Tải bản đầy đủ (.doc) (54 trang)

Thực trạng và các giải pháp đẩy mạnh hoạt động huy động vốn của các NHTM trên địa bàn Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (300.55 KB, 54 trang )

Đề án môn học GVHD: Đặng Anh Tuấn
MỤCLỤC
Kết luận chương I 27
CHƯƠNG III 36
GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA CÁC
NHTM TRÊN ĐỊA BÀN HÀ NỘI 36
Kết luận chương III 52
KẾT LUẬN 53
SV: Phạm Thọ Hiển Lớp:Tài chính doanh nghiệp 49C
Đề án môn học GVHD: Đặng Anh Tuấn
Trang - 1 -
A.LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Phát triển kinh tế là mục tiêu đầu tiên của tất cả các nước trên thế giới. Kinh tế
có phát triển thì mới có điều kiện nâng cao mức sống vật chất đồng thời tạo môi
trường cho phép mọi người được hưởng thụ cuộc sống trường thọ, mạnh khỏe, xóa
bỏ nghèo đói. Mà muốn tăng truởng và phát triển kinh tế thì 1 trong những yếu tố
quan trọng cần phải có là vốn. Với nguồn vốn này sẽ giúp các doanh nghiệp trang bị
máy móc công nghệ hiện đại, đào tạo nguồn nhân lực và ứng dụng những thành tựu
công nghệ mới…dẫn đến tăng khả năng cạnh tranh và đứng vững trong điều kiện
hội nhập và sự bùng nổ của nền kinh tế tri thức. Có thể nói nguồn vốn để đầu tư
phát triển theo chiều rộng lẫn chiều sâu nhằm tạo ra nhiều của cải vật chất. Vì vậy
nhu cầu về vốn là nhu cầu rất bức xúc và cấp bách. Trong khi đó nguồn vốn tạm
thời nhàn rỗi của người dân nằm rải rác khắp nơi. Vì vậy để có thể thu hút được
nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho doanh nghiệp phát
triển đòi hỏi cần có 1 tổ chức đứng ra làm trung gian. Tổ chức đó là hệ thống Ngân
hàng. Hệ thống Ngân hàng với chức năng của mình trực tiếp “hút” ( nghiệp vụ huy
động vốn ) và “bơm” ( cho vay ) vốn vào nền kinh tế, vào khắp các ngõ ngách của
hoạt động kinh tế, điều tiết vốn giữa các ngành, các vùng 1 cách tối ưu nhất. Có thể
nói huy động vốn là một trong những hoạt động hết sức đặc thù của NHTM là tiêu
chí quan trọng và duy nhất để phân biệt giữa ngân hàng và doanh nghiệp. Vì vậy


làm cách nào để hệ thống NHTM phát huy có hiệu quả chức năng trên của mình, là
cầu nối giữa nơi thừa và nơi thiếu vốn, đáp ứng được nhu cầu vốn cho sự phát triển
kinh tế của đất nước trong điều kiện thị trường tài chính tiền tệ trong và ngoài nước
diễn biến phức tạp: lạm phát cao, giá xăng dầu tăng, NHNN áp dụng chính sách tiền
tệ thắt chặt, tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, yêu cầu NHTM mua tín phiếu. Trong khi đó,
bản thân các ngân hàng lại có vốn điều lệ ít, và sự cạnh tranh của các định chế tài
chính trung gian khác. Đó là mối quan tâm của cấp lãnh đạo các ngân hàng trên địa
bàn. Chính vì những lý do trên học viên quyết định chọn đề tài “Thực trạng và các
giải pháp đẩy mạnh hoạt động huy động vốn của các NHTM trên địa bàn Hà Nội.
SV: Phạm Thọ Hiển Lớp:Tài chính doanh nghiệp 49C
Đề án môn học GVHD: Đặng Anh Tuấn
Trang - 2 -
Trong đề án có thiếu sót rất mong được sự góp ý từ phía các thầy các cô Em
xin chân thành cám ơn sự hướng dẫn tận tình của thầy giáo Đặng Anh Tuấn đã giúp
em hoàn thành đề án này.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Đề tài chỉ tập trung trình bày thực trạng hoạt động huy động vốn của các
NHTM Việt Nam những ưu điểm cũng như những khuyết điểm trong hoạt động
huy động vốn của các NHTM. Từ đó đưa ra những giải pháp đẩy mạnh hoạt động
huy động vốn đáp ứng nhu cầu vốn cho các doanh nghiệp
3. Phương pháp nghiên cứu
Dùng phương pháp lịch sử, thống kê so sánh số tương đối và tuyệt đối, phân tích
theo chiều rộng, chiều sâu về hoạt động huy động vốn của các NHTM Việt Nam
4. Phạm vi nghiên cứu
Do sự hạn chế về thời gian nên đề tài đi sâu nghiên cứu thực trạng hoạt động
huy động vốn của các NHTM
5. Ý nghĩa thực tiễn của đề án
Dựa trên thực trạng công tác huy động vốn ở Việt Nam, đề án đưa ra những
giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động huy động vốn của các NHTM 6. Hạn
chế của đề án

Đề án chỉ đi sâu vào nguồn vốn huy động và vay không đi vào nguồn vốn điều
lệ và các quỹ.
7. Nội dung và kết cấu của đề án gồm 6 phần
1.Lời mở đầu
2.Chương 1: Trình bày tổng quan về nguồn vốn huy động của các NHTM.
3.Chương 2: Thực trạng hoạt động huy động vốn của các NHTM trên địa bàn
Hà Nội
4.Chương 3: Những giải pháp đẩy mạnh hoạt động huy động vốn của các
NHTM
5.Kết luận
6.Tài liệu tham khảo
SV: Phạm Thọ Hiển Lớp:Tài chính doanh nghiệp 49C
Đề án môn học GVHD: Đặng Anh Tuấn
Trang - 3 -
CHƯƠNG I
TỔNG QUAN VỀ NGUỒN VỐN HUY ĐỘNG CỦA CÁC NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM
1.1 Tầm quan trọng của nghiệp vụ huy động vốn
1.1.1 Đối với nền kinh tế
Hệ thống NHTM đóng vai trò rất quan trọng trong sự phát triển của nền kinh
tế. Thông qua nghiệp vụ huy động vốn mà hệ thống ngân hàng tập trung hầu hết
các nguồn vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi của xã hội, biến tiền nhàn rỗi từ chổ là
phương tiện tích lũy trở thành nguồn vốn lớn của nền kinh tế. Đây là nguồn vốn rất
quan trọng để đầu tư phát triển nền kinh tế vì nó không những lớn về số tiền tuyệt
đối mà vì tính chất “luân chuyển” không ngừng của nó. Đặc biệt trong chiến lược
phát triển của nước ta là xây dựng nền kinh tế theo hướng công nghiệp hóa hiện đại
hóa nhưng điểm xuất phát thấp, ngân sách còn hạn hẹp, hầu như không có tích lũy
từ trước, do đó vốn đầu tư cho các ngành kinh tế phải trông đợi rất nhiều vào nguồn
vốn nội lực trong đó nguồn từ các ngân hàng huy động được là rất quan trọng vì nó
tạo nên sự ổn định vững chắc cho sự phát triển nhanh ổn định và bền vững lâu dài.

Ngoài việc thu hút tiền nhàn rỗi trong xã hội để sử dụng cho đầu tư phát triển bên
cạnh đó thông qua nghiệp vụ huy động vốn giúp NHNN kiểm soát khối lượng tiền
tệ trong lưu thông qua việc sử dụng chính sách tiền tệ ( tỷ lệ dự trữ bắt buộc, lãi suất
cơ bản, lãi suất tái cấp vốn, lãi suất chiết khấu, tỷ giá….). Chẳng hạn muốn thu hút
bớt lượng tiền trong lưu thông, NHNN tăng lãi suất cơ bản, lãi suất chiết khấu, tỷ lệ
dự trữ bắt buộc, khống chế dư nợ tín dụng, và ngược lại…. nhằm điều hòa lưu
thông tiền tệ, kiềm chế lạm phát, bình ổn giá cả.
1.1.2 Đối với NHTM
Nghiệp vụ huy động vốn mang lại nguồn vốn cho ngân hàng thực hiện các
nghiệp vụ kinh doanh khác: tín dụng, đa dạng hoá các sản phẩm, dịch vụ, phát triển
khoa học công nghệ ngân hàng. Phần lớn vốn huy động bắt nguồn từ các hoạt động
huy động nguồn tiền tạm thời nhàn rỗi của các doanh nghiệp, cá nhân cũng như từ
SV: Phạm Thọ Hiển Lớp:Tài chính doanh nghiệp 49C
Đề án môn học GVHD: Đặng Anh Tuấn
Trang - 4 -
việc vay mượn các nhà đầu tư trên thị trường tiền tệ và thị trường vốn. Nếu không
có nghiệp vụ này thì ngân hàng thương mại sẽ không đủ nguồn vốn tài trợ cho hoạt
động của mình bởi vì khi một NHTM được cấp giấy phép thành lập phải có vốn
điều lệ theo quy định, nhưng vốn điều lệ chỉ đủ tài trợ cho tài sản cố định như trụ
sở, văn phòng, máy móc thiết bị cần thiết cho hoạt động chứ chưa đủ vốn để ngân
hàng có thể thực hiện các hoạt động kinh doanh của mình. Chính nguồn vốn này,
chứ không phải nguồn vốn sở hữu đã tạo nguồn lực tài chính chủ yếu cho các hoạt
động thường là một khoản chi phí lớn nhất đối với ngân hàng. Bên cạnh đó thông
qua nghiệp vụ này NHTM có thể đo lường được sự sự tín nhiệm, uy tín của khách
hàng đối với ngân hàng qua đó có những giải pháp không ngừng đẩy mạnh hoạt
động huy động vốn để giữ vững và mở rộng quan hệ với khách hàng. Chính nghiệp
vụ huy động vốn góp phần giải quyết đầu vào của ngân hàng.
1.1.3 Đối với khách hàng
Nghiệp vụ huy động vốn cung cấp cho khách hàng 1 kênh đầu tư, làm cho tiền
của họ sinh lợi bằng cách gửi tiền vào ngân hàng, được hưởng lãi từ đó tạo điều

kiện cho họ tăng khả năng tiêu dùng trong tương lai. Qua nghiệp vụ huy động vốn,
Ngân hàng cung cấp cho khách hàng một nơi an toàn để cất trữ, tích lũy vốn tạm
thời nhàn rỗi đồng thời giúp cho khách hàng có cơ hội tiếp cận các dịch vụ, đặc biệt
dịch vụ thanh toán qua ngân hàng, dịch vụ tín dụng khi họ cần vốn cho sản xuất
hoặc cho tiêu dùng và dịch vụ ủy thác thu hộ, chi hộ giúp họ tiết kiệm thời gian, chi
phí vận chuyển, nhân lực và vật lực.
1.2 Đối tượng của nghiệp vụ huy động vốn
Ngân hàng huy động từ nhiều nguồn khác nhau: các bộ phận dân cư, công ty
kinh doanh, các công ty tài chính, cơ quan chính quyền, kho bạc nhà nước, các tổ
chức tín dụng nước ngoài, người nước ngoài… Trong đó các NHTM thường chú
trọng nhiều đến 2 nguồn vốn chủ yếu: tiền gửi của các tổ chức kinh tế và tiền gửi
dân cư.
SV: Phạm Thọ Hiển Lớp:Tài chính doanh nghiệp 49C
Đề án môn học GVHD: Đặng Anh Tuấn
Trang - 5 -
Các tổ chức kinh tế thường giao dịch với ngân hàng thông qua việc mở tài
khoản tiền gửi thanh toán để được cung cấp các dịch vụ thanh toán qua ngân hàng,
dịch vụ ngân quỹ và tiền gửi có kỳ hạn.
Ngược lại khách hàng thuộc tầng lớp dân cư, hoạt động giao dịch chủ yếu với
ngân hàng thông qua tài khoản cá nhân và tiền gửi tiết kiệm chiếm tỷ trọng lớn.
1.3 Những vấn đề chung về hoạt động huy động vốn
1.3.1 Các khái niệm
Do đặc điểm tuần hoàn vốn, thu nhập và sử dụng thu nhập của các
doanh nghiệp, cá nhân trải qua các giai đoạn khác nhau, không khớp về không gian
và thời gian, có lúc khách hàng này thừa vốn chưa sử dụng nhưng lại có những
khách hàng khác thiếu vốn cần bổ sung. Do đó NHTM với chức năng và nghiệp vụ
của mình để làm cầu nối giữa nơi thừa và nơi thiếu.
- Khái niệm vốn huy động: vốn huy động là tài sản bằng tiền của các tổ chức
và cá nhân mà ngân hàng đang tạm thời quản lý và sử dụng với trách nhiệm hoàn
trả, vốn huy động là nguồn vốn chủ yếu, nguồn tài nguyên to lớn nhất và quan trọng

nhất của bất kỳ NHTM nào.
- Dự trữ bắt buộc: là khoản mà Ngân hàng Nhà nước buộc các ngân hàng khác
phải nộp để thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia. Ngân hàng Nhà nước được phép
ấn định một tỷ lệ dự trữ bắt buộc trong từng thời kỳ nhất định theo quy định của
Luật ngân hàng nhà nước việt Nam ( Luật số 1/1997/QH10) khoản 1 điều 20 của
luật này ghi rõ: “ Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối
với từng loại hình tổ chức tín dụng và từng loại tiền gửi tại mỗi tổ chức tín dụng
trong từng thời kỳ ”. Số tiền gửi bắt buộc = (tỉ lệ dự trữ bắt buộc) * tổng nguồn vốn
huy động bình quân của ngân hàng. Mục đích của dự trữ bắt buộc là bảo vệ quyền
lợi của người gửi tiền vào ngân hàng và đảm bảo cho Ngân hàng Nhà nước có thể
điều chỉnh mức cung tiền của Ngân hàng Thương mại. Điều này khiến cho NHTM
không thể sử dụng được 100% vốn huy động được để cho vay.
* Dự trữ sơ cấp: gồm tiền mặt, tiền gửi
Tiền mặt, các khoản coi như tiền mặt.
SV: Phạm Thọ Hiển Lớp:Tài chính doanh nghiệp 49C
Đề án môn học GVHD: Đặng Anh Tuấn
Trang - 6 -
Tiền gửi tại Ngân hàng Nhà nước ( tiền gửi không kỳ hạn).
Tiền gửi tại các ngân hàng khác.
Các khoản khác ( ngân quỹ đang thu).
* Dự trữ thứ cấp là dự trữ không tồn tại bằng tiền mặt và tiền gửi mà bằng
chứng khoán, nghĩa là những chứng khoán ngắn hạn có thể bán để chuyển thành
tiền một cách thuận lợi bao gồm tín phiếu kho bạc, hối phiếu đã chấp nhận, các giấy
nợ ngắn hạn khác. Gọi là dự trữ thứ cấp, bởi nó chỉ được sử dụng khi các khoản
mục dự trữ sơ cấp bị cạn kiệt.
Khi quản lý mức dự trữ bắt buộc, Ngân hàng Nhà nước có thể áp dụng 1
trong 3 phương pháp:
+ Phương pháp phong tỏa: theo đó toàn bộ mức dự trữ bắt buộc phải gửi vào
một tài khoản tại Ngân hàng Nhà nước và sẽ bị phong tỏa để đảm bảo thực hiện
đúng mức dự trữ.

+ Phương pháp bán phong tỏa: theo đó một phần của mức dự trữ bắt buộc sẽ
được quản lý và phong tỏa tại một tài khoản riêng ở Ngân hàng Nhà nước.
+ Phương pháp không phong tỏa: theo phương pháp này, tiền dự trữ được
tính và thực hiện hàng ngày trên cơ sở số dư thực tế về tiền gửi không kỳ hạn và
tiền gửi có kỳ hạn.
Toàn bộ mức dự trữ sẽ không bị phong tỏa, nó có thể tồn tại dưới hình thức
tiền mặt hay tiền gửi Ngân hàng Nhà nước, hay dưới dạng chứng khoán ngắn hạn là
tuỳ NHTM. Tuy nhiên đến cuối mỗi tháng, Ngân hàng Nhà nước cũng sẽ kiểm tra
việc thực hiện dự trữ bắt buộc, nếu các ngân hàng thương mại không thực hiện đúng
sẽ bị phạt ( cảnh cáo, phạt tiền nếu tái phạm ).
-Hệ số giới hạn huy động vốn:
H1= (Vốn tự có/Tổng nguồn vốn huy động) *100%
Hệ số này đưa ra nhằm mục đích giới hạn mức huy động vốn của ngân hàng
để tránh tình trạng khi ngân hàng huy động vốn quá nhiều vượt quá mức bảo vệ của
vốn tự có làm cho ngân hàng có thể mất khả năng chi trả. Để tạo một khoản cách an
SV: Phạm Thọ Hiển Lớp:Tài chính doanh nghiệp 49C
Đề án môn học GVHD: Đặng Anh Tuấn
Trang - 7 -
toàn trong hoạt động của ngân hàng trong mối tương quan giữa vốn tự có và vốn
huy động, nếu chênh lệch đó càng lớn thì hệ số an toàn của ngân hàng sẽ càng thấp.
Trong đó:
+Vốn tự có của ngân hàng gồm: vốn điều lệ và quỹ dự trữ bổ sung vốn điều
lệ, quỹ dự phòng tài chính, quỹ đầu tư phát triển nghiệp vụ, lợi nhuận không chia.
+Tổng nguồn vốn huy động gồm: tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn,
tiền gửi tiết kiệm, phát hành kỳ phiếu, trái phiếu ngân hàng, chứng chỉ tiền gửi để
huy động vốn, các khoản tiền giữ hộ và đợi thanh toán, tiền gửi của Kho bạc Nhà
nước (nếu có) .
Ở góc độ khác, một số quốc gia còn dùng hệ số này để bảo hộ các ngân hàng
trong nước đối với thị trường tiền gửi trong giai đoạn đầu của hội nhập kinh tế quốc
tế ( theo công văn số 1210/NHNN-CNH của Ngân hàng Nhà nước, các chi nhánh

ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam được nhận tiền gửi VNĐ từ các thể nhân Việt
Nam mà ngân hàng không có quan hệ tín dụng theo tỷ lệ trên mức vốn được cấp của
chi nhánh với mức tiền gửi tối đa và theo lộ trình cụ thể: từ ngày 1/1/2007, tỷ lệ
được huy động là 650 % vốn được cấp; từ ngày 1/1/2008 là 800% vốn được cấp; từ
ngày 1/1/2009: 900% vốn được cấp; từ ngày 1/1/2010: 1000% vốn được cấp và sau
ngày 1/1/2011 sẽ được đối xử quốc gia đầy đủ. Theo Ngân hàng Nhà nước, cơ chế
và lộ trình trên là nhằm thực hiện các cam kết về dịch vụ ngân hàng tại biểu cam kết
về dịch vụ trong bộ văn kiện gia nhập tổ chức Thương mại thế giới của Việt Nam ).
1.3.2 Đặc điểm của vốn huy động và các nhân tố ảnh hưởng đến nguồn vốn
huy động
1.3.2.1 Đặc điểm
Nguồn vốn huy động chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn. Thông thường
nguồn này chiếm hơn 50% tổng nguồn vốn, các ngân hàng hoạt động được là nhờ
vào nguồn vốn này và là mục tiêu tăng trưởng hàng năm của các ngân hàng. Nhưng
vốn huy động là nguồn vốn không ổn định, vì khách hàng có thể rút tiền của họ mà
không bị ràng buộc ngay cả khi đó là tiền gửi có kỳ hạn chưa đến hạn nên ngân
hàng cần duy trì một khoản dự trữ thanh khoản để đáp ứng nhu cầu rút tiền của
SV: Phạm Thọ Hiển Lớp:Tài chính doanh nghiệp 49C
Đề án môn học GVHD: Đặng Anh Tuấn
Trang - 8 -
khách hàng. Sự thay đổi đặc biệt là tiền gửi ngắn hạn, làm thay đổi cầu thanh khoản
của ngân hàng.
Vốn huy động có chi phí sử dụng vốn cao ( do ngân hàng vừa phải trả lãi cho
khách hàng gửi, vừa phải trả phí bảo hiểm tiền gửi nhưng lại không được sử dụng hết
để cho vay mà phải để lại một phần theo tỷ lệ dự trữ bắt buộc của Ngân hàng Nhà
nước quy định. ) đồng thời chiếm tỷ trọng chi phí đầu vào rất lớn trong hoạt động
kinh doanh của các NHTM. Nhưng lại là nguồn vốn có tính cạnh tranh gay gắt giữa
các ngân hàng bởi vì muốn tăng trưởng tín dụng buộc các ngân hàng phải tăng được
nguồn vốn huy động. Ví dụ trong hệ thống ngân hàng BIDV, các chi nhánh muốn
tăng trưởng tín dụng phải tuân thủ theo hệ số k ( tổng dư nợ cho vay / tổng nguồn

vốn huy động ) được Hội sở chính giao cho từng chi nhánh trong từng thời kỳ.
Đặc biệt vốn huy động chỉ được sử dụng trong các hoạt động tín dụng và bảo
lãnh, các NHTM không được sử dụng nguồn vốn này để đầu tư.
Trong nguồn vốn huy động thì nguồn tiền gửi thanh toán thường biến động
mạnh ( kém ổn định ) hơn tiền gửi tiết kiệm.
1.3.2.2 Các nhân tố ảnh hưởng đến quy mô nguồn vốn huy động
Quy mô của nguồn vốn huy động chịu sự tác động của các nhân tố chủ quan
và khách quan.
- Các nhân tố chủ quan:
+ Lãi suất: tiền gửi đặc biệt là tiền gửi ngắn hạn, thường nhạy cảm với các
biến động về lãi suất. Lãi suất cao là một nhân tố kích thích các doanh nghiệp, dân
cư gửi và cho vay. Trong điều kiện có lạm phát, người gửi quan tâm tới lãi suất
thực, điều đó có nghĩa lãi suất thực dương mới thực sự hấp dẫn các nguồn tiết kiệm.
Do đó việc ấn định lãi suất để thu hút, duy trì sự ổn định lượng tiền gửi của khách
hàng đồng thời cạnh tranh với các trung gian tài chính khác là việc vô cùng khó
khăn đối với nhà quản trị bởi vì nếu đưa ra lãi suất thấp thì không huy động được
( tâm lý người gửi sẽ chọn nơi có lãi suất cao để gửi ), còn nếu trả mức lãi suất cao
thì làm gia tăng chi phí giảm thu nhập tiềm năng của ngân hàng. Cho nên xây dựng
lãi suất cạnh tranh trở nên cần thiết đối với các NHTM nhằm bảo đảm cho khoản
thu đủ bù đắp các khoản chi và có lãi.
SV: Phạm Thọ Hiển Lớp:Tài chính doanh nghiệp 49C
Đề án môn học GVHD: Đặng Anh Tuấn
Trang - 9 -
+ Chất lượng dịch vụ ảnh hưởng đến quy mô và cấu trúc của nguồn tiền.
Khi đánh giá chất lượng dịch vụ của ngân hàng, khách hàng xem xét vào các
yếu tố sau:
. Sự đa dạng của các dịch vụ: ngân hàng nào có nhiều sản phẩm dịch vụ hơn sẽ
có lợi thế hơn các ngân hàng có số lượng dịch vụ giới hạn do ngân hàng có khả
năng đáp ứng được các nhu cầu của khách hàng, tạo cho khách hàng có sự lựa chọn
cao hơn.

. Đội ngũ nhân sự của ngân hàng: với đội ngũ nhân viên được đào tạo chuyên
nghiệp, các khách hàng sẽ cảm thấy yên tâm hơn khi nhận được những lời khuyên
nhủ và sự hướng dẫn của họ, và vì thế hình ảnh của ngân hàng sẽ có sức sống lâu
dài hơn trong lòng khách hàng.
. Cơ sở vật chất với một trụ sở kiên cố, các phòng gửi tiền an toàn tiện nghi
cũng tạo ưu thế cho ngân hàng đem lại sự tin cậy cho khách hàng.
+ Chính sách cơ bản trong huy động vốn của ngân hàng: chính sách tín dụng
( khi ngân hàng mở rộng cho vay, tiền gửi của các doanh nghiệp và cá nhân cũng
gia tăng ), chính sách đầu tư, chính sách ngân quỹ… là một tiêu chuẩn đo lường
quan trọng để đánh giá năng lực, trình độ của các nhà quản lý ngân hàng. Một ngân
hàng luôn đề ra được những chính sách đúng đắn sẽ được khách hàng tin tưởng
rằng việc giao dịch tại ngân hàng này sẽ được điều hành 1 cách chính xác và lành
mạnh.
- Các nhân tố khách quan như: chính sách tiền tệ, chính sách tài chính của
Chính phủ. Thời vụ chi tiêu, động cơ của người tiêu dùng ảnh hưởng đến qui mô,
tính ổn định của nguồn tiền. Thu nhập gia tăng là điều kiện để gia tăng qui mô và
thay đổi kì hạn của nguồn tiền. Các nhân tố khách quan cũng đóng vai trò quan
trọng trong khả năng thu hút tiền gửi tại ngân hàng.
1.3.3 Nguyên tắc huy động vốn
1.3.3.1 Tuân thủ pháp luật trong huy động vốn
Các Ngân hàng Thương mại không được huy động vốn quá nhiều so với vốn
tự có nhằm đảm bảo khả năng chi trả về sau. Bên cạnh đó các tổ chức tín dụng phải
áp dụng lãi suất huy động phù hợp với cơ chế quản lý về lãi suất của Ngân hàng
SV: Phạm Thọ Hiển Lớp:Tài chính doanh nghiệp 49C
Đề án môn học GVHD: Đặng Anh Tuấn
Trang - 10 -
Nhà nước, bởi vì lãi suất là một trong những công cụ để Ngân hàng Nhà nước kiểm
soát được lượng tiền trong lưu thông, bình ổn giá cả và chống lạm phát.
Bên cạnh đó các NHTM phải có trách nhiệm hoàn trả gốc lãi cho khách hàng
vô điều kiện ( bất kể người đi vay có sử dụng vốn có hiệu quả hay không ) do ngân

hàng không phải là tổ chức trung gian tài chính thuần túy mà là trung gian tín dụng
( tài chính là sự tài trợ, sự cung cấp vốn, sự cấp phát theo tính chất không có sự
hoàn trả. Đối tượng nhận được sự trợ giúp về tài chính không có nghĩa vụ hoàn trả
mà chỉ có nghĩa vụ sử dụng tài chính đúng mục đích, đúng yêu cầu. Tín dụng là sự
tín nhiệm, lòng tin, là quan hệ vay mượn theo nguyên tắc hoàn trả. ).
Ngân hàng Thương mại phải tham gia bảo hiểm tiền gửi theo quy định hiện
hành. Với việc quy định các Ngân hàng Thương mại tham gia bảo hiểm tiền gửi
nhằm mục đính bảo vệ quyền lợi cho người gửi tiền gửi. Cụ thể là nếu ngân hàng nơi
người gửi tiền bị phá sản, thì người gửi tiền được công ty bảo hiểm đền bù một khoản
tiền nhất định ( hiện nay là 50.000.000 đ / tổng tiền gửi của một khách hàng ).
Hơn nữa, ngân hàng phải giữ gìn bí mật số dư và hoạt động của tài khoản
khách hàng. Nhưng không được che dấu các khoản tiền lớn và bất thường ( thực
hiện các quy định của pháp lệnh chống rữa tiền ). Đồng thời các ngân hàng không
được cạnh tranh bất hợp lý (thông tin giả, khuyến mãi bất hợp pháp…) gây ra tâm
lý lo sợ, mất lòng tin của người dân đối với ngân hàng. Khi niềm tin của người dân
không còn thì họ sẽ rút tiền ồ ạt dẫn đến ngân hàng sẽ gặp rủi ro thanh khoản đi đến
phá sản.
1.3.3.2 Thoả mãn yêu cầu kinh doanh với chi phí thấp nhất
Mục đích hoạt động của NHTM là vì lợi nhuận, do đó các NHTM phải đảm
bảo được hai yêu cầu chi phí thấp và quy mô cao của nguồn vốn huy động. Với chi
phí thấp và quy mô cao sẽ giúp ngân hàng có nguồn vốn rẻ và đủ lớn để tài trợ cho
các dự án qua việc cấp phát tín dụng đồng thời làm cho biên độ chênh lệch lãi suất
đầu vào, đầu ra lớn từ đó tạo lợi nhuận cao.
Để có thể cạnh tranh với các tổ chức trung gian tài chính khác đòi hỏi NHTM
phải áp dụng đa dạng hoá phương thức trả lãi đi đôi với dự thưởng để thu hút khách
SV: Phạm Thọ Hiển Lớp:Tài chính doanh nghiệp 49C
Đề án môn học GVHD: Đặng Anh Tuấn
Trang - 11 -
hàng và đưa ra nhiều phương thức huy động để hạn chế rủi ro ( rủi ro thanh khoản
khi sử dụng nguồn vốn huy động ngắn hạn để cho vay dài hạn do không huy động

được nguồn vốn dài hạn ) và phù hợp với đặc điểm hoạt động của ngân hàng.
Do nhu cầu của khách hàng khi gửi tiền vào ngân hàng không chỉ là được an
toàn và hưởng lãi, mà còn mong muốn sử dụng các dịch vụ của ngân hàng ( chuyển
tiền, thu tiền hộ, chi hộ ) nên NHTM cần kết hợp chặt chẻ giữa huy động vốn với
hiện đại hoá dịch vụ ngân hàng. Với sự phát triển của dịch vụ ngân hàng sẽ làm
thỏa mản nhu cầu của khách hàng từ đó thu hút được lượng tiền gửi càng nhiều.
1.3.3.3 Ngăn ngừa sự giảm sút bất thường của nguồn vốn huy động
Hoạt động của ngân hàng dựa vào chữ tín. Có tin tưởng vào sự quản lý và khả
năng trả nợ của ngân hàng, thì người dân mới gửi tiền. Vì vậy để tạo và giữ chữ tín
của mình đối với khách hàng, ngân hàng phải đảm bảo khả năng thanh toán, đáp
ứng kịp thời đầy đủ nhu cầu rút tiền trong mọi tình huống của người dân. Bên cạnh
việc đảm bảo tốt khả năng thanh khoản, ngân hàng cần nắm bắt kịp thời những
thông tin đồn “ nhảm ” về hoạt động kinh doanh của ngân hàng và tìm cách ngăn
chặn chúng. Bởi vì nếu không kịp thời ngăn chặn những thông tin đồn nhảm về hoạt
động kinh doanh của ngân hàng sẽ gây tâm lý sợ mất tiền trong người dân. Từ tâm
lý lo sợ đó, người dân sẽ đến rút tiền hàng loạt, khi đó ngân hàng không thể đáp ứng
kịp thời nhu cầu rút tiền của người dân ( do nguồn vốn huy động đã sử dụng cho
vay chưa thu hồi kịp ). Trong trường hợp đặc biệt khi có sự cố xảy ra, ngân hàng
phải có phương án đáp ứng nhu cầu thanh khoản kịp thời ( vay trên thị trường tiền
tệ, vay Ngân hàng Nhà nước ) để tránh tâm lý lây lan cho rằng ngân hàng mất khả
năng thanh toán càng rộng trong người dân.
1.3.4 Các hình thức huy động vốn của NHTM
Nghị định 49/1000/NĐ-CP ngày 12/9/2000 của chính phủ về tổ chức và hoạt
động của NHTM nhằm cụ thể hoá việc thi hành Luật các tổ chức tín dụng, Ngân
hàng Thương mại được huy động vốn dưới các hình thức sau đây:
-Nhận tiền gửi của các tổ chức, cá nhân và các tổ chức tín dụng khác dưới các
hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn và các loại tiền gửi khác.
SV: Phạm Thọ Hiển Lớp:Tài chính doanh nghiệp 49C
Đề án môn học GVHD: Đặng Anh Tuấn
Trang - 12 -

-Phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu và giấy tờ có giá khác để huy động
vốn của tổ chức, cá nhân trong nước và ngoài nước khi được Thống đốc Ngân hàng
Nhà nước chấp thuận.
-Vay vốn của các tổ chức tín dụng khác hoạt động tại Việt nam và của các tổ
chức tín dụng nước ngoài.
-Vay vốn ngắn hạn của Ngân hàng Nhà nước theo quy định của Luật ngân
hàng Nhà nước Việt Nam.
Sơ đồ 1: Sơ đồ về nguồn vốn huy động của ngân hàng thương mại
Vốn huy động
Tiền gửi của khách hàng Vốn đi vay Vốn phát hành
Tiền Tiền Chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu,
ký gửi tiết kiệm kỳ phiếu, các giấy tờ có giá khác
Tiền gửi Tiền gửi Tiết kiệm Tiết kiệm
không kỳ hạn có kỳ hạn không kỳ hạn có kỳ hạn
Các hoạt động huy động vốn sẽ lần lượt được chi tiết hoá bằng các nghiệp vụ
huy động tiền gửi và nghiệp vụ huy động vốn qua phát hành chứng từ có giá, đi
vay.
1.3.4.1 Nghiệp vụ huy động tiền gửi của NHTM
* Một số vấn đề liên quan đến hoạt động tiền gửi
-Vấn đề uỷ quyền: người gửi tiền có thể ủy quyền cho người khác để thực hiện
các giao dịch như gửi tiền, chuyển nhượng, thanh toán gốc và lãi tại ngân hàng, ra
công chứng làm thủ tục ủy quyền. Việc ủy quyền phải thực hiện theo đúng quy định
của pháp luật hiện hành ( cả về nội dung lẫn hình thức ). Căn cứ vào giấy ủy quyền,
ngân hàng sẽ chi trả cho người được ủy quyền.
-Vấn đề thừa kế: việc thừa kế tiền gửi được thực hiện theo luật quy định: có di
chúc và không có di chúc. Ngân hàng sẽ dựa vào tờ di chúc của người gửi tiền để
SV: Phạm Thọ Hiển Lớp:Tài chính doanh nghiệp 49C
Đề án môn học GVHD: Đặng Anh Tuấn
Trang - 13 -
lại làm căn cứ chi trả nếu trong trường hợp có di chúc hoặc dựa vào quy định của

pháp luật về thừa kế để chi trả trong trường hợp không có di chúc.
-Vấn đề phong tỏa tài khoản tiền gửi, giấy tờ có giá: ngân hàng sẽ thực hiện
việc phong tỏa tài khoản theo yêu cầu của cơ quan công quyền khi người gửi tiền có
liên quan đến việc tranh chấp nào đó. Trong thời gian phong tỏa không được thực
hiện bất kỳ một nghiệp vụ giao dịch nào với tiền gửi này. Ngân hàng cũng thực hiện
phong tỏa tiền gửi khi có yêu cầu của phòng kinh doanh hoặc theo yêu cầu của ngân
hàng khác khi chủ thẻ cầm cố sổ tiết kiệm để vay vốn tại ngân hàng.
-Vấn đề mất sổ tiết kiệm, giấy tờ có giá: nguyên tắc chung là khách hàng hoàn
toàn chịu trách nhiệm về việc thất lạc mất sổ tiết kiệm, giấy tờ có giá. Đối với khách
hàng khi mất sổ, giấy tờ có giá phải thông báo ngay cho ngân hàng nơi phát hành để
ngân hàng kịp thời ngăn chặn mọi bất trắc xảy ra cho người gửi tiền. Ngân hàng từ
chối việc báo mất đối với giấy tờ có giá vô danh.
-Vấn đề xác nhận số dư tiền gửi: ngân hàng thực hiện xác nhận số dư theo yêu
cầu khách hàng khi khách hàng đề nghị và 1 số trường hợp sẽ thu phí dịch vụ này
( như xác nhận số dư để bổ túc hồ sơ đi du học hoặc đi du lịch ).
*Huy động vốn qua tài khoản tiền gửi thanh toán
Huy động vốn qua tài khoản tiền gửi mang tính đặc thù riêng có của NHTM,
là điểm khác biệt giữa NHTM và các tổ chức tín dụng phi ngân hàng. Chính vì đặc
thù này, NHTM thường được gọi là tổ chức nhận tiền gửi trong khi các tổ chức tín
dụng phi ngân hàng được gọi là tổ chức không nhận tiền gửi.
-Tiền gửi thanh toán ( tiền gửi không kỳ hạn )
a/ Khái niệm:
Là loại tiền gửi mà người gửi được sử dụng một cách chủ động và linh hoạt
không bị ràng buộc về mặt thời gian, là hình thức huy động vốn của ngân hàng
thương mại bằng cách mở cho khách hàng tài khoản gọi là tài khoản tiền gửi thanh
toán. Tài khoản này mở cho các đối tượng khách hàng, cá nhân hoặc tổ chức, có
nhu cầu thực hiện thanh toán qua ngân hàng để thực hiện các khoản chi trả về mua
SV: Phạm Thọ Hiển Lớp:Tài chính doanh nghiệp 49C
Đề án môn học GVHD: Đặng Anh Tuấn
Trang - 14 -

bán hàng hoá, dịch vụ, nhu cầu nhận chuyển tiền vào tài khoản, như nhận tiền lương
hàng tháng, nhận chuyển tiền từ nước ngoài hoặc từ cá nhân khác trong nước.
Thanh toán qua ngân hàng là một loại dịch vụ thanh toán, theo đó ngân hàng
thực hiện việc trích chuyển tiền từ tài khoản của đơn vị phải trả, bằng cách ghi Nợ
vào tài khoản, sang tài khoản của đơn vị thụ hưởng, bằng cách ghi Có vào tài
khoản. Để thực hiện được nghiệp vụ thanh toán này, đòi hỏi khách hàng phải mở tài
khoản tiền gửi thanh toán ở ngân hàng.
b/ Đặc điểm:
Đây là tiền của doanh nghiệp hoặc cá nhân gửi vào ngân hàng để nhờ ngân hàng
giữ và thanh toán hộ. Trong phạm vi số dư cho phép, các nhu cầu chi trả của doanh
nghiệp và cá nhân đều được ngân hàng thực hiện. Các khoản thu bằng tiền của doanh
nghiệp và cá nhân đều có thể được nhập vào tiền gửi thanh toán theo yêu cầu.
Tiền gửi không kỳ hạn không phải là những khoản tiền để dành mà là một bộ
phận tiền đang chờ để thanh toán. Do đó về mặt pháp lý khi gửi tiền không kỳ hạn
theo tài khoản thanh toán đã thể hiện một hợp đồng mặc nhiên giữa khách hàng với
ngân hàng. Trong đó ngân hàng có trách nhiệm thực hiện các khoản chi trả cho
khách hàng một cách kịp thời chính xác trong phạm vi số dư.
Khi gửi tiền vào tài khoản tiền gửi không kỳ hạn, khách hàng có thể rút tiền
bất kỳ lúc nào và không cần báo trước nên khi ngân hàng sử dụng làm nguồn vốn
kinh doanh thì rủi ro cao. Do đó phải dự trữ nhiều hơn so với các loại tiền gửi khác.
Chính vì vậy ngân hàng, đối với loại tiền gửi này ngân hàng trả lãi suất thấp.
Mục đích của người gửi không phải là để được hưởng lợi tức mà để được ngân
hàng cung cấp các dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt, chính vì vậy lãi suất
không phải là công cụ để thu hút nguồn vốn này, mà công cụ chính là dịch vụ mà
ngân hàng cung cấp kèm theo phải là dịch vụ có nhiều tiện ích, an toàn, nhanh
chóng và chính xác. Loại này tuy biến động thường xuyên nhưng nó vẫn luôn có
một số dư ổn định do số tiền gửi vào và rút ra trong một thời kỳ có thể bù trừ cho
nhau. Vì vậy nếu sử dụng để làm nguồn vốn cho vay sẽ mang lại lợi nhuận cao cho
ngân hàng.
SV: Phạm Thọ Hiển Lớp:Tài chính doanh nghiệp 49C

Đề án môn học GVHD: Đặng Anh Tuấn
Trang - 15 -
Mặc dù số dư tài khoản tiền gửi thanh toán của từng khách hàng thường không
lớn, nhưng do là trung tâm tập trung tiền tệ và cung cấp dịch vụ thanh toán, nên
Ngân hàng Thương mại có số lượng khách hàng rất đông làm cho tổng số vốn huy
động qua tiền gửi thanh toán của tất cả khách hàng trở nên lớn đáng kể.
- Tài khoản vãng lai: Đối với tài khoản tiền gửi thanh toán, chủ tài khoản được
quyền ra lệnh cho ngân hàng chi trả trong phạm vi số tiền đã gởi vào. Còn đối với
tài khoản vãng lai, thường áp dụng với khách hàng có uy tín, ngân hàng có thể cho
thấu chi đến hạn mức phù hợp với thu nhập bình quân của chủ tài khoản nhầm đảm
bảo trả nợ vay. Tài khoản vãng lai là công cụ riêng có của ngân hàng ở tầm vi mô.
Các doanh nghiệp chỉ mở cho nhau các tài khoản khách nợ, chủ nợ hay phải thu,
phải trả. Các công ty tài chính, các tổ chức phi ngân hàng không được mở tài khoản
vãng lai cho khách hàng. Để mở tài khoản vãng lai, ngân hàng và khách hàng ký
một hợp đồng trong đó hai bên thỏa thuận về hạn mức cho vay, thời hạn, lãi suất,
các hình thức đảm bảo như tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh của bên thứ ba. Các
tranh chấp phát sinh được xử lý theo tố tụng thương mại. Tài khoản vãng lai hoạt
động theo nguyên tắc:
+ Bên nợ ghi mọi khoản tiền khách hàng rút ra sử dụng như rút tiền mặt,
thanh toán séc, thẻ, ủy nhiệm chi, trả phí, lãi…luôn cả các khoản ngân hàng trả thay
cho khách hàng.
+ Bên có ghi mọi khoản tiền khách hàng nộp hay thu vào như nộp tiền mặt,
séc, chuyển tiền đến, chiết khấu, thu ngân thương phiếu, ủy thác thu cổ tức, lợi tức
lãi tiền gởi.
Tài khoản vãng lai thuộc loại lưỡng tính, có thể DƯ CÓ hoặc DƯ NỢ tại
một thời điểm nhất định. DƯ NỢ khi rút ra nhiều hơn gửi vào, thực chất là khoản
tiền mà khách hàng nợ ngân hàng. DƯ CÓ khi gửi vào nhiều hơn rút ra, thực chất là
tiền gửi ngân hàng của khách hàng.
- Tiền gửi có kỳ hạn
SV: Phạm Thọ Hiển Lớp:Tài chính doanh nghiệp 49C

Đề án môn học GVHD: Đặng Anh Tuấn
Trang - 16 -
a/ Khái niệm:
Là loại tiền gửi mà người gửi tiền chỉ có thể rút ra khi đáo hạn. Tuy nhiên
trong trường hợp bình thường các ngân hàng vẫn cho khách hàng rút tiền trước hạn
với điều kiện chỉ được hưởng lãi không kỳ hạn, hoặc hưởng lãi có kỳ hạn tương ứng
với thời hạn gửi thực tế.
b/ Đặc điểm:
Người gửi không được sử dụng các hình thức thanh toán đối với tiền gửi thanh
toán để áp dụng đối với loại tiền gửi này. Nếu cần chi tiêu, chủ tài khoản phải làm
thủ tục để rút tiền. Tuy không thuận lợi cho khách hàng bằng hình thức tiền gửi
thanh toán không kỳ hạn, song tiền gửi có kỳ hạn được hưởng lãi suất cao hơn tùy
theo độ dài của kỳ hạn. Tiền gửi có kỳ hạn càng dài thì lãi suất phải càng cao.
Tiền gửi có kỳ hạn là có sự ổn định tương đối cao, do đó các NHTM thường
sử dụng để cho vay trung, dài hạn. Tiền gửi có kỳ hạn có chi phí sử dụng vốn khá
cao. Người gửi tiền có kỳ hạn nhằm mục đích hưởng lãi, ngân hàng muốn tăng
khoản này phải trả lãi thoả đáng sao cho người gửi vừa bảo toàn vốn vừa có được
một khoản thu nhập hợp lý từ tiền gửi của mình. Do đó lãi suất hấp dẫn, lãi suất cao
là đòn bẩy, là công cụ chủ yếu để thu hút nguồn vốn này.
*Huy động vốn qua tài khoản tiền gửi tiết kiệm
- Tiết kiệm không kỳ hạn
a. Khái niệm:
Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn là tiền gửi khách hàng có thể gửi và rút ra
bất cứ lúc nào mà không cần báo trước cho ngân hàng.
b. Đặc điểm:
Loại tiền gửi này được thiết kế cho khách hàng cá nhân có tiền tạm thời nhàn
rỗi muốn gửi ngân hàng vì mục tiêu an toàn và sinh lợi nhưng không thiết lập được
kế hoạch sử dụng tiền gửi trong tương lai. Đối với khách hàng khi lựa chọn hình
thức tiền gửi này thì mục tiêu an toàn và tiện lợi quan trọng hơn là mục tiêu sinh lợi.
Đối với ngân hàng, vì là loại tiền gửi này khách hàng muốn rút ra bất cứ lúc nào

cũng được nên ngân hàng phải đảm bảo tồn quỹ để chi trả và khó lên kế hoạch sử
SV: Phạm Thọ Hiển Lớp:Tài chính doanh nghiệp 49C
Đề án môn học GVHD: Đặng Anh Tuấn
Trang - 17 -
dụng tiền gửi để cấp tín dụng. Vì vậy ngân hàng thường trả lãi rất thấp cho loại tiền
gửi này.
Khác với hình thức tài khoản tiền gửi thanh toán, mỗi lần giao dịch khách
hàng phải xuất trình sổ tiền gửi và chỉ có thể thực hiện được các giao dịch ngân quỹ
như là gửi tiền và rút tiền chứ không thể thực hiện được các giao dịch thanh toán
như trong trường hợp tài khoản tiền gửi thanh toán.
Mặc dù số dư trên tài khoản tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn của khách hàng
thường không lớn (do chỉ được hưởng lãi suất ở mức thấp) nhưng nếu ngân hàng
thu hút được số lượng khách hàng khá lớn thì tổng khối lượng vốn huy động qua
hình thức tiền gửi này có thể trở nên đáng kể.
-Tiết kiệm định kỳ
a. Khái niệm:
Tiền gửi tiết kiệm định kỳ là loại tiền gửi mà trong đó có sự cam kết gửi tiền
giữa khách hàng và ngân hàng trong 1 kỳ hạn nhất định.
b. Đặc điểm:
Đối với loại tiền gửi tiết kiệm định kỳ, người gửi có một số tiền nhàn rỗi trong
thời gian dài, họ thường gửi theo hình thức này để được lãi suất cao. Người gửi
không được sử dụng các hình thức thanh toán đối với loại tiền gửi này song có thể
thế chấp để vay vốn nếu được ngân hàng cho phép. Nếu cần chi tiêu, người gửi phải
đến ngân hàng để rút tiền. Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn thường được hưởng lãi suất
cố định. Tuy nhiên giữa các loại tiền gửi có kỳ hạn khác nhau lãi suất được trả sẽ
khác nhau. Tiền gửi có kỳ hạn với thời gian càng lâu, lãi suất sẽ càng cao.
Khác với tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm định kỳ được thiết
kế dành cho khách hàng cá nhân có nhu cầu gửi tiền vì mục tiêu an toàn, sinh lợi và
thiết lập được kế hoạch sử dụng tiền trong tương lai. Đối tượng khách hàng chủ yếu
của loại tiền gửi này là các cá nhân muốn có thu nhập ổn định và thường xuyên, đáp

ứng cho việc chi tiêu hàng tháng hoặc hàng quý.
Mục tiêu quan trọng của khách hàng khi chọn lựa hình thức tiền gửi này là lợi
tức có được theo định kỳ. Do đó lãi suất đóng vai trò quan trọng để thu hút được đối
SV: Phạm Thọ Hiển Lớp:Tài chính doanh nghiệp 49C
Đề án môn học GVHD: Đặng Anh Tuấn
Trang - 18 -
tượng khách hàng này. Lãi suất trả cho loại tiền gửi tiết kiệm định kỳ cao hơn lãi
suất trả cho loại tiền gửi không kỳ hạn.
Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn khác tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn. Tiền gửi
tiết kiệm không kỳ hạn khách hàng có thể rút ra bất kỳ lúc nào. Đối với tiền gửi tiết
kiệm định kỳ khách hàng chỉ được rút tiền gửi theo đúng kỳ hạn đã cam kết, không
được phép rút tiền trước hạn. Tuy nhiên để khuyến khích và thu hút khách hàng gửi
tiền ngân hàng cho phép khách hàng được rút tiền gửi trước hạn nếu có nhu cầu,
nhưng khách hàng chỉ được hưởng lãi suất không kỳ hạn, hoặc lãi suất kỳ hạn theo
thời hạn gửi thực tế.
Tiền gửi tiết kiệm kỳ hạn có thể phân chia thành nhiều loại.
. Căn cứ vào thời hạn có thể chia thành tiền gửi kỳ hạn 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9,
10, 11, 12, 13 tháng hoặc lâu hơn đến 36 tháng.
. Căn cứ vào phương thức trả lãi có thể chia thành
Tiền gửi kỳ hạn lĩnh lãi đầu kỳ
Tiền gửi kỳ hạn lĩnh lãi cuối kỳ
Tiền gửi kỳ hạn lĩnh lãi theo định kỳ (tháng hoặc quý)
Tiền gửi không kỳ hạn, tiết kiệm không kỳ hạn có chi phí sử dụng vốn (chi phí
trả lãi ) rất thấp. Chính vì vậy các ngân hàng nên tập trung huy động nguồn vốn này
thì hoạt động kinh doanh của ngân hàng mới có hiệu quả. Do tính chất linh hoạt của
nó, nên tiền gửi này được sử dụng để cho vay ngắn hạn.
Tiền gửi có kỳ hạn, tiết kiệm có kỳ hạn có đặc điểm là sự ổn định tương đối
cao do đó các NHTM thường sử dụng để cho vay trung, dài hạn nhưng không được
tham gia thanh toán không dùng tiền mặt. Loại tiền gửi này có chi phí sử dụng vốn
khá cao. Người gửi tiền nhằm mục đích hưởng lãi, do đó lãi suất hấp dẫn, lãi suất

cao là đòn bẩy, là công cụ để thu hút nguồn vốn này.
1.3.4.2 Nghiệp vụ huy động vốn qua phát hành các loại giấy tờ có giá
Bên cạnh các hình thức huy động trên, NHTM còn phát hành các loại giấy tờ
có giá nhằm bổ sung vốn lưu động của ngân hàng khi vốn tự có và vốn tiền gửi
chưa đáp ứng đủ nhu cầu kinh doanh.
SV: Phạm Thọ Hiển Lớp:Tài chính doanh nghiệp 49C
Đề án môn học GVHD: Đặng Anh Tuấn
Trang - 19 -
* Khái quát về các loại giấy tờ có giá
- Khái niệm: Giấy tờ có giá là chứng nhận của NHTM phát hành để huy động
vốn, trong đó xác nhận nghĩa vụ trả nợ một khoản tiền trong một thời gian nhất
định, điều kiện trả lãi và các điều khoản cam kết khác giữa NHTM và người mua.
- Các thuộc tính của giấy tờ có giá:
Mệnh giá là số tiền gốc được in sẵn hoặc ghi trên giấy tờ có giá phát hành theo
hình thức chứng chỉ hoặc ghi trên giấy chứng nhận quyền sở hữu đối với giấy tờ có
giá phát hành theo hình thức ghi sổ.
Thời hạn giấy tờ có giá là khoản thời gian từ ngày tổ chức tín dụng nhận nợ
đến hết ngày cam kết thanh toán toàn bộ khoản nợ.
Lãi suất được hưởng là lãi suất áp dụng để tính lãi cho người mua giấy tờ có
giá được hưởng.
- Phân loại giấy tờ có giá:
+ Căn cứ quyền sở hữu: giấy tờ có giá ghi danh và giấy tờ có giá vô danh.
Giấy tờ có giá ghi danh là giấy tờ có giá phát hành theo hình thức chứng chỉ
ghi sổ, có ghi tên người sở hữu.
Giấy tờ có giá vô danh là giấy tờ có giá phát hành theo hình thức chứng chỉ,
không ghi tên người sở hữu. Giấy tờ có giá vô danh thuộc quyền sở hữu của người
nắm giữ nó.
+ Căn cứ vào loại công cụ trên thị trường vốn: giấy tờ có giá thuộc công cụ
nợ ( chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, trái phiếu ) và giấy tờ có giá thuộc công cụ vốn
( cổ phiếu ưu đãi, cổ phiếu phổ thông, cổ phiếu thường).

+ Căn cứ vào thời hạn: giấy tờ có giá ngắn hạn và giấy tờ có giá dài hạn.
- Các hình thức phát hành giấy tờ có giá
+ Huy động vốn ngắn hạn qua việc phát hành giấy tờ có giá ngắn hạn (kỳ
phiếu, chứng chỉ tiền gửi và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác ):
. Giấy tờ có giá ngắn hạn là giấy tờ có giá có thời hạn dưới 12 tháng.
. Các loại giấy tờ có giá ngắn hạn: kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi ngắn hạn, tín
phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác.
SV: Phạm Thọ Hiển Lớp:Tài chính doanh nghiệp 49C
Đề án môn học GVHD: Đặng Anh Tuấn
Trang - 20 -
. Phương thức trả lãi giấy tờ có giá: trả lãi sau ( trả lãi một lần vào thời điểm đáo
hạn hay thời điểm thanh toán ), trả lãi trước ( trả một lần tại thời điểm phát hành ), trả
lãi định kỳ ( trả lãi theo từng định kỳ cho người sở hữu giấy tờ có giá ).
+ Huy động vốn dài hạn bằng việc phát hành trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi và
các giấy tờ có giá dài hạn khác có kỳ hạn từ 12 tháng trở lên.
. Trái phiếu là giấy chứng nhận nợ do các NHTM phát hành để huy động vốn
dài hạn, theo đó ngân hàng cam kết sẽ trả lãi và vốn gốc cho các nhà đầu tư mua trái
phiếu. Trái phiếu có những thuộc tính sau:
Mệnh giá: là giá trị được công bố trên trái phiếu mà nhà đầu tư sẽ nhận lại khi
trái phiếu đáo hạn.
Lãi suất của trái phiếu là lãi suất nhà đầu tư được hưởng, được công bố và ghi
trên trái phiếu.
Thời hạn của trái phiếu là khoản thời gian tính từ lúc phát hành cho đến khi
trái phiếu đến hạn hoàn trả vốn gốc.
Phương thức trả lãi là cách thức ngân hàng áp dụng để xác định và trả lãi được
hưởng cho nhà đầu tư. Nhìn chung phương thức trả lãi cũng có thể áp dụng một
trong ba phương thức trả trước, trả sau hoặc trả theo định kỳ.
. Đặc điểm: việc phát hành trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi và các giấy tờ có giá
dài hạn khác làm nguồn vốn hoạt động của NHTM tăng lên, tuy nhiên không làm
tăng vốn chủ sở hữu mà chỉ làm tăng nợ dài hạn của ngân hàng. Theo phân loại của

Basel II, nợ dài hạn qua phát hành trái phiếu được xem như là vốn cấp II, trong khi
vốn chủ sở hữu được xem là vốn cấp I.
+ Huy động vốn dài hạn bằng phát hành trái phiếu chuyển đổi:
. Trái phiếu chuyển đổi là loại trái phiếu mà tổ chức phát hành bán cho các
nhà đầu tư, trong đó có thoả thuận đến một thời điểm nào đó sau khi phát hành các
nhà đầu tư có quyền chuyển đổi thành cổ phiếu theo một tỷ lệ chuyển đổi nhất định.
. Đặc điểm: trái phiếu chuyển đổi vừa có các tính chất của một chứng khoán
nợ, đồng thời vừa có các tính chất của một chứng khoán vốn. Ưu điểm nổi bật của
SV: Phạm Thọ Hiển Lớp:Tài chính doanh nghiệp 49C
Đề án môn học GVHD: Đặng Anh Tuấn
Trang - 21 -
loại trái phiếu này là nhờ đính kèm quyền chuyển đổi thành cổ phiếu nên có thể
giúp tổ chức phát hành giảm được chi phí huy động vốn một cách đáng kể.
Việc phát hành các loại giấy tờ có giá ( kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái
phiếu…) nhằm mục đích thu hút tiền nhàn rỗi trong xã hội và ngân hàng sẽ ngưng
việc phát hành khi thừa vốn.
* Đặc điểm của nghiệp vụ huy động vốn qua việc phát hành kỳ phiếu, chứng chỉ
tiền gửi và trái phiếu.
- Tính ổn định chắc chắn: những người mua kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi tiết
kiệm, trái phiếu ngân hàng chỉ được hoàn vốn khi đáo hạn. Đây là đặc điểm nổi bật
của loại nguồn vốn này.
- Lãi suất ( chi phí sử dụng vốn ) thường cao hơn lãi suất tiền gửi định kỳ, do
đó hấp dẫn hơn đối với khách hàng.
- Loại vốn này không được tái lập thời hạn như tiền gửi có kỳ hạn, nhưng bù
lại người sở hữu có thể thế chấp cầm cố để vay vốn tại ngân hàng.
1.3.4.3 Nguồn vốn huy động khác
Các nguồn vốn này phát sinh trong quá trình hoạt động của ngân hàng như khi
làm đại lý, dịch vụ thanh toán, bán chứng khoán có giá, làm trung gian thanh toán
và các hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt có thể hình thành nguồn trong
thanh toán như:

Tiền gửi ký quỹ là nguồn tiền được khách hàng nộp vào ngân hàng và được
ngân hàng phong tỏa theo yêu cầu của bên thứ ba. Loại tiền gửi này nhầm bảo đảm
khả năng thanh toán của khách hàng cho bên thứ ba. Ví dụ: để đảm bảo công ty X
có khả năng xử lý ô nhiểm môi trường khi đầu tư dự án A, Trung tâm kỹ thuật tài
nguyên và môi trường yêu cầu công ty X nộp tiền vào ngân hàng B và yêu cầu ngân
hàng B phong tỏa và chỉ giải tỏa khi có văn bản chấp thuận đồng ý giải tỏa của
trung tâm.
Bên cạnh đó để được ngân hàng cung cấp các dịch vụ: bảo chi séc, bảo lãnh
( bảo lãnh: thanh toán, dự thầu, thực hiện hợp đồng ), mở L/c khách hàng phải nộp
vào ngân hàng một khoản tiền dưới hình thức tiền gửi không kỳ hạn hoặc tiết kiệm
SV: Phạm Thọ Hiển Lớp:Tài chính doanh nghiệp 49C
Đề án môn học GVHD: Đặng Anh Tuấn
Trang - 22 -
có kỳ hạn và ngân hàng sẽ phong tỏa để bảo đảm nghĩa vụ trả nợ cho ngân hàng khi
khách hàng vi phạm hợp đồng đối với bên thứ ba.
Tiền tạm giữ là khoản tiền trong quá trình phục vụ nhu cầu thanh toán tiền
hàng hoá cho khách hàng, do khách hàng cung cấp thông tin về tên, hoặc tài khoản
người thụ hưởng, hoặc ngân hàng phục vụ người thụ hưởng không chính xác nên
khoản tiền chuyển đến không được ghi có vào tài khoản người thụ hưởng mà được
ngân hàng tạm giữ chờ sự đính chính của khách hàng.
Những ngân hàng là ngân hàng đầu mối trong đồng tài trợ có kết số dư tiền
của các ngân hàng thành viên chuyển về để thực hiện cho vay.
Nguồn vốn huy động từ các nguồn trên là nguồn vốn có chi phí rẻ bởi vì
thường tồn tại dưới dạng tiền gửi thanh toán ( tiền gửi không kỳ hạn ) mà đối với
loại tiền gửi này ngân hàng trả lãi suất thấp. Vì lý do trên cần có chính sách thích
hợp để huy động nguồn vốn này.
1.4 Vốn đi vay
1.4.1 Khái niệm, đặc điểm và các nhân tố ảnh hưởng
a. Khái niệm:
Vốn đi vay là nguồn vốn giúp cho các NHTM bổ sung nguồn vốn ngắn hạn

của mình để đảm bảo duy trì hoạt động một cách bình thường.
b. Đặc điểm và các nhân tố ảnh hưởng
+ Vốn đi vay chiếm tỷ trọng thấp hơn nguồn tiền gửi trong tổng nguồn, trừ
một số ngân hàng chuyên hoạt động bán buôn.
+ Các khoản đi vay thường là có thời hạn và qui mô xác định trước do đó tạo
thành nguồn ổn định cho ngân hàng. Khác với nhận tiền gửi ngân hàng không nhất
thiết phải đi vay thường xuyên. Ngân hàng chỉ đi vay lúc cần thiết và hoàn toàn chủ
động quyết định khối lượng vay phù hợp với nhu cầu sử dụng.
+ Nguồn vay có thể không chịu dự trữ bắt buộc và bảo hiểm tiền gửi. Tuy
nhiên do rủi ro lớn hơn nên lãi suất trả cho tiền vay thường lớn hơn lãi suất trả cho
tiền gửi cùng kỳ hạn. Các khoản vay Ngân hàng Nhà nước và vay ngân hàng khác
SV: Phạm Thọ Hiển Lớp:Tài chính doanh nghiệp 49C
Đề án môn học GVHD: Đặng Anh Tuấn
Trang - 23 -
tuy lãi suất thấp song thường có thời hạn ngắn, chỉ nhằm đảm bảo thanh toán tức
thời cho ngân hàng.
+ Việc cho vay của NHNN phụ thuộc rất lớn vào chính sách tiền tệ mà NHNN
theo đuổi trong từng thời kỳ. Muốn mở rộng qui mô vay mượn trên thị trường liên
ngân hàng, một ngân hàng cần vươn tới thị trường liên ngân hàng quốc tế với khả
năng phân tích rủi ro lãi suất và rủi ro hối đoái.
+ Các nhân tố ảnh hưởng quan trọng nhất là thu nhập của dân cư và ổn định vĩ
mô, các kỹ thuật nghiệp vụ của ngân hàng nhằm tạo tính thanh khoản của các giấy
nợ và thuận tiện đối với người cho vay.
1.4.2 Cơ cấu vốn đi vay
1.4.2.1 Vốn đi vay Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Trong một số trường hợp NHTM gặp khó khăn, Ngân hàng Nhà nước có thể
xem xét cho vay với thời hạn rất ngắn để giải quyết khó khăn tạm thời trong thanh
toán của ngân hàng. Hình thức cho vay chủ yếu của Ngân hàng Nhà nước là tái
chiết khấu ( hoặc tái cấp vốn ).
* Tái cấp vốn

- Chiết khấu, tái chiết khấu thương phiếu và các chứng từ có giá. Các thương
phiếu và chứng từ có giá đã được ngân hàng thương mại chiết khấu ( hoặc tái chiết
khấu ) trở thành tài sản của họ. Khi cần tiền ngân hàng mang những giấy tờ có giá
này đến tái chiết khấu tại Ngân hàng Nhà nước. Nghiệp vụ này làm thương phiếu và
các giấy tờ có giá của NHTM giảm đi và dự trữ ( tiền mặt hoặc tiền gửi tại ngân
hàng Nhà nước) tăng lên. Ngân hàng Nhà nước điều hành vay mượn này một cách
chặt chẽ, NHTM phải thực hiện các điều kiện đảm bảo và kiểm soát nhất định.
Thông thường Ngân hàng Nhà nước chỉ tái chiết khấu cho những thương phiếu,
giấy tờ có giá có chất lượng ( thời gian đáo hạn ngắn, khả năng trả nợ cao ) và phù
hợp với mục tiêu của Ngân hàng Nhà nước trong từng thời kỳ.
- Cho vay có bảo đảm bằng cầm cố giấy tờ có giá. Đây là hình thức cho vay
của NHNN Việt Nam đối với các ngân hàng xin vay trên cơ sở cầm cố các giấy tờ
có giá để bảo đảm nghĩa vụ trả nợ. Lãi suất cho vay là lãi suất tái cấp vốn được
SV: Phạm Thọ Hiển Lớp:Tài chính doanh nghiệp 49C
Đề án môn học GVHD: Đặng Anh Tuấn
Trang - 24 -
dùng để thu lãi trên số nợ gốc thực tế khi NHNN cho vay. Lãi suất cho vay do
Thống đốc NHNN quy định và điều chỉnh phù hợp với mục tiêu chính sách tiền tệ
trong từng thời kỳ. Việc cho vay tái cấp vốn bằng đồng Việt Nam của NHNN đối
với các Ngân hàng Thương mại dưới hình thức cho vay có bảo đảm bằng cầm cố
giấy tờ có giá theo nguyên tắc: cấp tín dụng có bảo đảm, cung ứng vốn ngắn hạn và
phương tiện thanh toán cho các ngân hàng.
- Cho vay lại theo hồ sơ tín dụng mà ngân hàng thương mại xuất trình là hình
thức tái cấp vốn của NHNN cho các ngân hàng đã cho vay đối với khách hàng.
Trong điều kiện chưa có thương phiếu, giấy tờ có giá, Ngân hàng Nhà nước
cho ngân hàng thương mại vay dưới hình thức tái cấp vốn theo hạn mức tín dụng
nhất định. Tái cấp vốn nhằm giúp các NHTM bổ sung nguồn vốn ngắn hạn để họ có
thể tiếp tục cho vay đối với các doanh nghiệp, các tổ chức, cá nhân, nhờ đó làm gia
tăng khối lượng tín dụng cung ứng cho nền kinh tế. Điều kiện cấp vốn của Ngân
hàng Nhà nước đối với ngân hàng thương mại dễ dãi hay khắc khe phụ thuộc vào

mục tiêu của chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ, uy tín và chất lượng hoạt động
tín dụng của mỗi ngân hàng thương mại.
* Cho vay thanh toán
Khi các NHTM tham gia hệ thống thanh toán bù trừ ( bao gồm cả
thanh toán bù trừ thủ công và thanh toán bù trừ điện tử ) nếu ngân hàng nào thiếu
vốn ( phần vốn thiếu hụt trong tài khoản tiền gửi thanh toán trong thanh toán điện tử
liên ngân hàng ) để thanh toán thì sẽ được Ngân hàng Nhà nước cho thấu chi và cho
vay qua đêm để đảm bảo các khoản giao dịch thanh toán bù trừ được thực hiện.
Thấu chi trong thanh toán điện tử liên ngân hàng là việc các ngân hàng được chi
vượt số dư có trên tài khoản tiền gửi thanh toán của mình mở tại sở Giao dịch –
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong ngày thanh toán. Cho vay qua đêm trong
thanh toán điện tử liên ngân hàng là việc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cho các
ngân hàng vay có bảo đảm bằng cầm cố các giấy tờ có giá trong khoảng thời gian
tính từ cuối ngày làm việc hôm trước đến 8 giờ 30 phút ngày làm việc liền kề tiếp
theo. Các ngân hàng được thấu chi để bù đắp thiếu hụt vốn thanh toán tạm thời
SV: Phạm Thọ Hiển Lớp:Tài chính doanh nghiệp 49C

×