Tải bản đầy đủ (.doc) (64 trang)

Nâng cao chất lượng cho vay đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa tại ngân hàng Việt Nam Thịnh Vượng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (350.54 KB, 64 trang )

Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS .Nguyễn Thị Minh Huệ
MỤC LỤC
SV:Hoàng Thị Huệ Lớp: TC A – K39
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS .Nguyễn Thị Minh Huệ
DANH MỤC BẢNG, BIỂU
Bảng 2.1: Doanh số cho vay DNNVV tại Ngân hàng Việt Nam Thịnh Vượng
Error: Reference source not found
Bảng 2.2:Cơ cấu dư nợ cho vay DNNVV tại ngân hàng Việt Nam Thịnh Vượng
Error: Reference source not found
Bảng 2.3:Dư nợ cho vay DNNVV tại Ngân hàng Việt Nam Thịnh Vượng
Error: Reference source not found
Bảng 2.4: Tốc độ tăng trưởng dư nợ cho vay đối với DNNVV tại ngân hàng
Việt Nam Thịnh Vượng Error: Reference source not found
Biểu đồ 2.1:Cơ cấu dư nợ cho vay DNNVV tại ngân hàng Việt Nam Thịnh
Vượng theo kỳ hạn nợ Error: Reference source not found
Biểu đồ 2.2: Cơ cấu dư nợ cho vay DNVVN tại ngân hàng Việt Nam Thịnh
Vượng theo tài sản đảm bảo Error: Reference source not found
Biểu đồ 2.3: Tỷ trọng thu nhập từ hoạt động cho vay DNNVV của Ngân
hàng Việt Nam Thịnh Vượng Error: Reference source not found
Biểu đồ 2.4: Tỷ lệ nợ quá hạn đối với DNNVV tại Ngân hàng Việt Nam
Thịnh Vượng Error: Reference source not found
Biểu đồ 2.5: Vòng quay vốn cho vay DNNVV của Ngân hàng Việt
NamThịnh Vượng……………………… Error: Reference source
not found
SV:Hoàng Thị Huệ Lớp: TC A – K39
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS .Nguyễn Thị Minh Huệ
LỜI MỞ ĐẦU
Doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) là một loại hình doanh nghiệp
không những thích hợp đối với nền kinh tế của những nước công nghiệp
phát triển mà còn đặc biệt thích hợp với nền kinh tế của những nước đang
phát triển.Trước đây, việc phát triển các DNNVV cũng đã được quan tâm,


song chỉ từ khi có đường lối đổi mới kinh tế do Đảng cộng sản Việt Nam
khởi xướng thì các doanh nghịêp này mới thực sự phát triển nhanh cả về số
lượng và chất lượng. Ở Việt Nam, DNNVV chiếm tới trên 90% số doanh
nghiệp và đóng góp đáng kể vào mục tiêu tăng trưởng ngân sách nhà nước,
tạo công ăn việc làm, thu nhập cá nhân và huy động vốn đầu tư phát triển
kinh tế xã hội
Trong điều kiện hiện nay, do năng suất và hiệu quả sản xuất kinh
doanh của các DNNVV chưa cao, vốn tự có của doanh nghiệp còn nhiều
hạn chế nên vốn vay ngân hàng là nguồn vốn quan trọng để doanh
nghiệp tăng cường đầu tư phát triển và mở rộng hoạt động sản xuất
kinh doanh. Thế nhưng việc tiếp cận và sử dụng vốn của các DNNVV còn
gặp nhiều khó khăn, vướng mắc. Lí do là cho vay DNNVV thường tiềm ẩn
rủi ro nhiều hơn so với các doanh nghiệp lớn. Hơn nữa, các doanh nghiệp
này lại sử dụng vốn vay chưa thực sự hiệu quả. Chính vì vậy, việc nâng cao
chất lượng cho vay đối với DNNVV là vấn đề quan trọng thu hút sự quan
tâm của hầu hết các ngân hàng thương mại và các DNNVV.
Qua quá trình thực tập tại ngân hàng Việt Nam Thịnh Vượng, tôi
nhận thấy hoạt động cho vay đối với DNNVV tại ngân hàng tuy đã phát
triển nhưng vẫn còn tồn tại một số hạn chế. Vì vậy đề tài: “ Nâng cao chất
lượng cho vay đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa tại ngân hàng Việt Nam
Thịnh Vượng” được chọn để làm đề tài nghiên cứu
SV:Hoàng Thị Huệ Lớp: TC A – K39
1
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS .Nguyễn Thị Minh Huệ
Nội dung chính của đề tài bao gồm 3 chương:
Chương 1: Lý luận cơ bản về chất lượng cho vay đối với doanh
nghiệp nhỏ và vừa tại ngân hàng thương mại
Chương 2: Thực trạng chất lượng cho vay đối với doanh nghiệp nhỏ
và vừa của Ngân hàng Việt Nam Thịnh Vượng
Chương 3: Các giải pháp nâng cao chất lượng cho vay đối với doanh

nghiệp nhỏ và vừa của ngân hàng Việt Nam Thịnh Vượng
SV:Hoàng Thị Huệ Lớp: TC A – K39
2
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS .Nguyễn Thị Minh Huệ
CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CHẤT LƯỢNG CHO VAY ĐỐI
VỚI DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA CỦA NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI
1.1 HOẠT ĐỘNG CHO VAY ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ
VỪA CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1.1 Hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại
1.1.1.1 Tổng quan về ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại là tổ chức tài chính đặc biệt quan trọng, được
hình thành và phát triển cùng với sự phát triển của nền kinh tế quốc gia.
Ngân hàng thương mại ngày nay chiếm tỉ trọng lớn nhất cả về thị phần, qui
mô, tài sản và số lượng trong hệ thống tài chính. Trải qua một thời gian dài
với nhiều biến động của nền kinh tế, có rất nhiều khái niệm ngân hàng
thương mại đã được hình thành.
Theo pháp lệnh ngân hàng 23/5/1990 của Hội Đồng Nhà nước: “ Ngân
hàng thương mại là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu
thường xuyên là nhận tiền gửi khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử
dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghĩa vụ chiết khấu và làm phương
tiện thanh toán”.
Luật tổ chức tín dụng của nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
ghi“ Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân
hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để
cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán”.
Một cách tiếp cận khác, dựa trên những dịch vụ mà ngân hàng mang
lại: Ngân hàng thương mại là tổ chức tài chính tiền tệ cung cấp một danh
mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất đặc biệt là nghiệp vụ tín dụng, tiết

kiệm và dịch vụ thanh toán, thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với
bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế.
SV:Hoàng Thị Huệ Lớp: TC A – K39
3
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS .Nguyễn Thị Minh Huệ
Đặc điểm của ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại là một loại hình doanh nghiệp hoạt động kinh
doanh trên lĩnh vực tín dụng với mục đích thu lợi nhuận. Cũng giống các tổ
chức tín dụng khác, mục đích cuối cùng của Ngân hàng thương mại chính
là lợi nhuận, tối đa hóa giá trị vốn chủ sở hữu. Là một thực thể đặc biệt
trong nền kinh tế thị trường, Ngân hàng thương mại được ví như những
mạch máu của nền kinh tế với những hoạt động chủ yếu là huy động vốn và
sử dụng vốn.
* Huy động vốn
Một đặc trưng quan trọng trong hoạt động của ngân hàng là đi vay
để cho vay, vì vậy khác với các doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực
phi tài chính, huy động vốn là một hoạt động hết sức quan trọng. Huy
động vốn là hoạt động có vai trò cung cấp đầy đủ và kịp thời các nguồn
vốn phục vụ cho các hoạt động khác của ngân hàng. Huy động vốn bao
gồm các hoạt động:
• Nhận tiền gửi
Tiền gửi là nguồn tiền quan trọng, chiếm tỉ trọng lớn trong tổng nguồn
tiền của ngân hàng. Để gia tăng tiền gửi trong môi trường cạnh tranh và có
được nguồn tiền chất lượng ngày càng cao, các ngân hàng đã đưa ra và
thực hiện nhiều hình thức huy động khác nhau. Ngân hàng chủ yếu huy
động vốn bằng phương thức nhận tiền gửi của cá nhân hoặc tổ chức kinh
tế- xã hội. Với nhiều hình thức nhận tiền gửi như tiền gửi thanh toán, tiền
gửi tiết kiệm, ngân hàng đã thu hút được một lượng vốn lớn trong dân cư.
Bên cạnh đó, do mục đích thanh toán hộ, các ngân hàng thường có thêm
nguồn tiền gửi của các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng khác.

Tuy nhiên khối lượng này chiếm một tỉ lệ rất nhỏ trong qui mô nguồn vốn
của ngân hang
• Đi vay từ các nguồn khác
Tiền gửi là nguồn quan trọng nhất của Ngân hàng thương mại, tuy
SV:Hoàng Thị Huệ Lớp: TC A – K39
4
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS .Nguyễn Thị Minh Huệ
nhiên, khi cần các ngân hàng vẫn thường đi vay mượn thêm. Do tại nhiều
nước, ngân hàng trung ương thường qui định tỷ lệ giữa nguồn tiền huy
động và vốn của chủ nên nhiều ngân hàng vào các giai đoạn cụ thể phải
vay mượn thêm để đáp ứng nhu cầu chi trả khi khả năng huy động bị hạn
chế. Các nguồn đi vay của Ngân hàng thương mại là vay NHNN, đi vay các
tổ chức tín dụng và vay trên thị trường vốn. Hình thức cho vay chủ yếu của
NHNN là tái chiết khấu các giấy tờ có giá hoặc tái cấp vốn. NHNN đóng
vai trò người cho vay cuối cùng của Ngân hàng thương mại, khi đó Ngân
hàng thương mại phải thực hiện các điều kiện đảm bảo và kiểm soát, chỉ có
thể được vay trong một hạn mức nhất định. Nguồn vay từ các tổ chức tín
dụng là nguồn các ngân hàng vay mượn lẫn nhau và vay các tổ chức tín
dụng khác trên thị trường liên ngân hàng. Nguồn vay mượn từ các ngân
hàng khác để đáp ứng nhu cầu dự trữ và chi trả cấp bách, trong nhiều
trường hợp nó bổ sung hoặc thay thế cho nguồn vay mượn từ NHNN. Và
cũng giống như các doanh nghiệp khác, các ngân hàng cũng có thể vay
mượn bằng cách phát hành các giấy nợ ( kỳ phiếu, tín phiếu, trái phiếu)
trên thị trường vốn.
• Các nguồn khác
Ngoài hai kênh huy động vốn trên, ngân hàng còn có thể huy động
vốn ở các nguồn như nguồn ủy thác, nguồn trong thanh toán …Đặc điểm
của các nguồn này là phần lớn các ngân hàng không phải trả lãi, tuy nhiên
chi phí để có và duy trì nó là không nhỏ. Nhìn chung, các nguồn khác trong
ngân hàng thường không lớn. Việc gia tăng các nguồn này nằm trong chính

sách tăng nguồn thu cho ngân hàng và bị ảnh hưởng rất lớn bởi khả năng
thực hiện và mở rộng các loại hình dịch vụ khác.
* Sử dụng vốn
Nếu hoạt động chính của Ngân hàng thương mại là huy động vốn để
sử dụng nhằm thu lợi nhuận thì việc sử dụng vốn chính là quá trình tạo nên
các tài sản khác nhau của ngân hàng, trong đó cho vay và đầu tư là hai loại
tài sản lớn và quan trọng.
• Hoạt động cho vay cho vay và đầu tư
SV:Hoàng Thị Huệ Lớp: TC A – K39
5
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS .Nguyễn Thị Minh Huệ
Hoạt động cho vay là một nghiệp vụ tín dụng điển hình nhất trong
hoạt động tín dụng của ngân hàng, hoạt động cho vay chiếm tỉ trọng cao
nhất về doanh thu và số lượng giao dịch. Đồng thời đây cũng là dịch vụ
tiềm ẩn nhiều rủi ro nhất cho ngân hàng và được các ngân hàng quản lý
chặt chẽ bằng việc kiểm soát qua nhiều phòng ban để đưa ra các quyết định
cho vay, qua đó thực hiện chức năng trung gian tài chính của ngân hàng.
Hoạt động đầu tư của Ngân hàng thương mại được thể hiện dưới nhiều
hình thức: đầu tư mua bán chứng khoán, đầu tư góp vốn cổ phần, góp vốn
liên doanh liên kết… Nhờ có những hoạt động đầu tư này mà các ngân
hàng thương mại có thể sử dụng và khai thác tối đa các nguồn vốn đã huy
động, đa dạng hóa kinh doanh và phân tán rủi ro, tăng cường khả năng
thanh khoản cho ngân hàng thương mại, đồng thời lại mang lại nguồn thu
nhập cho ngân hàng.
•Các hoạt động khác
- Hoạt động bảo lãnh: là việc ngân hàng cam kết thực hiện các nghĩa
vụ tài chính hộ khách hành của mình trong trường hợp khách hàng đó
không thực hiện đúng nghiệp vụ theo như cam kết. Trong bảo lãnh, ngân
hàng không xuất tiền ra mà cho khách hàng sử dụng uy tín của mình để thu
lợi. Có nhiều hình thức bảo lãnh như Bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh thanh

toán, bảo lãnh chất lượng, bảo lãnh thực hiện hợp đồng.
- Hoạt động cho thuê: là hoạt động bắt nguồn từ các doanh nghiệp sản
xuất hoặc cung cấp thiết bị, nhà cửa có giá trị lớn, sử dụng lâu dài. Do
người mua không có đủ tiền mua hoặc chỉ có nhu cầu sử dụng trong một
thời gian ngắn hơn thời gian khấu hao của tài sản, từ đó nảy sinh nhu cầu đi
thuê. Còn các doanh nghiệp sản xuất và cung cấp có nhu cầu tiêu thụ để
tăng doanh thu và giảm hao mòn của tài sản, từ đó nảy sinh nhu cầu đi
thuê- cho thuê.
- Hoạt động tài trợ thương mại: là hoạt động thanh toán xuất nhập
khẩu của ngân hàng và hoạt động thu lợi nhuận từ hoạt động kinh
SV:Hoàng Thị Huệ Lớp: TC A – K39
6
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS .Nguyễn Thị Minh Huệ
doanh ngoại tệ, hoạt động chuyển tiền và thu phí qua các L/C xuất nhập
khẩu và hoạt động tài trợ thương mại khác.
- Hoạt động dịch vụ : hoạt động dịch vụ bao gồm các hoạt động thanh
toán luân chuyển vốn giữa các doanh nghiệp, thu phí từ các dịch vụ thẻ như
ATM, tín dụng quốc tế, các tiền tệ kho quỹ, phát hiện và thu hồi tiền giả,
đảm bảo an toàn kho quỹ đồng thời triển khai các hoạt động dịch vụ tới các
quỹ tiết kiệm, điểm giao dịch của ngân hàng, đẩy nhanh tiến độ hoạt động
thanh toán không dùng tiền mặt
- Hoạt động chiết khấu thương phiếu: chiết khấu thương phiếu là việc ngân
hàng ứng trước tiền cho ngân hàng ứng với giá trị của thương phiếu trừ đi phần
thu nhập của ngân hàng để sở hữu một thương phiếu chưa đến hạn. Thu nhập
của ngân hàng từ hoạt động này chính là số tiền chiết khấu, vì có tối thiểu hai
người cam kết trả tiền cho ngân hàng nên độ an toàn của thương phiếu tương đối
cao. Ngoài ra thông qua thương phiếu, các doanh nghiệp có thể nâng cao hiệu
quả kinh doanh nhờ việc quay vòng vốn nhanh.
1.1.1.2 C ác hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại
* Phân loại cho vay của ngân hàng thương mại

Phân loại cho vay là một việc làm cần thiết để quản lí và sử dụng vốn
vay có hiệu quả. Phân loại cho vay là việc sắp xếp các khoản cho vay theo
từng nhóm dựa trên những tiêu thức nhất định. Việc phân loại cho vay có
cơ sở khoa học là tiền đề để thiết lập quy trình cho vay thích hợp và nâng
cao hiệu quả quản trị rủi ro trong cho vay. Có rất nhiều tiêu thức để phân
loại cho vay nhưng trên thực tế người ta thường phân loại cho vay theo
các tiêu thức sau:
Phân loại theo thời hạn cho vay
Thời hạn cho vay có ảnh hưởng rất lớn tới tính an toàn và sinh lợi
của món vay cũng như khả năng hoàn trả của khách hàng, do đó việc
phân loại theo thời hạn cho vay rất có ý nghĩa đối với ngân hàng.
Ở Việt Nam, theo quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với
khách hàng và quyết định 1627/2001/QĐ-NHNN/ngày 31/12/2000 của
SV:Hoàng Thị Huệ Lớp: TC A – K39
7
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS .Nguyễn Thị Minh Huệ
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam:
+ Cho vay ngắn hạn: Là khoản cho vay có thời hạn dưới 1 năm, được
sử dụng để bù đắp vốn sự thiếu hụt vốn lưu động của các doanh nghiệp.
Đây là khoản có lãi suất cho vay và rủi ro thấp nhất do thời hạn hoàn vốn
nhanh, hạn chế được các yếu tố rủi ro về lãi suất, lạm phát cùng như các
yếu tố rủi ro từ môi trường kinh tế đem lại.
+ Cho vay trung hạn: Là khoản vay có thời hạn cho vay từ 1 năm
đến 5 năm.Thông thường được các doanh nghiệp sử dụng để đầu tư
mua sắm tài sản cố định, cải tiến, đổi mới trang thiết bị, công nghệ, cơ
sở vật chất, mở rộng sản xuất kinh doanh.
+ Cho vay dài hạn: Là loại cho vay có thời hạn trên 5 năm và thời
hạn tối đa có thể lên đến 20-30 năm. Cho vay dài hạn được cung cấp để
đáp ứng các nhu cầu dài hạn như tài trợ xây dựng cho các công trình
xây dựng cơ bản như nhà cửa, sân bay, cầu đường, đầu tư trang thiết bị.

Phân loại theo hình thức bảo đảm tiền vay
Trong nhiều trường hợp, ngân hàng yêu cầu khách hàng phải có tài
sản đảm bảo khi nhận tín dụng. Khách hàng luôn phải đối đầu với rủi ro
trong kinh doanh, có thể mất khả năng trả nợ cho ngân hàng, những
biến cố này có thể đem lại cho ngân hàng những tổn thất lớn. Chính vì
vậy, trừ những khách hàng có uy tín cao, phần lớn khách hàng phải có
tài sản bảo đảm khi nhận tín dụng của ngân hàng. Tài sản bảo đảm có
thể là tài sản thế chấp, cầm cố hay bảo lãnh của bên thứ ba.
Theo căn cứ trên, cho vay được chia thành 2 loại:
* Cho vay không đảm bảo: là loại cho vay không có tài sản thế
chấp, cầm cố hoặc sự bảo lãnh của bên thứ ba, việc cho vay chỉ dựa vào
uy tín của bản thân khách hàng. Đối với những khách hàng có tín
nhiệm, có khả năng tài chính vững mạnh và lợi nhuận có được từ dự án
cho vay là khả quan thì ngân hàng có thể cấp vốn vay dựa vào uy tín
của bản thân khách hàng mà không cần một nguồn thu nợ bổ sung.
* Cho vay có bảo đảm: là việc cho vay vốn của ngân hàng mà theo đó
SV:Hoàng Thị Huệ Lớp: TC A – K39
8
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS .Nguyễn Thị Minh Huệ
nghĩa vụ trả nợ của khách hàng được cam kết bảo đảm thực hiện bằng tài
sản cầm cố, thế chấp, tài sản hình thành từ vốn vay hoặc bảo lãnh bằng tài
sản của bên thứ ba. Đối với những khách hàng không có uy tín, khi vay vốn
cần đòi hỏi phải có bảo đảm. Sự bảo đảm này là căn cứ pháp lý để ngân
hàng có thêm một bổ sung cho nguồn thu nợ thứ nhất thiếu chắc chắn.
Phân loại theo mục đích sử dụng
Dựa vào căn cứ này cho vay thường được chưa ra làm các loại sau:
* Cho vay bất động sản: là loại hình cho vay liên quan đến việc
mua sắm và xây dựng các bất động sản như nhà ở, đất đai, bất động sản
trong các lãnh vực công nghiệp, thương mại và dịch vụ.
* Cho vay công nghiệp và thương mại: là loại cho vay ngắn hạn để

bổ sung vốn lưu động cho các doanh nghiệp trong các lãnh vực công
nghiệp, thương mại và dịch vụ.
* Cho vay nông nghiệp: là loại hình cho vay để trang trải các chi
phí sản xuất như phân bón, thuốc trừ sâu, giống cây trồng, thức ăn gia
súc, lao động, nhiên liệu,
* Cho vay các định chế tài chính: bao gồm cấp tín dụng cho các
ngân hàng, công ty tài chính, công ty bảo hiểm, công ty cho thuê tài
chính, các quỹ tín dụng và các định chế tài chính khác.
* Cho vay cá nhân: Là loại hình cho vay để đáp ứng các nhu cầu
tiêu dùng như: mua sắm các vật dụng tiêu dùng, và các khoản cho vay
để trang trải chi phí của đời sống thông qua việc phát hành thẻ tín dụng.
* Cho thuê: bao gồm 2 loại cho thuê vận hành và cho thuê tài
chính. Tài sản cho thuê bao gồm bất động sản, trong đó chủ yếu là máy
móc, thiết bị.
Phân loại theo phương thức hoàn trả
Theo phương thức hoàn trả thì các khoản cho vay còn có thể được
phân chia theo hai loại sau:
* Cho vay hoàn trả một lần: là cho vay mà khoản vay sẽ được
hoàn trả duy nhất một lần và vào thời gian xác định trong hợp đồng tín
SV:Hoàng Thị Huệ Lớp: TC A – K39
9
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS .Nguyễn Thị Minh Huệ
dụng, lãi vay có thể được hoàn trả theo thoả thuận trong hợp đồng (theo
tháng, theo quý hoặc theo năm.)
* Cho vay trả góp: là hình thức cho vay trong đó việc hoàn trả
được tiến hành theo định kỳ, các khoản này có thể bằng nhau hoặc
không tuỳ theo thoả thuận và được thực hiện theo nguyên tắc trả dần
trong suốt thời gian thực hiện hợp đồng.
Thông thường, các ngân hàng thương mại thường áp dụng phương
thức trả một lần đối với cho vay ngắn hạn còn phương thức trả góp thì

dùng cho các khoản cho vay trung và dài hạn.
Phân loại theo xuất xứ tín dụng
* Cho vay trực tiếp: trước khi cấp tiền ra ngân hàng có mối liên hệ
trực tiếp đối với người vay để thẩm định khách hàng, xem xét tình hình
người vay.
* Cho vay gián tiếp: là hình thức ngân hàng cho vay thông qua các
tổ chức xã hội nhưng không trực tiếp cho vay khách hàng.
Việc phân loại theo xuất xứ tín dụng giúp ngân hàng đánh giá, lựa
chọn cách thức cho vay cũng như khách hàng tốt nhất, trên cơ sở đó
nghiên cứu thể lệ và chính sách tín dụng phù hợp.
Phân loại theo đối tượng cho vay
* Cho vay cá nhân : Hiện nay, cho vay cá nhân đang ngày càng được
ngân hàng chú trọng và tăng trưởng cao. Một số loại hình cho vay cá nhân
chủ yếu hiện nay là cho vay mua nhà, xây nhà, cho vay mua ô tô, cho vay
du học quốc tế.
* Cho vay doanh nghiệp: là khoản vay chiếm tỷ trọng lớn trong
ngân hàng. Các doanh nghiệp khi có nhu cầu về vốn cho các dự án
thường tìm đến ngân hàng, bởi đó là nguồn vay có chi phí hợp lý và
tính bảo đảm cao. Tuy nhiên, quá trình thẩm định và đưa ra quyết định
cho vay của ngân hàng rất chặt chẽ, đòi hỏi doanh nghiệp phải đáp ứng
các yêu cầu mới có thể vay vốn.
1.1.2 Hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa của
SV:Hoàng Thị Huệ Lớp: TC A – K39
10
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS .Nguyễn Thị Minh Huệ
ngân hàng thương mại
1.1.2.1 Đặc điểm của doanh nghiệp nhỏ và vừa
Khái niệm doanh nghiệp nhỏ và vừa
Trong nền kinh tế quốc dân, các DNNVV chiếm một tỷ trọng lớn
trong tổng số các doanh nghiệp trên cả nước. Các doanh nghiệp này đã và

đang không ngừng phát triển, từng bước khẳng định vai trò và vị trí trong
nền kinh tế đất nước.
Khi xác định quy mô của một doanh nghiệp, thông thường các
quốc gia căn cứ vào các tiêu chí sau: vốn sản xuất doanh thu, số lao
động thường xuyên, lợi nhuận đạt được, giá trị của công ty … Tuy
nhiên, tiêu chí xác định quy mô của DNNVV cũng khác nhau tuỳ theo
từng ngành, từng thời kỳ và tuỳ vào trình độ phát triển kinh tế của từng
nước. Bởi vì một doanh nghiệp trong môi trường kinh tế của nước này
là DNNVV, nhưng trong môi trường kinh tế của nước khác thì lại là
doanh nghiệp lớn hoặc lại là doanh nghiệp rất nhỏ. Vì vậy khái niệm
DNNVV chỉ mang tính chất tương đối và thay đổi theo từng giai đoạn
phát triển kinh tế xã hội của từng nước.
Trên thực tế các nước căn cứ chủ yếu vào hai tiêu chí cơ bản là
vốn sản xuất, số lượng lao động thường xuyên để phân biệt DNNVV
với các doanh nghiệp lớn. Hiện tại Việt Nam cũng đang sử dụng hai
tiêu thức này để phân loại doanh nghiệp. Trong các thời kỳ khác nhau
các tiêu chí đánh giá lại có giới hạn khác nhau để phù hợp với tình hình
phát triển phản ánh đúng thực trạng của nền kinh tế.
Vì vậy, tiếp đó Nghị định số 90/2001/NĐ-CP ban hành ngày
23/11/2001 đã đưa ra định nghĩa chính thức về các DNNVV như sau:
“Doanh nghiệp nhỏ và vừa là các cơ sở sản xuất, kinh doanh độc lập, đã
đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10
tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người. Căn
cứ vào tình hình kinh tế cụ thể của từng ngành, từng địa phương, trong quá
trình thực hiện các biện pháp, chương trình trợ giúp có thể linh hoạt áp
SV:Hoàng Thị Huệ Lớp: TC A – K39
11
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS .Nguyễn Thị Minh Huệ
dụng đồng thời cả 2 chỉ tiêu vốn và lao động hoặc một trong hai chỉ tiêu
nói trên.”

Còn theo nghị định số 56/2009/NĐ-CP, nghị định về trợ giúp phát
triển DNNVV, DNNVV được định nghĩa như sau: “Doanh nghiệp nhỏ và
vừa là cơ sở kinh doanh đã đăng ký kinh doanh theo quy định pháp luật,
được chia thành ba cấp: siêu nhỏ, nhỏ, vừa theo quy mô tổng nguồn vốn
(tổng nguồn vốn tương đương tổng tài sản được xác định trong bảng cân
đối kế toán của doanh nghiệp) hoặc số lao động bình quân năm (tổng
nguồn vốn là tiêu chí ưu tiên)” cụ thể như sau:
Quy mô
Khu vực
Doanh
nghiệp
siêu nhỏ
Doanh nghiệp nhỏ Doanh nghiệp vừa
Số lao động
Tổng nguồn
vốn
Số lao
động
Tổng nguồn
vốn
Số lao động
I. Nông, lâm
nghiệp và
thủy sản
10 người
trở xuống
20 tỷ đồng
trở xuống
từ trên 10
người đến

200 người
từ trên 20 tỷ
đồng đến 100
tỷ đồng
từ trên 200
người đến
300 người
II. Công
nghiệp và
xây dựng
10 người
trở xuống
20 tỷ đồng
trở xuống
từ trên 10
người đến
200 người
từ trên 20 tỷ
đồng đến 100
tỷ đồng
từ trên 200
người đến
300 người
III. Thương
mại và dịch vụ
10 người
trở xuống
10 tỷ đồng
trở xuống
từ trên 10

người đến
50 người
từ trên 10 tỷ
đồng đến 50
tỷ đồng
từ trên 50
người đến 100
người
“Nguồn:”http: //www.vinasme.com.vn
1.1.2.2 Hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ của NHTM
Hoạt động cho vay đối với các DNNVV của ngân hàng là hoạt động giao
dịch về mặt tài sản (tiền hoặc hàng hóa) giữa ngân hàng và các DNNVV, trong
đó ngân hàng chuyển giao quyền sử dụng cho các DNNVV trong một khoảng
thời gian xác định theo thỏa thuận. DNNVV có trách nhiệm hoàn trả cả gốc và
lãi cho ngân hàng khi đến hạn thanh toán.
Vai trò hoạt động cho vay đối với DNNVV của ngân hàng
SV:Hoàng Thị Huệ Lớp: TC A – K39
12
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS .Nguyễn Thị Minh Huệ
thương mại
- Cho vay của ngân hàng thương mại là kênh cung cấp vốn chủ yếu
cho các DNNVV hiện nay. Phần lớn các DNNVV tại Việt Nam là doanh
nghiệp có vốn của nhà nước, hầu hết là còn kế thừa lại từ nền kinh tế bao
cấp. Vốn hoạt động của các doanh nghiệp này dựa trên ba nguồn vốn chủ
yếu: vốn được cấp bởi ngân sách nhà nước, vốn vay từ hoạt động tín dụng
ngân hàng hoặc vốn tự có và vay các chính sách cán bộ công nhân viên của
doanh nghiệp Vì vậy, để việc kinh doanh được thuận lợi, hoạt động liên
tục và có hiệu quả thì các DNNVV cần thông qua tín dụng ngân hàng để
bổ sung nguồn vốn lưu động.
- Hoạt động cho vay giúp các DNNVV nâng cao năng lực cạnh tranh

trên thị trường. Có thể nói vốn vay ngân hàng có một vai trò quan trọng đối
với DNNVV, tạo cơ hội để các DNNVV mở rộng quy mô sản xuất và nâng
cao hiệu quả kinh doanh. Bên cạnh đó, vốn vay ngân hàng còn góp phần
giúp doanh nghiệp hình thành cơ cấu vốn tối ưu. Cơ cấu vốn tối ưu mà
doanh nghiệp cần để đạt hiệu quả cao trong kinh doanh bao gồm hai nguồn
cơ bản: vốn tự có và vốn đi vay. Thông thường các doanh nghiệp thích sử
dụng vốn vay vì ít tốn chi phí mà còn được hưởng phần tiết kiệm nhờ thuế
và không làm ảnh hưởng đến quyền sở hữu của chủ doanh nghiệp. Còn
việc sử dụng vốn tự có để hoạt động sản xuất kinh doanh không những hạn
chế khả năng mở rộng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mà còn làm
tăng chi phí vốn, do đó việc sử dụng vốn tự có ít được ưu tiên.
- Hoạt động cho vay đóng vai trò gián tiếp điều chỉnh cơ cấu vùng,
lãnh thổ. Khu vực DNVVN được xem như khu vực thu hút nhiều lao động,
góp phần vào giải quyết công ăn, việc làm cho xã hội.
Đặc điểm hoạt động cho vay đối với DNNVV của ngân hàng
thương mại
- Qui mô hợp đồng cho vay thường nhỏ nhưng ngân hàng vẫn phải
SV:Hoàng Thị Huệ Lớp: TC A – K39
13
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS .Nguyễn Thị Minh Huệ
thực hiện các thủ tục cho vay bao gồm tất cả các công đoạn như tìm
hiểu thông tin về khách hàng, thẩm định trước khi cho vay…làm tăng
chi phí vay. Doanh nghiệp không những phải trả lãi suất cho vay theo
qui định mà còn phải trả cả chi phí của tất cả những thủ tục cho vay
trên, dẫn tới hệ quả là lãi suất vay thực tế của DNNVV thậm chí còn
cao hơn lãi suất cho vay của các doanh nghiệp lớn. Trong khi các doanh
nghiệp vừa và nhỏ mới là đối tượng cần được hỗ trợ lãi suất do còn
nhiều khó khăn về vốn.
- Số lượng các DNNVV trong nền kinh tế chiếm phần đông, nhu
cầu vay vốn lại lớn nên số lượng các món vay nhiều. Mặt khác, do đặc

thù kinh doanh, các DNNVV có quan hệ trao đổi, mua bán với bạn
hàng liên tục, mỗi món hàng có giá trị không nhiều nhưng do có nhu
cầu vay vốn nên doanh nghiệp có thể tạo nhiều tiểu khoản riêng biệt tại
ngân hàng, gây nhiều khó khăn trong việc quản lý các tài khoản cho
vay của cán bộ tín dụng.
Do vốn chủ sở hữu thấp, năng lực quản lý yếu kém, cho vay DNNVV
luôn tiềm ẩn rủi ro cao trong mỗi món vay. Hơn nữa, doanh nghiệp còn rất
hạn chế trong việc đưa ra những phương án kinh doanh có tính khả thi cao,
các báo cáo tài chính thì không minh bạch, không đủ sức thuyết phục các
ngân hàng, đây chính là những nguyên nhân khiến cho ngân hàng ít tin
tưởng giao vốn cho DNNVV.
Bên cạnh những đặc điểm vốn có của một doanh nghiệp, thì các
DNNVV còn có những đặc điểm riêng biệt sau đây:
- DNNVV là loại hình doanh nghiệp có vốn đầu tư ban đầu thấp, thu
hồi vốn nhanh. Tuy nhiên đó cũng là một lợi thế của các chủ đầu tư vì việc
đầu tư vốn sản xuất không yêu cầu quá lớn, hơn nữa chu kỳ sản xuất của các
doanh nghiệp này thường ngắn nên vòng quay của mỗi đồng vốn là nhanh.
Hầu hết các DNNVV hoạt động chủ yếu dựa vào nguồn vốn tự có và các
nguồn vốn đi vay từ thị trường tài chính phi chính thức. Do các doanh
nghiệp này không đảm bảo được các điều kiện cần thiết về tài sản thế chấp
và các điều kiện vay vốn khác nên ít có khả năng tiếp cận được với các
SV:Hoàng Thị Huệ Lớp: TC A – K39
14
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS .Nguyễn Thị Minh Huệ
nguồn vốn vay của ngân hàng.
- DNNVV hoạt động đa dạng ở mọi ngành nghề, nhạy bén và dễ thích
nghi với sự thay đổi của thị trường. Các DNNVV với qui mô nhỏ có thể hoạt
động kinh doanh ở tất cả các lĩnh vực, với các mức giá cả hợp lý đáp ứng
mọi nhu cầu sản xuất, tiêu dùng của các tầng lớp xã hội. Ngoài ra, DNNVV
còn dễ dàng thay đổi ngành nghề, mặt hàng kinh doanh sản xuất khi có sự

biến động của thị trường do có bộ máy tổ chức quản lí gọn nhẹ, có tính linh
hoạt cao dễ dàng thích nghi với những biến động của nền kinh tế thị trường.
Nhờ vậy mà các DNNVV có thể phân tán được rủi ro, tiết kiệm được chi phí
trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh, đảm bảo hiệu quả kinh doanh. Đây là
một lợi thế mà các DNNVV có thể khai thác để đạt được hiệu quả kinh
doanh tối ưu.
- DNNVV chủ yếu sử dụng công nghệ và thiết bị lạc hậu, thủ công,
không phù hợp với nền kinh tế thị trường hiện nay. Thực tế cho thấy các
DNNVV Việt Nam có hệ thống máy móc, thiết bị lạc hậu khoảng 20 - 30
năm so với các nước đang phát triển trong khu vực. Hệ thống máy móc lỗi
thời là do các DNNVV không đủ vốn để đầu tư, nâng cấp, đổi mới trang thiết
bị, máy móc; công tác nghiên cứu công nghệ áp dụng cho các DNVVN lại
rất ít được thường xuyên chú ý tới. Việc triển khai thương mại điện tử còn
hạn chế, nhiều doanh nghiệp chưa có trang thông tin riêng để có thể quảng
bá thương hiệu của mình. Tuy nhiên, có một điểm mạnh ở các DNNVV tại
Việt Nam là các doanh nghiệp này có thể kết hợp công nghệ truyền thống
với công nghệ hiện đại, sản xuất những sản phẩm chất lượng cao trong điều
kiện sản xuất không thuận lợi.
- Phần lớn trình độ người lao động tại các DNNVV còn hạn chế, công
tác quản lý còn nhiều yếu kém. Đội ngũ lao động thường ít được đào tạo một
cách cơ bản mà chủ yếu được đào tạo theo phương pháp truyền nghề, trình
độ văn hoá thấp, đặc biệt là số lao động trong các cơ sở kinh doanh nhỏ. Hầu
hết các DNNVV ở Việt Nam hoạt động mang tính chất tự phát, thiếu sự định
hướng, việc tổ chức sản xuất kinh doanh chưa khoa học vì khả năng chuyên
môn của người lao động không đủ để có thể sử dụng các máy móc dây
chuyền công nghệ hiện đại. Việc gia nhập cộng đồng kinh tế thế giới càng
làm cho các chủ doanh nghiệp trở nên bỡ ngỡ trước những cơ hội kinh
doanh mới. Để khắc phục những mặt hạn chế này thì bản thân doanh nghiệp
phải có sự tự vận động và kết hợp chặt chẽ với sự hỗ trợ của Nhà nước trong
SV:Hoàng Thị Huệ Lớp: TC A – K39

15
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS .Nguyễn Thị Minh Huệ
việc đào tạo đội ngũ công nhân, thợ lành nghề có kỹ thuật cao, đội ngũ cán
bộ quản lý giỏi mới có thể đáp ứng được yêu cầu cạnh tranh, hội nhập trong
thời kỳ mới.
- Thị trường tiêu thụ của các DNNVV ở Việt Nam rất nhỏ hẹp, khả
năng cạnh tranh thấp, một phần là do sự độc quyền của các doanh nghiệp
lớn, mặt khác là do thị trường có nhiều sản phẩm làm giả, hàng nhập lậu.
Với quy mô vốn nhỏ nên DNNVV rất hạn chế trong việc tiếp thị và khai thác
ở thị trường nước ngoài, thị trường tiêu thụ của các doanh nghiệp này chỉ bó
hẹp ở trong thị trường nội địa. Yếu kém trong việc tiếp cận thông tin thị
trường, các dịch vụ hỗ trợ kinh doanh cùng với sự hạn chế về mặt tài chính
dẫn đến việc nhập khẩu nguyên liệu sản xuất cũng như xuất khẩu sản phẩm
sang các đối tác nước ngoài hết sức khó khăn.
Năng lực cạnh tranh của các DNNVV Việt Nam hiện nay còn quá thấp.
Trong nền kinh tế ngày càng phát triển mạnh mẽ, các doanh nghiệp thường
xuyên phải đối mặt với các đối thủ cạnh tranh mới, đó là các công ty xuyên
quốc gia, các công ty đa quốc gia có tiềm lực rất lớn về tài chính, công nghệ
và năng lực cạnh tranh cao. Đối với các DNNVV của Việt Nam vốn nhỏ về
quy mô và năng lực cạnh tranh thì đây quả là một sự thách thức to lớn. Một
nguyên nhân rất quan trọng khiến các DNNVV không có đủ sức cạnh tranh
là do khả năng tiếp cận được với nguồn vốn của ngân hàng. Đây là vấn đề
được hầu hết các ngân hàng và Chính phủ quan tâm để khai thác tốt số lượng
khách hàng tiềm năng này, mở rộng cho vay tăng thu nhập và phát triển trên
thị trường.
1.2 CHẤT LƯỢNG CHO VAY ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP NHỎ
VÀ VỪA CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.2.1 Khái niệm chất lượng cho vay đối với doanh nghiệp vừa và
nhỏ của ngân hàng thương mại
Chất lượng cho vay không chỉ là kết quả của một quá trình kết hợp các

hoạt động của các bộ phận, các tổ chức khác nhau trong hệ thống ngân hàng mà
còn thể hiện mối quan hệ giữa ngân hàng và doanh nghiệp, cũng như hiệu quả
hoạt động của doanh nghiệp. Chất lượng cho vay là một khái niệm không mang
tính cụ thể, không chỉ phụ thuộc vào ngân hàng hay doanh nghiệp mà còn chịu
nhũng tác động của yếu tố từ môi trường bên ngoài.
Chất lượng cho vay là hiệu quả mà việc cho vay đem lại, là khả năng
SV:Hoàng Thị Huệ Lớp: TC A – K39
16
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS .Nguyễn Thị Minh Huệ
thu hồi đầy đủ cả gốc và lãi vay đúng hạn. Khi ngân hàng đáp ứng kịp thời
đầy đủ nhu cầu vay vốn hợp lý của khách hàng, phù hợp với khả năng của
ngân hàng, được khách hàng sử dụng đúng mục đích tạo ra số tiền lớn hơn
và hoàn trả được ngân hàng cả gốc và lãi đúng thời hạn thì có thể nói chất
lượng cho vay của ngân hàng đối với doanh nghiệp là tốt. Vốn vay của
ngân hàng tạo ra hiệu quả kinh tế và xã hội.
Chất lượng cho vay được xét trên các quan điểm khác nhau như sau:
- Chất lượng cho vay đối với ngân hàng
- Chất lượng cho vay đối với khách hàng
- Chất lượng cho vay đối với nền kinh tế
Thực tế hiện nay cho thấy chất lượng cho vay DNNVV tại các ngân hàng
thương mại chưa cao. Vì vậy, cùng với việc mở rộng cho vay DNNVV, việc
nâng cao chất lượng cho vay tại các ngân hàng thương mại là rất cần thiết.
1.2.2 Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng cho vay đối với doanh nghiệp
nhỏ và vừa của ngân hàng thương mại
Các chỉ tiêu định tính
• Hiệu quả xã hội của khoản vay
Hiệu quả xã hội của khoản vay đem lại là một trong những yếu tố
nhằm đánh giá chất lượng cho vay bởi vì hoạt động cho vay không chỉ
hướng tới mục tiêu lợi nhuận mà còn còn phải đảm bảo hiệu quả xã hội. Có
nghĩa là hoạt động cho vay phải phục vụ sản xuất và lưu thông theo đúng

đường lối kinh tế của Đảng và Nhà nước đã đề ra, góp phần giải quyết công
ăn việc làm cho người lao động, hạn chế tệ nạn xã hội, khai thác tốt các
nguồn lực của quốc gia, thúc đẩy nhanh quá trình tích tụ tập trung vốn phục
vụ sản xuất kinh doanh, giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh
tế, tăng trưởng tín dụng với ổn định kinh tế xã hội.
• Khả năng trả nợ của doanh nghiệp
Hoạt động cho vay của doanh nghiệp là hoạt động luôn mang tính rủi
ro cao do khả năng trả nợ của các doanh nghiệp, đặc biệt là DNNVV luôn
SV:Hoàng Thị Huệ Lớp: TC A – K39
17
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS .Nguyễn Thị Minh Huệ
chịu ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố khách quan và chủ quan mà ngân hàng
cũng như doanh nghiệp không thể lường trước được. Nếu doanh nghiệp
không trả được nợ sẽ kéo theo những hậu quả nghiêm trọng cho ngân hàng,
ngân hàng đứng trước nguy cơ mất khả năng thanh toán, thậm chí có thể
dẫn tới phá sản. Do đó, trong quá trình thực hiện qui trình cho vay, để
quyết định cấp vốn đầu tư vào một dự án nào đó, ngân hàng phải tiến hành
thẩm định thật kỹ doanh nghiệp, đánh giá đúng khả năng trả nợ ( bao gồm
cả gốc và lãi) của doanh nghiệp được cho vay, từ đó mới quyết định có nên
cho doanh nghiệp đó vay vốn hay không.
Các chỉ tiêu định lượng
• Chỉ tiêu dư nợ cho vay DNNVV
Dư nợ cho vay DNNVV
Tỷ trọng dư nợ cho vay = x 100%
DNNVV Tổng dư nợ cho vay
Chỉ tiêu này cho thấy qui mô nợ cho vay của doanh nghiệp trong tổng
dư nợ cho vay của toàn ngân hàng. Tỷ trọng dư nợ cho vay đối với doanh
nghiệp cao hay thấp cho thấy hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp đạt
kết quả tốt hay chưa tốt.
• Chỉ tiêu tốc độ tăng trưởng cho vay DNNVV

Dư nợ cho vay DNNVV năm sau
Tốc độ tăng trưởng cho vay = x 100%
DNNVV Dư nợ cho vay DNNVV năm trước
Chỉ tiêu này phản ánh mức độ tăng trưởng hoạt động cho vay đối với
DNNVV của ngân hàng. Tốc độ tăng trưởng cho vay năm sau cao hay thấp
hơn năm trước cho thấy qui mô tín dụng của ngân hàng tăng hay giảm,
ngân hàng có tạo ra được uy tín đối với doanh nghiệp hay không.
• Chỉ tiêu tỉ lệ nợ quá hạn đối với cho vay DNNVV

Dư nợ quá hạn DNNVV
SV:Hoàng Thị Huệ Lớp: TC A – K39
18
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS .Nguyễn Thị Minh Huệ
Tỷ lệ nợ quá hạn đối với = x 100%
DNNVV Tổng dư nợ cho vay DNNVV
Chỉ tiêu nợ quá hạn là chỉ tiêu quan trọng để đánh giá chất lượng
cho vay của ngân hàng, nó cho biết những rủi ro cho vay mà ngân hàng
có thể gặp phải. nhìn vào tỉ lệ nợ quá hạn có thể đánh giá được một phần
chất lượng cho vay của ngân hàng. Nếu chỉ tiêu này cao thì ngân hàng
sẽ bị đánh giá là có chất lượng cho vay thấp và ngược lại. Tuy nhiên, nợ
quá hạn là một vấn đề khó tránh khỏi trong hoạt động tín dụng ngân
hàng. Vì vậy điều quan trọng là ngân hàng cần duy trì một tỉ lệ nợ quá
hạn ở mức thấp nhất có thể chấp nhận được.
• Chỉ tiêu tỷ trọng thu nhập từ hoạt động cho vay
Thu nhập từ hoạt động cho vay DNNVV
Tỷ trọng thu nhập từ hoạt động = x100%
cho vay đối với DNNVV Tổng thu nhập ngân hàng
Chỉ tiêu này phản ánh phần trăm thu nhập từ hoạt động cho vay đối
với DNNVV của ngân hàng trong tổng thu nhập chung của ngân hàng. Nó
trực tiếp cho thấy hiệu quả của hoạt động cho vay đối với DNNVV và khả

năng sinh lời từ hoạt động này. Tỷ trọng thu nhập từ hoạt động cho vay đối
với DNNVV càng cao thì càng chứng tỏ chất lượng cho vay đối với
DNNVV càng cao và ngược lại.
• Chỉ tiêu tỷ lệ dư nợ có tài sản bảo đảm
Dư nợ cho vay của DNNVV có TSĐB
Tỷ lệ dư nợ cho vay của = x 100%
DNNVV có TSĐB Dư nợ cho vay DNNVV
Tài sản đảm bảo có giá trị như một cam kết trả nợ của doanh nghiệp
khi vay vốn, do đó tài sản đảm bảo là một trong những yêu cầu quan trọng
của ngân hàng đối với doanh nghiệp khi quyết định cấp tín dụng cho doanh
nghiệp. Nếu doanh nghiệp không trả được nợ, ngân hàng có quyền phát
mại tài sản đảm bảo để thu nợ. Chỉ tiêu tỷ lệ dư nợ tài sản đảm bảo phản
SV:Hoàng Thị Huệ Lớp: TC A – K39
19
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS .Nguyễn Thị Minh Huệ
ánh mức độ an toàn của món vay.
• Chỉ tiêu vòng quay vốn cho vay DNNVV
Doanh số thu nợ cho vay DNNVV
Vòng quay vốn cho vay = x 100%
DNNVV Dư nợ cho vay DNNVV
Chỉ tiêu vòng quay vốn cho vay DNNVV thể hiện tốc độ luân chuyển
vốn cho vay đối với DNNVV của ngân hàng. Vòng quay vốn càng cao, vốn
được luân chuyển càng nhanh, ngân hàng có khả năng đáp ứng ngày càng
nhiều và kịp thời nhu cầu vốn cho các doanh nghiệp có nhu cầu vay vốn.
Chỉ tiêu này còn cho biết doanh nghiệp sử dụng vốn có hiệu quả và chất
lượng cho vay của ngân hàng có tốt hay không.
1.3 NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN CHẤT LƯỢNG CHO VAY ĐỐI
VỚI DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA CỦA NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI.
1.3.1 Nhân tố chủ quan

Chính sách cho vay của ngân hàng
Chính sách cho vay là kim chỉ nam cho hoạt động cho vay của ngân
hàng, có ý nghĩa quyết định đến sự thành công hay thất bại của ngân hàng.
Chính sách cho vay của ngân hàng hướng dẫn chung cho cán bộ và công
nhân viên ngân hàng, tạo sự thống nhất trong hoạt động nhằm hạn chế rủi
ro, nâng cao khả năng sinh lời. Chính sách cho vay bao gồm nhiều chính
sách như: chính sách khách hàng; chính sách qui mô và giới hạn cho vay;
chính sách lãi suất, chính sách về thời hạn cho vay và kỳ hạn nợ; chính
sách liên quan đến tài sản bảo đảm…Chính sách cho vay phải phù hợp với
đường lối phát triển kinh tế của Đảng và nhà nước đã đề ra, đồng thời phối
hợp hài hòa giữa quyền lợi của người gửi tiền, của ngân hàng với người sử
dụng vốn vay, đảm bảo điều kiện thuận lợi cho khách hàng khi vay vốn
cũng như đảm bảo an toàn trong cho vay của các ngân hàng thương mại
nhưng đồng thời vẫn đảm bảo mức sinh lời cho ngân hàng. Để đạt được
SV:Hoàng Thị Huệ Lớp: TC A – K39
20
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS .Nguyễn Thị Minh Huệ
như vậy, chính sách cho vay phải được xây dựng một cách khoa học và
thực tiễn.
- Thông tin tín dụng
Thông tin tín dụng là một yếu tố không kém phần quan trọng ảnh
hưởng đến chất lượng cho vay của ngân hàng. Nhờ có thông tin tín dụng
mà người quản lý có thể đưa ra những quyết định cần thiết liên quan đến
việc cho vay, quản lý đảm bảo tiền vay, nâng cao hiệu quả tín dụng, giảm
thiểu rủi ro tín dụng. Thông tin tín dụng có thể thu thập được từ các nguồn
thông tin sẵn có của ngân hàng, hay từ các ngân hàng, các đối thủ cạnh
tranh…Bên cạnh đó, ngân hàng cũng cần quan tâm đến tình hình kinh tế xã
hội xu hướng phát triển cạnh tranh của ngành nghề, những yếu tố có thể
thay đổi hay ảnh hưởng đến dự án cho vay trong tương lai.
- Công tác tổ chức ngân hàng

Không chỉ tác động đến chất lượng cho vay, công tác tổ chức ngân hàng
còn tác động đến mọi hoạt động của ngân hàng, vì thế nên công tác tổ chức
ngân hàng là một nhân tố mà các nhà quản trị ngân hàng hết sức lưu tâm. Nếu
một ngân hàng có cơ cấu tổ chức được sắp xếp một cách khoa học, sự phân
công công việc được tiến hành một cách cụ thể, rõ ràng, có sự gắn kết giữa các
bộ phận thì việc đáp ứng các yêu cầu của khách hàng sẽ được thực hiện kịp
thời, công tác tín dụng sẽ trở nên hiệu quả và an toàn hơn.
- Chất lượng và tư cách đạo đức của nhân viên ngân hàng
Chất lượng nhân sự là yếu tố quyết định đến sự thành công hay thất bại
trong hoạt động kinh doanh nói chung và đặc biệt trong hoạt động ngân hàng
thì chất lượng nhân sự lại càng quan trọng hơn. Cán bộ công nhân viên là bộ
mặt, là hình ảnh của ngân hàng đối với khách hàng. Một ngân hàng muốn
hoạt động, kinh doanh tốt trước hết phải có một đội ngũ cán bộ công nhân
viên năng động, sáng tạo trong kinh doanh với phẩm chất đạo đức tốt, tâm
huyết với nghề, luôn đặt lợi ích của tập thể lên đầu. Sau đó là phải có trình
độ nghiệp vụ, có kiến thức về kinh tế, pháp luật, thị trường, có tinh thần
trách nhiệm cao, trung thực, có thái độ phục vụ khách hàng tốt, tạo được
SV:Hoàng Thị Huệ Lớp: TC A – K39
21
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS .Nguyễn Thị Minh Huệ
niềm tin của khách hàng vào ngân hàng, thường xuyên nâng cao phẩm chất
đạo đức, nâng cao trình độ nghiệp vụ, thực hiện tốt mọi nhiệm vụ được giao.
Nghiệp vụ ngân hàng ngày càng phát triển đòi hỏi chất lượng nhân sự ngày
càng cao. Việc tuyển dụng nhân viên có đạo đức tốt, giỏi chuyên môn
nghiệp vụ sẽ giúp phòng chống tối đa sai phạm trong quá trình kinh doanh,
đem lại sự tin tưởng chất lượng từ khách hàng.
- Công tác kiểm tra, kiểm sát nội bộ
Đây là công tác mà bất cứ một ngân hàng nào cũng phải tiến hành
thường xuyên nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả kinh doanh, đáp ứng
các yêu cầu, mục tiêu đã đề ra. Để thực hiện tốt công tác này, ngân hàng

cần sắp xếp một đội ngũ cán bộ giỏi chuyên môn nghiệp vụ, trung thực, có
đạo đức tốt để làm công tác này. Đồng thời ngân hàng cần có chế độ
thưởng phạt, phân minh, có như vậy công tác cho vay mới thực hiện đúng
qui trình và chất lượng cho vay mới ngày càng được nâng cao.
1.3.2 Nhân tố khách quan
Ngoài các nhân tố chủ quan trên, còn có những nhân tố khách quan mà tác
động của nó cũng ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng cho vay của ngân hàng:
- Tác động của môi trường kinh tế
Môi trường kinh tế là nhân tố ảnh hưởng đến khả năng tài chính của
người vay, nếu môi trường kinh tế xấu sẽ làm cho hoạt động của doanh
nghiệp gặp khó khăn, ảnh hưởng đến thời hạn trả nợ và khả năng hoàn trả
món vay cho ngân hàng, từ đó ảnh hưởng đến chất lượng khoản vốn vay
mà doanh nghiệp đã vay của ngân hàng. Ngược lại, nếu môi trường kinh tế
thuận lợi sẽ giúp cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp tốt
hơn, thu hồi được vốn nhanh đồng thời lợi nhuận thu được sẽ cao và từ đó
khả năng trả nợ của doanh nghiệp được đảm bảo, khoản vay sẽ được trả
đúng hạn, khoản vốn vay ngân hàng sẽ có chất lượng tốt.
- Tác động của môi trường pháp lý
Ngân hàng là một doanh nghiệp luôn phải hoạt động bó buộc trong
SV:Hoàng Thị Huệ Lớp: TC A – K39
22
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS .Nguyễn Thị Minh Huệ
một khung hành lang pháp lý hẹp hơn bất kỳ một doanh nghiệp sản xuất
hay thương mại nào. Do đó, một hệ thống pháp lý càng hoàn chỉnh, đồng
bộ sẽ càng đem lại hiệu quả hoạt động cao cho ngân hàng, cho doanh
nghiệp đồng thời bảo đảm chất lượng cho vay của các doanh nghiệp đó với
ngân hàng. Ngược lại, nếu môi trường pháp lý không hoàn chỉnh, có nhiều
lỗ hổng và quy định chưa chặt chẽ sẽ tác động xấu đến cả ngân hàng và
doanh nghiệp, từ đó làm cho chất lượng của khoản cho vay của ngân hàng
đối với doanh nghiệp sẽ thấp và khó có thể thu hồi được.

- Chính sách kinh tế vĩ mô của nhà nước
Các chính sách kinh tế vĩ mô của nhà nước bao gồm các chính sách tài
chính tiền tệ, chính sách lãi suất, chính sách đối ngoại… có vai trò quan
trọng đối với nền kinh tế nói chung và hoạt động của các ngân hàng, doanh
nghiệp sản xuất nói riêng. Chính sách kinh tế trong nền kinh tế thị trường
có tác dụng tốt cho cả ngân hàng và doanh nghiệp. Các chính sách này
nhằm ưu tiên phát triển hay hạn chế một ngành nào đó để đảm bảo cân đối
cho nền kinh tế. Vì vậy các chủ trương, chính sách của nhà nước cần phải
đúng đắn để thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển, là điều kiện cần thiết
để đạt được chất lượng và hiệu quả của các khoản cho vay ngân hàng.
- Các yếu tố thiên tai
Chu kỳ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhiều khi mang tính
thời vụ. Trong các thành phần kinh tế nhà nước thì doanh nghiệp trong các
ngành nông- lâm- ngư nghiệp chiếm một tỉ lệ không nhỏ, các doanh nghiệp
này chịu ảnh hưởng rất lớn của yếu tố thiên tai: lũ lụt, mưa bão, hạn hán…
Thiên tai làm cho các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp bị
gián đoạn, nhiều khi gây hậu quả rất xấu dẫn đến khả năng hoàn trả các
khoản nợ là khó khăn hoặc không thể trả được dẫn đến chất lượng các
khoản vay giảm sút.
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG CHO VAY ĐỐI VỚI
SV:Hoàng Thị Huệ Lớp: TC A – K39
23

×