đối với
các chủ thể kinh tế thì cần phải có sự can thiệp của chính phủ, chính phủ can
thiệp vào nền kinh tế bằng chính sách kinh tế vĩ mô như chính sách tiền tệ hoặc
21
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp Nguyễn Đình Tuấn
chính sách tài khoá, việc can thiệp của chính phủ phần nào ảnh hưởng đến hoạt
động kinh doanh của của các ngân hàng cũng như là đối với các doanh nghiệp,
nếu chính phủ chủ trương thực hiện chính sách thắt chặt thì việc cho vay của các
ngân hàng rất hạn chế và như vậy sẽ có một lượng vốn bị ứ đọng trong ngân
hàng trong khi đó ngân hàng vẫn phải trả lãi cho nguồn vốn mà mình huy động
và những chi phí quản lý liên quan Như vậy đã ảnh hưởng đến chất lượng tín
dụng của ngân hàng
* Môi trường pháp lý
Trong nền kinh tế thị trường, pháp luật có nhiệm vụ tạo lập môi trường
pháp lý cho mọi hoạt động sản xuất kinh doanh diễn ra thuận lợi và đạt hiệu quả
cao. Hành lang pháp lý hoàn chỉnh đồng bộ giúp cho các chủ thể trong nền kinh
tế hoạt động một cách liên tục thông suốt, các ngân hàng tạo lập được nhiều mối
quan hệ tín dụng với khách hàng từ đó có thể đem lại lợi nhuận cao và nâng cao
chất lượng tín dụng cho ngân hàng.
* Môi trường chính trị - xã hội
Đất nước ổn định về chính trị xã hội giúp các doanh nghiệp yên tâm thực

hiện đầu tư phát triển, ngân hàng thương mại mạnh dạn đầu tư vào các dự án
trung và dài hạn. Sự mất ổn chính trị - xã hội làm suy thoái đất nước, việc sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp cũng như ngân hàng bị ngưng trệ. Vì vậy sự
ổn định chính trị - xã hội cũng góp phần nâng cao chất lượng tín dụng trung và
dài hạn của ngân hàng.
Ngoài những nhân tố kể trên còn có thể có những nhân tố bất khả kháng
khác như do thiên tai, địch hoạ, chiến tranh, đình công, bạo loạn, khủng hoảng
kinh tế Đây là những nguyên nhân khó tránh khỏi mà chỉ có thể dự đoán được
mà đề phòng. Tuy vậy dù do nguyên nhân gì thì cũng đều ảnh hưởng đến chất
lượng tín dụng của ngân hàng.
22
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp Nguyễn Đình Tuấn
CHƯƠNG II.
THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TRUNG
VÀ DÀI HẠN CỦA CHI NHÁNH NGÂN HÀNG
VPBANK LÝ NAM ĐẾ
2.1. Giới thiệu khái quát về Chi nhánh Ngân hàng VPBANK Lý Nam Đế
2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển
Ngân hàng VPBANK Lý Nam Đế là một Chi nhánh của Ngân hàng
VPBank Việt Nam. Sau khi thực hiện nghị định số 53/HĐBT ngày 26/3/1998
của hội đồng bộ trưởng về tổ chức bộ máy NHNN Việt Nam chuyển sang cơ chế
ngân hàng hai cấp, từ một chi nhánh ngân hàng nhà nước cấp quận và một chi
nhánh ngân hàng hàng kinh tế cấp quận thuộc địa bàn quận Hoàn Kiếm. Tại
quyết định số 93/NHVPB-TCCB ngày 1/4/1993 của tổng giám đốc Ngân hàng
VPBank Việt Nam sắp xếp lại bộ máy tổ chức NHVPBANK trên địa bàn Hà
Nội theo mô hình quản lý của NHVPBANK.
Hiện nay, Ngân Hàng VPBANK Lý Nam Đế đã vượt qua những khó khăn
ban đầu và khẳng định được vị trí, vai trò của mình trong nền kinh tế thị trường,
đứng vững và phát triển trong cơ chế mới, chủ động mở rộng mạng lưới giao
dịch, đa dạng hoá các dịch vụ kinh doanh tiền tệ. Mặt khác ngân hàng còn

thường xuyên tăng cường việc huy động vốn và sử dụng vốn, thay đổi cơ cấu
đầu tư phục vụ phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng
công nghiệp hoá - hiện đại hoá.
2.1.2. Cơ cấu tổ chức của Chi nhánh.
Sau gần 20 năm thành lập và hoạt động, Chi nhánh Ngân hàng VPBANK
Lý Nam Đế không ngừng đổi mới và phát triển và luôn theo kịp với sự phát triển
của hệ thống ngân hàng trong nước. Để bắt kịp với sự phát triển của hệ thống
ngân hàng trong khu vực và trên thế giới Chi nhánh ngân hàng VPBANK Lý
Nam Đế đã liên tục đưa ra những đổi mới về cơ cấu tổ chức của ngân hàng mình
và theo quyết định gần đây nhất Chi nhánh có đưa ra quyết định chuyển mới mô
hình tổ chức theo dự án hiện đại hoá NHVPBank cơ cấu tổ chức gồm có các
phòng ban như sau:
23

×