Tải bản đầy đủ (.doc) (64 trang)

Hoàn thiện hoạt động phân tích tài chính ở Ngân hàng TMCP Quốc Tế VIBBank

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1020.37 KB, 64 trang )

MỤC LỤC
CHƯƠNG 1 1
TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH 1
CỦA MỘT NGÂN HÀNG 1
1.1 Tổng quan về hoạt động phân tích tài chính của một doanh nghiệp 1
1.1.1 Khái niệm phân tích tài chính doanh nghiệp 1
1.2.2 Phân tích tài chính là một công cụ để ngân hàng đánh giá lại chiến lược kinh
doanh của mình và đề ra chiến lược kinh doanh mới 3
1.2.3 Phân tích tài chính là một công cụ để ngân hàng thương mại soi rọi lại mình,
tìm được các mặt mạnh cần phát huy và những mặt yếu cần củng cố, xây dựng lại
của ngân hàng 4
1.2.4 Phân tích tài chính là một công cụ để kiểm soát sự đúng đắn của các hoạt động
kế toán, thống kê của NHTM 5
1.2.5 Phân tích tài chính là công cụ để đánh giá tính chất lành mạnh hoặc yếu kém
của một Ngân hàng thương mại 5
1.3 Đặc trưng cơ bản của phân tích tài chính của NHTM so với phân tích tài chính của
doanh nghiệp phi ngân hàng 6
1.3.1 Nhóm chỉ tiêu về khả năng thanh khoản 6
1.3.2 Nhóm chỉ tiêu về khả năng sinh lời 7
1.3.3 Nhóm chỉ tiêu về khả năng hoạt động 9
1.3.4 Nhóm chỉ tiêu đánh giá cơ cấu vốn 9
1.3.5 Nhóm chỉ tiêu về thị trường 11
1.4 Phương pháp sử dụng các chỉ tiêu tài chính trong hoạt động phân tích tài chính của Ngân
hàng 11
1.4.1 Loại bỏ các yếu tố bất thường ra khỏi số liệu 11
1.4.2 Phương pháp phân tích 12
1.4.3 Phương pháp phân tích Dupont 13
1.5 Đánh giá ngân hàng theo mô hình SWOT 13
1.6 Các nhân tố ảnh hưởng đến phân tích tài chính ở ngân hàng thương mại: 16
1.6.1 Các số liệu phục vụ phân tích 16
1.6.2 Chính sách của Nhà nước và chính phủ 16


1.6.3 Sự quan tâm của ban lãnh đạo ngân hàng với việc phân tích tài chính 17
1.6.4 Trình độ của đội ngũ cán bộ phân tích tài chính 17
CHƯƠNG 2 18
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH 18
Ở NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN ĐẠI Á 18
2.1 Giới thiệu về Ngân hàng TMCP Đại Á 18
2.2.1 Bộ phận phân tích tài chính và nguồn số liệu phục vụ phân tích 20
2.2.2 Quá trình phân tích tài chính của Ngân hàng Đại Á trong năm 20012 21
Bảng 2.1: Một số chỉ số kinh tế cơ bản năm 2012 23
Bảng 2.2. Một số chỉ tiêu chủ yếu của ngành ngân hàng đến 30/11/2012 25
Bảng 2.3. Một số chỉ tiêu tài chính lịch sử từ 2010 đến 2012 26
Bảng 2.4. Một số chỉ tiêu tài chính cơ bản 29
Biểu đồ 2.2. Cơ cấu dư nợ theo kì hạn 31
Biểu đồ 2.3. Cơ cấu dư nợ theo loại tiền 32
Biểu đồ 2.4. Cơ cấu huy động theo kì hạn 33
I
Bảng 2.5. Phân tích thu thuần 2012 so với 2011 35
Bảng 2.6. Phân tích chi phí 2012 so với 2011 36
2.3 Nhận xét về hoạt động phân tích tài chính của Ngân hàng Đại Á 37
2.3.1 Ưu điểm 37
2.3.2 Những mặt còn hạn chế 38
2.3.3 Nguyên nhân 39
CHƯƠNG 3 41
HOÀN THIỆN HOẠT ĐỘNG PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH 41
Ở NGÂN HÀNG TMCP ĐẠI Á 41
3.1 Định hướng hoạt động của DaiAbank 41
3.2 Hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu phân tích tài chính 42
Bảng 3.1. Các chỉ tiêu tài chính đánh giá kết quả kinh doanh trong 3 năm từ 2010 đến 201244
Bảng 3.2. So sánh tổng tài sản của một số ngân hàng 45
Bảng 3.3. Lợi nhuận của một số ngân hàng 46

3.3 Sử dụng phương pháp phân tích tài chính dupont để phân tích sâu hơn về ROA và ROE
trong năm 2012 và 2011: 47
Biểu đồ 3.4. Phân tích ROA và ROE theo phương pháp Dupont 48
3.4 Sử dụng mô hình SWOT đánh giá Ngân hàng Quốc Tế 50
3.5 Xây dựng quá trình phân tích, đánh giá rủi ro tài chính: 51
3.6 Hoàn thiện hệ thống báo cáo phân tích: 56
3.7 Nâng cấp phần mềm tài chính để đảm bảo nhu cầu cho hoạt động tài chính nói chung và
hoạt động phân tích nói riêng 56
3.8 Đào tạo và tuyển dụng nhân sự cho bộ phận phân tích tài chính để làm việc một cách
chuyên nghiệp 57
KẾT LUẬN 1
TÀI LIỆU THAM KHẢO 2
Tiếng Viêt 2
II
LỜI MỞ ĐẦU
Năm 2007 được đánh giá là năm mà ngành ngân hàng Việt Nam có những phát
triển ấn tượng và có nhiều thay đổi lớn. Trong khi các Ngân hàng thương mại Quốc
doanh đang trong quá trình cổ phần hoá thì các Ngân hàng thương mại cổ phần đua
nhau tăng trưởng về vốn và quy mô hoạt động. Sự xuất hiện của các Ngân hàng mới
và những cam kết trong WTO về nới lỏng hạn chế với ngân hàng nước ngoài khiến
môi trường cạnh tranh giữa các ngân hàng ngày càng trở nên gay gắt. Cạnh tranh
gay gắt như vậy bắt buộc các nhà quản trị ngân hàng phải có được cái nhìn đầy đủ
về kết quả kinh doanh cũng như vị trí của ngân hàng mình để từ đó đưa ra các giải
pháp, chiến lược lâu dài. Việc soạn ra các báo cáo phân tích tài chính, hỗ trợ các nhà
quản trị là không thể thiếu ở mỗi ngân hàng. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, các
báo cáo phân tích tài chính phải được làm một cách đầy đủ, chi tiết và chuyên
nghiệp mới có thể đáp ứng được nhu cầu của những nhà quản trị ngân hàng. Vì vậy,
việc nghiên cứu và đặt ra những giải pháp cụ thể để phát triển hoạt động phân tích
tài chính ở các ngân hàng là rất cần thiết trong giai đoạn hiện nay.
Nhận thức được vấn đề trên và có cơ hội được thực tập ở phòng Quản lý Tài

chính - kế toán của Ngân hàng Quốc Tế Việt Nam - VIBBank, em đã chọn đề tài
“Hoàn thiện hoạt động phân tích tài chính ở Ngân hàng TMCP Quốc Tế Việt Nam”
Mục tiêu của bài viết là nêu ra thực trạng hoạt động phân tích tài chính ở
Ngân hàng TMCP Quốc Tế Việt Nam, đưa ra những giải pháp hoàn thiện, đồng
thời áp dụng thử nghiệm một số giải pháp.
Phương pháp nghiên cứu là tổng hợp và phân tích, đồng thời kết hợp thử
nghiệm và đưa ra nhận xét.
Do phạm vi giới hạn của chuyên đề thực tập nên bài viết chi phân tích chi
tiết đến việc đánh giá kết quả kinh doanh mà chưa phân tích cụ thể rủi ro trong các
hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Việc đề cập đến đánh giá, phân tích các rủi
ro chỉ mang tính giới thiệu để làm định hướng phát triển bài viết sau này.Bài viết
được kết cấu thành 3 chương
Chương 1: Tổng quan về hoạt động phân tích tài chính của một ngân
hàng.
Chương 2: Thực trạng hoạt động phân tích tài chính ở Ngân hàng
Thương Mại Cổ Phần Quốc Tế VIBBank
Chương 3: Hoàn thiện hoạt động phân tích tài chính ở Ngân hàng TMCP
Quốc Tế VIBBank.
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH
CỦA MỘT NGÂN HÀNG
1.1 Tổng quan về hoạt động phân tích tài chính của
một doanh nghiệp
1.1.1 Khái niệm phân tích tài chính doanh nghiệp.
Phân tích tài chính là sử dụng một tập hợp các khái niệm, phương pháp
và công cụ để thu thập và xử lý các thông tin kế toán và các thông tin khác
trong quản lý doanh nghiệp, nhằm đánh giá tình hình tài chính, khả năng và
tiềm lực của doanh nghiệp, giúp người sử dụng thông tin đưa ra các quyết
định tài chính, quyết định quản lý phù hợp.
Phân tích hoạt động tài chính doanh nghiệp có trọng tâm là phân tích

các báo cáo tài chính và các chỉ tiêu đặc trưng tài chính thông qua một hệ
thống các phương pháp, công cụ và kỹ thuật phân tích, giúp người sử dụng
thông tin từ các góc độ khác nhau, vừa đánh giá toàn diện, tổng hợp, khái
quát, lại vừa xem xét một cách chi tiết hoạt động tài chính doanh nghiệp, để
nhận biết, phán đoán, dự báo và đưa ra quyết định tài chính, quyết định tài trợ
và đầu tư phù hợp.1.1.2 Các bước tiến hành phân tích tài chính.
Bước 1: Thu thập thông tin:
Nhà phân tích tài chính sử dụng mọi nguồn thông tin có khả năng lý
giải và thuyết minh thực trạng hoạt động tài chính của doanh nghiệp, phục
vụ cho quá trình dự đoán tài chính. Những thông tin ấy bao gồm cả những
thông tin nội bộ và thông tin bên ngoài, những thông tin kế toán và thông tin
quản lý… Trong đó các thông tin kế toán phản ánh tập trung trong các báo
cáo tài chính doanhnghiệlà những thông tin đặc biệt quan trọng. Do vậy,
1
phân tích tài chính doanh nghiệp trên thực tế chủ yếu là phân tích các báo
cáo tài chính doanh nghiệp.
Bước 2: Xử lý thông tin:
Trong bước này, tuỳ vào người sử dụng thông tin mà có các phương
pháp để xử lý thông tin khác nhau, phục vụ mục tiêu phân tích đặt ra. Xử lý
thông tin là quá trình tính toán, sắp xếp, so sánh thông tin theo một trình tự
nhất định nhằm giải thích, đánh giá và tìm nguyên nhân của những kết quả
nhằm phục vụ cho quá trình ra quyết định quản trị và dự báo tương lai.
Bước 3: Ra quyết định quản trị và dự báo:
Mục tiêu của phân tích tài chính là đưa ra các quyết định quản trị tài
chính. Các bước thu thập và xử lý thông tin làm tiền đề để người sử dụng
thông tin ra những quyết định tài chính. Tuỳ thuộc từng đối tượng sử dụng
thông tin mà các quyết định tài chính hướng đến những mục tiêu khác nhau:
với chủ sở hữu mục tiêu sẽ là tối đa hoá giá trị của doanh nghiệp, đối với
người cho vay thì đưa ra các quyết định tài trợ …1.2 Mục tiêu, vai trò phân
tích tài chỉnh của ngân hàng thương mạiPhân tích tài chính trong hoạt động

của NHTM là sử dụng các chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật để đánh giá kết quả hoạt
động kinh doanh của NHTM đó trong một kỳ kinh doanh nhất định mà
thông thường là một năm. Qua đó để tìm hiểu các nguyên nhân dẫn đến hoạt
động có hiệu quả hay không có hiệu quả của nó, nhằm tìm ra các giải pháp
hoàn thiện các hoạt động của NHTM được ngày càng hiệu quả hơn. Như
vậy, phân tích tài chính trong hoạt động của NHTM có những mục tiêu và
vai trò sau đây:1.2.1 Phân tích tài chính là một công cụ để đánh giá hoạt
động của NHTM.
Thông qua quá trình phân tích tài chính các NHTM có thể đánh giá được
sự thành công của NHTM trong thời gian qua. Bằng các chỉ tiêu kinh tế - kỹ
thuật như lợi nhuận, doanh thu, năng suất lao động của thời kỳ phân tích các
2
nhà quản trị có thể thấy được qui mô hoạt động, thấy được chất lượng hoạt
động của ngân hàng mình, thấy được tốc độ phát triển và tính chất bền vững
ổn định của các lĩnh vực hoạt động của ngân hàng mình trong thời gian qua.
Mục tiêu của kinh doanh ngân hàng là lợi nhuận. Sự gia tăng lợi nhuận
ngày càng cao và bền vững thể hiện hiệu quả hoạt động của ngân hàng. Tuy
nhiên hiệu quả hoạt động của ngân hàng cũng có thể được đánh giá tùy theo
từng thời kỳ chiến lược. Do vậy qua phân tích tài chính chúng ta có thể thấy
được ý đồ chiến lược của ngân hàng có thể thực hiện được hay không. Ví dụ:
Sự gia tăng doanh thu một cách đều đặn gắn liền với chiến lược mở rộng thị
trường của ngân hàng, củng cố chất lượng khách hàng, hoặc mở rộng khối
lượng khách hàng, hoặc mở rộng lĩnh vực kinh doanh của ngân hàng
1.2.2 Phân tích tài chính là một công cụ để ngân hàng đánh giá lại
chiến lược kinh doanh của mình và đề ra chiến lược kinh doanh mới.
Một chiến lược kinh doanh được hoạch định có thể là hoàn toàn đúng
đắn, có thể vẫn còn sự thiếu sót. Thông qua phân tích tài chính các NHTM sẽ
xem xét chiến lược kinh doanh của mình đề ra có được đúng đắn, phù hợp với
thực tiễn nền kinh tế không, có điểm nào sai, thiếu sót cần điều chỉnh lại.
Ví dụ: Thông qua cơ cấu lợi nhuận, hoặc cơ cấu doanh thu ngân hàng, các

ngân hàng sẽ so sánh giữa các chỉ tiêu hoạch định và chỉ tiêu thực tế để thấy
được sự sai biệt. Từ sự sai biệt này các NHTM sẽ tìm hiểu các nguyên nhân
dẫn đến sai biệt đó, thông qua đó mà xem xét lại việc hoạch định chiến lược
kinh doanh có gì sai sót hay không hay do quá trình thực hiện chưa đảm bảo.
Bất cứ một NHTM nào, để định hướng cho hoạt động kinh doanh của
mình ngân hàng đó cũng phải chủ động đề ra các lĩnh vực kinh doanh chủ yếu
của mình, các mục tiêu dài hạn, ngắn hạn mà mình cần phải đạt trong từng
thời kỳ nhất định. Và sau một quá trình hoạt động các ngân hàng đều phải
3
kiểm chứng thử lại xem mình đã thực hiện các mục tiêu đó đến đâu? Tại sao
mục tiêu đó được hoàn thành tốt đẹp hay không hoàn thành vv
Qua phân tích tài chính các NHTM sẽ còn nhận biết các lĩnh vực đầu tư
của ngân hàng chọn lựa có thích hợp với xu thế phát triển chung của nền kinh
tế không, ngân hàng có cần thay đổi dịnh hướng đầu tư không hay phải tiếp
tục phát triển theo định hướng đã chọn
Như vậy kết quả phân tích tài chính luôn luôn là cơ sở để cho Hội đồng
quản trị xem xét quyết định cho một sách lược mới hoặc một chiến lược kinh
doanh mới.
1.2.3 Phân tích tài chính là một công cụ để ngân hàng thương mại soi
rọi lại mình, tìm được các mặt mạnh cần phát huy và những mặt yếu cần
củng cố, xây dựng lại của ngân hàng.
Kết quả tài chính là tổng lượng của sự kết hợp nhiều yếu tố khác nhau
trong quản trị kinh doanh. Thông qua phân tích kết quả tài chính chúng ta có
thể đánh giá được khả năng quản trị của ngân hàng, trình độ của cán bộ, trình
độ của cơ sở vật chất công nghệ có còn thích hợp cho sự phát triển của ngân
hàng hay không, những mặt nào của ngân hàng đang phát huy tác dụng và
mặt nào đang bất cập.
Tất nhiên các chỉ tiêu kết quả tài chính chưa trực tiếp cho ta nhận biết
các điều trên, song nó sẽ nhắc nhở cho ta thấy cần phải xem xét đến những
góc cạnh nào để có thể đánh giá được các nguyên nhân đưa đến các kết quả

hiện tại.
Tóm lại để có thể rút ra những bài học kinh nghiệm từ hoạt động thực
tiễn và có những sách lược, chiến lược phù hợp với thực tiễn mọi doanh
nghiệp đều phải tiến hành đánh giá kết quả kinh doanh của mình, qua đó tìm
các biện pháp để nâng cao chất lượng kinh doanh phù hợp với thực lực chủ
quan và môi trường khách quan.
4
1.2.4 Phân tích tài chính là một công cụ để kiểm soát sự đúng đắn của
các hoạt động kế toán, thống kê của NHTM.
Các chỉ tiêu tài chính, có số liệu thể hiện trên bảng tổng kết tài sản, trên
các báo cáo cho Hội đồng quản trị, cho Ban giám đốc, cho các cơ quan ban
ngành của chính phủ của một NHTM có thể sẽ có sự sai biệt thực tế. Như vậy
để đảm bảo cho những con số đó thực sự phản ánh đúng tình trạng tài chính
của một NHTM. Số liệu phản ánh có đúng đắn thì việc sử dụng số liệu đó mới
hiệu quả, mang ý nghĩa khoa học và thực tiễn.
Thông qua phân tích tài chính, bộ phận phân tích có thể phát hiện các sai
sót của quá trình phản ảnh của hệ thống kế toán, thống kê và có biện pháp
chỉnh sửa cho phù hợp. Các cơ quan Nhà nước cũng có thể sử dụng phân tích
tài chính để phát hiện các sai sót, gian dối trong hạch toán kế toán, thống kê
của đơn vị báo cáo.
1.2.5 Phân tích tài chính là công cụ để đánh giá tính chất lành mạnh
hoặc yếu kém của một Ngân hàng thương mại.
Đây vừa là mục tiêu cao nhất vừa là vai trò của phân tích tài chính, làm
sao vạch ra được tình hình tài chính của ngân hàng thương mại hiện tại có
mạnh khỏe hay không, có gây hậu quả gì xấu cho tương lai hay không, có
đảm bảo khả năng thanh toán hay không, có gì vi phạm pháp luật hay không?
Tất nhiên số liệu phân tích sau khi đã được kiểm tra bảo đảm tính chính
xác thì các kết luận về sức khỏe tài chính của phân tích viên sẽ có giá trị thực
tiễn giúp cho NHTM kịp thời ngăn ngừa những vi phạm pháp luật, ngăn ngừa
những hậu quả xấu có thể xảy ra, hoặc để có biện pháp cải thiện sức khỏe tài

chính của ngân hàng được tốt hơn.
5
1.3 Đặc trưng cơ bản của phân tích tài chính của NHTM so với phân
tích tài chính của doanh nghiệp phi ngân hàng.
Trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng có nhiều điểm khác biệt so
với các doanh nghiệp thông thường. Cụ thể, ngân hàng khác với những doanh
nghiệp sản xuất hay dịch vụ thông thường ở chỗ nó kinh doanh một loại hàng
hoá đặc biệt, đó là “quyền sử dụng vốn tiền tệ”. Và đặc biệt, sự rủi ro của ngân
hàng dẫn đến sự rủi ro cho các cá nhân, các tổ chức gửi tiền vào ngân hàng,
đồng thời nó tác động tới toàn bộ nền kinh tế. Vì vậy những chỉ tiêu tài chính
được sử dụng trong phân tích tài chính của Ngân hàng cũng phải là hệ thống
những chỉ tiêu riêng phù hợp đánh giá các hoạt động đặc thù của Ngân hàng.
Những chỉ tiêu phân tích tài chính ngân hàng về cơ bản có thể chia thành
5 nhóm chỉ tiêu sau:
1.3.1 Nhóm chỉ tiêu về khả năng thanh khoản
Trên bảng cân đối kế toán của ngân hàng không chia ra thành: tài sản
ngắn hạn và tài sản dài hạn như ta thường thấy ở các doanh nghiệp thông
thường vì cơ cấu ngắn hạn và dài hạn của tài sản trong ngân hàng thay đổi
liên tục, dễ dàng. Vì vậy nên các chỉ tiêu về khả năng thanh khoản của ngân
hàng so với doanh nghiệp cũng có nhiều điểm khác biệt.
Các khoản vay của ngân hàng/ Tổng tài sản
Chỉ tiêu này thể hiện 1 đồng tài sản của ngân hàng hiện đang đảm bảo
thanh toán cho bao nhiêu đồng đi vay bên ngoài. Các khoản vay ở đây chủ
yếu là các khoản vay trên thị trường liên ngân hàng (tức là không kể đến các
khoản Tiền gửi), thông thường là những khoản vay ngắn hạn. Tỷ lệ này lớn
thể hiện khả năng đảm bảo thanh toán của tổng tài sản đối với khoản vay
thấp.
Ngoài ra, chỉ tiêu này còn được viết dưới cách khác là: Các khoản vay/
Tổng nguồn vốn. Chỉ tiêu này thuộc nhóm chỉ tiêu về cơ cấu vốn, thể hiện tỷ
6

trọng nguồn vốn với chi phí lớn nhất trên tổng nguồn vốn. Nếu tỷ lệ này lớn
thể hiện cơ cấu nguồn vốn ở mức chưa hợp lý và có chi phí cao.
Cho vay ròng/ Tổng TS
Cho vay ròng là các khoản cho vay đã trừ dự phòng (bao gồm cả liên
ngân hàng và cho vay Tổ chức kinh tế và cá nhân). Chỉ tiêu này thể hiện phần
tài sản có tính lỏng thấp nhất. Tỷ lệ này càng lớn thể hiện phần tài sản có thể
đảm bảo cho thanh toán càng nhỏ, khả năng thanh toán càng kém.
Tiền mặt và số dư tiền gửi tại các ngân hàng khác/ Tổng TS
Đây là chỉ tiêu thể hiện khả năng thanh toán tức thời của Ngân hàng, chỉ
tiêu này càng lớn thể hiện ngân hàng càng có khả năng thanh toán cao. Tuy
nhiên, nếu chỉ tiêu này quá lớn sẽ ảnh hưởng đến khả năng sinh lời của ngân
hàng.
Đi kèm với Chỉ tiêu này thường là 2 chỉ tiêu khác: Tiền mặt tại quỹ/
Tổng TS và Tiền mặt tại quỹ, Tiền gửi tại ngân hàng khác và Trái phiếu chính
phủ/ Tổng Tài sản. Các chỉ tiêu này được sắp xếp thành 3 lớp nhằm phản ánh
đầy đủ hơn khả năng thanh toán của ngân hàng.
1.3.2 Nhóm chỉ tiêu về khả năng sinh lời
ROA (Return on assets)
Đây là chỉ tiêu phản ánh khả năng sinh lời từ tổng tài sản, hay nói cách
khác là một đồng tài sản sẽ làm ra bao nhiêu đồng lợi nhuận. Thông thường
ROA sẽ được tính theo cách = Lợi nhuận trước thuế/ Tổng TS nhưng hiện nay
một số ngân hàng vẫn lấy ROA = Lợi nhuận trước thuế/ Tổng TS.
ROE (Return on equity)
ROE phản ánh khả năng sinh lời từ Vốn chủ sở hữu, chỉ số này hướng
đến các cổ đông: chủ sở hữu của ngân hàng nhằm đánh giá khả năng sinh lời
từ đồng vốn mình bỏ ra. Thông thường ROE được tính theo cách ROE = Lợi
7
nhuận sau thuế/ Vốn CSH . Một số ngân hàng lại tính ROE = Lợi nhuận
trước thuế / Vốn điều lệ
Thu thuần lãi/ Tổng thu thuần

Thông thường, các khoản thu nhập ở ngân hàng chia thành: thu thuần lãi,
thu thuần dịch vụ, thu thuần từ kinh ngoại ngoại hối và chứng khoán, thu bất
thường. Trong đó thu thuần lãi thường chiếm tỷ trọng lớn nhất.
Tỷ lệ thu thuần lãi/ Tổng thu thuần thể hiện cơ cấu thu nhập của ngân
hàng. Tỷ lệ này càng nhỏ chứng tỏ hoạt động của ngân hàng càng đa dạng,
không phụ thuộc chủ yếu về hoạt động tín dụng. Xu hướng phấn đấu của các
ngân hàng hiện nay là tìm cách giảm tỷ lệ này xuống.
Chi phí hoạt động/ Tổng thu thuần
Chỉ tiêu này thể hiện khả năng quản lý chi phí của ngân hàng, cho thấy
một đồng thu thuần được tạo nên từ bao nhiêu đồng chi phí hoạt động. Tỷ lệ
này lớn có nghĩa là khả năng quản lý chi phí của ngân hàng chưa tốt.
Thu nhập lãi biên (Net interest margin) = Thu thuần
lãi/ Tổng Tài sản
Đây là một trong những chỉ số cơ bản và đặc trưng trong đánh giá hoạt
động của ngân hàng. Chỉ số này thể hiện khả năng sinh lãi của từng đồng tài
sản. Chỉ số này cao cho thấy việc đầu tư vào cơ cấu tài sản đạt hiệu quả tốt
trong hoạt động tín dụng và đầu tư thu lãi.
Chêch lệch lãi suất bình quân (Earning spread) = (Thu từ lãi/ Tổng
TS sinh lời) – (Chi trả lãi/ Tổng Nguồn vốn phải trả lãi)
Đây cũng là một trong những chỉ số thường được sử dụng để đo hiệu quả
của chức năng trung gian tài chính (liên kết giữa cho vay và đi vay của ngân
hàng). Nó đồng thời cũng thể hiện sức cạnh tranh của thị trường. Nếu các yếu
tố không đổi, chỉ số này giảm thể hiện cạnh tranh trên thị trường trở nên gay
8
gắt, buộc các nhà quản trị phải tìm đường thoát khỏi lối mòn (như tìm ra một
sản phẩm hay dịch vụ mới)
1.3.3 Nhóm chỉ tiêu về khả năng hoạt động
Chi phí nhân viên/ Số nhân viên
Chỉ số này thể hiện chi phí cho mỗi nhân viên (chủ yếu là chi phí lương).
Chỉ số này có xu hướng tăng lên theo thời gian, nó thể hiện mức độ đãi ngộ

của ngân hàng với từng nhân viên.
Tổng chi phí hoạt động/ Số nhân viên
Tổng chi phí hoạt động có thể được chia thành bốn gói chi phí: Chi tài
sản, chi PR, chi nhân sự và chi hoạt động khác. Chỉ số Tổng chi phí hoạt
động/ nhân viên thể hiện chính sách chi tiêu của ngân hàng đang có xu hướng
thắt chặt hay mở rộng.
Chi phí nhân viên/ Tổng chi phí hoạt động
Chỉ số này thể hiện mức độ chi tiêu cho nhân viên của ngân hàng so với
các khoản chi tiêu khác.
Lợi nhuận trước thuế/ Số nhân viên
Chỉ số này thể hiện khả năng sinh lời từ đội ngũ nhân viên, chỉ số này
cao hay thấp thể hiện số lượng nhân viên mà ngân hàng sử dụng đã hợp lý
hay chưa.
1.3.4 Nhóm chỉ tiêu đánh giá cơ cấu vốn
Tài sản sinh lời/ Tổng TS
Tài sản sinh lời bao gồm các khoản cho vay, đầu tư chứng khoán, tiền
gửi tại các tổ chức tín dụng khác, góp vốn đầu tư dài hạn.
Tỷ lệ này càng lớn cho thấy tỷ trọng tài sản sinh lời lớn, ngân hàng đang
cơ cấu tài sản nhằm đẩy mạnh việc ra tăng lợi nhuận.
Nguồn vốn phải trả lãi/ Tổng nguồn vốn
9
Nguồn vốn phải trả lãi bao gồm tiền gửi và tiền vay của khách hàng và
các tổ chức tín dụng khác, vốn tài trợ uỷ thác đầu tư, cho vay tổ chức tín dụng
chịu rủi ro, giấy tờ có giá đã phát hành.
Tỷ lệ này càng lớn cho thầy cơ cấu vốn của ngân hàng đang có xu hướng
làm chi phí gia tăng, nếu tỷ lệ này quá cao sẽ gây ảnh hưởng đến lợi nhuận
của ngân hàng.
Tổng Tài sản/ Vốn điều lệ
Đây là một hệ số quan trọng, thông thường để đảm bảo an toàn trong
hoạt động của tổ chức tín dụng thì hệ số này không được vượt quá 20.

Vốn Huy động từ tổ chức kinh tế và cá nhân (thị trường 1)/ Tổng
Nguồn vốn
Vốn huy động từ tổ chức kinh tế và cá nhân trong ngân hàng có thể được
xem là một nguồn vốn quan trọng nhất vì nó mang tính ổn định và có chi phí
thấp. Nếu tỷ lệ này có xu hướng tăng lên cho thấy cơ cấu vốn của ngân hàng
đang có sự tiến bộ.
Vốn huy động từ Thị trường 1/ vốn huy động từ Thị trường 2
Thông thường, vốn huy động trên thị trường 2 (thị trường liên ngân hàng)
có chi phí lớn hơn vốn huy động từ thị trường 1 (điều này đúng với thị trường
Việt Nam kể từ năm 2007). Do đó, nếu tỷ lệ này tăng lên nghĩa là chi phí của
nguồn huy động đang có xu hướng giảm đi, đây là một biểu hiện tích cực.
Tài sản cố định/ Tổng Tài sản
Tỷ lệ này thể hiện chính sách cơ cấu tài sản của ngân hàng. Ngân hàng
sẽ đầu tư vào tài sản cố định nhiều hay ít là phụ thuộc chính sách của mình
qua từng thời kì.
10
1.3.5 Nhóm chỉ tiêu về thị trường
Thu nhập trên 1 cổ phiếu (EPS)
Thu nhập trên 1 cổ phiếu được tính bằng cách lấy lợi nhuận sau thuế chia
cho số cổ phiếu phổ thông đang lưu hành.
Giá/ Thu nhập 1 cổ phiếu (P/E)
Chỉ tiêu này được tính bằng cách lấy giá thị trường của cổ phiếu chia cho
EPS. Tuy nhiên, với những doanh nghiệp hay ngân hàng chưa niêm yết mà
chỉ giao dịch trên OTC thì chỉ tiêu này không mang nhiều ý nghĩa do việc xác
định giá thị trường của cổ phiếu rất khó khăn.
Tỷ lệ trả cổ tức
Tỷ lệ trả cổ tức được tính bằng %, có thể tính trên mệnh giá hoặc tính từ
lợi nhuận sau thuế của doanh nghiệp hay ngân hàng.
1.4 Phương pháp sử dụng các chỉ tiêu tài chính trong hoạt động
phân tích tài chính của Ngân hàng

1.4.1 Loại bỏ các yếu tố bất thường ra khỏi số liệu
Trong quá trình phân tích tài chính, luôn có một giả định khi ta sử dụng
những chỉ tiêu phân tích. Giả định đấy là trong điều kiện các yếu tố khác
không thay đổi. Như vậy, để đảm bảo tính chất có thể so sánh giữa các số liệu
thì sau khi thu thập thông tin, ta phải loại bỏ những yếu tố bất thường làm cho
số liệu thể hiện không đúng bản chất.
Những yếu tố bất thường có thể kể đến là
Những thay đổi trong chính sách kế toán: ví dụ như thay đổi cách tính
khấu hao
Những khoản bán chứng khoán số lượng lớn, không thường xuyên.
Những khoản bán Tài sản có giá trị lớn, Bất động sản
Những khoản thu bất thường với giá trị lớn.
Những khoản trên báo cáo tài chính không được đặt đúng bản chất
11
1.4.2 Phương pháp phân tích
So sánh số liệu qua nhiều thời kì
Thời kì để so sánh có thể là giữa các tháng, quý, năm. Thông thường để
có thể đánh giá một cách toàn diện một ngân hàng hay doanh nghiệp, số liệu
cần cung cấp để so sánh tối thiếu phải là số liệu trong 5 năm gần nhất.
Trong quá trình so sánh, sau khi so sánh số liệu các năm với nhau, so với
kế hoạch, mục đích chủ yếu là phải tìm ra được xu hướng biến động và giải
thích những điểm biến động lớn trên đồ thị, bảng số liệu.
Từ những biến động lớn đó có thể đưa ra những nhận xét trong mỗi tình
huống, đưa ra nhận xét về tình trạng hiện tại của doanh nghiệp hay ngân hàng.
Và hoàn toàn có thể dựa vào xu hướng biến động và một số điều kiện hiện tại
mà dự đoán về tương lai.
Khi so sánh số liệu qua nhiều thời kì, ta có thể so sánh số tuyệt đối, số
tương đối, so sánh tỷ trọng trong Bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả kinh
doanh… Ngay cả trong cùng 1 thời kì, ta vẫn có thể so sánh số tỷ trọng của
từng khoản mục để tìm ra điểm mạnh, điểm yếu.

So sánh với số liệu của các Ngân hàng khác
Nguồn thông tin về những ngân hàng khác là rất quan trọng: khi thu thập
thông tin, ta chủ yếu tập trung vào tìm kiếm thống tin của những ngân hàng
“đồng đẳng”. Đấy là những ngân hàng có một số điều kiện tương đối giống
ngân hàng mình, họ có thể là đối tác chiến lược, là đối thủ cạnh tranh hoặc
những ngân hàng có quy mô lớn hơn hoặc nhỏ hơn nhất nhiều nhưng lại có
chung đối tượng khách hàng.
Sau khi tiến hành tìm kiếm, so sánh số liệu trung bình của ngành, của các
Ngân hàng “đồng đẳng”, nhận ra điểm mạnh, điểm yếu cần khắc phục của
mình. Nếu có thể thì phải lập thành nhiều bảng xếp hạng các ngân hàng, trong
đó có ngân hàng mình ở mỗi khoản mục khác nhau để có thể nhận thức vị trí
12
của mình trong hệ thống, đánh giá đúng tương quan. Cuối cùng là phải dựa
trên tình hình thị trường trong tương lai và những số liệu hiện tại dự đoán
được sự biến động của các ngân hàng khác, của ngành.
1.4.3 Phương pháp phân tích Dupont
Phương pháp phân tích dupont là việc tách các chỉ tiêu tổng hợp thành
các chỉ tiêu nhỏ hơn nhằm giải thích sự biến động của chỉ tiêu tổng hợp và
tìm ra cách thay đổi chỉ tiêu tổng hợp từ những chỉ tiêu phân tích.
Hai chỉ tiêu tổng hợp thường được sử dụng là ROA và ROE, theo đó với
cách tính ROA = LN trước thuế/ Tổng TS và ROE = LNTT/ Vốn điều lệ thì
ROA = LN trước thuế/ Tổng Thu thuần x Tổng thu thuần /Tổng Tài sản
bình quân
ROE = LN trước thuế / Tổng Thu thuần x Tổng thu thuần/ Tổng Tài sản
bình quân x Tổng Tài sản bình quân/ Vốn điều lệ bình quân
Từ sự biến động của những chỉ tiêu phân tích ta sẽ tìm ra nguyên nhân
của sự biến động ROA và ROE từ đó tìm ra giải pháp khắc phục.
1.5 Đánh giá ngân hàng theo mô hình SWOT
Sau khi hoàn tất quá trình phân tích theo những bước trên, việc đánh giá
theo mô hình SWOT sẽ mang tính chất tổng hợp.

Mô hình SWOT ra đời từ những năm 60 - 70 tại Viện nghiên cứu
Stanford với quá trình tìm hiểu nguyên nhân thất bại trong việc lập kế hoạch
của các công ty, tài trợ bởi 500 công ty lớn nhất thời đó. Nhóm nghiên cứu
bao gồm Marion Dosher, Dr Otis Benepe, Albert Humphrey, Robert Stewart,
Birger Lie. Khởi đầu năm 1949 từ công ty Du Pont, chức danh giám đốc kế
hoạch công ty (corporate planning manager), cho đến năm 1960, xuất hiện ở
tất cả 500 công ty lớn nhất nước Mỹ. Làn sóng này tiếp tục lan rộng khắp
nước Mỹ và Anh.
13
SWOT là tập hợp viết tắt những chữ cái đầu tiên của các từ tiếng Anh:
Strengths (Điểm mạnh), Weaknesses (Điểm yếu), Opportunities (Cơ hội) và
Threats (Thách thức).
Phân tích SWOT là việc đánh giá một cách chủ quan các dữ liệu được
sắp xếp theo định dạng SWOT dưới một trật tự lô gíc dễ hiểu, dễ trình bày, dễ
thảo luận và đưa ra quyết định, có thể được sử dụng trong mọi quá trình ra
quyết định. Các mẫu SWOT cho phép kích thích suy nghĩ hơn là dựa trên các
phản ứng theo thói quen hoặc theo bản năng. Mẫu phân tích SWOT được
trình bày dưới dạng một ma trận 2 hàng 2 cột, chia làm 4 phần: Strengths,
Weaknesses, Opportunities, and Threats.
Mô hình SWOT thường đưa ra 4 chiến lược cơ bản:
(1) SO (Strengths - Opportunities): các chiến lược dựa trên ưu thế của
công ty để tận dụng các cơ hội thị trường.
(2) WO (Weaks - Opportunities): các chiến lược dựa trên khả năng vượt
qua các yếu điểm của công ty để tận dụng cơ hội thị trường.
(3) ST (Strengths - Threats): các chiến lược dựa trên ưu thế của của công
ty để tránh các nguy cơ của thị trường.
(4) WT (Weaks - Threats): các chiến lược dựa trên khả năng vượt qua
hoặc hạn chế tối đa các yếu điểm của công ty để tránh các nguy cơ của thị
trường.
Để thực hiện phân tích SWOT cho vị thế cạnh tranh của một công ty,

người ta thường tự đặt các câu hỏi sau:
Strengths: Lợi thế của mình là gì? Công việc nào mình làm tốt nhất?
Nguồn lực nào mình cần, có thể sử dụng? Ưu thế mà người khác thấy được ở
mình là gì? Phải xem xét vấn đề từ trên phương diện bản thân và của người
khác. Cần thực tế chứ không khiêm tốn. Các ưu thế thường được hình thành
khi so sánh với đối thủ cạnh tranh. Chẳng hạn, nếu tất cả các đối thủ cạnh
14
tranh đều cung cấp các sản phẩm chất lượng cao thì một quy trìh sản xuất với
chất lượng như vậy không phải là ưu thế mà là điều cần thiết phải có để tồn
tại trên thị trường.
- Weaknesses: Có thể cải thiện điều gì? Công việc nào mình làm tồi
nhất? Cần tránh làm gì? Phải xem xét vấn đề trên cơ sở bên trong và cả bên
ngoài. Vì sao đối thủ cạnh tranh có thể làm tốt hơn mình? Lúc này phải nhận
định một cách thực tế và đối mặt với sự thật.
- Opportunities: Cơ hội tốt đang ở đâu? Xu hướng đáng quan tâm nào
mình đã biết? Cơ hội có thể xuất phát từ sự thay đổi công nghệ và thị trường
dù là quốc tế hay trong phạm vi hẹp, từ sự thay đổi trong chính sách của nhà
nước có liên quan tới lĩnh vự hoạt động cuat công ty, từ sự thay đổi khuôn
mẫu xã hội, cấu trúc dân số hay cấu trúc thời trang , từ các sự kiện diễn ra
trong khu vực. Phương thức tìm kiếm hữu ích nhất là rà soát lại các ưu thế
của mình và tự đặt câu hỏi liệu các ưu thế ấy có mở ra cơ hội mới nào không.
Cũng có thể làm ngược lại, rà soát các yếu điểm của mình và tự đặt câu hỏi
liệu có cơ hội nào xuất hiện nếu loại bỏ được chúng.
- Threats: Những trở ngại đang phải? Các đối thủ cạnh tranh đang làm
gì? Những đòi hỏi đặc thù về công việc, về sản phẩm hay dịch vụ có thay đổi
gì không? Thay đổi công nghệ có nguy cơ gì với công ty hay không? Có vấn
đề gì về nợ quá hạn hay dòng tiền? Liệu có yếu điểm nào đang đe doạ công
ty? Các phân tích này thường giúp tìm ra những việc cần phải làm và biến yếu
điểm thành triển vọng.
Tóm lại, mô hình cần phải chỉ rõ điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức

không chỉ của riêng ngân hàng cần phân tích mà còn của cả hệ thống ngân hàng. Từ
đó so sánh và rút ra mô hình hoàn chỉnh SWOT của ngân hàng cần phân tích.
15
1.6 Các nhân tố ảnh hưởng đến phân tích tài chính ở ngân hàng
thương mại:
1.6.1 Các số liệu phục vụ phân tích
Trong phân tích tài chính, việc thu thập các số liệu đầu vào cho quá trình
phân tích vô cùng quan trọng. Các số liệu thu thập được nhiều hay ít sẽ quyết
định quá trình phân tích đi sâu hay tổng quát. Tính chính xác của số liệu đầu
vào sẽ tác động đến ý nghĩa các báo cáo phân tích. Nếu số liệu đầu vào không
chính xác, các báo cáo phân tích sẽ trở nên vô nghĩa. Thông thường, việc thu
thập đầy đủ 100% số liệu cần thiết là không thể thực hiện được. Vì vậy, trên
thực tế, người ta thường dựa số lượng và độ chính xác của những thông tin thu
thập được mới đặt ra các bước và quá trình phân tích, lập báo cáo phân tích.
1.6.2 Chính sách của Nhà nước và chính phủ
Các quy định của Bộ Tài chính, của Ngân hàng Nhà nước về chế độ hạch
toán, kế toán trong các ngân hàng thương mại ảnh hưởng rất lớn đến việc
phân tích tài chính. Nguồn số liệu đầu vào của phân tích tài chính chủ yếu là
các báo cáo tài chính. Nếu các quy định trong việc lập các báo cáo tài chính
không quy định rõ ràng và thường xuyên thay đổi, sẽ dẫn đến việc không
thống nhất giữa các báo cáo tài chính. Việc không thống nhất có thể là giữa
các năm trong cùng một ngân hàng hoặc không thống nhất giữa các ngân
hàng. Khi đó, các báo cáo tài chính sẽ không đảm bảo điều kiện có thể so
sánh, việc phân tích phân tích tài chính có thể đưa đến những kết luận chưa
chính xác.
Những chính sách hỗ trợ như ban hành các văn bản hướng dẫn, tổ chức
các khoá đào tạo … giúp các ngân hàng thương mại thực hiện phân tích tài
chính ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động phân tích của mỗi ngân hàng. Do các
ngân hàng Việt Nam hiện nay chưa có đủ trình độ và chi phí để tiến hành
phân tích tài chính đúng theo chuẩn quốc tế.

16
Những chính sách về tính minh bạch thông tin trong hoạt động của các
ngân hàng. Trên thế giới, quy định công bố thông tin là bắt buộc đối với các
ngân hàng, việc tìm kiếm các báo cáo tài chính của các ngân hàng là điều
tương đối đơn giản. Minh bạch thông tin sẽ tạo điều kiện cung cấp các báo
cáo tài chính, là đối tượng của phân tích tài chính.
1.6.3 Sự quan tâm của ban lãnh đạo ngân hàng với
việc phân tích tài chính
Nếu ban lãnh đạo của ngân hàng có tư tưởng tiến bộ sẽ rất quan tâm xây
dựng bộ phận phân tích tài chính và tạo điều kiện cho bộ phận này hoạt động.
Nhưng một vấn đề quan trọng trong phân tích tài chính mà ban lãnh đạo ngân
hàng luôn chú trọng là: thông tin mà bộ phận này mang lại phải có nhiều giá
trị hơn so với chi phí bỏ ra.
1.6.4 Trình độ của đội ngũ cán bộ phân tích tài chính
Phân tích tài chính chủ yếu dựa vào việc đưa ra những nhận định dựa
trên những số liệu sẵn có. Do đó, phân tích tài chính luôn mang tính chủ quan
của người phân tích, nhân tố con người đóng vai trò vô cùng quan trọng trong
công việc này. Yêu cầu đối với nhân viên phân tích tài chính là phải có tầm
nhìn rộng, nắm được tình hình kinh tế trong nước và thế giới, là những
chuyên gia có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực tài chính nói chung và ngân
hàng nói riêng. Những nhân viên giỏi thường rất khó tuyển dụng được và chi
phí trả lương rất cao. Nhà quản trị phải cân nhắc bài toán lợi ích nhận về và
chi phí bỏ ra để có chính sách nhân sự cho phù hợp.
17
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH
Ở NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN ĐẠI Á
2.1 Giới thiệu về Ngân hàng TMCP Đại Á
Ngân hàng TMCP Đại Á được thành lập theo Quyết định số 22/QĐ/NH5
ngày 25/01/1996 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Với quyết tâm xây dựng một Ngân hàng Việt Nam theo tiêu chuẩn quốc
tế, Ngân hàng đã ra đời bắt đầu với 50 tỷ đồng vốn điều lệ và 23 con người –
23 bầu nhiệt huyết, Ngân hàng đã từng bước vươn lên để củn cố vị trí của
mình trên thị trường Tài chính tiền tệ.
Khởi nghiệp trong hoàn cảnh khó khăn do ảnh hưởng của cuộc khủng
hoảng tài chính - tiền tệ Châu Á, những năm đầu, Ngân hàng Quốc Tế hoạt
động an toàn và hiệu quả nhưng với quy mô nhỏ. Trước những thách thức đổi
mới để cạnh tranh, dưới sự nhất trí cao của Hội đồng Quản trị và Ban Điều
hành, trong 5 năm gần đây, và đặc biệt là trong năm 2010, Ngân hàng Quốc
Tế đã thực hiện tái cơ cấu triệt để nhằm tạo dựng những giá trị mới. Định
hướng chiến lước đúng đắn cùng với công tác điều hành thống nhất, đặc biệt
là nỗ lực cống hiến của toàn thể cán bộ nhân viên đã tạo ra sức mạnh để Ngân
hàng Quốc Tế vượt qua những khó khăn và phát triển bền vững.
Kết quả của những nỗ lực phấn đầu đó là sự tăng trưởng ấn tượng: năm
sau gấp đôi năm trước trong 4 năm gần đây. Hiệu quả kinh doanh trong năm
2010 được ghi nhận là sự đột phá trong đà tăng trưởng của Ngân hàng Quốc
Tế bằng những con số ấn tượng: tổng tài sản đạt 4111 tỷ, tăng trưởng hơn 2
lần; huy động vốn từ dân cư và tổ chức kinh tế tăng 194%, đầu tư tín dụng
tăng 100% và lợi nhuận trước thuế đạt trên 41 tỷ đồng tăng gấp 2 lần so với
2009; vốn điều lệ tăng lên 250 tỷ đồng, số lượng chi nhánh tăng gấp 4 lần so
18
với thời điểm đầu năm; các sản phẩm dịch vụ được đa dạng hoá, đội ngũ nhân
sự được bổ sung và hoàn thiện với 412 cán bộ nhân viên, hình ảnh DaiAbank
ngày càng chiếm được niềm tin trong công chúng. Kết quả khả năng này là sự
thằng lợi của quyết tâm và những chuyển biến quan trọng. Cơ cấu mới bước
đầu chứng minh sự vận hành hiệu quả, mềm dẻo và linh hoạt. Thắng lợi của
năm 2010 chính là nền tảng cho sự phát triển đầy hứa hẹn của Ngân hàng
trong những năm tiếp theo.
Ban lãnh đạo Ngân hàng Đại Á hoàn toàn ý thức được những rủi ro gặp
phải trong quá trình tăng trưởng mạnh mẽ như vậy. Bắt đầu từ năm 2005 trở

đi, hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Đại Á tập trung nhằm quản lý rủi ro
một cách toàn diện và hiệu quả. Hoạt động đầu tư được chú trọng vào các lĩnh
vực như hiện đại hoá hệ thống công nghệ thông tin nhằm đa dạng hoá sản
phẩm và dịch vụ; mở rộng mạng lưới chi nhánh, nâng cao giá trị nguồn lực
con người, xây dựng môi trường làm việc chuyên nghiệp, tạo cơ hội để cá
nhân phát triển…
Là một ngân hàng bán lẻ, Ngân hàng Quốc Tế tiếp tục cung cấp một loạt
các sản phẩm, dịch vụ tài chính trọn gói cho khách hàng với nòng cốt là
những doanh nghiệp vừa và nhỏ hoạt động lành mạnh và những cá nhân, gia
đình có thu nhập ổn định. Các sản phẩm dịch vụ của Ngân hàng Quốc tế liên
tục được đổi mới và đa dạng hoá: Đối với khách hàng, cam kết “Luôn gia
tăng giá trị cho bạn!” mà Ngân hàng Quốc Tế thể hiện là không ngừng nâng
cao chất lượng dịch vụ khách hàng, là những sản phẩm tiền gửi linh hoạt luôn
có mức lãi suất hấp dẫn trên thị trường, là những dịch vụ gia tăng mang lại
nhiều tiện ích cho khách hàng dựa trên nền tảng công nghệ hiện đại nhất trên
thế giới như Mobile Banking, Internet Banking, FAST Net, FAST Mobile, thẻ
ghi nợ nội địa và thẻ tín dụng quốc tế.
19
Về nhân sự, khởi đầu chỉ với 23 nhân viên vào năm 1996, cho đến cuối
năm 2010, toàn Ngân hàng đã có trên 2000 nhân viên. Nguồn nhân lực trẻ,
năng động, sáng tạo, làm việc với tinh thần hướng tới khách hàng là một trong
những tiềm lực của Ngân hàng Đại Á, góp phần tạo nên giá trị cốt lõi, văn hoá
riêng biệt của Ngân hàng Đại Á. Mạng lưới chi nhánh của Ngân hàng Đại Á
cũng nhanh chóng được thiết lập tại hầu hết các trung tâm kinh tế lớn trên cả
nước. Tính đến cuối năm 2007, Ngân hàng Đại Á đã có trên 80 chi nhánh và
phòng giao dịch ở trên 20 tỉnh thành trong cả nước, và mạng lưới 37 Tổ công
tác trên 35 tỉnh thành phố trong Toàn quốc.
Mới chỉ đi vào hoạt động được trên 10 năm, nhưng từ ngày đi vào hoạt
động đến nay, Ngân hàng Đại Á luôn được đánh giá là một trong những ngân
hàng hoạt động lành mạnh nhất trong khối các ngân hàng TMCP. Trong nhiều

năm, Ngân hàng Đại Á được Ngân Hàng Nhà Nước xếp loại A theo các chỉ
tiêu về vốn, quản lý tài sản, khả năng thanh khoản, nguồn lực quản lý.
Trong quá trình hoạt động kinh doanh, Ngân hàng Đại Á luôn kiên trì
nguyên tắc quản lý và điều hành tuân thủ luật pháp, ưu tiên hàng đầu cho
quản trị rủi ro để duy trì sự phát triển an toàn, bảo đảm quyền lợi cho cổ đông
và khách hàng, những người đã đặt niềm tin vào Ngân hàng”.
2.2.1 Bộ phận phân tích tài chính và nguồn số liệu phục vụ phân tích
Bộ phân phân tích tài chính của Ngân hàng Đại Á vẫn chưa được chính
thức thành lập và cho đến nay hoạt động của bộ phận này chưa thực sự có kết
quả rõ rệt. Hiện ngân hàng Đại Á cũng như một số doanh nghiệp trong nước
khác tổ chức theo kiểu gộp bộ phận tài chính và kế toán thành một. Ngay cả
trong phòng tài chính kế toán cũng không có sự tách biệt giữa công việc kế
toán và tài chính. Những nhân viên kế toán ngoài việc hạch toán, lập các báo
cáo tài chính sẽ kiêm nhiệm luôn cả việc phân tích tài chính. Chính vì việc
kiêm nhiệm này nên trước đây, những báo cáo phân tích chỉ dừng ở mức cung
20
cấp những số liệu cơ bản theo yêu cầu. Và phòng Quản lý kế toán – tài chinh
chỉ đóng vai trò duy nhất là cung cấp số liệu. Những số liệu cung cấp chỉ là
những khoản mục trên báo cáo tài chính, được cung cấp hàng tháng. Vì những
kế toán viên kiêm nhiệm công việc của nhà phân tích tài chính nên họ không
có đủ thời gian cũng như trình độ để đưa ra những so sánh, nhận xét. Thông
thường công việc cung cấp số liệu như vậy chỉ giao cho từ 1 đến 2 nhân viên
phụ trách. Việc phân tích các số liệu ấy sẽ do những người sử dụng tự phân
tích, có thể sẽ do Ban điều hành, các giám đốc, đối tác chiến lược tự phân
tích. Phải đến những tháng cuối 2007, những báo cáo phân tích đã được giao
cho một số nhân viên phụ trách và dần được hoàn thiện, các báo cáo đã bắt
đầu đi sâu vào phân tích đánh giá, đưa ra những nhận xét. Tuy vậy, những báo
cáo này chưa ở mức chuyên nghiệp và còn thiếu sót rất nhiều.
Về nguồn số liệu phục vụ cho phân tích: vì bộ phận phân tích nằm ngay
trong phòng Tài chính - kế toán nên dễ dàng tiếp cận với những thông tin kế

toán, đồng thời họ cũng được cung cấp đủ các công cụ để truy cập lấy dữ liệu
về hệ thống. Dù vậy, thông tin mà bộ phận phân tích tài chính cần không chỉ
là những thông tin nội bộ mà còn là những thông tin bên ngoài, những thông
tin về đối tác, về đổi thủ cạnh tranh và thị trường thì họ lại hoàn toàn không
tiếp cận được.
2.2.2 Quá trình phân tích tài chính của Ngân hàng Đại Á trong năm
20012
Quá trình phân tích tài chính của trong 3 năm gần đây
Bắt đầu từ 2010, khi đưa hệ thống phần mềm ngân hàng lõi (core
banking) vào hoạt động, các số liệu kế toán đã bắt đầu được tập trung đầy đủ,
thống nhất và mang tính chính xác cao. Những năm trước, việc tập hợp số
liệu chủ yếu làm bằng tay, dựa trên những phần mềm tự thiết kế nên tính
chính xác không đảm bảo, vì vậy số liệu kế toán tập hợp chưa thể sử dụng để
21

×