MỤC LỤC
3.3.7.1 Đào tạo đội ngũ lao động có tay nghề 58
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC VIẾT TẮT
Chữ viết đầy đủ Chữ viết tắt
Doanh nghiệp DN
Tài sản cố định TSCĐ
Tài sản dài hạn TSDH
Tài sản ngắn hạn TSNH
Tư liệu sản xuất TLSX
Tư liệu lao động TLLĐ
Việt nam đồng VNĐ
Bảng cân đối kế toán BCĐKT
Kết quả hoạt động kinh doanh KQHĐKD
Vốn cố định VCĐ
Vốn lưu động VLĐ
Vốn lưu động ròng VLĐr
Nhu cầu vốn lưu động NCVLĐ
Ngân quỹ ròng NQr
Chủ sở hữu CSH
Tương đương tiền TĐT
Cán bộ công nhân viên CBCNV
DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1: Cơ cấu vốn lưu động Error: Reference source not found
Bảng 2.2: Vốn lưu động ròng qua các năm . Error: Reference source not found
Bảng 2.3: Nhu cầu vốn lưu động qua các năm Error: Reference source not
found
Bảng 2.4: Cơ cấu tài chính Error: Reference source not found
Bảng 2.5: Khả năng thanh toán ngắn hạn Error: Reference source not found
Bảng 2.6: Hiệu quả sử dụng vốn lưu động . .Error: Reference source not found
Bảng 2.7: Hiệu quả sinh lời VLĐ Error: Reference source not found
LỜI MỞ ĐẦU
Mỗi doanh nghiệp là một tế bào của nền kinh tế, là nơi tổ chức kết hợp
các yếu tố của quá trình sản xuất để tạo ra của cải vật chất cho xã hội, tạo
nguồn tích lũy cho xã hội phát triển.
Trong giai đoạn hiện nay, khi nền kinh tế đang từng bước chậm chạp phục
hồi sau một giai đoạn suy thoái toàn cầu, khi cơ chế thị trường ngày càng phát
triển, cạnh tranh mạnh mẽ, đứng trước những khó khăn đó để tồn tại và đứng
vững trên thì doanh nghiệp cần phải xác định đúng mục tiêu hướng đi của mình
sao cho có hiệu quả cao nhất. Do đó, vấn đề nâng cao hiệu quả sản xuất kinh
doanh đã trở thành mục tiêu hàng đầu của các doanh nghiệp.
Để đạt được kết quả kinh doanh tốt thì ngay từ những ngày đầu của quá
trình sản xuất, doanh nghiệp cần phải có vốn - đó là yếu tố đầu vào hàng đầu
không thể thiếu đối với mỗi doanh nghiệp. Việc sử dụng vốn sao cho hợp lý,
hiệu quả là bài toán khó không chỉ riêng với một doanh nghiệp nào mà tất cả
các doanh nghiệp ngay từ khi thành lập đều phải tính toán kỹ lưỡng. Thực tế
cho thấy, để làm được điều này là vấn đề nan giải. Không chỉ các doanh
nghiệp lớn, mà các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng đang gặp rất nhiều vấn đề
trong việc sử dụng có hiệu quả nguồn vốn lưu động của mình.
Với mong muốn tìm hiểu và tổng hợp các kiến thức đã học trên ghế nhà
trường cùng với những kinh nghiệm được chỉ bảo trong suốt những tháng
thực tập vừa qua, em đã quyết định lựa chọn đề tài “GIẢI PHÁP NÂNG
CAO HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN LƯU ĐỘNG TẠI CÔNG TY TNHH
SẢN XUẤT DỊCH VỤ THƯƠNG MẠI MÔI TRƯỜNG XANH” làm đề tài
báo cáo tốt nghiệp của mình. Ngoài phần mở đầu và phần kết luận bố cục
của chuyên đề gồm 3 chương :
CHƯƠNG I : LÝ LUẬN CHUNG VỀ VỐN LƯU ĐỘNG VÀ HIỆU
QUẢ SỬ DỤNG VỐN LƯU ĐỘNG TRONG DOANH NGHIỆP
1
CHƯƠNG II : THỰC TRẠNG HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VÔN LƯU ĐỘNG
TẠI CÔNG TY TNHH SẢN XUẤT DỊCH VỤ THƯƠNG MẠI MÔI TRƯỜNG
XANH.
CHƯƠNG III : GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN
LƯU ĐỘNG CỦA CÔNG TY TNHH SẢN XUẤT DỊCH VỤ THƯƠNG
MẠI MÔI TRƯỜNG XANH
2
CHƯƠNG I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ VỐN LƯU ĐỘNG VÀ HIỆU QUẢ SỬ
DỤNG VỐN LƯU ĐỘNG TRONG DOANH NGHIỆP
1.1 Doanh nghiệp trong kinh tế thị trường
1.1.1 Khái niệm về doanh nghiệp :
Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch
ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục
đích thực hiện các hoạt động kinh doanh.
1.1.2 Phân loại:
1.1.2.1 Căn cứ vào tính sở hữu :
A.Doanh nghiệp tư nhân :
Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự
chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh
nghiệp. Chủ sở hữu duy nhất của doanh nghiệp tư nhân là một cá nhân.
Doanh nghiệp tư nhân không có tư cách pháp nhân.
Chủ doanh nghiệp tư nhân là đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp.
Chủ doanh nghiệp tư nhân có toàn quyền quyết định đối với tất cả hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp; có toàn quyền quyết định việc sử dụng lợi
nhuận sau khi đã nộp thuế và thực hiện các nghĩa vụ tài chính khác theo quy
định của pháp luật. Chủ doanh nghiệp tư nhân có thể trực tiếp hoặc thuê
người khác quản lý, điều hành hoạt động kinh doanh. Trường hợp thuê người
khác làm Giám đốc quản lý doanh nghiệp, thì chủ doanh nghiệp tư nhân vẫn
phải chịu trách nhiệm về mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Do là chủ sở hữu duy nhất của doanh nghiệp nên doanh nghiệp tư nhân
hoàn toàn chủ động trong việc quyết định các vấn đề liên quan đến hoạt động
kinh doanh của Doanh nghiệp. Chế độ trách nhiệm vô hạn của chủ doanh
nghiệp tư nhân tạo sự tin tưởng cho đối tác, khách hàng và giúp cho doanh
3
nghiệp ít chịu sự ràng buộc chặt chẽ bởi pháp luật như các loại hình doanh
nghiệp khác. Tuy nhiên, do không có tư cách pháp nhân nên mức độ rủi ro của
chủ doanh tư nhân cao, chủ doanh nghiệp tư nhân phải chịu trách nhiệm bằng
toàn bộ tài sản của doanh nghiệp và của chủ doanh nghiệp chứ không giới hạn
số vốn mà chủ doanh nghiệp đã đầu tư vào doanh nghiệp.
B. Công ty hợp danh :
Công ty hợp danh là doanh nghiệp, trong đó: Phải có ít nhất hai thành
viên hợp danh; ngoài các thành viên hợp danh, có thể có thành viên góp vốn;
Thành viên hợp danh phải là cá nhân, có trình độ chuyên môn và uy tín nghề
nghiệp và phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về các nghĩa
vụ của công ty; Thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của
công ty trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty. Công ty hợp danh không có
tư cách pháp nhân và không được phát hành bất kỳ loại chứng khoán nào để
huy động vốn.
Thành viên hợp danh có quyền quản lý công ty; tiến hành các hoạt
động kinh doanh nhân danh công ty; cùng liên đới chịu trách nhiệm về các
nghĩa vụ của công ty.
Thành viên góp vốn có quyền được chia lợi nhuận theo tỷ lệ được quy
định tại Điều lệ công ty; không được tham gia quản lý công ty và hoạt động
kinh doanh nhân danh công ty. Các thành viên hợp danh có quyền ngang nhau
khi quyết định các vấn đề quản lý công ty.
Ưu điểm của công ty hợp danh là kết hợp được uy tín cá nhân của nhiều
người. Do chế độ liên đới chịu trách nhiệm vô hạn của các thành viên hợp
danh mà công ty hợp danh dễ dàng tạo được sự tin cậy của các bạn hàng, đối
tác kinh doanh. Việc điều hành quản lý công ty không quá phức tạp do số
lượng các thành viên ít và là những người có uy tín, tuyệt đối tin tưởng nhau.
Hạn chế của công ty hợp danh là do chế độ liên đới chịu trách nhiệm vô hạn
nên mức độ rủi ro của các thành viên hợp danh là rất cao.
4
C. Công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên :
Công ty trách nhiệm hữu hạn có hai thành viên trở lên là doanh nghiệp
trong đó thành viên chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản
khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã cam kết góp vào doanh
nghiệp. Thành viên của công ty có thể là tổ chức, cá nhân; số lượng thành
viên tối thiểu là hai và tối đa không vượt quá năm mươi. Công ty trách nhiệm
hữu hạn có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký
kinh doanh. Tuy nhiên, công ty trách nhiệm hữu hạn không được quyền phát
hành cổ phiếu để huy động vốn.
Công ty trách nhiệm hữu hạn có từ hai thành viên trở lên phải có Hội
đồng thành viên, Chủ tịch Hội đồng thành viên, Giám đốc. Công ty trách
nhiệm hữu hạn có trên mười một thành viên phải có Ban kiểm soát.
Công ty trách nhiệm hữu hạn là loại hình doanh nghiệp phổ biến nhất ở
Việt nam hiện nay. Hoạt động kinh doanh dưới hình thức công ty trách nhiệm
hữu hạn đem lại cho nhà đầu tư nhiều lợi thế như: do có tư cách pháp nhân
nên các thành viên công ty chỉ trách nhiệm về các hoạt động của công ty trong
phạm vi số vốn góp vào công ty nên ít gây rủi ro cho người góp vốn; số lượng
thành viên công ty trách nhiệm không nhiều và các thành viên thường là
người quen biết, tin cậy nhau, nên việc quản lý, điều hành công ty không quá
phức tạp; Chế độ chuyển nhượng vốn được điều chỉnh chặt chẽ nên nhà đầu
tư dễ dàng kiểm soát được việc thay đổi các thành viên, hạn chế sự thâm nhập
của người lạ vào công ty.Tuy nhiên, hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn
cũng có những hạn chế nhất định như:do chế độ trách nhiệm hữu hạn nên uy
tín của công ty trước đối tác, bạn hàng cũng phần nào bị ảnh hưởng; công ty
trách nhiệm hữu hạn chịu sự điều chỉnh chặt chẽ của pháp luật hơn là doanh
nghiệp tư nhân hay công ty hợp danh; việc huy động vốn của công ty trách
nhiệm hữu hạn bị hạn chế do không có quyền phát hành cổ phiếu.
D. Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên :
Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên là một hình thức đặc biệt
của công ty trách nhiệm hữu hạn. Theo quy định của pháp luật Việt Nam,
5
công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên là doanh nghiệp do một tổ chức
hoặc cá nhân làm chủ sở hữu; chủ sở hữu chịu trách nhiệm về các khoản nợ
và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn điều lệ
của doanh nghiệp.
Chủ sở hữu công ty có quyền chuyển nhượng toàn bộ hoặc một phần
vốn điều lệ của công ty cho tổ chức, cá nhân khác. Công ty trách nhiệm hữu
hạn một thành viên có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp giấy chứng
nhận đăng ký kinh doanh. Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên không
được quyền phát hành cổ phiếu.
Chủ sở hữu công ty không được trực tiếp rút một phần hoặc toàn bộ số
vốn đã góp vào công ty. Chủ sở hữu công ty chỉ được quyền rút vốn bằng
cách chuyển nhượng một phần hoặc toàn bộ số vốn cho tổ chức hoặc cá
nhân khác. Chủ sở hữu công ty không được rút lợi nhuận của công ty khi
công ty không thanh toán đủ các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác đến
hạn phải trả.
Tùy thuộc quy mô và ngành, nghề kinh doanh, cơ cấu tổ chức quản lý
nội bộ của công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên bao gồm: Hội đồng
quản trị và Giám đốc hoặc Chủ tịch công ty và Giám đốc.
Nhìn chung, công ty trách nhiệm hữu hạn có đầy đủ các đặc thù của
công ty trách nhiệm hữu hạn có ít nhất hai thành viên. Điểm khác biệt duy
nhất giữa công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên và công ty trách
nhiệm hữu hạn có ít nhất hai thành viên là công ty trách nhiệm hữu hạn một
thành viên chỉ có một thành viên duy nhất.
Lợi thế của công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên là chủ sở hữu
công ty có toàn quyền quyết định mọi vấn đề liên quan đến hoạt động của
công ty.
E. Công ty cổ phần :
Công ty cổ phần là doanh nghiệp, trong đó:Vốn điều lệ được chia thành
nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần; Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về nợ và
các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào
6
doanh nghiệp;Cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho
người khác, trừ trường hợp cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi biểu quyết;Cổ
đông có thể là tổ chức, cá nhân; số lượng cổ đông tối thiểu là ba và không hạn
chế số lượng tối đa.
Công ty cổ phần có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp giấy chứng
nhận đăng ký kinh doanh. Công ty cổ phần có quyền phát hành chứng khoán
ra công chúng theo quy định của pháp luật về chứng khoán.
Công ty cổ phần phải có Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng quản trị và
Giám đốc (Tổng giám đốc); đối với công ty cổ phần có trên mười một cổ
đông phải có Ban kiểm soát.
Lợi thế của công ty cổ phần là:chế độ trách nhiệm của công ty cổ phần
là trách nhiệm hữu hạn, các cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa
vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi vốn góp nên mức độ rủi do của các
cổ đông không cao; khả năng hoạt động của công ty cổ phần rất rộng, trong
hầu hết các lịch vực, ngành nghề; cơ cấu vốn của công ty cổ phần hết sức linh
hoạt tạo điều kiện nhiều người cùng góp vốn vào công ty; khả năng huy động
vốn của công ty cổ phần rất cao thông qua việc phát hành cổ phiếu ra công
chúng, đây là đặc điểm riêng có của công ty cổ phần; việc chuyển nhượng
vốn trong công ty cổ phần là tương đối dễ dàng, do vậy phạm vi đối tượng
được tham gia công ty cổ phần là rất rộng, ngay cả các cán bộ công chức cũng
có quyền mua cổ phiếu của công ty cổ phần.
Bên cạnh những lợi thế nêu trên, loại hình công ty cổ phần cũng có
những hạn chế nhất định như:việc quản lý và điều hành công ty cổ phần rất
phức tạp do số lượng các cổ đông có thể rất lớn, có nhiều người không hề
quen biết nhau và thậm chí có thể có sự phân hóa thành các nhóm cổ động đối
kháng nhau về lợi ích;Việc thành lập và quản lý công ty cổ phần cũng phức
tạp hơn các loại hình công ty khác do bị ràng buộc chặt chẽ bởi các quy định
của pháp luật, đặc biệt về chế độ tài chính, kế toán.
7
F. Công ty Nhà Nước :
Công ty nhà nước là doanh nghiệp do Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn
điều lệ, thành lập, tổ chức quản lý, đăng ký hoạt động theo quy định của Luật
doanh nghiệp Nhà Nước. Công ty nhà nước được tổ chức dưới hình thức công
ty nhà nước độc lập, tổng công ty nhà nước.
Công ty nhà nước được thành lập chủ yếu ở những ngành, lĩnh vực
cung cấp sản phẩm, dịch vụ thiết yếu cho xã hội; ứng dụng công nghệ cao, tạo
động lực phát triển nhanh cho các ngành, lĩnh vực khác và toàn bộ nền kinh
tế, đòi hỏi đầu tư lớn; ngành, lĩnh vực có lợi thế cạnh tranh cao; hoặc địa bàn
có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn mà các thành phần kinh tế khác
không đầu tư.
Người có thẩm quyền ra quyết định thành lập mới công ty nhà nước là Bộ
trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ,
Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Riêng
đối với việc quyết định thành lập mới công ty nhà nước đặc biệt quan trọng, chi
phối những ngành, lĩnh vực then chốt, làm nòng cốt thúc đẩy tăng trưởng kinh
tế và đóng góp lớn cho ngân sách nhà nước thuộc thẩm quyền của Thủ tướng
Chính phủ.
Công ty nhà nước có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp giấy
chứng nhận đăng ký kinh doanh. Sau khi được cấp giấy chứng nhận đăng ký
kinh doanh, công ty mới được tiếp nhận vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước
hoặc huy động vốn để đầu tư, xây dựng doanh nghiệp và hoạt động kinh
doanh; công ty được kinh doanh những ngành, nghề có điều kiện khi được cơ
quan nhà nước có thẩm quyền cấp giấy phép kinh doanh ngành, nghề có điều
kiện hoặc có đủ điều kiện kinh doanh theo quy định của pháp luật.
Công ty nhà nước được tổ chức quản lý theo mô hình có hoặc không có Hội
đồng quản trị. Các tổng công ty nhà nước, công ty nhà nước độc lập sau đây
có Hội đồng quản trị: Tổng công ty do Nhà nước quyết định đầu tư và thành
8
lập;Tổng công ty đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước;Công ty nhà nước độc
lập có quy mô vốn lớn giữ quyền chi phối doanh nghiệp khác.
1.1.2.2 Căn cứ vào quy mô
Ngân hàng thế giới (World Bank) và nhiều tổ chức quốc tế khác cũng
đều sử dụng tiêu chí số lao động để đánh giá. Theo World Bank, doanh
nghiệp được chia thành 4 loại tương ứng với số lượng lao động như sau:
doanh nghiệp siêu nhỏ (số lao động < 10 người), doanh nghiệp nhỏ (số lao
động từ 10 người đến dưới 50 người), doanh nghiệp vừa (số lao động từ 50
người đến 300 người), doanh nghiệp lớn (số lao động > 300 người)
Ở Việt Nam hiện nay, tiêu chuẩn phân loại DNNVV được thực hiện
theo điều 3, nghị định số 90/2001/NĐ-CP. Theo nghị định này, các doanh
nghiệp không phụ thuộc vào ngành nghề và lĩnh vực kinh doanh, đuợc xếp
loại nhỏ và vừa nếu đáp ứng điều kiện: có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng
hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300 nguời. Nghị định cũng
quy định rằng: căn cứ vào tình hình kinh tế - xã hội cụ thể của ngành, địa
phương, trong quá trình thực hiện các biện pháp, chương trình trợ giúp có thể
linh hoạt áp dụng đồng thời cả hai chỉ tiêu vốn và lao động hoặc một trong hai
chỉ tiêu vốn hoặc doanh thu.
Ngoài ra tiêu chí phân loại doanh nghiệp vừa, nhỏ và siêu nhỏ còn bao gồm :
Doanh nghiệp nhỏ và vừa là cơ sở kinh doanh đã đăng ký kinh doanh
theo quy định pháp luật, được chia thành ba cấp: siêu nhỏ, nhỏ, vừa
theo quy mô tổng nguồn vốn (tổng nguồn vốn tương đương tổng tài sản
được xác định trong bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp) hoặc số lao
động bình quân năm (tổng nguồn vốn là tiêu chí ưu tiên), cụ thể như sau:
9
Quy mô
Doanh
nghiệp
siêu nhỏ
Doanh nghiệp nhỏ Doanh nghiệp vừa
Số lao
động
Tổng
nguồn vốn
Số lao
động
Tổng
nguồn vốn
Số lao
động
I. Nông, lâm
nghiệp và thủy sản
10 người
trở xuống
20 tỷ đồng
trở xuống
từ trên 10
người đến
200 người
từ trên 20 tỷ
đồng đến
100 tỷ đồng
từ trên 200
người đến
300 người
II. Công nghiệp và
xây dựng
10 người
trở xuống
20 tỷ đồng
trở xuống
từ trên 10
người đến
200 người
từ trên 20 tỷ
đồng đến
100 tỷ đồng
từ trên 200
người đến
300 người
III. Thương mại và
dịch vụ
10 người
trở xuống
10 tỷ đồng
trở xuống
từ trên 10
người đến
50 người
từ trên 10 tỷ
đồng đến 50
tỷ đồng
từ trên 50
người đến
100 người
Trích khoản 1 điều 3 Nghị định số 56/2009/NĐ-CP ngày 30/6/2009
1.1.3 Những điểm khác biệt giữa doanh nghiệp TNHH với các loại hình
doanh nghiệp khác:
Công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH) là một loại hình công ty, một mô
hình tổ chức kinh doanh trong nền kinh tế thị trường như các loại hình tổ chức
kinh doanh khác.
– Công ty TNHH là một pháp nhân – một thực thể pháp lý trừu tượng và
độc lập (trong tiếng Anh gọi là artificial legal person hay Separate legal
entity). Công ty độc lập và tách bạch hoàn toàn với các chủ thể đã tạo lập ra
nó và đưa tài sản taọ lập nên tài sản của nó về mặt pháp luật.
– Thành viên công ty không nhiều, thường bị giới hạn ở mức tối đa và
thường là những người quen biết nhau. Các nhà làm luật thường không chấp
nhận mô hình công ty này có số lượng thành viên quá lớn. Bên cạnh đó, các
10
thành viên của mô hình công ty này thường có mối quan hệ với nhau về nhân
thân: có thể là người trong dòng họ, gia đình hay bạn bè, thân thiết ở mức độ
có thể tin cậy và chia sẻ. Tính chất của các mối quan hệ này gần giống như
của công ty đối nhân (mà điển hình là các hơp danh – partnership).
– Bản chất của loại công ty này mang tính đóng chứ không mở như công
ty cổ phần. Đặc tính này có liên quan chặt chẽ đến việc huy động vốn từ công
chúng của loại công ty này trong sự so sánh với công ty cổ phần. Các loại
công ty này thường không được quyền huy động vốn từ công chúng thông
qua phát hành chứng khoán ra công chúng một cách công khai. Tuy nhiên,
vấn đề cụ thể của việc phát hành chứng khoán có khác nhau ở các quốc gia.
Có quốc gia cấm công ty TNHH phát hành mọi loại chứng khoán, có quốc gia
cho phép nó phát hành giấy nhận nợ – trái phiếu (debenture) để vay vốn từ
bên ngoài… Tuy nhiên, tất cả các nước đều không cho nó phát hành cổ phiếu
(Shares) để huy động vốn từ công chúng vì nếu cho phép nó phát hành cổ
phiếu vì nếu cho phép nó phát hành cổ phiếu,khi đó nó sẽ trở thành công ty cổ
phần. Dù khả năng huy động vốn từ công chúng đến đâu, tất cả đều không thể
làm thay đổi tư cách và số lượng thành viên bằng việc phát hành chứng
khoán. Về cơ bản, chứng khoán có hai loại: các chứng chỉ đầu tư ở dạng cổ
phiếu để trở thành cổ đông công ty và loại thứ hai là các trái phiếu ghi nợ, ai
là chủ sở hữu thì họ là chủ nợ của công ty. Tính khép kín, tính đóng của loại
công ty này không cho phép nó phát hành cổ phiếu vì phát hành cổ phiếu là
huy động thêm vốn điều lệ, người mua nó sẽ trở thành chủ sở hữu, trở thành
thành viên của công ty.
– Khả năng thay đổi thành viên của loại hình công ty này khó khăn hơn
so với công ty cổ phần. Nếu các cổ đông trong công ty cổ phần có thể chuyển
nhượng cổ phần một cách dễ dàng thì điều đó lại bị hạn chế hơn trong công ty
TNHH. Như đã phân tích, công ty TNHH là mô hình công ty “nằm giữa”
công ty cổ phần và công ty đối nhân, các thành viên công ty thường là những
người quen biết, tin cậy nhau, vì vậy nếu các thành viên được tự do chuyển
nhượng phần vốn góp cho người khác thì sẽ có khả năng công ty sẽ tiếp nhận
những thành viên mới hoàn toàn xa lạ, không quen biết. Vì thế, thông thường
11
điều lệ của công ty TNHH có các quy định mang tính hạn chế việc tự do
chuyển nhượng vốn cho người bên ngoài. Chẳng hạn như việc chuyển
nhượng vốn ra bên ngoài phải được ¾ thành viên đồng ý, hay thành viên
muốn chuyển nhượng phải ưu tiên chào bán phần vốn của mình cho các thành
viên công ty, nếu các thành viên còn lại không mua hoặc mua không hết, lúc
đó mới có thẻ bán cho ngươi bên ngoài. Đây cũng là đặc điểm thể hiện tính
khép kín của loại hình công ty này. Tuy nhiên, xu hướng pháp luật thế giới và
Việt Nam hiện nay có sự thay đổi theo hướng dễ dàng hơn đối với việc
chuyển nhượng vốn góp của các thành viên công ty TNHH. Pháp luật của
nhiều nước theo truyền thống Common Law như Anh, Australia để việc xác
định điều kiện chuyển nhượng cho các thành viên công ty thông qua bản điều
lệ của họ
-Hoạt động kinh doanh dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn
đem lại cho nhà đầu tư nhiều lợi thế như: do có tư cách pháp nhân nên các
thành viên công ty chỉ trách nhiệm về các hoạt động của công ty trong phạm
vi số vốn góp vào công ty nên ít gây rủi ro cho người góp vốn; số lượng thành
viên công ty trách nhiệm không nhiều và các thành viên thường là người quen
biết, tin cậy nhau, nên việc quản lý, điều hành công ty không quá phức tạp;
Chế độ chuyển nhượng vốn được điều chỉnh chặt chẽ nên nhà đầu tư dễ dàng
kiểm soát được việc thay đổi các thành viên, hạn chế sự thâm nhập của người
lạ vào công ty.
- Tuy nhiên, hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn cũng có những hạn
chế nhất định như:do chế độ trách nhiệm hữu hạn nên uy tín của công ty trước
đối tác, bạn hàng cũng phần nào bị ảnh hưởng; công ty trách nhiệm hữu hạn
chịu sự điều chỉnh chặt chẽ của pháp luật hơn là doanh nghiệp tư nhân hay
công ty hợp danh; việc huy động vốn của công ty trách nhiệm hữu hạn bị hạn
chế do không có quyền phát hành cổ phiếu
12
1.2 Khái quát chung về vốn lưu động của doanh nghiệp:
1.2.1 Khái niệm về vốn lưu động
Mỗi một doanh nghiệp muốn tiến hành sản xuất kinh doanh ngoài tài sản
cố định (TSCĐ) còn phải có các tài sản lưu động (TSLĐ) tuỳ theo loại hình
doanh nghiệp mà cơ cấu của TSLĐ khác nhau. Tuy nhiên đối với doanh nghiệp
sản xuất TSLĐ được cấu thành bởi hai bộ phận là TSLĐ sản xuất và tài sản lưu
thông.
- TSLĐ sản xuất bao gồm những tài sản ở khâu dự trữ sản xuất như
nguyên vật liệu chính, nguyên vật liệu phụ, nhiên liệu và tài sản ở khâu sản
xuất như bán thành phẩm, sản phẩm dở dang, chi phí chờ phân bổ
- Tài sản lưu thông của doanh nghiệp bao gồm sản phẩm hàng hóa chưa
được tiêu thụ ( hàng tồn kho ), vốn bằng tiền và các khoản phải thu.
Để đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh được tiến hành thường
xuyên, liên tục đòi hỏi doanh nghiệp phải có một lượng TSLĐ nhất định. Do
vậy, để hình thành nên TSLĐ, doanh nghiệp phải ứng ra một số vốn đầu tư
vào loại tài sản này, số vốn đó được gọi là vốn lưu động.
Tóm lại, vốn lưu động của doanh nghiệp là số vốn ứng ra để hình thành
nên TSLĐ nhằm đảm bảo cho quá trình kinh doanh của doanh nghiệp được
thực hiện thường xuyên, liên tục. Vốn lưu động chuyển toàn bộ giá trị của
chúng vào lưu thông và từ trong lưu thông toàn bộ giá trị của chúng được
hoàn lại một lần sau một chu kỳ kinh doanh.
1.2.2 Các đặc trưng cơ bản về vốn lưu động :
Vốn lưu động hoàn thành một vòng tuần hoàn sau một chu kỳ sản xuất.
Trong quá trình đó, vốn lưu động chuyển toàn bộ, một lần giá trị vào giá trị
sản phẩm, khi kết thúc quá trình sản xuất, giá trị hàng hóa được thực hiện và
vốn lưu động được thu hồi.
Trong quá trình sản xuất, vốn lưu động được chuyển qua nhiều hình thái
khác nhau qua từng giai đoạn. Các giai đoạn của vòng tuần hoàn đó luôn đan
xen với nhau mà không tách biệt riêng rẽ. Vì vậy trong quá trình sản xuất
13
kinh doanh, quản lý vốn lưu động có một vai trò quan trọng. Việc quản lý vốn
lưu động đòi hỏi phải thường xuyên nắm sát tình hình luân chuyển vốn, kịp
thời khắc phục những ách tắc sản xuất, đảm bảo đồng vốn được lưu chuyển
liên tục và nhịp nhàng.
Trong cơ chế tự chủ và tự chịu trách về nhiệm tài chính, sự vận động của
vốn lưu động được gắn chặt với lợi ích của doanh nghiệp và người lao động.
Vòng quay của vốn càng được quay nhanh thì doanh thu càng cao và càng tiết
kiệm được vốn, giảm chi phí sử dụng vốn một cách hợp lý làm tăng thu nhập
của doanh nghiệp, doanh nghiệp có điều kiện tích tụ vốn để mở rộng sản xuất,
không ngừng cải thiện đời sống của công nhân viên chức của doanh nghiệp
1.2.3 Nguồn hình thành vốn lưu động của doanh nghiệp
Mỗi doanh nghiệp sản xuất kinh doanh có hiệu quả đều phải tổ chức tốt
nguồn vốn lưu động, đáp ứng đầy đủ nhu cầu VLĐ của doanh nghiệp. Để
thực hiện vấn đề này doanh nghiệp cần dựa vào các căn cứ khác nhau phân
loại chia nguồn VLĐ thành các bộ phận khác nhau qua đó thấy rõ tính chất
mức độ ảnh hưởng của từng bộ phận giúp cho doanh nghiệp khai thác tốt
nguồn VLĐ.
• Căn cứ vào nguồn vốn hình thành VLĐ được chia thành các loại như:
- Nguồn vốn điều lệ: là số vốn điều lệ ban đầu khi thành lập hoặc được
bổ sung vốn điều lệ trong quá trình hoạt động. Vốn điều lệ của doanh nghiệp
không nhỏ hơn vốn pháp định quy định cho từng loại hình doanh nghiệp.
- Nguồn vốn tự bổ sung: là nguồn vốn do doanh nghiệp tự bổ sung trong
quá trình họat động sản xuất kinh doanh từ lợi nhuận của doanh nghiệp được
tái đầu tư.
- Nguồn vốn liên doanh, liên kết: là số vốn lưu động được hình thành từ
vốn góp liên doanh của các bên tham gia liên doanh liên kết. Vốn góp liên
doanh có thể là tiền, hiện vật, vật tư, hàng hóa.
- Vốn đi vay: vốn đi vay của các ngân hàng thương mại , tổ chức tín
dụng, vay thông qua phát hành trái phiếu, thương phiếu của tổ chức cá nhân.
14
Đây là một nguồn vốn quan trọng đáp ứng nhu cầu vốn lưu động thường
xuyên cần thiết trong kinh doanh. Nhất là việc phát hành trái phiếu cho phép
doanh nghiệp thu hút rộng rãi số tiền nhàn rỗi trong dân cư để mở rộng hoạt
động sản xuất của mình.
• Nếu căn cứ vào thời gian huy động vốn có thể chia nguồn vốn lưu động
ra 2 bộ phận: nguồn vốn lưu động thường xuyên và nguồn vốn lưu động tạm
thời.
- Nguồn vốn lưu động thường xuyên là tổng thể các nguồn vốn có tính
chất ổn định và dài hạn mà doanh nghiệp có thể sử dụng để hình thành nên tài
sản lưu tạm thời. Công thức xác định như sau:
Nguồn VLĐ = Nguồn vốn thường _ Giá trị còn lại
thường xuyên xuyên của DN của TSLĐ
Nguồn thường = Nguồn vốn chủ + Nợ dài hạn
xuyên của DN sở hữu
Giá trị còn lại = Nguyên giá _ Số khấu hao lũy kế
TSCĐ TSCĐ
Hoặc : Nguồn VLĐ thường xuyên = TSCĐ - Nợ ngắn hạn
Như vậy, nguồn VLĐ thường xuyên của doanh nghiệp ổn định có tính
vững chắc. Nguồn vốn này cho phép doanh nghiệp cung cấp đầu tư kịp thời
VLĐ thường xuyên cho hoạt động sản xuất kinh doanh bình thường liên tục.
Trong quá trình hoạt động kinh doanh nhu cầu VLĐ của từng thời kì có thể lớn
hơn hoặc nhỏ hơn cung ứng của nguồn vốn lưu động và sử dụng nguồn vốn lưu
động tạm thời trong trường hợp thiếu vốn, đầu tư hợp lý vốn thừa nếu có.
Qua phân tích trên ta có thể xác định nguồn VLĐ của doanh nghiệp:
Nguồn VLĐ = Nguồn VLĐ thường xuyên + Nguồn VLĐ tạm thời
15
Như vậy doanh nghiệp căn cứ vào nhu cầu VLĐ trong từng khâu, khả
năng cung ứng VLĐ của nguồn vốn chủ sở hữu để tổ chức khai thác và sử
dụng các khoản nợ dài hạn, nợ ngắn hạn hợp lý đáp ứng nhu cầu VLĐ giúp
DN sản xuất kinh doanh có hiệu quả.
1.2.4 Thành phần của vốn lưu động
Dựa theo tiêu thức khác nhau, có thể chia vốn lưu động thành các loại
khác nhau. Thông thường có một số cách phân loại sau:
* Dựa theo hình thái biểu hiện của vốn có thể chia vốn lưu động thành
các loại:
- Vốn bằng tiền và các khoản phải thu:
+ Vốn bằng tiền: Tiền mặt tại quỹ, tiền gửi ngân hàng, tiền đang
chuyển. Tiền là một loại tài sản của doanh nghiệp mà có thể dễ dàng chuyển
đổi thành các loại tài sản khác hoặc để trả nợ. Do vậy, trong hoạt động kinh
doanh đòi hỏi mỗi doanh nghiệp phải có một lượng tiền nhất định.
+ Các khoản phải thu: Chủ yếu là các khoản phải thu từ khách hàng,
thể hiện số tiền mà khách hàng nợ doanh nghiệp phát sinh trong quá trình bán
hàng hóa, dịch vụ dưới hình thức bán trước trả sau.
- Vốn vật tư, hàng hóa: Bao gồm 3 loại gọi chung là hàng tồn kho
+ Nguyên liệu, vật liệu, công cụ và dụng cụ.
+ Sản phẩm dở dang
+ Thành phẩm
Việc phân loại vốn lưu động theo cách này tạo điều kiện thuận lợi cho
việc xem xét, đánh giá khả năng thanh toán của doanh nghiệp.
* Dựa theo vai trò của vốn lưu động đối với quá trình sản xuất kinh
doanh có thể chia vốn lưu động thành các loại chủ yếu sau:
- Vốn lưu động trong khâu dự trữ sản xuất, gồm các khoản:
+ Vốn nguyên liệu, vật liệu chính
+ Vốn phụ tùng thay thế
16
+ Vốn công cụ, dụng cụ
+ Vốn vật liệu phụ
+ Vốn nhiên liệu
- Vốn lưu động trong khâu sản xuất:
+ Vốn sản phẩm dở dang
+ Vốn về chi phí trả trước
- Vốn lưu động trong khâu lưu thông
+ Vốn thành phẩm
+ Vốn bằng tiền
+ Vốn đầu tư ngắn hạn về chứng khoán và các loại khác
+ Vốn trong thanh toán: những khoản phải thu và tạm ứng
* Theo nguồn hình thành
- Nguồn vốn pháp định: Nguồn vốn này có thể do Nhà nước cấp, do xã
viên, cổ đông đóng góp hoặc do chủ doanh nghiệp tự bỏ ra
- Nguồn vốn tự bổ sung: Đây là nguồn vốn doanh nghiệp tự bổ sung
chủ yếu một phần lấy từ lợi nhuận để lại
- Nguồn vốn liên doanh, liên kết
- Nguồn vốn huy động thông qua phát hành cổ phiếu
- Nguồn vốn đi vay
Đây là nguồn vốn quan trọng mà doanh nghiệp có thể sử dụng để đáp ứng
nhu cầu về vốn lưu động thường xuyên trong kinh doanh. Tuỳ theo điều kiện
cụ thể mà doanh nghiệp có thể vay vốn của ngân hàng các tổ chức tín dụng
khác hoặc có thể vay vốn của tư nhân các đơn vị tổ chức trong và ngoài nước.
1.2.5 Vai trò của vốn lưu động
Để tiến hành sản xuất, ngoài TSCĐ như máy móc, thiết bị, nhà xưởng
doanh nghiệp phải bỏ ra một lượng tiền nhất định để mua sắm hàng hóa,
nguyên vật liệu phục vụ cho quá trình sản xuất. Như vậy vốn lưu động là
17
điều kiện đầu tiên để doanh nghiệp đi vào hoạt động hay nói cách khác vốn
lưu động là điều kiện tiên quyết của quá trình sản xuất kinh doanh.
Ngoài ra vốn lưu động còn đảm bảo cho quá trình tái sản xuất của doanh
nghiệp được tiến hành thường xuyên, liên tục. Vốn lưu động còn là công cụ
phản ánh đánh giá quá trình mua sắm, dự trữ, sản xuất, tiêu thụ của doanh
nghiệp.
Vốn lưu động còn có khả năng quyết định đến quy mô hoạt động của
doanh nghiệp. Trong nền kinh tế thị trường doanh nghiệp hoàn toàn tự chủ
trong việc sử dụng vốn nên khi muốn mở rộng quy mô của doanh nghiệp phải
huy động một lượng vốn nhất định để đầu tư ít nhất là đủ để dự trữ vật tư
hàng hóa. Vốn lưu động còn giúp cho doanh nghiệp chớp được thời cơ kinh
doanh và tạo lợi thế cạnh tranh cho doanh nghiệp.
Vốn lưu động còn là bộ phận chủ yếu cấu thành nên giá thành sản phẩm
do đặc điểm luân chuyển toàn bộ một lần vào giá trị sản phẩm. Giá trị của
hàng hóa bán ra được tính toán trên cơ sở bù đắp được giá thành sản phẩm
cộng thêm một phần lợi nhuận. Do đó, vốn lưu động đóng vai trò quyết định
trong việc tính giá cả hàng hóa bán ra.
1.3 Hiệu quả sử dụng vốn lưu động
1.3.1 Khái niệm hiệu quả sử dụng vốn lưu động
Điểm xuất phát để tiến hành sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp
là phải có một lượng vốn nhất định và nguồn tài trợ tương ứng. Có “dầy vốn”
và “trường vốn” là tiền đề rất tốt để sản xuất kinh doanh song việc sử dụng
đồng vốn đó như thế nào cho có hiệu quả mới là nhân tố quyết định cho sự
tăng trưởng và phát triển của mỗi doanh nghiệp
- Các khái niệm hiệu quả sử dụng vốn lưu động
+ Hiệu quả sử dụng vốn lưu động là kết quả thu được sau khi đẩy nhanh
tốc độ luân chuyển vốn lưu động qua các giai đoạn của quá trình sản xuất.
Tốc độ này càng cao chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn lưu động càng lớn và
ngược lại.
18
+ Hiệu quả sử dụng vốn lưu động là kết quả đem lại cao nhất khi mà số
vốn lưu động cần cho một đồng luân chuyển là ít nhất. Quan niệm này thiên
về chiều hướng càng tiết kiệm được bao nhiêu vốn lưu động cho một đồng
luân chuyển thì càng tốt. Nhưng nếu hàng hóa sản xuất ra không tiêu thụ được
thì hiệu quả sử dụng đồng vốn cũng không cao.
+ Hiệu quả sử dụng vốn lưu động là thời gian ngắn nhất để vốn lưu
động quay được một vòng. Quan niệm này có thể nói là hệ quả của quan
niệm trên.
+ Hiệu quả sử dụng vốn lưu động là kết quả phản ánh tổng TSLĐ so với
tổng nợ lưu động là cao nhất.
+ Hiệu quả sử dụng vốn lưu động là kết quả phản ánh số lợi nhuận thu
được khi bỏ ra một đồng vốn lưu động.
+ Hiệu quả sử dụng vốn lưu động là hiệu quả thu được khi đầu tư thêm
vốn lưu động một cách hợp lý nhằm mở rộng quy mô sản xuất để tăng doanh
số tiêu thụ với yêu cầu đảm bảo tốc độ tăng lợi nhuận phải lớn hơn tốc độ
tăng vốn lưu động.
Như đã nói ở trên để tiến hành bất cứ hoạt động sản xuất kinh doanh nào
điều kiện không thể thiếu là vốn. Khi đã có đồng vốn trong tay thì một câu
hỏi nữa đặt ra là ta phải sử dụng đồng vốn đó như thế nào để vốn đó sinh lời,
vốn phải sinh lời là nhân tố quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh
nghiệp. Lợi ích kinh doanh đòi hỏi doanh nghiệp phải quản lý, sử dụng hợp
lý, có hiệu quả đồng vốn, tiết kiệm được vốn tăng tích lũy để thực hiện tái sản
xuất và mở rộng quy mô sản xuất ngày càng lớn hơn.
Hiệu quả sử dụng vốn lưu động là một trong những chỉ tiêu tổng hợp
dùng để đánh giá chất lượng công tác quản lý và sử dụng vốn kinh doanh nói
chung của doanh nghiệp. Thông qua chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn
lưu động cho phép các nhà quản lý tài chính doanh nghiệp có một cái nhìn
chính xác, toàn diện về tình hình quản lý và sử dụng vốn lưu động của đơn vị
mình từ đó đề ra các biện pháp, các chính sách các quyết định đúng đắn, phù
19
hợp để việc quản lý và sử dụng đồng vốn nói chung và VLĐ nói riêng ngày
càng có hiệu quả trong tương lai.
Suy cho cùng việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động là nhằm vào
việc nâng cao lợi nhuận. Có lợi nhuận chúng ta mới có tích luỹ để tái sản xuất
ngày càng mở rộng.
1.3.2 Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động
Việc sử dụng hợp lý vốn lưu động biểu hiện ở chỗ tăng tốc độ luân
chuyển vốn lưu động, tốc độ nhanh hay chậm phụ thuộc vào hiệu suất sử
dụng vốn lưu động cao hay thấp. Thông qua tốc độ luân chuyển vốn lưu động
nhanh hay chậm sẽ cho ta biết tình hình tổ chức mua sắm, dự trữ, sản xuất
tiêu thụ của doanh nghiệp có hợp lý hay không. Tương tự như vốn cố định
việc đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động có thể thông qua tài sản lưu
động. Sau đây là một số chỉ tiêu có thể giúp doanh nghiệp sử dụng tiết kiệm,
có hiệu quả vốn lưu động.
a. Vòng quay hàng tồn kho: phản ánh số lần trung bình hàng tồn kho luân
chuyển bình quân trong một kỳ và được xác định bằng:
Giá vốn hàng bán
Vòng quay hàng tồn kho = (vòng)
Hàng tồn kho bình quân
b. Số ngày một vòng quay hàng tồn kho: thể hiện khoảng thời gian kể từ khi
doanh nghiệp bỏ tiền mua nguyên vật liệu cho sản xuất đến khi hoàn thành
sản phẩm kể cả thời gian lưu kho là bao nhiêu ngày.
Số ngày một vòng quay
hàng tồn kho
c. Kì thu tiền trung bình : cho biết số ngày cần thiết để chuyển khoản phải
thu thành tiền.
Số ngày trong kỳ phân tích
Kì thu tiền bình quân =
Vòng quay khoản phải thu
20
=
( Hàng tồn kho BQ)x(Số ngày trong kỳ PT)
Giá vốn hàng bán
Doanh thu thuần trong kì
Trong đó :
Các khoản phải thu bình quân
d. Vòng quay vốn lưu động: cho biết mỗi đơn vị vốn lưu động sử dụng
trong kì đem lại bao nhiêu đơn vị doanh thu thuần trong kì, chỉ tiêu này càng
lớn chứng tỏ hiệu suất sử dụng vốn lưu động càng cao.
Doanh thu thuần trong kì
Vòng quay vốn lưu động =
Vốn lưu động bình quân trong kì
Vốn lưu động bình quân trong kì là bình quân số học của tổng vốn lưu
động có ở đầu và cuối kì.
e. Hiệu quả sử dụng vốn lưu động: phản ánh khả năng sinh lợi của vốn lưu
động, cho biết mỗi đồng vốn lưu động có trong kì đem lại bao nhiêu đơn vị
lợi nhuận sau thuế.
Lợi nhuận sau thuế
Hiệu quả sử dụng vốn =
Vốn lưu động bình quân trong kì
f. Mức đảm nhiệm vốn lưu động: cho biết để đạt được mỗi đơn vị doanh
thu, doanh nghiệp phải sử dụng bao nhiêu phần trăm vốn lưu động. Chỉ tiêu
này càng thấp hiệu quả kinh tế càng cao
Vốn lưu động bình quân trong kì
Mức đảm nhiệm vốn lưu động =
Doanh thu thuần
1.3.3 Các phương pháp đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động
Dù sử dụng phương pháp đánh giá nào chúng ta đều cần phải có một
lượng thông tin cần thiết gồm :
21
Vòng quay các
khoản phải thu
=
- Thông tin nội bộ bao gồm: các báo cáo tài chính, báo cáo thực hiện kế
hoạch, các tài liệu về định mức.
- Thông tin bên ngoài doanh nghiệp: các tài liệu về thống kê tình hình sử
dụng vốn, các chính sách quản lý tài chính, số liệu về đầu tư của các doanh
nghiệp khác.
Các phương pháp chủ yếu thường được sử dụng trong phân tích là
phương pháp so sánh, phương pháp tỷ lệ, phương pháp Dupont, phương pháp
loại trừ, phương pháp đồ thị, biểu đồ, phương pháp toán học…. Hai phương
pháp được sử dụng nhiều nhất là:
- Phương pháp so sánh: Phương pháp này nhằm mục đích đánh giá tình
hình thực hiện nhiệm vụ kế hoạch mà doanh nghiệp đặt ra, tốc độ xu hướng
phát triển của hiện tượng và kết quả kinh tế, đồng thời đánh giá mức độ tiên
tiến hay lạc hậu của các doanh nghiệp trong cùng lĩnh vực hoạt động
- Phương pháp Dupont: Bản chất của phương pháp này là tách một chỉ
tiêu kinh tế tổng hợp thành tích của chuỗi các tỷ số có mối liên hệ nhân
quả với nhau. Điều này cho phép phân tích những ảnh hưởng của các tỷ số
thành phần đối với tỷ số tổng hợp. Với phương pháp này, nhà phân tích có
thể tìm được những nhân tố, những nguyên nhân dẫn đến hiện tượng tốt,
xấu trong mỗi hoạt động cụ thể của doanh nghiệp, từ đó thấy được mặt
mạnh, điểm yếu trong các hoạt động của doanh nghiệp.
1.3.4 Các biện pháp chủ yếu thường được sử dụng nhằm bảo toàn và nâng
cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động trong các doanh nghiệp
- Xác định đúng đắn nhu cầu vốn lưu động thường xuyên cần thiết cho
hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Từ đó đề ra kế hoạch tổ
chức huy động vốn nhằm đáp ứng nhu cầu đó, tránh tình trạng thiếu vốn gây
gián đoạn cho sản xuất. Nếu thừa vốn cần có biện pháp xử lý linh hoạt như
đầu tư mở rộng hay cho vay để không làm ứ đọng vốn. Phải khai thác triệt để
nguồn vốn bên trong doanh nghiệp đồng thời lựa chọn nguồn trang trải bên
ngoài cho hợp lý góp phần giảm chi phí sử dụng vốn tới mức thấp nhất, tăng
lợi nhuận cho doanh nghiệp.
22