MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Trong nền kinh tế thị trường hệ thống ngân hàng được ví như hệ thần
kinh của cả nền kinh tế. Hệ thống ngân hàng các quốc gia hoạt động thông
suốt, lành mạnh và hiệu quả sẽ là tiền đề để các nguồn lực tài chính luân
chuyển, phân bổ và sử dụng có hiệu quả kích thích tăng trưởng kinh tế một
cách bền vững. Tuy nhiên, trong nền kinh tế thị trường rủi ro trong kinh
doanh là không thể tránh khỏi, mà đặc biệt là rủi ro trong hoạt động kinh
doanh ngân hàng có phản ứng dây chuyền, lây lan và ngày càng có những
biểu hiện phức tạp. Sự sụp đổ của ngân hàng ảnh hưởng tiêu cực đến toàn bộ
đời sống kinh tế, chính trị và xã hội của một đất nước và có thể lan rộng sang
quy mô quốc tế.
Như vậy, các ngân hàng muốn hoạt động lành mạnh và hiệu quả thì phải
tự chủ về tài chính. Để thực sự tự chủ trong hoạt động kinh doanh và tự chủ
về tài chính các NHTM phải tiến hành phân tích tài chính. Phân tích tài chính
sẽ giúp các nhà quản lý, các nhà kinh doanh, chủ doanh nghiệp và những
người quan tâm nắm được tình hình tài chính cũng như toàn bộ hoạt động
kinh doanh của ngân hàng, để từ đó có những giải pháp hữu hiệu nhất cho
hoạt động của ngân hàng mình.
Sacombank đã nhận rõ được tầm quan trọng của hoạt động phân tích tài
chính, đã không ngừng quan tâm đến hoạt động này và đã đạt được nhiều kết
quả rất khả quan. Tuy nhiên, việc thực hiện hoạt động phân tích tài chính tại
Sacombank vẫn chưa được đầy đủ và toàn diện, xuất phát từ thực tế đó và với
mong muốn được đóng góp vào sự phát triển và lớn mạnh của Sacombank nói
riêng và của hệ thống các NHTM nói chung, tôi đã lựa chọn đề tài: “Hoàn
1
thiện hoạt động phân tích tài chính tại Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương
Tín” làm đề tài cho luận văn thạc sỹ của mình.
2. Mục đích nghiên cứu của luận văn:
Thông qua việc nghiên cứu, đánh giá thực trạng hoạt động phân tích tài
chính tại Sacombank để đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện hoạt động
phân tích tài chính tại ngân hàng trong thời gian tới, góp phần làm cho công
tác phân tích tài chính trở thành một công cụ có hiệu quả trong quản trị hoạt
động ngân hàng.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
- Đối tượng nghiên cứu: Hoạt động phân tích tài chính của Sacombank.
- Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu tình hình thực tiễn sử dụng phương
pháp phân tích tài chính tại Sacombank trong năm 2004; 2005; 2006.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp được sử dụng trong quá trình nghiên cứu là: Phương pháp
duy vật biện chứng, phương pháp duy vật lịch sử kết hợp các phương pháp
thống kê, chọn mẫu, phương pháp tổng hợp, so sánh,...
5. Những đóng góp của đề tài:
- Đề tài góp phần hệ thống hoá những vấn đề lý luận cơ bản về phương
pháp phân tích tài chính của Ngân hàng thương mại.
- Đánh giá thực trạng hoạt động phân tích tài chính tại Sacombank trong
thời gian qua, từ đó rút ra các ưu, nhược điểm và nguyên nhân của thực trạng đó.
- Đề xuất một số phương pháp phân tích tài chính phù hợp với điều kiện
hiện tại của Sacombank, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý, thúc đẩy sự
phát triển của ngân hàng.
2
6. Kết cấu luận văn:
Ngoài lời mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được trình bày theo 3 chương:
Chương 1: Tổng quan về hoạt động phân tích tài chính của NHTM.
Chương 2: Thực trạng hoạt động phân tích tài chính tại Ngân hàng
TMCP Sài Gòn Thương Tín.
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện hoạt động phân tích tài chính tại Ngân
hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín.
3
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG PHÂN TÍCH
TÀI CHÍNH CỦA NHTM
1.1.Tổng quan về hoạt động của NHTM.
NHTM là doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ. Hầu hết các
hoạt động của NHTM là các hoạt động tài chính nên có tính nhạy cảm cao và
tiềm ẩn nhiều rủi ro. Các hoạt động chủ yếu của NHTM bao gồm:
- Nhận tiền gửi: Tiền gửi của khách hàng là nguồn tài nguyên quan trọng
nhất của NHTM. Tiền gửi của khách hàng bao gồm: Tiền gửi thanh toán;
Tiền gửi có kỳ hạn của doanh nghiệp, các tổ chức xã hội; Tiền gửi tiết kiệm
của dân cư và Tiền gửi của các ngân hàng khác.
- Cho vay: Tín dụng là hoạt động đặc trưng và đem lại thu nhập chủ yếu
của các NHTM. Tuy nhiên hoạt động này tiềm ẩn rất nhiều rủi ro, vì vậy định
hướng phát triển của các NHTM phần lớn đều là giảm dần tỷ trọng thu nhập
trong hoạt động cho vay và tăng dần tỷ trọng thu nhập từ các sản phẩm dịch
vụ.
Tín dụng được phân chia theo nhiều tiêu thức khác nhau: Theo thời hạn
gồm: Tín dụng ngắn hạn, trung hạn và dài hạn; Theo hình thức tài trợ gồm:
cho vay, bảo lãnh, cho thuê; Theo đảm bảo gồm: không có đảm bảo và có đảm
bảo; ....
- Đầu tư chứng khoán: Các NHTM có thể đầu tư vào chứng khoán, đây
là loại hình đầu tư phổ biến nhất trong tài sản có của các NHTM tại các nước
phát triển. Chứng khoán bao gồm: trái phiếu (trái phiếu kho bạc, trái phiếu
chính quyền địa phương) và cổ phiếu.
- Hoạt động liên kết: Ngân hàng có thể tham gia góp vốn với các tổ chức
khác như tham gia hùn vốn vào các ngân hàng liên doanh, các công ty,...
4
Ngoài các hoạt động tài chính trên NHTM còn cung cấp các dịch vụ
như: dịch vụ thanh toán, chuyển tiền, chi trả kiều hối,...
1.2.Phân tích tài chính của NHTM.
1.2.1. Khái niệm hoạt động phân tích tài chính NHTM.
- Phân tích tài chính: là việc sử dụng một tập hợp các khái niệm, phương
pháp và các công cụ cho phép để xử lý các thông tin kế toán và các thông tin
khác nhằm đánh giá tình hình tài chính của một doanh nghiệp, đánh giá rủi ro
và hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp đó.
- NHTM với tư cách là một loại hình doanh nghiệp đặc biệt với đặc
trưng chủ yếu là kinh doanh tiền tệ, các công cụ trên thị trường tài chính và
các dịch vụ tài chính. Do vậy hoạt động phân tích tài chính của NHTM có thể
định nghĩa như sau: “Phân tích tài chính của NHTM là việc xử lý các thông
tin tài chính, phân tích các thông tin dựa trên các tiêu chí đánh giá tổng hợp
về hoạt động kinh doanh của NHTM nhằm rút ra được những nhận xét, đánh
giá về tình hình hoạt động của NHTM về cả mặt chất và mặt lượng”.
1.2.2. Mục đích của hoạt động phân tích tài chính NHTM.
- Mục đích của hoạt động phân tích tài chính NHTM là đánh giá tình
hình tài chính, hoạt động kinh doanh của ngân hàng trong mối quan hệ so
sánh với các ngân hàng khác và các chỉ tiêu bình quân của ngành, giúp các
nhà quản lý, các nhà đầu tư và những đối tượng quan tâm nắm bắt được tình
hình hoạt động kinh doanh của ngân hàng với đầy đủ điểm mạnh, điểm yếu
cũng như những thuận lợi, khó khăn trong từng giai đoạn để từ đó có cơ sở
đưa ra những quyết định kinh doanh đúng đắn.
- Đối tượng khác nhau sẽ có mục đích phân tích khác nhau:
+ Đối với nhà quản trị ngân hàng:
-> Thông qua phân tích tài chính, các nhà quản lý có thể nhìn nhận đúng
đắn về khả năng, sức mạnh cũng như những tồn tại, hạn chế của ngân hàng, từ
5
đó xác định được mục tiêu và những biện pháp nhằm thúc đẩy kinh doanh,
xây dựng chiến lược kinh doanh hiệu quả.
-> Phân tích tài chính là cơ sở để ngân hàng phát hiện, đo lường các rủi
ro, từ đó có những biện pháp kịp thời để phòng ngừa, hạn chế rủi ro đó.
-> Phân tích tài chính sẽ giúp cho các nhà quản trị ngân hàng đánh giá,
đo lường được mức độ thực hiện cũng như tính đúng đắn của chiến lược kinh
doanh, để từ đó có những điều chỉnh kịp thời giúp ngân hàng không đi chệch
hướng.
-> Phân tích tài chính của ngân hàng còn là điều kiện cần thiết cho cơ
quan quản lý có cơ sở đưa ra các biện pháp thích hợp trong việc huy động vốn
và sử dụng vốn một cách hiệu quả hơn nhằm góp phần hạn chế rủi ro và nâng
cao lợi nhuận cho Ngân hàng.
+ Đối với nhà đầu tư: đánh giá kết quả kinh doanh và khả năng sinh lời
của ngân hàng để có quyết định đầu tư đúng đắn.
+ Đối với người gửi tiền: đánh giá khả năng thanh toán của ngân hàng
+ Đối với Ngân hàng Nhà nước: Nắm được tình hình kinh doanh, mức
độ an toàn, minh bạch trong hoạt động kinh doanh của các NHTM để có
những chính sách quản lý và những biện pháp xử lý kịp thời nhằm đảm bảo
hoạt động của hệ thống ngân hàng được lành mạnh và hiệu quả.
+ ......
1.2.3. Các phương pháp phân tích tài chính NHTM.
1.2.3.1. Phương pháp so sánh:
- Đây là phương pháp được sử dụng phổ biến để đánh giá kết quả, xác
định vị trí và xu hướng biến động của chỉ tiêu phân tích. Khi phân tích, các
nhà phân tích thường so sánh theo thời gian (so sánh kỳ này với kỳ trước) để
nhận biết được xu hướng thay đổi tình hình tài chính của ngân hàng và so
sánh theo không gian (so sánh với mức bình quân của ngành, với các đơn vị
khác) để đánh giá vị thế của ngân hàng trong ngành.
6
- Để áp dụng phương pháp so sánh, cần chú ý đến các vấn đề sau:
+ Điều kiện so sánh được của các chỉ tiêu: Để so sánh được với nhau,
các chỉ tiêu phải đảm bảo các điều kiện có thể so sánh. Các chỉ tiêu sử dụng để
so sánh phải thống nhất về nội dung phản ánh, phương pháp tính toán, về thời
gian và đơn vị đo lường. Nếu không thống nhất các điều kiện so sánh, việc so
sánh sẽ không có giá trị, thậm trí còn phản ánh sai lệch thông tin.
+ Gốc so sánh: Để so sánh cần phải có gốc so sánh. Việc xác định
gốc so sánh tuỳ thuộc vào mục đích phân tích. Gốc so sánh thường được xác
định theo thời gian và không gian. Về mặt thời gian: Có thể lựa chọn kỳ kế
hoạch, kỳ trước, cùng kỳ năm trước hay lựa chọn các điểm thời gian (năm,
tháng, tuần, ngày cụ thể) để làm gốc so sánh; Về mặt không gian: Có thể lựa
chọn các đơn vị khác có cùng điều kiện tương đương để làm gốc so sánh.
+ Kỹ thuật so sánh: Để phục vụ cho mục đích cụ thể của phân tích,
phương pháp so sánh thường được sử dụng dưới các dạng sau:
* So sánh tuyệt đối: Được sử dụng để phản ánh quy mô của các hiện
tượng, sự vật, hoạt động,…Bởi vậy, khi so sánh bằng số tuyệt đối, các nhà
phân tích sẽ biết được quy mô biến động của các chỉ tiêu phân tích. Nói cách
khá, so sánh bằng số tuyệt đối sẽ cung cấp thông tin về mức độ biến động
(vượt (+) hay hụt (-)) của chỉ tiêu nghiên cứu giữa kỳ phân tích so với kỳ gốc.
* So sánh tương đối: Là kết quả so sánh giữa các kỳ phân tích được
thực hiện bằng phép chia giữa các mức độ của chỉ tiêu xem xét ở các thời kỳ
khác nhau. Kết quả so sánh bằng số tương đối phản ánh mối quan hệ tỷ lệ, kết
cấu của từng chỉ tiêu trong tổng thể hoặc biến động về tốc độ của chỉ tiêu
nghiên cứu giữa các thời kỳ khác nhau.
* So sánh số bình quân: Khi so sánh bằng số bình quân, các nhà quản lý
sẽ biết được mức độ mà doanh nghiệp mình đã đạt được so với bình quân chung
của tổng thể, của ngành,.. Từ đó xác định được vị trí của doanh nghiệp mình.
7
1.2.3.2. Phương pháp tỷ lệ:
Là phương pháp phản ánh kết cấu, mối quan hệ giữa các chỉ tiêu tài
chính cũng như sự biến đổi của lượng tài chính thông qua hàng loạt tỷ lệ theo
chuỗi thời gian liên tục hoặc theo từng giai đoạn.
Phương pháp tỷ lệ là một trong những phương pháp dễ thực hiện và kết
quả có độ chính xác khá cao với điều kiện áp dụng ngày càng được bổ sung
và hoàn thiện, do:
Thứ nhất: Nguồn thông tin kế toán và tài chính được cải tiến và được
cung cấp ngày càng chi tiết, đầy đủ hơn. Đó là cơ sở hình thành những tham
chiếu tin cậy cho việc đánh giá một tỷ lệ nào đó của một NHTM.
Thứ hai: Việc áp dụng các công nghệ tin học cho phép tích luỹ dữ liệu
và thúc đẩy nhanh quá trình tính toán hàng loạt các tỷ lệ.
Thứ ba: Phương pháp phân tích này giúp nhà phân tích khai thác có
hiệu quả những số liệu và phân tích một cách có hệ thống hàng loạt tỷ lệ theo
chuỗi thời gian liên tục hoặc theo từng giai đoạn.
Nhược điểm của phương pháp này là sự rời rạc, không liên kết trong hệ
thống các chỉ số.
1.2.3.3. Phương pháp Dupont:
Là phương pháp phân tích tài chính nhằm đánh giá sự tác động hỗ trợ
giữa các tỷ số tài chính, biến một chỉ tiêu tổng hợp thành một hàm số của một
loạt biến số. Điều đó cho phép phân tích ảnh hưởng của các tỷ số đó đối với
tỷ số tổng hợp. Như vậy, với phương pháp phân tích này các nhà phân tích sẽ
nhận biết được nguyên nhân dẫn đến các hiện tượng tốt, xấu trong hoạt động
của NHTM. Đây cũng chính là ưu điểm của phương pháp phân tích tài chính
này với khả năng khắc phục nhược điểm của hai phương pháp trên. Thực tế
cho thấy phương pháp này đã được áp dụng ở nhiều nước và đang bắt đầu
8
được áp dụng ở Việt Nam.
1.2.3.4. Phương pháp phân tích định tính.
Đây là phương pháp phân tích bổ sung cho phương pháp phân tích định
lượng, khắc phục những nhược điểm của phương pháp phân tích định lượng
là không tạo ra được tính liên kết, tổng hợp giữa các thông tin phục vụ phân
tích được phân theo các nhóm khác nhau.
Phương pháp phân tích này có thể sử dụng kết quả từ phương pháp
định lượng để đánh giá các điểm mạnh, điểm yếu, phân tích các cơ hội và
những mối đe doạ đối với hoạt động tài chính của ngân hàng để từ đó có thể
đề ra các chiến lược, tận dụng các cơ hội để phát huy điểm mạnh, khắc phục
điểm yếu.
1.2.4. Nội dung của hoạt động phân tích tài chính NHTM.
1.2.4.1. Các thông tin sử dụng trong phân tích tài chính.
Trong phân tích tài chính nhà phân tích phải thu thập, sử dụng mọi
nguồn thông tin từ những thông tin từ nội bộ ngân hàng đến những thông tin
bên ngoài ngân hàng. Những thông tin đó đều giúp cho nhà phân tích có thể
đưa ra được những đánh giá, nhận xét nhất định. Tuy nhiên, để có thể đánh
giá được một cách cơ bản nhất tình hình tài chính của một NHTM có thể sử
dụng những thông tin kế toán tài chính như một nguồn thông tin quan trọng
nhất đó chính là các báo cáo tài chính (Bảng cân đối kế toán; Báo cáo kết quả
hoạt động kinh doanh).
* Bảng cân đối kế toán:
- Phần nội bảng: Bảng cân đối kế toán gồm 2 phần Tài sản và Nguồn
vốn. Trong đó, phần Tài sản thể hiện những gì ngân hàng đang sở
hữu mà chủ yếu là những khoản tín dụng và đầu tư; phần Nguồn vốn
chủ yếu là tiền gửi của khách hàng; Tiền gửi và vay các TCTD khác;
Các khoản nợ chính phủ và NHNN; Vốn tài trợ, uỷ thác đầu tư;...
9
Vốn chủ sở hữu gồm Vốn điều lệ; các khoản chênh lệch do đánh giá
lại tài sản, chênh lệch tỷ giá theo quy định của pháp luật; Thặng dư
vốn cổ phần; Các quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ, quỹ đầu tư phát
triển nghiệp vụ, quỹ dự phòng tài chính; Lợi nhuận được để lại.
Bảng cân đối kế toán thường được lập vào cuối kỳ (quý hoặc năm) phản
ánh quy mô, cấu trúc Nguồn vốn và Tài sản của ngân hàng. Tài sản và Nguồn
vốn phải luôn bằng nhau. Rõ ràng Bảng cân đối kế toán phải thoả mãn điều kiện:
Tổng tài sản = Tổng nguồn vốn
= Tổng nợ phải trả và Vốn chủ sở hữu
So với Bảng cân đối kế toán của các doanh nghiệp phi tài chính,
Bảng cân đối kế toán của NHTM có cơ cấu khác biệt. Hầu hết tài sản của
NHTM là các khoản nợ về tài chính. Sự khác biệt về Tài sản giữa NHTM với
các doanh nghiệp khác xuất phát từ sự khác biệt về bản chất của của các
khoản nợ và đặc điểm hoạt động sinh lời mà các đơn vị thực hiện. Đối với
đơn vị hoạt động sản xuất kinh doanh phần lớn lợi nhuận được tạo ra từ hoạt
động sản xuất, buôn bán do đó họ cần nhiều máy móc, thiết bị, nguyên vật
liệu, hàng hoá tồn kho,…Ngược lại, lợi nhuận chủ yếu của NHTM có được từ
việc cho vay và đầu tư, cho nên NHTM nắm giữ nhiều trái phiếu, kỳ phiếu và
các công cụ tài chính khác làm cơ sở cho các khoản tiền tệ sẽ được thanh toán
trong tương lai.
- Phần ngoại bảng: Ngoài các giao dịch được phản ánh trong nội bảng,
các Ngân hàng còn tham gia vào các hoạt động khác nữa và các hoạt
động này được theo dõi ở các tài khoản ngoại bảng như: Bảo lãnh
ngân hàng, các giao dịch về hối đoái như: giao dịch swaps, options,
futures, các chứng từ có giá, các cam kết mua bán không hạch toán
nội bảng,…Mặc dù sự biến động của các giao dịch ngoại bảng không
làm thay đổi kết cấu, cân số của Bảng cân đối kế toán nhưng vì nó
10
cũng là một hiện tượng kinh tế phát sinh trong quá trình kinh doanh
nên độ rủi ro của nó cũng tác động mạnh mẽ đến độ an toàn và kết
quả kinh doanh chung của của ngân hàng.
+ Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh: Phản ánh các khoản thu
nhập và chi phí diễn ra trong kỳ. Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh phản
ánh tập trung nhất kết quả kinh doanh trong kỳ của ngân hàng.
Thu nhập của ngân hàng: gồm thu nhập lãi; thu nhập từ hoạt động dịch
vụ; hoạt động kinh doanh chứng khoán; hoạt động kinh doanh ngoại hối; thu
nhập từ hoạt động khác và thu nhập từ góp vốn, mua cổ phần. Thu nhập lãi từ
các tài sản sinh lãi như thu lãi tiền gửi, thu lãi cho vay, thu lãi chứng khoán,…
Thu nhập khác bao gồm các khoản thu ngoài lãi như thu phí, chênh lệch tỷ
giá,…
Chi phí của ngân hàng: Gồm chi phí trả lãi; chi phí hoạt động dịch vụ;
chi phí kinh doanh chứng khoán, kinh doanh ngoại hối; chi phí hoạt động
khác; chi phí hoạt động; chi phí dự phòng rủi ro và chi phí thuế thu nhập
doanh nghiệp.
Lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh trước chi phí dự phòng rủi
ro tín dụng = (Thu nhập lãi thuần + Lãi/lỗ thuần từ hoạt động dịch vụ +
Lãi/lỗ thuần từ hoạt động kinh doanh ngoại hối + Lãi/lỗ thuần từ mua bán
chứng khoán kinh doanh + Lãi/lỗ thuần từ mua bán chứng khoán đầu tư +
Lãi/lỗ thuần từ hoạt động khác + Thu nhập từ góp vốn mua cổ phần) – Chi
phí hoạt động
Tổng lợi nhuận trước thuế = Lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh
trước chi phí dự phòng rủi ro tín dụng – Chi phí dự phòng rủi ro tín dụng
Lợi nhuận sau thuế = Tổng lợi nhuận trước thuế - (Chi phí thuế
TNDN hiện hành – Chi phí thuế TNDN hoãn lại)
11
1.2.4.2. Nội dung phân tích tài chính của NHTM
a/ Phân tích bảng Cân đối kế toán:
* Phân tích Nợ phải trả:
Đặc trưng cơ bản trong kinh doanh của một NHTM là kinh doanh tiền tệ
dưới hình thức cho vay, đầu tư và cung cấp các dịch vụ khác. Ngoài vốn chủ
sở hữu các NHTM phải huy động thêm vốn tạo nguồn vốn hoạt động cho
mình. Nợ phải trả của của NHTM bao gồm: Tiền gửi của khách hàng; Tiền
gửi và vay các TCTD khác; Các khoản nợ Chính phủ và NHNN; Vốn tài trợ,
uỷ thác đầu tư, cho vay TCTD chịu rủi ro; Phát hành giấy tờ có giá; Các công
cụ tài chính phái sinh và các khoản nợ tài chính khác; Và các khoản nợ khác.
Khi phân tích Nợ phải trả của ngân hàng, cần tập trung đến các nội dung sau:
- Phân tích quy mô và tốc độ tăng trưởng tổng nợ phải trả: Cần đánh giá
sự tăng trưởng của các hạng mục qua các thời kỳ nhất định bằng cách sử dụng
phương pháp tỷ lệ.
- Phân tích cơ cấu vốn huy động và sự thay đổi trong cơ cấu vốn huy
động: Chỉ cần một sự thay đổi về quy mô và cơ cấu vốn huy động của ngân
hàng có thể sẽ dẫn đến sự thay đổi đáng kể trong thu nhập của ngân hàng.
-> Phân tích tỷ trọng tiền gửi của khách hàng: Đây là nguồn vốn huy động
quan trọng nhất, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn hoạt động của
NHTM. Tiền gửi của khách hàng bao gồm: Tiền gửi thanh toán; Tiền gửi có kỳ
hạn của các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội và tiền gửi tiết kiệm của dân cư.
Tiền gửi thanh toán là nguồn có lãi suất thấp nhưng yêu cầu chi trả lại rất
cao, yêu cầu dự trữ cao. Khả năng sử dụng nguồn vốn này để cho vay đầu tư
trung dài hạn là rất thấp.
-> Phân tích tỷ trọng nguồn tiền gửi và vay của các TCTD: Tiền gửi của
các TCTD chủ yếu nhằm mục đích nhờ thanh toán hộ, tuy nhiên nguồn này
12
thường không lớn.
-> Phân tích tỷ trọng nguồn vốn ngắn hạn và trung dài hạn: Phân tích kỳ
hạn danh nghĩa của nguồn tiền cho phép Ngân hàng đánh giá được tính ổn
định tương đối của nguồn vốn, tính toán khả năng hoán chuyển kỳ hạn của
nguồn vốn ngắn hạn, xác định thị phần và khả năng tăng trưởng quy mô của
mỗi loại.
+ Rủi ro thiếu vốn khả dụng tức thời: “Hệ số vốn khả dụng” - Hệ số này
đánh giá khả năng chi trả cho khách hàng trong một thời gian ngắn, tức là khả
năng đáp ứng yêu cầu rút tiền của người gửi.
+ Rủi ro chuyển hoán vốn: “Hệ số chuyển hoán vốn” - Hệ số này đánh giá
mức sử dụng nguồn vốn ngắn hạn ổn định để cho vay dài hạn của ngân hàng.
-> Phân tích tỷ trọng nguồn tiền gửi bằng VNĐ và bằng các ngoại tệ
khác: Lãi suất huy động bằng ngoại tệ thường thấp hơn bằng nội tệ, do vậy tỷ
trọng ngoại tệ trong tổng tiền gửi ảnh hưởng tới tình hình tài chính của Ngân
hàng. Tuy nhiên, nếu tỷ giá có tính ổn định không cao, việc cho vay bằng
ngoại tệ sẽ gặp khó khăn, việc chuyển từ tiền gửi loại này sang loại khác do
biến động tỷ giá và lãi suất cũng gây rủi ro tài chính cho ngân hàng.
-> Phân tích tỷ trọng tiền gửi tiết kiệm trong tổng tiền gửi: ở hầu hết các
ngân hàng tiết kiệm là nguồn huy động lớn nhất. Tuy lãi suất cao hơn các loại
tiền gửi khác song tính ổn định của tiết kiệm cao, là nguồn chính để cho vay
và đầu tư.
* Phân tích Vốn chủ sở hữu:
Trong hoạt động kinh doanh tiền tệ, vốn chủ sở hữu của một ngân hàng
mặc dù chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong tổng nguồn vốn của ngân hàng (khoảng
<10%) nhưng nó giữ vị trí rất quan trọng, quyết định quy mô và phạm vi kinh
doanh. Mặt khác vốn chủ sở hữu của ngân hàng là cái đệm chống đỡ sự sụt
giảm giá trị của tài sản của ngân hàng. Đối với kinh doanh tiền tệ, ngân hàng
13
có đủ vốn tự có, có vốn tự có lớn và duy trì được vốn tự có cao là biểu hiện
một ngân hàng bền vững.
Vốn chủ sở hữu của ngân hàng bao gồm: Vốn điều lệ; Các khoản chênh
lệch do đánh giá lại tài sản, chênh lệch tỷ giá theo quy định của pháp luật;
Thặng dư vốn cổ phần; các quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ, quỹ đầu tư phát
triển nghiệp vụ, quỹ dự phòng tài chính và Lợi nhuận được để lại.
Thông thường, theo luật tổ chức tín dụng và các quy chế an toàn trong
kinh doanh tiền tệ thì phạm vi hoạt động và quy mô kinh doanh của một ngân
hàng phụ thuộc vào quy mô vốn chủ sở hữu. Vốn chủ sở hữu được sử dụng vào
các giới hạn sau: tỷ lệ đầu tư vốn cổ phần hoặc liên doanh; Là căn cứ để giới
hạn các hoạt động kinh doanh tiền tệ,…Nếu có sự vi phạm vượt mức giới hạn
quy định thì tổ chức tín dụng bị đánh giá là ở trong tình trạng bị mất an toàn.
-> Phân tích tỷ lệ Vốn chủ sở hữu trong các tài sản rủi ro: Tổn thất làm
giảm quy mô tổng tài sản và trực tiếp làm giảm vốn chủ sở hữu. Do vậy, một
số cơ quan quản lý đã tìm kiếm mối liên hệ giữa Vốn chủ sở hữu và các tài
sản rủi ro nhằm xác định quy mô của vốn chủ sở hữu. Ngoài ra, Vốn tự có là
căn cứ để xác định khả năng thanh toán cuối cùng (tỷ lệ an toàn vốn tối
thiểu): là khả năng đáp ứng toàn bộ các cam kết của một ngân hàng. Khả năng
thanh toán có tính chất cơ cấu và lâu dài hơn khả năng sẵn sàng chi trả. Một
ngân hàng có thể thiếu tạm thời khả năng chi trả nhưng về cơ bản có khả năng
thanh toán và ngược lại.
Vốn chủ sở hữu là căn cứ để xác định giới hạn cho vay đối với một
khách hàng: Đánh giá khả năng hạn chế rủi ro từ phía bạn hàng, tức là đánh
giá khả năng phân tán rủi ro, không tập trung vốn cho một khách hàng hoặc
một số khách hàng quá lớn. Người ra thường đánh giá khả năng này của một
ngân hàng theo chỉ tiêu Hệ số phân tán rủi ro.
Đối với các NHTM tại Việt Nam, vốn tự có là căn cứ để xác định các
giới hạn: Đầu tư cổ phần hoặc liên doanh không quá 50% vốn tự có; Cho vay
14
các đối tượng ưu đãi không quá 5% vốn tự có; Cho vay tối đa đối với một
khách hàng không quá 15% vốn tự có; Tổng số tiền cho vay và bảo lãnh đối
với một khách hàng của một tổ chức tín dụng không được vượt quá tỷ lệ 25%
so với vốn tự có của tổ chức tín dụng đó.
* Phân tích tài sản:
Tài sản của NHTM bao gồm: Tiền mặt, vàng bạc, đá quý; Tiền gửi tại
NHNN; Tiền, vàng gửi tại các TCTD khác và cho vay các TCTD khác;
Chứng khoán kinh doanh; Các công cụ tài chính phái sinh và các tài sản tài
chính khác; Cho vay khách hàng; Chứng khoán đầu tư; Góp vốn đầu tư dài
hạn; Tài sản cố định; Bất động sản đầu tư và Tài sản có khác.
Khi phân tích tài sản của NHTM tập trung vào các vấn đề sau:
- Phân tích quy mô và tốc độ tăng trưởng các khoản mục tài sản (so với
kế hoạch hoặc kỳ trước).
- Phân tích quy mô và tốc độ tăng trưởng của tài sản sinh lãi đặc biệt là
cho vay khách hàng, chứng khoán kinh doanh và đầu tư. Tài sản sinh lãi là tài
sản mang lại thu nhập từ lãi cho ngân hàng như cho vay, đầu tư và các loại
tiền gửi khác. Một số tài sản sinh lời song không được xếp vào tài sản sinh lãi
cho ngân hàng như: tài sản cho thuê, ngân quỹ dùng để kinh doanh ngoại tệ,
…
- Phân tích chất lượng tài sản, trong đó chủ yếu tập trung vào chất lượng
các khoản đầu tư và cho vay. Chất lượng tài sản là chỉ tiêu tổng hợp nói lên
khả năng bền vững về mặt tài chính, khả năng sinh lời, năng lực quản lý và
phần lớn rủi ro trong hoạt động kinh doanh tiền tệ. Chất lượng tài sản là yếu
tố quyết định hiệu quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng, trong đó chất
lượng của các khoản cho vay và đầu tư là yếu tố quyết định đến chất lượng tài
sản của một ngân hàng.
Trong tài sản có thể chia thành 2 nhóm: tài sản sinh lời và tài sản không
15
sinh lời. Thông thường phân tích chất lượng tài sản trước hết phải xem tính hợp
lý trong cơ cấu tài sản có đáp ứng tốt nhất yêu cầu nâng cao doanh lợi, đồng
thời vẫn đảm bảo khả năng thanh toán đối với khách hàng. Để đánh giá tính
hợp lý trong cơ cấu tài sản của một NHTM có thể sử dụng 2 hệ số cơ cấu sau:
+ Hệ số cơ cấu tỷ lệ của 4 nhóm tài sản: ngân quỹ, cho vay, đầu tư và
tài sản cố định. Qua chỉ số này người ta có thể nhận định tính hợp lý của việc
sử dụng vốn của ngân hàng. Ngân hàng nào có tỷ trọng tài sản cho vay và đầu
tư càng lớn với điều kiện đảm bảo những tỷ lệ thích đáng cho tài sản ngân
quỹ và tài sản cố định thì cơ cấu tài sản của ngân hàng đó càng thích hợp.
+ Hệ số cơ cấu tỷ lệ của 2 nhóm tài sản có sinh lời và tài sản có không
sinh lời. Hệ số này cho phép nhận định mức độ tận dựng các nguồn vốn của
ngân hàng để tối đa hoá lợi nhuận. Tài sản như tiền mặt tại quỹ, tiền gửi dự
trữ bắt buộc tại NHNN, tài sản cố định của ngân hàng là tài sản có không sinh
lời nhưng không thể thiếu được nhằm đảm bảo khả năng thanh toán, phòng
tránh rủi ro cho NHTM.
Hệ số nợ không đủ tiêu chuẩn (nợ quá hạn, nợ khó đòi, nợ khoanh,..) là
chỉ tiêu phản ánh chất lượng tín dụng:
Hệ số nợ không đủ tiêu chuẩn = Tổng dư nợ không đủ tiêu chuẩn
trong kỳ/ Tổng dư nợ trong kỳ.
Đánh giá chất lượng tín dụng người ta còn sử dụng các chỉ tiêu sau:
+ Hệ số nợ quá hạn trên 90 ngày/ dư nợ bình quân. Theo thông lệ quốc
tế hệ số này không nên vượt quá 2%. Hệ số này càng lớn thì chất lượng tín
dụng càng thấp.
+ Hệ số nợ không có khả năng thu hồi = Dư nợ không có khả năng thu
hồi. Dư nợ bình quân. Hệ số này ở mức 0% là tốt nhất, ở mức <1% là bình
thường, ở mức >1% là có vấn đề.
+ Hệ số bù đắp nợ không có khả năng thu hồi = Quỹ dự phòng rủi ro/
Nợ không có khả năng thu hồi. Hệ số này nhất thiết phải = 1, nếu <1 thể hiện
16
ngân hàng không bù đắp được nợ không có khả năng thu hồi.
Phân tích chất lượng tín dụng còn được đánh giá trên giác độ tài sản
đảm bảo của khoản vay, vì tài sản đảm bảo tiền vay làm giảm nhẹ mức độ
nghiêm trọng của nợ tồn đọng.
Việc đánh giá chất lượng tín dụng là rất quan trọng và cần thiết. Nó
được xem xét dưới các mặt sau:
Mức độ tuân thủ nguyên tắc phân tán rủi ro cho vay đối với một khách
hàng, cho vay một nhóm khách hàng và cho vay vào một lĩnh vực nào đó có
quá mức cho phép không.
Nợ quá hạn và mức độ quá hạn: Đây là chỉ tiêu rất quan trọng đánh giá
hoạt động của một ngân hàng, phản ánh chất lượng tín dụng của ngân hàng rất
rõ nét. Nó ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của ngân hàng trong hiện tại và
tương lai.
- Cơ cấu tài sản và sự thay đổi cơ cấu tài sản: NHTM là doanh nghiệp kinh
doanh tiền tệ nên phần lớn tài sản của ngân hàng là các tài sản tài chính như: tiền
gửi, chứng khoán, các hợp đồng cho vay,... Một phần nhỏ trong khối tài sản của
ngân hàng là tài sản cố định như: nhà cửa, trang thiết bị,... Tài sản của NHTM
cũng có thể được chia thành: tài sản sinh lãi và tài sản không sinh lãi.
Trong tổng thu nhập của ngân hàng thì thu nhập từ lãi chiếm tỷ trọng
chủ yếu. Thu nhập này phụ thuộc vào cơ cấu, quy mô và lãi suất của các tài
sản sinh lãi. Tài sản sinh lãi chủ yếu là: cho vay khách hàng; chứng khoán đầu
tư và các khoản tiền gửi. Các NHTM cần xác định cơ cấu tài sản phù hợp để
vừa đảm bảo khả năng sinh lời đã đặt ra, vừa đảm bảo an toàn trong hoạt
động kinh doanh.
- Xu hướng phát triển của từng mục tài sản: Để dự đoán được xu hướng
thay đổi trong cơ cấu tài sản thì cần căn cứ vào kế hoạch, chiến lược phát
triển của ngân hàng và nhận định được những nhân tố ảnh hưởng đến sự thay
17
đổi cơ cấu đó.
* Phân tích mối liên hệ giữa nguồn vốn và tài sản:
Mối liên hệ giữa Tài sản và Nguồn vốn chính là mối liên hệ giữa huy động
vốn và sử dụng vốn, đây là hai mặt của quá trình hoạt động của ngân hàng.
- Mối liên hệ sinh lời:
Tài sản mang lại thu nhập cho ngân hàng, còn nguồn vốn liên quan đến
chi phí của ngân hàng – chi phí trả lãi. Nếu dùng chỉ tiêu Chênh lệch thu chi
từ lãi (Thu nhập từ lãi – Chi phí trả lãi) để đo mối liên hệ sinh lời giữa nguồn
vốn và tài sản, thì sinh lời tăng khi lãi suất bình quân hoặc lãi suất biên của tài
sản phải lớn hơn lãi suất bình quân hay lãi suất biên của nguồn vốn. Điều này
có nghĩa là nguồn vốn và sự gia tăng nguồn vốn với quy mô và cấu trúc nhất
định cần phải được phân bổ thành các tài sản sinh lời thích hợp. Ngân hàng có
thể theo đuổi lãi suất huy động cao để có thể huy động được lượng tiền lớn rồi
sau đó cho vay với lãi suất cao, hoặc có thể từ lãi suất cho vay phải chấp nhận
trên thị trường, ngân hàng nỗ lực tìm kiếm các nguồn vốn với chi phí thấp.
Những ngân hàng không tham gia đặt giá (không đủ lớn để tham gia quyết
định lãi suất trên thị trường) thì phải tự điều chỉnh cơ cấu nguồn vốn và tài
sản nhằm thoả mãn yêu cầu sinh lời.
Mối liên hệ giữa tài sản và nguồn vốn thường được đo bằng tỷ lệ tài
sản sinh lãi và chênh lệch lãi.
+ Tỷ lệ tài sản sinh lãi = Tài sản sinh lãi / Tổng tài sản
Tỷ lệ này càng cao thì khả năng tạo thu nhập từ lãi cho ngân hàng càng
cao, tuy nhiên nó sẽ tiềm ẩn nhiều rủi ro cho hoạt động của ngân hàng.
+ Chênh lệch thu- chi từ lãi = Thu nhập lãi – Chi phí trả lãi
Chỉ tiêu này phản ánh quy mô sinh lời từ hoạt động cơ bản của ngân
hàng: huy động vốn để cho vay và đầu tư. Chênh lệch này càng lớn thì thu
nhập ròng của ngân hàng càng cao. Chênh lệch thu chi khác đang ngày càng
đóng vai trò quan trọng đối với ngân hàng khi mà chênh lệch thu chi từ lãi có
18
xu hướng giảm.
+ Chênh lệch lãi suất = (Thu nhập lãi – Chi phí trả lãi)/Tài sản sinh lãi
+ ROA = Lợi nhuận sau thuế/ Tổng tài sản
+ ROE = Lợi nhuận sau thuế/Vốn chủ sở hữu
Các chỉ tiêu trên phản ánh mức sinh lời trên tổng tài sản hoặc trên vốn
chủ sở hữu. Với mục tiêu chủ yếu là tối đa hoá lợi ích của chủ sở hữu, ROE là
chỉ tiêu được các nhà ngân hàng quan tâm nhất.
- Mối liên hệ an toàn:
Ngân hàng phải duy trì các mối liên hệ an toàn theo luật định, ví dụ
như: khoản cho vay cao nhất đối với một khách hàng không vượt quá tỷ lệ
quy định trên vốn chủ sở hữu; Đầu tư cổ phần hoặc liên doanh không vuợt
quá tỷ lệ quy định trên vốn chủ sở hữu; ....
Quy mô và cấu trúc tiền gửi liên quan chặt chẽ đến ngân quỹ và chứng
khoán thanh khoản cũng như kỳ hạn nợ của các khoản tín dụng. Một số ngân
hàng từ cấu trúc, tính ổn định và thanh khoản của nguồn tiền sẽ quyết định
cấu trúc và tính thanh khoản của tài sản. Ngược lại, một số ngân hàng từ cấu
trúc và tính thanh khoản của tài sản dự tính sẽ tìm kiếm và quản lý quy mô và
cấu trúc nguồn vốn cho thích hợp.
+ Sự không phù hợp về kỳ hạn của nguồn vốn và tài sản được đo
bằng “Khe hở lãi suất”.
Khe hở lãi suất = Tài sản nhạy cảm lãi suất - Nguồn nhạy cảm lãi suất.
Tài sản và nguồn vốn nhạy cảm thường là các loại mà số dư nhanh
chóng chuyển sang lãi suất mới khi lãi suất thay đổi (thường là các tài sản và
nguồn vốn có kỳ hạn từ 12 tháng trở xuống, lãi suất thả nổi hoặc có kỳ đáo
hạn dưới 12 tháng). Ngân hàng có khe hở lãi suất dương nếu tài sản nhạy cảm
lớn hơn nguồn vốn nhạy cảm (kỳ hạn huy động dài hơn sử dụng) và có khe hở
19
âm nếu tài sản nhạy cảm nhỏ hơn nguồn nhạy cảm (kỳ hạn huy động nhỏ hơn
sử dụng).
Sự khác biệt về kỳ hạn nguồn vốn và tài sản là tất yếu. Kỳ hạn để phân
loại tài sản và nguồn vốn nhạy cảm không phải là kỳ hạn danh nghĩa mà là kỳ
hạn tài sản và nguồn được xác định lại lãi suất. Ví dụ: Một nguồn tiền huy
động 3 năm, với lãi suất 10%/năm, song đã duy trì được 2 năm 11 tháng ->
Như vậy nguồn này chỉ còn 1 tháng nữa là đến hạn và nếu lãi suất thị trường
thay đổi thì nguồn này sẽ được xác định lại lãi suất.
Ngân hàng khó và không nhất thiết phải duy trì sự phù hợp tuyệt đối về
kỳ hạn giữa các nguồn và các loại tài sản khác nhau trong mọi thời kỳ, vì:
Thứ nhất, kỳ hạn trên là do người gửi tiền và khách hàng đi vay quyết định;
Thứ hai, sự thay đổi của các loại lãi suất là khác nhau và mức độ nhạy cảm
của nguồn và tài sản đối với lãi suất cũng rất khác nhau; Thứ ba, sự khác biệt
về nguồn và tài sản nhạy cảm có thể tạo ra thu nhập cao hơn cho ngân hàng.
Khi duy trì khe hở lãi suất khác không, nếu lãi suất thay đổi theo chiều hướng
phù hợp, thu nhập của ngân hàng sẽ tăng.
Khe hở lãi suất hoặc tỷ lệ tài sản nhạy cảm lãi suất/nguồn nhạy cảm lãi
suất được sử dụng để đo rủi ro lãi suất. Để hạn chế rủi ro lãi suất có các biện
pháp sau: Duy trì phù hợp tương đối về kỳ hạn của nguồn vốn và tài sản; Áp
dụng lãi suất thả nổi; Sử dụng hợp đồng kỳ hạn,…
Một danh mục tài sản bao gồm các khoản cho vay và đầu tư rủi ro cao
có thể bị tổn thất lớn, làm giảm uy tín của ngân hàng và phản ứng của công
chúng là rút tiền ra khỏi ngân hàng. Do đó nguồn tiền sẽ suy giảm nhanh và
mạnh sẽ đẩy ngân hàng đi đến phá sản.
+ Khả năng thanh toán: Khả năng thanh toán là một chuẩn mực hoạt
động quan trọng của một ngân hàng. Đây là yếu tố hết sức nhạy cảm đối với
hoạt động của ngân hàng. Thực tiễn cho thấy có nhiều ngân hàng mặc dù có
20
chất lượng tài sản rất tốt nhưng khó có một khoản tiền rút ra mà ngân hàng
không đảm bảo khả năng chi trả, dẫn đến mất tín nhiệm với khách hàng và có
thể làm cho ngân hàng đi đến phá sản.
Khả năng thanh toán được đánh giá theo những quy mô và nội dung
khác nhau, nhưng thông thường được lượng hoá qua một số chỉ tiêu cơ bản:
+ Hệ số vốn khả dụng = Tổng tài sản có thời hạn dưới 1 tháng (nội
bảng và ngoại bảng)/ Tổng các khoản nợ phải thanh toán trong vòng một
tháng (nội bảng và ngoại bảng).
Các nhu cầu thanh toán bao gồm:
• Nhu cầu rút tiền của người gửi: Các doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân
có tiền gửi thanh toán, tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi khác,...
• Nhu cầu tín dụng hợp pháp của khách hàng để thanh toán tiền hàng
hoá, dịch vụ mà ngân hàng cam kết cho vay.
• Các khoản tiền vay đến hạn trả.
• Lãi phải trả cho các khoản tiền gửi, tiền vay.
Trong đó: nhu cầu rút tiền và vay tiền của khách hàng là hai bộ phận
quan trọng nhất.
Hệ số vốn khả dụng đòi hỏi các NHTM phải tuân thủ một cách thường
xuyền và vào bất kỳ thời điểm nào. Nếu hệ số vốn khả dụng <1 là biểu hiện
ngân hàng bị đe doạ về khả năng thanh toán và tính linh hoạt trong kinh
doanh có vấn đề.
Ở Việt Nam, TCTD phải thường xuyên đảm bảo tỷ lệ về khả năng chi
trả đối với từng loại đồng tiền, vàng như sau:
+ Tỷ lệ tối thiểu 25% giữa giá trị các tài sản có thể thanh toán ngay và
Nợ phải trả sẽ đến hạn thanh toán trong thời gian 1 tháng tiếp theo.
+ Tỷ lệ tối thiểu bằng 1 giữa tổng tài sản có thể thanh toán ngay trong
khoảng thời gian 7 ngày làm việc tiếp theo và tổng Nợ phải trả phải thanh
21
toán trong khoảng thời gian 7 ngày làm việc tiếp theo.
Tài sản có thể thanh toán ngay: bao gồm: Tiền mặt, vàng, tiền gửi tại
NHNN (trừ tiền gửi dự trữ bắt buộc); Số chênh lệch lớn hơn giữa tiền gửi
không kỳ hạn tại TCTD khác và tiền gửi không kỳ hạn nhận của TCTD đó;
Các loại chứng khoán do Chính phủ Việt Nam phát hành hoặc được Chính
phủ Việt Nam bảo lãnh: 100% giá trị sổ sách nếu thời hạn còn lại từ 1 năm trở
xuống và 95% giá trị sổ sách nếu thời hạn còn lại trên 1 năm; Các loại chứng
khoán do tổ chức tín dụng hoạt động tại Việt Nam phát hành hoặc bảo lãnh:
100% giá trị sổ sách nếu thời hạn còn lại từ 1 tháng trở xuống; 95% giá trị sổ
sách nếu thời hạn còn lại từ trên 1 tháng đến 1 năm; và 90% giá trị sổ sách
nếu thời hạn còn lại trên 1 năm; 75% các khoản cho vay không có bảo đảm
đến hạn thanh toán;...
Các khoản nợ phải thanh toán ngay: bao gồm: 15% tiền gửi không kỳ
hạn của tổ chức (trừ tiền gửi của các TCTD khác), cá nhân; Số chênh lệch lớn
hơn giữa tiền gửi nhận của TCTD khác và tiền gửi tại các tổ chức đó đến hạn
thanh toán; Giá trị các cam kết cho vay của TCTD đến hạn thực hiện;...
Hệ số khả năng thanh toán nhanh rất quan trọng vì nó gắn liền với uy
tín của ngân hàng. Do vậy, khi đánh giá khả năng thanh toán người ta còn sử
dụng bổ sung một số chỉ tiêu phân tích khác như:
+ Tiền mặt tồn quỹ (VNĐ và Ngoại tệ) / Nợ phải trả dễ biến động.
+ Tiền gửi tại NHNN/ Nợ phải trả dễ biến động.
+ Tiền gửi không kỳ hạn tại các TCTD trong và ngoài nước / Nợ phải
trả dễ biến động.
Trong cầu thanh khoản có 2 bộ phận quan trọng đó là nhu cầu rút tiền
và nhu cầu vay tiền của khách hàng. Sự khác biệt về kỳ hạn của các dòng tiền
vào (cung thanh khoản) và ra (cầu thanh khoản) tạo nên sự khác biệt về cung
và cầu thanh khoản.
22
Nhu cầu thanh khoản được các ngân hàng dự đoán dựa trên nghiên cứu
các nhóm nhân tố ảnh hướng tới nhu càu thanh khoản đó là:
-> Nhóm nhân tố gây ra tâm lý hoảng loạn trong khách hàng gửi tiền
như bất ổn về chính trị, tham nhũng trong hệ thống tài chính, các khoản cho
vay xấu dẫn đến khả năng mất thanh toán của một ngân hàng.
-> Nhóm nhân tố liên quan đến thu nhập và nhu cầu chi tiêu của khách
hàng như tính thời vụ trong sản xuất và tiêu dùng, mức thu nhập và vấn đề tiết
kiệm, mật độ dân số và doanh nghiệp,…
-> Nhóm nhân tố cạnh tranh trên địa bàn giữa các trung tâm tài chính
như chính sách huy lãi suất huy động, chính sách tín dụng,.. của mối tổ chức
tín dụng.
-> Nhóm nhân tố tạo nên sức mạnh và uy tín của bản thân ngân hàng
như nguồn lực, công nghệ, thị phần, uy tín,..
b/ Phân tích báo cáo kết quả kinh doanh.
- Phân tích doanh thu: Doanh thu từ hoạt động kinh doanh của các
TCTD là số tiền thu được trong kỳ bao gồm:
+ Thu từ hoạt động kinh doanh gồm: thu từ hoạt động tín dụng, thu
lãi tiền gửi, thu dịch vụ, thu từ hoạt động kinh doanh ngoại hối và vàng, thu
lãi góp vốn, mua cổ phần, thu từ hoạt động mua bán nợ, thu về chênh lệch tỷ
giá, thu từ hoạt động kinh doanh khác.
+ Thu khác gồm: các khoản thu từ việc nhượng bán, thanh lý tài sản cố
định, thu về các khoản vốn đã được xử lý bằng dự phòng rủi ro, thu kinh phí
quản lý đối với các công ty thành viên độc lập; thu tiền phạt do khách hàng vi
phạm hợp đồng và các khoản thu khác.
* Nội dung khi phân tích doanh thu của ngân hàng:
- Phân tích quy mô và cơ cấu các khoản mục thu nhập qua các thời kỳ
- Phân tích sự thay đổi của khoản mục thu nhập và các nhân tố ảnh
23
hưởng.
- Phân tích các khoản mục thu nhập quan trọng như thu nhập từ lãi
hoặc có tốc độ tăng trưởng nhanh.
Tổng thu từ lãi = Thu lãi từ cho vay + Thu lãi từ các khoản tiền gửi
+ Thu lãi từ chứng khoán nợ + Thu lãi từ cho thuê
Thu lãi được tính cho từng khoản mục tài sản chi tiết, từng khách hàng
với lãi suất khác nhau, thời gian khác nhau.
Thu từ lãi đóng vai trò quan trọng đối với ngân hàng và là kết quả tài
chính quan trọng được quan tâm hàng đầu. Phần lớn các NHTM thu lãi chiếm
bộ phận chủ yếu trong thu nhập và quyết định độ lớn của thu nhập ròng.
Với sự phát triển theo hướng đa dạng hoá và sự hỗ trợ của công nghệ
thông tin, các dịch vụ khác (ngoài cho vay và đầu tư) không ngừng phát triển
làm gia tăng các khoản thu khác trong thu nhập, đặc biệt là đối với các ngân
hàng lớn gần trung tâm tiền tệ. Nhiều loại trong những hoạt động này ít rủi ro
hơn cho vay và đầu tư song đòi hỏi trang thiết bị hiện đại.
- Phân tích chi phí:
Chi phí của TCTD là các chi phí chi trả hợp lý phát sinh trong kỳ bao gồm:
+ Chi hoạt động kinh doanh:
-> Chi phí phải trả lãi tiền gửi; chi phí phải trả lãi tiền vay; chi hoạt động
kinh doanh ngoại hối và vàng; chi hoạt động kinh doanh dịch vụ ngân hàng;
chi cho việc mua bán cổ phiếu, trái phiếu; chi cho hoạt động mua bán nợ; chi
cho hoạt động góp vốn, mua cổ phần; chi về chênh lệch tỷ giá; chi cho hoạt
động kinh doanh khác;
-> Chi trích khấu hao tài sản cố định sử dụng cho hoạt động kinh doanh
và dịch vụ. Mức trích khấu hao quy định chung đối với các doanh nghiệp.
-> Tiền lương, tiền công và các khoản chi mang tính chất tiền lương, tiền
24
công mà tổ chức tín dụng phải trả cho người lao động, phụ cấp cho những
người làm việc kiêm nhiệm theo chế độ quy định.
-> Chi đi thuê và cho thuê tài sản.
-> Bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn mà TCTD phải
trả theo quy định của pháp luật.
-> Chi phí dịch vụ mua ngoài như: Vận chuyển, điện nước, điện thoại,
vật liệu, giấy tờ in, văn phòng phẩm, công cụ lao động, sửa chữa TSCĐ,
phòng cháy chữa cháy, tư vấn, kiểm toán, tiền mua bảo hiểm tài sản, chi hoa
hồng, đại lý môi giới, uỷ thác và các dịch vụ khác.
-> Các khoản chi phí khác: Thuế môn bài, chi trợ cấp thôi việc cho
người lao động theo chế độ hiện hành, tiền ăn ca cho cán bộ nhân viên,…
+ Các chi phí hoạt động khác của TCTD, gồm:
-> Chi hoạt động kinh doanh vàng bạc, ngoại tệ.
-> Chi cho việc mua bán cổ phiếu, trái phiếu.
-> Chi cho thuê, đi thuê tài sản.
-> Chi nhượng bán, thanh lý tài sản.
-> Chi cho hoạt động liên doanh, hợp doanh, góp vốn cổ phần.
-> Chi cho việc mua bán nợ giữa các TCTD.
-> Chi cho việc thu hồi các khoản tổn thất tài sản còn lại sau khi
đã bù đắp bằng các nguồn theo quy định.
-> Các khoản chi khác.
Chi trả lãi là khoản chi lớn nhất của ngân hàng và có xu hướng gia tăng
do gia tăng quy mô huy động cũng như kỳ hạn huy động (lãi suất cao hơn khi
kỳ hạn huy động dài hơn). Tiền gửi thường chiếm tỷ trọng cao hơn nên trả lãi
tiền gửi là bộ phận chủ yếu trong chi trả lãi. Lãi suất của các khoản vay cao
hơn lãi suất tiền gửi (với cùng kỳ hạn), do vậy nếu ngân hàng gia tăng vay chi
25