Chuyên đề tốt nghiệp
LỜI MỞ ĐẦU
Theo thống kê của Bộ kế hoạch và Đầu tư năm 2007, cả nước hiện nay
Doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) chiếm khoảng 96% trong tổng số
250000 doanh nghiệp. Với sự ra đời của Luật doanh nghiệp, môi trường kinh
doanh được cải thiện, môi trường đầu tư thông thoáng đã tạo ra điều kiện
thuận lợi cho việc ra đời và phát triển nhanh về số lượng doanh nghiệp. Vai
trò của DNNVV ngày càng thể hiện sự quan trọng trong nền kinh tế hội nhập,
phát huy được khả năng thu hút lao động và đóng góp GDP hàng năm trong
nền kinh tế đất nước. Bên cạnh những lợi thế đang được phát huy, DNNVV
vẫn đang gặp không ít khó khăn trong quá trình phát triển, đặc biệt là khó
khăn về vốn. Vì vậy mà các DNNVV luôn sẵn sàng hợp tác với ngân hàng.
Lợi nhuận của ngân hàng thương mại (NHTM) thu được từ hoạt động cho vay
đối với DNNVV chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng lợi nhuận.
Nhận thức được rõ điều đó, trong thời gian qua các NHTM nói chung
cũng như ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Tây Hồ (NHNo Tây
Hồ) nói riêng luôn coi các DNNVV là mục tiêu và đã có nhiều nỗ lực trong
việc cung ứng vốn cho các DNNVV. Tuy nhiên trong nền kinh tế thị trường
đầy biến động thì rủi ro trong hoạt động cho vay là không thể tránh khỏi. Do
đó đi đôi với việc mở rộng cho vay thì việc nâng cao chất lượng cho vay cũng
cần được đặt lên hàng đầu tại NHNo Tây Hồ. Bởi lẽ thực tế trong những năm
gần đây lãi chưa thu được từ hoạt động cho vay, các khoản nợ khó đòi, nợ bị
tổn thất, nợ quá hạn vẫn chiếm một tỷ lệ cao so với quy định chung của ngân
hàng nhà nước… mà chủ yếu là của các DNNVV làm giảm thu nhập của chi
nhánh.
Qua quá trình thực tập tại NHNo Tây Hồ, em thấy đây là một vấn đề
thiết thực. Vì vậy em đã lựa chọn đề tài “Nâng cao chất lượng cho vay đối với
Lê Thị Linh Chi Lớp: Tài chính 46B
1
Chuyên đề tốt nghiệp
doanh nghiệp nhỏ và vừa tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn
Tây Hồ” cho chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình.
Kết cấu của chuyên đề ngoài lời mở đầu và kết luận gồm có 3 chương
lớn
Chương một: Chất lượng cho vay đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa tại
ngân hàng thương mại
Chương hai: Thực trạng chất lượng cho vay đối với doanh nghiệp nhỏ
và vừa tại ngân hàng nông nghiệp Tây Hồ
Chương ba: Giải pháp nâng cao chất lượng cho vay đối với doanh
nghiệp nhỏ và vừa tại ngân hàng nông nghiệp thôn Tây Hồ
Lê Thị Linh Chi Lớp: Tài chính 46B
2
Chuyên đề tốt nghiệp
CHƯƠNG MỘT
CHẤT LƯỢNG CHO VAY ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP
NHỎ VÀ VỪA TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Hoạt động cho vay tại ngân hàng thương mại
1.1.1. Khái quát về ngân hàng thương mại
1.1.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển
Lịch sử hình thành và phát triển của ngân hàng gắn liền với lịch sử hình
thành và phát triển của nền sản xuất hàng hóa. Quá trình phát triển kinh tế là
điều kiện và đòi hỏi sự phát triển của ngân hàng và đến lượt mình, sự phát
triển của hệ thống ngân hàng trở thành động lực thúc đẩy phát triển kinh tế.
Nghề ngân hàng bắt đầu với nghiệp vụ đổi tiền hoặc đúc tiền của các
thợ vàng. Trong điều kiện lưu thông tiền kim loại (bạc hoặc vàng), các chủ
cửa hàng vừa đổi tiền, thanh toán hộ, vừa đúc tiền. Những ngân hàng này gọi
là ngân hàng của những thợ vàng. Nghề ngân hàng cũng được bắt đầu từ
những người cho vay nặng lãi. Một số người cho vay nặng lãi đã thực hiện cả
nghiệp vụ đổi tiền, giữ hộ và thanh toán hộ.
Như vậy có thể nói rằng hình thức ngân hàng đầu tiên là ngân hàng của
các thợ vàng, hoặc ngân hàng của những kẻ cho vay nặng lãi đã thực hiện cho
vay với các cá nhân, chủ yếu là những người giàu: quan lại, địa chủ…với mục
đích phục vụ tiêu dùng. Thậm chí nhiều chủ ngân hàng lớn còn mở rộng cho
vay đối với vua chúa, nhằm tài trợ một phần chi tiêu cho chiến tranh. Hình
thức cho vay chủ yếu là thấu chi, tức là cho phép khách hàng chi nhiều hơn số
tiền gửi tại ngân hàng, một hình thức cho vay nhiều rủi ro. Do lợi nhuận từ
hình thức cho vay này rất cao, nhiều chủ ngân hàng đã lạm dụng ưu thế của
chứng chỉ tiền (lưu thông thay vàng hoặc bạc), phát hành chứng chỉ tiền gửi
Lê Thị Linh Chi Lớp: Tài chính 46B
3
Chuyên đề tốt nghiệp
để khống chế cho vay. Thực trạng này đã đẩy nhiều ngân hàng đến chỗ mất
khả năng thanh toán và phá sản. Sự sụp đổ của các ngân hàng gây ra khó khăn
lớn cho hoạt động thanh toán, ảnh hưởng xấu tới hoạt động buôn bán. Hơn
nữa, lãi suất cao nên những nhà buôn không thể tiếp tục sử dụng nguồn vay
này. Trước tình hình đó nhiều nhà buôn đã đứng ra thành lập ngân hàng của
riêng mình, gọi nó là ngân hàng thương mại. Theo đó, ngân hàng thương mại
được hình thành xuất phát từ vận động của tư bản thương nghiệp, và gắn liền
với quá trình luân chuyển của tư bản thương nghiệp. Sự phá sản của nhiều
ngân hàng thương mại đã gây tổn thất lớn cho những người gửi tiền là nguyên
nhân dẫn đến hình thành ngân hàng tiền gửi. Ngân hàng này không cho vay,
chỉ thực hiện giữ hộ, thanh toán để lấy phí.
` Hoạt động của ngân hàng đã có những bước tiến rất nhanh cùng với sự
phát triển kinh tế và công nghệ. Đầu tiên phải kể đến là sự đa dạng các loại
hình ngân hàng và hoạt động ngân hàng. Nhiều nghiệp vụ truyền thỗng vẫn
được giữ vững đồng thời rất nhiều nghiệp vụ mới đang ngày càng phát triển.
Ngân hàng thương mại xuất phát từ chỗ chỉ cho vay ngắn hạn đã mở rộng
sang cho vay trung và dài hạn, cho vay để đầu tư vào bất động sản. Thậm chí
hầu hết các NHTM hiện nay còn mở rộng cho vay tiêu dùng, kinh doanh
chứng khoán, cho thuê…Bên cạnh đó các hình thức huy động tiền gửi cũng
được các ngân hàng chú trọng nhằm đáp ứng tối đa nhu cầu của khách hàng.
Thanh toán điện tử đang ngày một chiếm ưu thế hơn so với hình thức thanh
toán thủ công về tốc độ, tính thuận tiện, an toàn trong thanh toán.
1.1.1.2. Khái niệm ngân hàng thương mại
NHTM là một doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ, tự huy động vốn để cho
vay, hay nói cách khác là “đi vay để cho vay”, hưởng chênh lệch tỷ lệ lãi suất
(giữa tỷ lệ lãi suất huy động tiền gửi và lãi suất cho vay). Sự mô tả như thế
giúp hiểu được tính chất của NHTM, nhưng nó chưa đủ để định nghĩa NHTM
Lê Thị Linh Chi Lớp: Tài chính 46B
4
Chuyên đề tốt nghiệp
một cách trọn vẹn. Ngày nay, các nhà kinh tế nhận thấy có khó khăn trong
việc định nghĩa “Ngân hàng”, bởi vì quan niệm về ngân hàng thay đổi trong
không gian (tập quán, luật lệ của mỗi nước) và thời gian (theo đà tiến triển
kinh tế - xã hội).
Đã có một thời, NHTM huy động vốn bằng tiền mặt, cho vay bằng tiền
mặt, thu nợ bằng tiền mặt và trả tiền gửi bằng tiền mặt, người ta gọi nó là
NHTM cổ điển. Và khi các NHTM biết cách dùng công cụ để thay thế tiền
mặt để thanh toán qua ngân hàng chẳng hạn như séc, thì người ta gọi là
NHTM hiện đại.
Tóm lại, ngân hàng là một loại hình tổ chức quan trọng đối với nền
kinh tế. Các ngân hàng có thể được định nghĩa qua chức năng, các dịch vụ
hoặc vai trò mà chúng thể hiện trong nền kinh tế. Trên thực tế có rất nhiều tổ
chức tài chính, bao gồm cả các công ty kinh doanh chứng khoán, công ty môi
giới chứng khoán, quỹ tương hỗ và công ty bảo hiểm hàng đầu đều đang cố
gắng cung cấp dịch vụ mà ngân hàng đang cung cấp. Ngược lại, ngân hàng
cũng đang đối phó với các đối thủ cạnh tranh (các tổ chức tài chính phi ngân
hàng) bằng cách mở rộng phạm vi cung cấp dịch vụ về bất động sản và môi
giới chứng khoán, tham gia hoạt động bảo hiểm, đầu tư vào quỹ tương hỗ và
thực hiện nhiều dịch vụ môi giới khác.
Cách tiếp cận thận trọng nhất là có thể xem xét ngân hàng trên phương
diện những loại hình dịch vụ mà chúng cung cấp:
“Ngân hàng là các tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch
vụ tài chính đa dạng nhất – đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán
và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh
doanh nào trong nền kinh tế”.
1
Một số định nghĩa lại dựa trên các hoạt động chủ yếu của ngân hàng. Chẳng
hạn như trong Luật các tổ chức tín dụng của nước Cộng hòa Xã hội chủ
Lê Thị Linh Chi Lớp: Tài chính 46B
5
Chuyên đề tốt nghiệp
nghĩa Việt Nam ghi “ Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và
dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số
tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán”.
2
1.1.2. Hoạt động cho vay tại ngân hàng thương mại
Khái niệm cho vay
“Cho vay là một hình thức cấp tín dụng theo đó tổ chức tín dụng giao
cho khách hàng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời hạn nhất định
theo thỏa thuận với nguyên tắc hoàn trả gốc và lãi”.
3
Thời hạn nhất định ở đây được hiểu là thời hạn cho vay.
Thời hạn cho vay là khoảng thời gian được tính từ khi khách hàng bắt
đầu nhận vốn vay cho đến thời điểm trả hết nợ gốc và lãi vốn vay đã được
thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng giữa tổ chức tín dụng và khách hàng.
Các hình thức cho vay tại ngân hàng thương mại
Dựa vào thời hạn, có thể chia cho vay thành cho vay ngắn hạn, trung hạn và
dài hạn.
• Cho vay ngắn hạn là các khoản cho vay có thời hạn cho vay đến 12
tháng
• Cho vay trung hạn là các khoản cho vay có thời hạn cho vay từ trên
12 tháng đến 60 tháng.
• Cho vay dài hạn là các khoản vay có thời hạn cho vay từ trên 60
tháng trở lên.
Căn cứ vào mức độ tín nhiệm đối với khách hàng, cho vay được chia
làm 2 loại:
• Cho vay có bảo đảm
• Cho vay không có bảo đảm
Căn cứ vào phương pháp hoàn trả, cho vay của ngân hàng được chia
làm 2 loại:
Lê Thị Linh Chi Lớp: Tài chính 46B
6
Chuyên đề tốt nghiệp
• Cho vay bằng tiền
• Cho vay bằng tài sản
Căn cứ vào phương thức cấp tín dụng, cho vay chia làm 2 loại:
• Cho vay trực tiếp
• Cho vay gián tiếp
Căn cứ vào mục đích, cho vay được chia ra thành các loại sau:
• Cho vay bất động sản
• Cho vay công nghiệp và thương mại
• Cho vay nông nghiệp
• Cho vay cá nhân
1.2. Hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa tại ngân hàng
thương mại
1.2.1. Doanh nghiệp nhỏ và vừa
1.2.1.1. Khái niệm về doanh nghiệp nhỏ và vừa
Tại mỗi quốc gia, mỗi khu vực khác nhau đều có những nét đặc thù
riêng về điều kiện kinh tế - xã hội, do vậy việc phân loại doanh nghiệp không
thể thống nhất giữa tất cả các quốc gia trên thế giới. Ở mỗi nước, người ta có
tiêu chí riêng để xác định DNNVV ở nước mình. Một doanh nghiệp được đặt
trong điều kiện kinh tế của nước mình thì được coi là DNNVV nhưng nếu đặt
trong điều kiện kinh tế của quốc gia khác thì có thể lại được coi là doanh
nghiệp lớn, hay thậm chí là doanh nghiệp siêu nhỏ. Và ngay cả giữa các thời
điểm khác nhau thì quan niệm về DNNVV cũng có sự thay đổi rõ rệt, nhiều
doanh nghiệp trong quá khứ được coi là doanh nghiệp lớn nhưng đến nay lại
chỉ được đánh giá là doanh nghiệp có qui mô vừa. Chính vì những lý do trên
mà mỗi khi nói đến DNNVV thì ta phải đặt chúng trong quốc gia nào? Trong
điều kiện kinh tế như thế nào? Tại thời điểm nào? Nói một cách khác đi, khái
niệm về DNNVV chỉ có ý nghĩa trong phạm vi một quốc gia và tại một thời
Lê Thị Linh Chi Lớp: Tài chính 46B
7
Chuyên đề tốt nghiệp
điểm nhất định. Tuy nhiên việc đưa ra một khái niệm về DNNVV cho riêng
mình lại có vai trò quan trọng trong việc đưa ra chiến lược phát triển kinh tế
của mỗi quốc gia. Thực tế cho thấy rằng một quốc gia có một khái niệm rõ
ràng về DNNVV thì chính sách hỗ trợ cho nhóm doanh nghiệp này sẽ có hiệu
quả hơn.
Khi tiếp cận khái niệm về DNNVV thường dựa trên các nhóm chỉ tiêu
định tính và định lượng song các chỉ tiêu định lượng vẫn đóng vai trò quyết
định để phân biệt nhóm doanh nghiệp này với nhóm doanh nghiệp lớn.
Có ba chỉ tiêu định lượng sau đây thường được dùng độc lập hoặc kết
hợp với nhau để xác định tính chất nhỏ và vừa của doanh nghiệp:
Thứ nhất, lượng vốn đầu tư vào máy móc, dây chuyền sản xuất.
Thứ hai, số lượng lao động.
Thứ ba, qui mô sản xuất hoặc doanh thu từ hoạt động sản xuất kinh
doanh.
Xét về mặt định tính, các chỉ tiêu được xem xét là cơ cấu công ty, số
lượng người quản lý, người ra quyết định chính, ngành nghề kinh doanh,…
Đối với hầu hết các quốc gia trên thế giới việc phân loại DNNVV không hề
liên quan đến hình thức sở hữu cũng như tư cách pháp nhân của doanh
nghiệp, điều đó có nghĩa là khái niệm sẽ được áp dụng cho tất cả các loại hình
doanh nghiệp như doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, công ty hợp
danh, công ty liên doanh, hộ kinh doanh…
Dưới đây là khái niệm về DNNVV của một số quốc gia trên thế giới:
Tại Nhật Bản: Tiêu chí để xác định DNNVV được quy định trong
“Luật cơ bản về DNNVV” như sau:
• Đối với các ngành sản xuất, các doanh nghiệp có số nhân viên thường
xuyên dưới 300 người hoặc số vốn kinh doanh dưới 100 triệu Yên thì
được xem là DNNVV.
Lê Thị Linh Chi Lớp: Tài chính 46B
8
Chuyên đề tốt nghiệp
• Đối với ngành bán buôn, các doanh nghiệp có số nhân viên thường
xuyên dưới 100 người hoặc số vốn kinh doanh dưới 30 triệu Yên thì
được coi là DNNVV.
• Đối với ngành bán lẻ hoặc dịch vụ, các doanh nghiệp có số nhân viên
dưới 50 người hoặc số vốn kinh doanh dưới 10 triệu Yên thì được coi
là DNNVV.
Tại Philipin: DNNVV được chia ra làm 4 cấp: cấp kinh doanh nhỏ, hộ
kinh doanh, doanh nghiệp nhỏ và doanh nghiệp vừa. Tiêu chí mà Philipin lựa
chọn để phân loại là giá trị tổng tài sản, trong đó bao gồm cả những khoản nợ,
những loại trừ giá trị đất đai dùng để xây dựng công sở và lắp đặt máy móc.
Bảng 1.1: DNNVV tại Philipin phân chia theo tổng tài sản
Quy mô Tổng tài sản
Kinh doanh nhỏ Không vượt quá 150.000 Pêxo
Hộ kinh doanh Trong khoảng 150.000 Pêxo đến 1,5tr. Pêxo
Doanh nghiệp nhỏ Trong khoảng 1,5tr. Pêxo đến 15tr. Pêxo
Doanh nghiệp vừa Trong khoảng 15tr. Pêxo đến 60tr. Pêxo
Theo tiêu chí của ngân hàng thế giới, doanh nghiệp siêu nhỏ là doanh
nghiệp có số lượng lao động dưới 10 người, doanh nghiệp nhỏ có số lượng
lao động từ 10 đến 50 người, còn doanh nghiệp vừa có từ 50 đến 300 lao
động.
Ở Việt Nam, theo nghị định số 90/2001/NĐ – CP ngày 23/11/2001 về
trợ giúp phát triển DNNVV quy định: “ DNNVV là các cơ sở sản xuât kinh
doanh độc lập, đã đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có số vốn
đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm không
quá 300 người”.
Lê Thị Linh Chi Lớp: Tài chính 46B
9
Chuyên đề tốt nghiệp
Đây là văn bản pháp luật đầu tiên chính thức quy định về DNNVV. Nghị
định cũng cho phép căn cứ vào tình hình cụ thể của ngành, địa phương có thể
linh hoạt áp dụng đồng thời cả hai chỉ tiêu trên hoặc một trong hai chỉ tiêu nói
trên.
Theo đó các DNNVV theo pháp luật hiện hành bao gồm:
- Các doanh nghiệp thành lập và hoạt động theo Luật Doanh nghiệp.
- Các doanh nghiệp thành lập và hoạt động theo Luật Doanh nghiệp nhà
nước.
- Các doanh nghiệp thành lập và hoạt động theo Luật hợp tác xã.
- Các hộ kinh doanh cá thể đã đăng ký kinh doanh theo nghị định số
02/2000/NĐ – CP ngày 03/2/2000
Ở Việt Nam, tính từ năm 2000 đến năm 2006, cả nước có 207034 doanh
nghiệp dân doanh (chủ yếu là các DNNVV) đăng ký kinh doanh thành lập
mới với tổng số vốn đăng ký đạt hơn 466 nghìn tỷ đồng.
4
Mặc dù khái niệm về DNNVV khác nhau tại mỗi quốc gia nhưng chúng ta
vẫn có thể kết luận rằng thuật ngữ DNNVV là hàm ý nói tới một tập hợp các
thực thể kinh tế có quy mô vừa và nhỏ xét trên phương diện vốn và lao động
so với mặt bằng phát triển chung của nền kinh tế tại mỗi quốc gia nhất định.
Một vấn đề đặt ra là nhóm doanh nghiệp này có những đặc điểm gì khác
biệt mà nhờ nó chúng trở thành một động lực quan trọng thúc đẩy sự phát
triển của nền kinh tế, đồng thời thu hút rất nhiều sự quan tâm đặc biệt của mọi
quốc gia trong quá trình phát triển kinh tế.
1.2.1.2. Đặc điểm của doanh nghiệp nhỏ và vừa
Tại Nhật Bản, DNNVV chiếm hơn 90% trong tổng số các doanh
nghiệp, chiếm hơn 70% nguồn lao động. Tại Mê Hi Cô DNNVV chiếm tới
98%, cung cấp 64% tổng việc làm, tạo ra 42% trong GDP; tại Việt Nam
DNNVV chiếm trên 95% tổng số doanh nghiệp hiện có trên cả nước, các
Lê Thị Linh Chi Lớp: Tài chính 46B
10
Chuyên đề tốt nghiệp
DNNVV đang hoạt động trong môi trường kinh tế chưa hoàn toàn thuận lợi
cả về mặt vi mô và vĩ mô. Trong đó gặp nhiều khó khăn về công nghệ sản
xuất kinh doanh, mô hình quản lý, trình độ, kỹ năng của đội ngũ lãnh đạo và
tay nghề của người lao động, phương thức tiếp thị sản phẩm, đặc biệt là sự
hạn chế về tiếp cận thị trường và dịch vụ tài chính, vốn đầu tư…
Khu vực DNNVV hiện nay đang gặp phải rất nhiều khó khăn về vốn.
Đa phần các DNNVV có quy mô sản xuất kinh doanh nhỏ lại luôn trong tình
trạng thiếu vốn, “khát vốn” cho mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh, đầu tư
cải tiến máy móc, trang thiết bị mới, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực…
Tuy nhiên theo khảo sát của 48 ngân hàng từ 14 nền kinh tế có 38% ngân
hàng coi DNNVV quan trọng hơn các doanh nghiệp lớn, 47% coi DNNVV và
các doanh nghiệp lớn có tầm quan trọng như nhau và chỉ có 15% coi doanh
nghiệp lớn có vai trò quan trọng hơn DNNVV. Với nhiều khó khăn đòi hỏi
DNNVV phải vượt qua và vươn lên để có thể tồn tại và đứng vững trên thị
trường đã tạo ra cho nhóm doanh nghiệp này những đặc điểm nổi bật của
riêng mình:
Thứ nhất, hoạt động kinh doanh của các DNNVV rất năng động, linh
hoạt và nhạy cảm với những sự thay đổi của thị trường.
Các chủ doanh nghiệp không ngừng tìm kiếm lĩnh vực mà ở đó sự cạnh
tranh chưa cao, song lại đem lại lợi nhuận nhanh chóng. Bên cạnh đó nhóm
doanh nghiệp này có thể dễ dàng thay đổi ngành nghề kinh doanh với chi phí
thấp do lượng vốn bỏ ra không nhiều.
Về ngành nghề kinh doanh
Với nhiều hạn chế về nguồn vốn và chất lượng nguồn nhân lực nên có
rất nhiều lĩnh vực mà các DNNVV không thể tham gia như các ngành luyện
kim, khai thác mỏ, ngân hàng tài chính,…Vì vậy lĩnh vực kinh doanh của
nhóm doanh nghiệp này thường là các ngành công nghiệp nhẹ như:may mặc,
Lê Thị Linh Chi Lớp: Tài chính 46B
11
Chuyên đề tốt nghiệp
giày dép, hải sản đông lạnh, đồ gỗ, hàng thủ công mỹ nghệ , sản xuất bao bì,
đóng gói …Lĩnh vực dịch vụ được các DNNVV chú trọng là vận tải nội hành,
vui chơi giải trí, dịch vụ ăn uống, chăm sóc khách hàng…Ngoài ra thương
mại cũng là một trong những thế mạnh của DNNVV như: xuất khẩu gạo, thu
mua nguyên vật liệu trong và ngoài nước, đại diện bán hàng, tham gia vào các
kênh phân phối sản phẩm…
Về chu kỳ kinh doanh
Chu kỳ kinh doanh của các doanh nghiệp thường diễn biến theo mùa.
Việc lập chiến lược phát triển dài hạn của các doanh nghiệp này thường
không được chú trọng và không rõ ràng.
Về thị trường và mức độ cạnh tranh
Thị trường của các DNNVV chủ yếu là phục vụ các doanh nghiệp lớn,
cung cấp nguyên vật liệu, làm đại lý bán hàng, kênh phân phối, hoặc những
đoạn thị trường còn bỏ ngỏ với quy mô nhỏ và độ sâu hạn chế. Những thị
trường này chứa đựng nhiều rủi ro và không ổn định khiến hoạt động của
DNNVV bấp bênh, không ổn định. Do đó sự cạnh tranh ngày càng trở nên
gay gắt hơn, mà đối thủ cạnh tranh lớn nhất ở đây không phải là các doanh
nghiệp lớn mà lại là chính các doanh nghiệp có cùng qui mô. Nguyên nhân là
vì các doanh nghiệp lớn thường có thị trường ổn định, với nhóm khách hàng
mục tiêu được xác định trước. Khi có ý định mở rộng thị trường các doanh
nghiệp lớn thường tìm kiếm những thị trường có quy mô lớn, có chiều sâu.
Trong khi đó các DNNVV, số lượng đông đảo, có mục đích tương tự nhau là
tìm kiếm những thị trường còn bỏ ngỏ. Còn hình thức cạnh tranh mà các
DNNVV thường dùng là cạnh tranh về giá cả.
Thứ hai, DNNVV tạo điều kiện duy trì tự do cạnh tranh
Khác với những doanh nghiệp lớn đòi hỏi một thị trường lớn, thậm chí
là cần tới sự bảo hộ của Chính phủ và có sự độc quyền, các DNNVV hoạt
Lê Thị Linh Chi Lớp: Tài chính 46B
12
Chuyên đề tốt nghiệp
động với số lượng đông đảo dễ dàng và sẵn sàng chấp nhận tự do cạnh tranh,
thường không có tình trạng độc quyền. Mặt khác, DNNVV cũng có tính tự
chủ cao hơn so với các doanh nghiệp lớn, sẵn sàng khai thác triệt để các cơ
hội phát triển mà không ngại rủi ro. Chính điều đó là động lực thúc đẩy nền
kinh tế phát triển sôi động hơn, khai thác tối đa mọi tiềm năng của đất nước.
Đây là một ưu thế rất quan trọng của DNNVV.
Thứ ba, DNNVV có thể phát huy được tiềm lực trong nước.
Thành công của DNNVV là nắm được những điều kiện cụ thể của đất
nước về tài nguyên thiên nhiên và nguồn lao động. Đối với doanh nghiệp lớn,
việc sử dụng nguồn nguyên liệu sẵn có tại địa phương gặp rất nhiều khó khăn
do lượng dự trữ thấp. Ngược lại, các DNNVV có lợi thế trong việc sử dụng
lao động dồi dào tại địa phương và tận dụng các tài nguyên, tư liệu sản xuất
sẵn có, phát huy được tiềm lực trong nước cho sản xuất kinh doanh.
Thứ tư, DNNVV góp phần tạo lập sự phát triển cân bằng giữa các
vùng trong một quốc gia.
Do được tạo lập một cách dễ dàng, DNNVV có thể phát triển rộng rãi ở
vùng lãnh thổ và tạo ra những sản phẩm phong phú, đồng thời tạo ra sự phát
triển cân bằng giữa các vùng lãnh thổ trong mỗi nước. Đặc biệt là các
DNNVV có thể có mặt ở khắp mọi miền đất nước, kể cả nông thôn hay miền
núi, những nơi thưa dân, kinh tế chưa phát triển. Theo đó các DNNVV cung
cấp hàng hóa và dịch vụ cho cư dân địa phương và những vùng phụ cận. Trên
thực tế các DNNVV cung ứng sản phẩm tại chỗ với khoảng 95% sản phẩm
tiêu thụ nội địa, mà chủ yếu là tiêu trong vùng, khoảng 5% sản phẩm dành
cho xuất khẩu. Do đó nhóm doanh nghiệp này đã góp phần đắc lực cho sự
tăng trưởng kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế của đất nước.
Không chỉ dừng lại ở đó DNNVV còn góp phần vào việc giải quyết các
vấn đề xã hội như giải quyết nạn thất nghiệp, góp phần tăng thu nhập cho
Lê Thị Linh Chi Lớp: Tài chính 46B
13
Chuyên đề tốt nghiệp
người lao động, cải thiện đời sống và xóa dần những khoảng cách về thu
nhập, mức sống giữa khu vực thành thị và nông thôn.
Mặc dù có nhiều lợi thế song các DNNVV của Việt Nam vẫn còn tồn
tại không ít những khó khăn, hạn chế:
Thứ nhất, theo nhiều chuyên gia kinh tế nhận xét, với quy mô nhỏ,
phần lớn mới được thành lập trong vòng gần chục năm trở lại đây, nhất là
sau khi có Luật Doanh nghiệp ra đời nên DNNVV còn ít kinh nghiệm kinh
doanh, chi phí kinh doanh cao. Thêm vào đó là năng suất lao động thấp, năng
lực ứng dụng công nghệ trong sản xuất, kinh doanh và quản lý ở các DNNVV
còn yếu. Để có thể thành công trong một nền kinh tế cạnh tranh cao độ như
hiện nay, các doanh nghiệp phải thường xuyên thay đổi công nghệ, máy móc,
thiết bị, các phương pháp, bí quyết sản xuất. Thế nhưng công nghệ được sử
dụng trong các DNNVV Việt Nam được đánh giá là lạc hậu. Do ảnh hưởng
của tư duy sản xuất nhỏ và một phần là do thiếu vốn nên rất nhiều DNNVV
đầu tư từng giọt, làm từng phần, mỗi năm mua thêm một số máy móc, thiết bị,
vừa làm vừa cải tiến. Điều đó làm cho công nghệ được sử dụng trong các
doanh nghiệp này trở thành mớ hỗn độn, chắp vá dẫn đến hạn chế khả năng
sản xuất, đa dạng hóa sản phẩm, hạn chế năng suất, chất lượng sản phẩm, làm
tăng chi phí sản xuất.
Thứ hai, khó khăn lớn nhất, bức xúc nhất của các DNNVV hiện nay
vẫn là thiếu vốn bởi năng lực vốn nội tại của các doanh nghiệp này còn hạn
chế (số vốn của các DNNVV còn rất thấp). Theo ông Cao Sỹ Khiêm, Chủ
tịch hiệp hội DNNVV thì “ở nhiều nước khác, doanh nghiệp ra đời bao giờ
vốn tự có cũng là chính, vay ngân hàng chỉ là bổ sung nên phát triển rất vững
chắc. Còn ở Việt Nam doanh nghiệp ra đời với vốn điều lệ ít hoạt động sản
xuất kinh doanh chủ yếu dựa vào vốn vay”
5
. Qua khảo sát điều tra hơn 63
nghìn doanh nghiệp tại 30 tỉnh thành phía bắc thì có khoảng 50% doanh
Lê Thị Linh Chi Lớp: Tài chính 46B
14
Chuyên đề tốt nghiệp
nghiệp có vốn dưới 1 tỷ đồng, gần 75% doanh nghiệp có vốn dưới 2 tỷ đồng
và có tới 90% doanh nghiệp có vốn dưới 5 tỷ đồng
6
. Đa phần các DNNVV có
quy mô sản xuất kinh doanh nhỏ lại luôn trong tình trạng thiếu vốn, “khát
vốn” cho mở rộng qui mô sản xuất kinh doanh, đầu tư cải tiến máy móc, trang
thiết bị mới. Điều đó cho thấy nhu cầu vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh
của các DNNVV là rất lớn. Về lý thuyết với số lượng DNNVV đông đảo như
vậy với đặc thù vốn ít chính là đối tượng khách hàng đầy tiềm năng của các
ngân hàng. Bằng chứng là ước tính có đến 80% lượng vốn cung ứng cho
DNNVV là từ kênh ngân hàng.
1.2.1.3. Vai trò của doanh nghiệp nhỏ và vừa đối với mỗi quốc gia
Thực tế nhiều quốc gia trên thế giới nói chung và Việt Nam, DNNVV đã
có nhiều đóng góp rất quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội
của mỗi quốc gia.
DNNVV đóng góp quan trọng vào GDP và tốc độ tăng trưởng kinh tế.
Các DNNVV được đánh giá là bộ phận năng động, hoạt động có hiệu quả
của nền kinh tế. Mức độ đóng góp của DNNVV vào nền kinh tế ngày càng
lớn. Các DNNVV đang trở thành bộ phận quan trọng đóng góp đáng kể vào
nền nền kinh tế. DNNVV đóng góp hơn 40% GDP, luôn duy trì tốc độ tăng
trưởng trên 18%, đóng góp khoảng 14.8% tổng thu ngân sách nhà nước. Đây
là bộ phận có vai trò quan trọng trong quá trình sản xuất lưu thông hàng hóa,
cung ứng dịch vụ, là vệ tinh gắn kết, hỗ trợ thúc đẩy phát triển của các doanh
nghiệp lớn trong nền kinh tế. Ngoài ra tốc độ tăng trưởng sản xuất của khu
vực DNNVV cũng thường cao hơn so với các khu vực doanh nghiệp khác.
Phát triển DNNVV đang là vấn đề được Đảng và Nhà nước rất coi trọng,
được coi là một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội của nước ta.
Lê Thị Linh Chi Lớp: Tài chính 46B
15