Tiểu luận triết học GVHD: TS Lê Ngọc Thông
MỤC LỤC
HV: Vũ Thị Thuấn Lớp: CH21V
Tiểu luận triết học GVHD: TS Lê Ngọc Thông
LỜI MỞ ĐẦU
Nguyên lý về sự phát triển là một trong hai nguyên lý quan trọng của phép
biện chứng duy vật, là cơ sở khoa học cho sự hình thành quan điểm toàn diện.
Nguyên lý về sự phát triển của phép biện chứng duy vật phản ánh đặc
trưng phổ quát nhất của thế giới, mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới khách
quan đều có sự vận động và phát triển; sự vận động phát triển ấy là không
ngừng, có khi nhanh, khi chậm, khi tuần tự, có khi nhảy vọt, có lúc có những
bước thụt lùi, nhưng nếu nhìn ở cả một chặng đường thì tất cả đều là phát
triển. Phát triển là những cái mới ra đời thay thế cái cũ, nhưng vẫn trên cơ sở
kế thừa những hạt nhân hợp lý của cái cũ, cải tạo và phát triển những hạt nhân
hợp lý ấy để nó trở thành điều kiện, tiền đề vững chắc cho cái mới phát triển
nhanh, mạnh, vững hơn. Phát triển là đặc trưng phổ biến, phát triển là một tất
yếu khách quan.
Nhận thấy vai trò, ý nghĩa quan trọng của nguyên lý về sự phát triển trong
triết học Mác – Lênin; em đã chọn đề tài: “ Nguyên lý về “sự phát triển” trong
triết học Mác – Lênin và ý nghĩa của việc nghiên cứu trong nghiên cứu đối
với việc tìm hiểu xu thế vận động của đời sống kinh tế - xã hội hiện nay”
Kết cấu của tiểu luận: gồm 2 chương
Chương 1: Lý luận chung về nguyên lý về “sự phát triển” trong triết
học Mác – Lê nin
Chương 2: Ý nghĩa của việc nghiên cứu trong nghiên cứu đối với
việc tìm hiểu xu thế vận động của đời sống kinh tế - xã hội hiện nay
Do kiến thức lý luận còn hạn hẹp, kinh nghiệm và sự hiểu biết thực tế
chưa nhiều; thời gian nghiên cứu còn hạn chế nên tiểu luận của em không
tránh khỏi những thiếu sót, rất mong nhận được sự chỉ bảo của các thầy cô để
tiểu luận của em được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn của TS. Lê Ngọc Thông đã
giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề này!
HV: Vũ Thị Thuấn Lớp: CH21V
1
Tiểu luận triết học GVHD: TS Lê Ngọc Thông
Chương 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGUYÊN LÝ VỀ “SỰ PHÁT TRIỂN”
TRONG TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN
1.1. Phép biện chứng duy vật
1.1.1 Điều kiện ra đời của phép biện chứng duy vật
Sự ra đời của phép biện chứng duy vật gắn liền với sự ra đời của chủ
nghĩa Mác. Nó ra đời trong điều kiện phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa
đang phát triển.
Phép biện chứng duy vật là sự thống nhất hữu cơ giữa thế giới quan duy
vật với phương pháp biện chứng, giữa lý luận nhận thức với logic biện chứng.
Sự ra đời của phép biện chứng duy vật là cuộc cách mạng trong phương pháp
tư duy triết học, là phương pháp tư duy khác về chất so với các phương pháp
tư duy trước đó; là “phương pháp mà điều căn bản là nó xem xét những sự
vật và những phản ánh của chúng trong tư tưởng, trong mối liên hệ qua lại lẫn
nhau của chúng, trong sự ràng buộc, sự vận động, sự phát sinh và sự tiêu vong
của chúng”.
Phép biện chứng duy vật có khả năng đem lại cho con người tính tự giác
cao trong mọi hoạt động. Mỗi luận điểm của phép biện chứng duy vật là kết
quả của sự nghiên cứu rút ra từ giới tự nhiên, cũng như lịch sử xã hội loài
người. Mỗi nguyên lý, quy luật, phạm trù của phép biện chứng đều được khái
quát và luận giải trên cơ sở khoa học. Chính vì vậy phép biện chứng duy vật
đã đưa phép biện chứng từ tự phát đến tự giác.
1.1.2 Nội dung cơ bản của phép biện chứng duy vật
Sự phong phú và đa dạng của các sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã
hội, tư duy quy định nội dung phép biện chứng duy vật. Nội dung của phép
biện chứng duy vật bao gồm nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý
về sự phát triển.
HV: Vũ Thị Thuấn Lớp: CH21V
2
Tiểu luận triết học GVHD: TS Lê Ngọc Thông
Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến là nguyên tắc lý luận xem xét sự vật,
hiện tượng khách quan tồn tại trong mối liên hệ, ràng buộc lẫn nhau tác động,
ảnh hưởng lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng hay giữa các mặt của một sự
vật, của một hiện tượng trong thế giới. Nguyên lý này biểu hiện thông qua 06
cặp phạm trù cơ bản.
Nguyên lý về sự phát triển là nguyên tắc lý luận mà trong trong đó khi
xem xét sự vật, hiện tượng khách quan phải luôn đặt chúng vào quá trình luôn
luôn vận động và phát triển (vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản
đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn của sự vật). Nguyên lý
này biểu hiện thông qua ba quy luật cơ bản.
Chính vì vậy. Ph.Ăngghen đã khẳng định rằng phép biện chứng là lý
luận về mối liên hệ phổ biến, là môn khoa học về những quy luật phổ biến của
sự vận động và phát triển của tự nhiên, của xã hội loài người và của tư duy.
Lênin nhấn mạnh thêm: Phép biện chứng là học thuyết sâu sắc nhất, không
phiến diện về sự phát triển.
1.2. Nguyên lý về sự phát triển
1.2.1. Nội dung nguyên lý về sự phát triển
Trong phép biện chứng duy vật, nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
thống nhất hữu cơ với nguyên lý về sự phát triển, bởi vì liên hệ tức là vận
động, mà không có vận động thì không có sự phát triển. Nhưng “vận động”
và “phát triển” là hai khái niệm khác nhau. Khái niệm “vận động” khái quát
mọi sự biến đổi nói chung, không tính đến xu hướng và kết quả của những
biến đổi ấy như thế nào. Sự vận động diễn ra không ngừng trong thế giới và
có nhiều xu hướng.
Nguyên lý về sự phát triển bao gồm: Quy luật mâu thuẫn, quy luật
lượng - chất và quy luật phủ định. Trong đó:
Quy luật mâu thuẫn chỉ ra nguồn gốc của sự phát triển
Quy luật lượng - chất chỉ ra cách thức, hình thức của sự phát triển
Quy luật phủ định chỉ ra khuynh hướng của sự phát triển.
HV: Vũ Thị Thuấn Lớp: CH21V
3
Tiểu luận triết học GVHD: TS Lê Ngọc Thông
Ba quy luật cơ bản này còn có ý nghĩa trong nhận thức và hành động.
Những kết luận về mặt phương pháp luận của nó luôn được coi là "kim chỉ
nam" cho hoạt động cách mạng của những người cộng sản.
Khái niệm “phát triển” không khái quát mọi sự biến đổi nói chung; nó
chỉ là khái quát những vận động đi lên, cái mới ra đời thay thế cho cái cũ.
Tiêu chuẩn để xác định sự phát triển là có xuất hiện “cái mới” trong những
biến đổi của sự vật hiện tượng. Sự phát triển trong thế giới theo các chiều
hướng cơ bản sau: phát triển về trình độ (từ thấp đến cao), phát triển về cấu
trúc (từ đơn giản đến phức tạp), phát triển về bản chất (từ kém hoàn thiện đến
hoàn thiện hơn). Sự phân biệt đó về các chiều hướng chỉ là tương đối, một sự
phát triển thường bao hàm cả các chiều hướng này.
Sự liên hệ và tác động qua lại làm cho các sự vật vận động và phát
triển. Khi xem xét vấn đề phát triển cũng xuất hiện sự đối lập về thế giới quan
và phương pháp luận: có quan điểm biện chứng và quan điểm siêu hình, có
quan điểm duy vật và quan điểm duy tâm về sự phát triển.
Quan điểm siêu hình xem xét sự phát triển chỉ là sự tăng lên hay giảm
đi thuần về lượng, không có sự thay đổi về chất. Tất cả tính muôn vẻ về chất
của các sự vật và hiện tượng trên thế giới là sự nhất thành bất biến trong toàn
bộ quá trình tồn tại của nó. Sự phát triển chỉ là thay đổi số lượng của từng loại
đang có, không có sự nảy sinh những loại mới với tính quy định mới về chất;
nếu có sự thay đổi về chất thì đó cũng chỉ diễn ra theo một vòng tròn khép
kín. Quan điểm siêu hình về sự phát triển cũng xem sự phát triển như một quá
trình tiến lên liên tục, không có những bước quanh co phức tạp. Lênin nhận
xét rằng, quan niệm siêu hình là cứng nhắc, nghèo nàn, khô khan, chỉ có quan
niệm biện chứng là sinh động, mới cho ta chìa khóa của “sự tự vận động” của
tất thảy mọi cái đang tồn tại, của những “bước nhảy vọt” và “sự gián đoạn của
tính tiệm tiến”, của sự “chuyển hóa thành mặt đối lập”, của “sự tiêu diệt cái
cũ và sự nảy sinh ra cái mới”. Cũng vì vậy mà ông nhấn mạnh rằng, phép biện
HV: Vũ Thị Thuấn Lớp: CH21V
4
Tiểu luận triết học GVHD: TS Lê Ngọc Thông
chứng là học thuyết “hoàn bị nhất, sâu sắc nhất và không phiến diện về sự
phát triển”.
Đối lập với quan điểm siêu hình, quan điểm biện chứng xem xét sự phát
triển là một quá trình tiến lên từ thấp đến cao. Quá trình đó diễn ra vừa dần
dần, vừa nhảy vọt, đưa tới sự ra đời của cái mới thay thế cái cũ. Dù trong hiện
thực khách quan hay trong tư duy, sự phát triển diễn ra không phải lúc nào
cũng theo đường thẳng, mà rất quanh co, phức tạp, thậm chí có thể có những
bước lùi tạm thời.
Theo quan điểm biện chứng, sự phát triển là kết quả của quá trình thay
đổi dần dần về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất, là quá trình diễn ra theo
đường xoáy ốc và hết mỗi chu kỳ sự vật lặp lại dường như sự vật ban đầu
nhưng ở cấp độ cao hơn.
Quan điểm duy vật biện chứng đối lập với quan điểm duy tâm và tôn
giáo về nguồn gốc của sự phát triển. Quan điểm duy vật biện chứng khẳng
định nguồn gốc sự phát triển nằm trong bản thân sự vật. Đó là do mâu thuẫn
trong chính sụ vật quy định. Quá trình giải quyết liên tục mâu thuẫn trong bản
thân sự vật, do đó cũng là quá trình tự thân phát triển của mọi sự vật.
Phép biện chứng duy vật khẳng định rằng sự phát triển, đổi mới là hiện
tượng diễn ra không ngừng trong tự nhiên, trong xã hội và trong tư duy, mà
nguồn gốc của nó là cuộc đấu tranh giữa các mặt đối lập trong bản thân sự vật
và hiện tượng. Nhưng không nên hiểu sự phát triển bao giờ cũng diễn ra một
cách đơn giản, theo đường thẳng. Xét từng trường hợp cá biệt, thì có những
vận động đi lên, tuần hoàn, thậm chí đi xuống, nhưng xét cả quá trình, trong
phạm vi rộng lớn thì vận động đi lên là khuynh hướng thống trị. Khái quát
tình hình trên đây, phép biện chứng duy vật khẳng định rằng, phát triển là
khuynh hướng chung của sự vận động của sự vật và hiện tượng.
Quan điểm biện chứng xác định nguồn gốc bên trong của mọi sự phát
triển. Cho nên thế giới phát triển là tự thân phát triển, là quá trình bao hàm
mâu thuẫn và thường xuyên giải quyết mâu thuẫn, vừa liên tục vừa có gián
HV: Vũ Thị Thuấn Lớp: CH21V
5
Tiểu luận triết học GVHD: TS Lê Ngọc Thông
đoạn; là quá trình bao hàm sự phủ định cái cũ và ra đời cái mới. Sự phát triển
như là vận động đi lên ra đời cái mới, nhưng cái mới không đoạn tuyệt với cái
cũ mà kế thừa tất cả những gì tích cực của cái cũ. Tất cả những điều đó nói
lên tính chất phức tạp của sự phát triển, nhưng bao giờ cũng theo khuynh
hướng đi lên.
Nghiên cứu nguyên lý về sự phát triển, giúp cho chúng ta nhận thức
rằng, muốn thực sự nắm được bản chất của sự vật hiện tượng, nắm được quy
luật và xu hướng của chúng phải có quan điểm phát triển, khắc phục tư tưởng
bảo thủ trì trệ.
Quan điểm này yêu cầu khi phân tích sự vật phải xét nó như một quá
trình; đặt nó trong sự vận động, sự phát triển mới nắm được quy luật và
những xu hướng của nó. Quan điểm phát triển còn bao hàm yêu cầu xét sự vật
trong từng giai đoạn cụ thể của nó nhưng không được tách rời với các giai
đoạn khác mà phải liên hệ chúng với nhau mới có thể nắm được logic của
toàn bộ tiến trình vận động sự vật. Quan điểm phát triển cũng đòi hỏi tinh
thần lạc quan tích cực trong thực tiễn, khắc phục mọi sụ trì trệ bảo thủ.
1.2.2. Tính chất của sự phát triển
a) Tính khách quan
Theo quan điểm duy vật biện chứng, nguồn gốc của sự phát triển nằm
ngay trong bản thân sự vật. Đó là quá trình giải quyết liên tục những mâu
thuẫn nảy sinh trong sự tồn tại và vận động của sự vật. Nhờ đó sự vật luôn
luôn phát triển, Vì thế sự phát triển là tiến trình khách quan, không phụ thuộc
vào ý thức của con người.
b) Sự phát triển có tính phổ biến
Tính phổ biến của sự phát triển được hiểu là nó diễn ra ở mọi lĩnh vực:
tự nhiên, xã hội và tư duy; ở bất cứ sự vật, hiện tượng nào của thế giới khách
quan. Ngay cả các khái niệm, các phạm trù phản ánh hiện thực cũng nằm
trong quá trình vận động và phát triển; chỉ trên cơ sở của sự phát triển, mọi
HV: Vũ Thị Thuấn Lớp: CH21V
6
Tiểu luận triết học GVHD: TS Lê Ngọc Thông
hình thức của tư duy, nhất là các khái niệm và các phạm trù, mới có thể phản
ánh đúng đắn hiện thực luôn vận động và phát triển.
Sự phát triển diễn ra trong tất cả các mặt, các lĩnh vực của xã hội, tư duy và
con người, diễn ra trong tự nhiên, trong bản thân của tất thảy sự vật, hiện
tượng của thế giới khách quan. Quá trình phát triển ở mỗi sự vật, hiện tượng
là không giống nhau và ngay trong bản thân của sự vật, hiện tượng đó, quá
trình phát triển cũng không giống nhau. Quá trình sinh trưởng và phát triển
của cây lúa khác với cây ngô (hình thức phát triển, thời gian phát triển, điều
kiện phát triển…); sinh trưởng và phát triển của con người khác với những
loài động vật khác. Và ngay trong bản thân của con người, các loài động, thực
vật cũng khác nhau trong từng giai đoạn phát triển, chu kỳ phát triển. Nhưng
dù bước phát triển của các sự vật, hiện tượng có tuần tự hay nhảy vọt thì nhìn
chung tất cả đều nằm trong trạng thái phát triển, kể cả tư duy, ý thức của con
người cũng vậy.
Trong tư duy, ý thức của con người, ta thấy sự phát triển của con người
là không ngừng. Đứa trẻ sinh ra từ chỗ biết khóc, biết cười, dần dần qua thời
gian, không gian sống, với những dưỡng chất nuôi bé lớn khôn, bé đã biết nói,
rồi nhận biết đồ vật, định hình đồ vật giản đơn trong những trò chơi, kế đến là
những sự vật, hiện tượng trong thế giới tự nhiên, xã hội như: mưa, nắng,
buồn, vui…sự phát triển đó là không ngừng hoàn thiện, từ giản đơn đến phức
tạp, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện.
Trong tự nhiên, tất cả các động, thực vật, từ vô cơ đến hữu cơ, từ thực
thể đơn bào hay đa bào, từ những động vật chưa có hệ thần kinh trung ương
đến có đầy đủ, tất cả đều trong trạng thái vận động và phát triển không ngừng.
Trong xã hội, sự phát triển thể hiện qua những thay đổi về kết cấu giai cấp, cơ
cấu ngành, lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất….
c) Sự phát triển có tính kế thừa
Sẽ thiếu sót nếu chúng ta không nói tới tính kế thừa - một trong những tính
chất của sự phát triển trong quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin. Theo chủ
HV: Vũ Thị Thuấn Lớp: CH21V
7
Tiểu luận triết học GVHD: TS Lê Ngọc Thông
nghĩa Mác – Lênin thì phát triển không chỉ là sự ra đời của cái mới; cái mới
loại bỏ, triệt để cái cũ mà còn cần phải có sự kế thừa và phát triển. Vậy kế
thừa cái gì? Đó là kế thừa những mảng, những nhân tố còn hợp lý, có ý nghĩa
tích cực đối với sự phát triển của cái mới. Không có bất cứ cái mới nào ra đời,
tồn tại và phát triển mà không dựa một phần nào đó vào những yếu tố tích cực
của cái cũ. Sự vật, hiện tượng ra đời không phải là ngẫu nhiên, tự nhiên mà
có, nó hình thành và phát triển trên cơ sở chọn lọc những yếu tố còn hợp lý và
có thể cải tạo được cái cũ.
d) Sự phát triển có tính đa dạng, phong phú
Phát triển là khuynh hướng chung của mọi sự vật, mọi hiện tượng, song
mỗi sự vật, mỗi hiện tượng lại có quá trình phát triển không giống nhau. Tồn
tại ở không gian khác nhau, ở thời gian khác nhau, sự vật phát triển sẽ khác
nhau. Đồng thời trong quá trình phát triển của mình sự vật còn chịu tác động
của các sự vật, hiện tượng khác, của rất nhiều yếu tố, điều kiện, Sự tác động
đó có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của sự vật, đôi khi có thể làm
thay đổi chiều hướng phát triển của sự vật, thậm chí làm cho sự vật thụt lùi.
Ví dụ, nói chung, ngày nay trẻ em phát triển nhanh hơn cả về thể chất lẫn trí
tuệ so với trẻ em các thế hệ trước do chúng được thừa hưởng những thành
quả, những điều kiện thuận lợi mà xã hội mang lại. Trong thời đại hiện nay,
thời gian công nghiệp hoá và hiện đại hoá của các quốc gia chậm và kém phát
triển sẽ ngắn hơn nhiều so với các quốc gia đã thừa hưởng kinh nghiệm và sự
hỗ trợ của các quốc gia đi trước. Song vấn đề còn ở chỗ, sự vận dụng kinh
nghiệm và tận dụng sự hỗ trợ đó như thế nào lại phụ thuộc rất lớn vào những
nhà lãnh đạo và nhân dân của các nước chậm phát triển và kém phát triển.
1.2.3. Ý nghĩa phương pháp luận
Tự nhiên, xã hội và tư duy đều nằm trong quá trình vận động và phát
triển không ngừng. Bản chất khách quan đó của quá trình đòi hỏi chúng ta, để
phản ánh đúng đắn hiện thực khách quan, cần có “quan điểm phát triển”. Điều
đó có nghĩa là, khi xem xét các sự vật và hiện tượng phải đặt nó trong sự vận
HV: Vũ Thị Thuấn Lớp: CH21V
8
Tiểu luận triết học GVHD: TS Lê Ngọc Thông
động, trong sự phát triển; và phát hiện ra các xu hướng biến đổi, chuyển hoá
của chung. Liên quan đến vấn đề này, V.I. Lênin đã viết: “Logic biện chứng
đòi hỏi phải xem xét sự vật trong sự phát triển, trong “sự tự vận động”, trong
sự biến đổi của nó”
Quan điểm phát triển đòi hỏi không chỉ nắm bắt những cái hiện đang tồn
tại ở sự vật, mà còn phải thấy rõ khuynh hướng phát triển trong tương lai của
chung, phải thấy được những biến đổi đi lên cũng như những biến đổi có tính
chất thụt lùi. Song điều cơ bản là phải khái quát những biến đổi để vạch ra
khuynh hướng biến đổi chính của sự vật.
Quan điểm phát triển đúng đắn về sự vật chỉ có được khi bằng tư duy
khoa học của mình, chủ thể khái quát để làm sáng tỏ xu hướng chủ đạo của tất
cả các biên đổi khác nhau đó.
Xem xét sự vật theo quan điểm phát triển còn phải biết phân chia quá
trình phát triển của sự vật ấy thành những giai đoạn. Trên cơ sở ấy để tìm ra
phương pháp nhận thức và cách tác động phù hợp nhằm thúc đẩy sự vật tiến
triển nhanh hơn hoặc kìm hãm sự phát triển của nó, tuy theo sự phát triển đó
có lợi hay có hại đối với đời sống của con người.
Quan điểm phát triển góp phần khắc phục tư tưởng bảo thủ, trì trệ,
định kiến trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của chúng ta. Nếu
chúng ta tuyệt đối hoá nhận thức, nhất là nhận thức khoa học về sự vật hay
hiện tượng nào đó thì các khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và nhân văn sẽ
không thể phát triển và thực tiễn sẽ dậm chân tại chỗ. Chính vì thế, chúng ta
cần phải tăng cường phát huy nỗ lực của bản thân trong việc hiện thực
hoáquan điểm phát triển vào nhận thức và cải tạo sự vật nhằm phục vụ nhu
cầu, lợi ích của chúng ta và của toàn xã hội.
Quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta là một quá trình lâu dài,
khó khăn, nhiều thử thách và cũng có lúc sự lãnh đạo của Đảng mắc phải
những bệnh chung của các nước xã hội chủ nghĩa như : bệnh giáo điều, bệnh
bảo thủ trì trệ, chủ quan duy ý chí … dẫn đến sự suy thoái, khủng hoảng kinh
HV: Vũ Thị Thuấn Lớp: CH21V
9
Tiểu luận triết học GVHD: TS Lê Ngọc Thông
tế xã hội. Tuy nhiên, Đảng vẫn khẳng định ““CNXH trên thế giới từ những
bài học thành công và thất bại cũng như từ những khát vọng và sự thức tỉnh
của các dân tộc, có điều kiện và khả năng tạo ra bước phát triển mới. Theo
quy luật tiến hóa của lịch sử loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội”
(Văn kiện Đại hội IX, trang 65). Nhận định này xuất phát từ nguyên lý về sự
phát triển và quan điểm phát triển trong triết học Mác Lênin và thực tiễn tình
hình thế giới cũng như tình hình xây dựng CNXH ở Việt Nam.
Nguyên lý về sự phát triển là một trong hai nguyên lý cơ bản của phép
biện chứng duy vật. Phát triển là một phạm trù triết học dùng để chỉ sự vận
động có định hướng từ thấp đến cao, từ giản đơn đến phức tạp, từ chưa hoàn
thiện đến hoàn thiện hơn mà kết quả là cái mới tiến bộ ra đời thay thế cái cũ
lạc hậu. Sự phát triển của sự vật mang tính phổ biến vì trong thế giới khách
quan, không có sự vật hiện tượng nào đã đứng im, tĩnh tại mà nó luôn vận
động, phát triển không ngừng. Sự mất đi của một sự vật hiện tượng này là
điều kiện ra đời của sự vật hiện tượng khác.
Nguyên lý này cũng khẳng định rằng nguồn gốc của sự phát triển là sự
thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập trong chính bản thân sự vật hiện
tượng hay nói cách khác đó là do mâu thuẩn nội tại bên trong sự vật hiện
tượng, nó vạch ra cách thức của sự phát triển là vừa có tích lũy dần về lượng,
vừa có sự chuyển hóa về chất, tức là sự phát triển chẳng qua là sự tăng giảm
về lượng và chất (vừa có tính liên tục, vừa có tính gián đoạn). Nguyên lý về
sự phát triển cũng chỉ ra rằng không phải chỉ có khuynh hướng đi lên mới
được coi là sự phát triển mà quá trình phát trển thường được diễn ra quanh co,
phức tạp qua những khâu trung gian mà có lúc bao hàm cả sự thụt lùi đi
xuống tạm thời : đó là khuynh hướng tiến lên của đường “xoáy tròn ốc”.
Trong xu hướng của sự phát triển luôn có tính kế thừa và sự đi lên này là một
quá trình có tính lặp lại.
Sự phát triển của các sự vật và hiện tượng trong thực tế là quá trình biện
chứng đầy mâu thuẫn. Do vậy, quan điểm phát triển được vận dụng vào quá
HV: Vũ Thị Thuấn Lớp: CH21V
10
Tiểu luận triết học GVHD: TS Lê Ngọc Thông
trình nhận thức cũng đòi hỏi chúng ta phải thấy rõ tính quanh co, phức tạp của
quá trình phát triển như là một hiện tượng phổ biến. Thiếu quan điểm khoa
học như vậy người ta rất dễ bi quan, dao động khi tiến trình cách mạng nói
chung và sự tiến triển của từng lĩnh vực xã hội cũng như của cá nhân nói
riêng tạm thời gặp khó khăn, trắc trở.
Tuân theo những đòi hỏi đó của quan điểm phát triển sẽ góp phần khắc
phục bệnh bảo thủ trì trệ và bệnh giáo điều trong tư duy cũng như trong hành
động thực tiễn. Bệnh bảo thủ trì trệ là tình trạng ỷ lại, chậm đổi mới, ngại thay
đổi, dựa dẫm, chờ đợi, thậm chí cản trở cái mới, bằng lòng thỏa mãn với cái
đã có. Đôi khi bệnh bảo thủ biểu hiện qua những định kiến. Bệnh bảo thủ trì
trệ cũng gắn liền với bệnh giáo điều, đó là khuynh hướng tuyệt đối hóa lý
luận, coi thường kinh nghiệm thực tiễn, coi lý luận là bất di bất dịch, việc nắm
lý luận chỉ dừng lại ở những nguyên lý chung trừu tượng, không chú ý đến
những hoàn chỉnh lịch sử cụ thể của sự vận dụng lý luận. Bệnh giáo điều có 2
dạng : giáo điều lý luận và giáo điều kinh nghiệm. Bệnh giáo điều lý luận là
việc thuộc lòng lý luận, cho rằng áp dụng lý luận áp dụng vào đâu cũng được
không xem xét điều kiện cụ thể của mình. Ví dụ như theo Mác thì phải xóa bỏ
tư hữu dẫn đến việc ta tiến hành cải tạo XHCN xóa tất cả các thành phần kinh
tế nhằm mục đích chỉ còn 2 thành phần kinh tế quốc doanh và tập thể mà
không thấy được rằng "Nền kinh tế nhiều thành phần là một đặc trưng của
thời kỳ quá độ", sự có mặt của nhiều thành phần kinh tế với các mối quan hệ
tác động qua lại của nó sẽ tạo động lực cho sự phát triển kinh tế trong giai
đoạn này. Bệnh giáo điều kinh nghiệm là việc áp dụng nguyên si rập khuôn
mô hình của nước khác, của địa phương khác vào địa phương mình mà không
sáng tạo, chọn lựa … Ví dụ như trước đây ta bắt chước rập khuôn mô hình
CNXH ở Liên Xô trong việc thành lập các bộ ngành của bộ máy nhà nước (ở
Liên Xô có bao nhiêu Bộ, Ngành ta cũng có bấy nhiêu Bộ ngành), hoặc về
công nghiệp hóa cũng vậy, ta chỉ chú ý tập trung phát triển công nghiệp nặng
mà không chú ý phát triển công nghiệp nhẹ … Bệnh bảo thủ trì trệ và bệnh
HV: Vũ Thị Thuấn Lớp: CH21V
11
Tiểu luận triết học GVHD: TS Lê Ngọc Thông
giáo điều cùng với bệnh chủ quan duy ý chí là những căn bệnh chung của các
nước XHCN và nó gây ra hậu quả tất yếu là làm cản trở, thậm chí kéo lùi sự
phát triển của kinh tế - xã hội, đưa chúng ta đến sai lầm nghiêm trọng.
Trong quá trình đổi mới và xây dựng đất nước, Đảng ta luôn đấu tranh
phê phán với quan điểm bảo thủ, trì trệ, định kiến. Văn kiện Đại hội Đảng lần
IX có viết : “ Xóa bỏ mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử về quá khứ, giai
cấp, thành phần, xây dựng tinh thần cởi mở, tin tưởng lẫn nhau hướng tới
tương lai.
Việc Đảng ta kiên trì đổi mới xây dựng đất nước phát triển theo con
đường XHCN là căn cứ vào quan điểm phát triển của chủ nghĩa duy vật biện
chứng trên cơ sở tin tưởng vào sự tất thắng của chủ nghĩa cộng sản mặc dù
trong bối cảnh lịch sử hiện nay CNXH trên thế giới đang ở giai đoạn thoái
trào và công cuộc quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội của đất nước ta cũng như các
nước XHCN.
HV: Vũ Thị Thuấn Lớp: CH21V
12
Tiểu luận triết học GVHD: TS Lê Ngọc Thông
CHƯƠNG 2
Ý NGHĨA CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU TRONG NGHIÊN CỨU
ĐỐI VỚI VIỆC TÌM HIỂU XU THẾ VẬN ĐỘNG CỦA ĐỜI SỐNG
KINH TẾ - XÃ HỘI HIỆN NAY
2.1. Thực trạng kinh tế - xã hội hiện nay
Qua 20 năm tiến hành công cuộc đổi mới, Việt Nam đã đạt được những
thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Kinh tế tăng trưởng khá nhanh; sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa đang đẩy mạnh. Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Hệ thống
chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường.
Chính trị - xã hội ổn định. Quốc phòng và an ninh được giữ vững. Vị thế nước
ta trên trường quốc tế không ngừng nâng cao. Sức mạnh tổng hợp của quốc
gia đã tăng lên rất nhiều, tạo ra thế và lực mới cho đất nước tiếp tục đi lên với
triển vọng tốt đẹp. Nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ngày càng sáng tỏ hơn; hệ thống quan điểm lý luận về công cuộc
đổi mới, về xã hội xã hội chủ nghĩa và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam đã hình thành trên những nét cơ bản.
Bên cạnh những thành tựu đạt được, nền kinh tế Việt Nam cũng bộc lộ
những điểm yếu cần khắc phục. Nguyên nhân bao trùm là sự quá chậm chạp
trong việc loại bỏ các thói quen của một nền quản lý bao cấp. Điều này chẳng
những tạo ra sự trì trệ, kém năng động trong sản xuất kinh doanh mà còn gây
cản trở cho việc điều hành, triển khai đầu tư. Điều đầu tiên, với sự gia nhập
WTO, chúng ta đã quá nôn nóng muốn xây dựng một nền kinh tế hiện đại,
trong đó hạt nhân là tạo dựng được một nền công nghiệp tiên tiến. Chính vì
thế, chúng ta đã lãng quên đặc thù và cũng là thế mạnh của nền kinh tế Việt
Nam là nông nghiệp. Sự chấp nhận đầu tư ồ ạt, thiếu chọn lọc hàng loạt dự án
công nghiệp, hàng loạt khu công nghiệp mọc ra một cách thiếu qui hoạch
không những không tạo ra hiệu quả kinh tế như mong muốn mà còn gây ra
HV: Vũ Thị Thuấn Lớp: CH21V
13
Tiểu luận triết học GVHD: TS Lê Ngọc Thông
những hệ luỵ buồn. Đồng vốn đầu tư không đạt hiệu quả trong khi số nợ lại
tăng lên. Đất canh tác bị thu hẹp gây khó khăn cho người nông dân, môi
trường bị xâm phạm…, tất cả thực trạng này đã làm cho nền kinh tế thiếu sự
vững chắc trong phát triển và bất ổn về an sinh.
Điều thứ hai, trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường lại vẫn coi
trọng kinh tế quốc doanh. Dồn quá nhiều vốn cho các tập đoàn Nhà nước
trong khi hầu hết các đơn vị trong lĩnh vực này lại làm ăn không hiệu quả.
Theo thống kê thì vốn dành cho các các tập đoàn này lên đến hơn 50% ngân
sách để họ cho ra chưa đầy 15% lãi. Điều này vô hình chung đã làm mất đi
tính bình đẳng của các thành phần khác, ảnh hưởng lớn đến sức mạnh tổng
hợp của nền kinh tế. Trong khi đó, khối doanh nghiệp vừa và nhỏ làm ăn hiệu
quả nhưng lại thật sự khó khăn về vốn trong giai đoạn Chính phủ thi hành
biện pháp kiềm chế lạm phát.
Điều thứ ba, là trong quá trình xây dựng và điều hành kinh tế chúng ta
chưa bao giờ coi trọng tính tổng thể. Thế cho nên trong những năm qua, tình
trạng hỗn độn trong phát triển kinh tế ngành, địa phương càng tăng, sự chồng
chéo và ngăn cản nhau bởi lợi ích cục bộ của ngành, của địa phương ngày
càng phát sinh và tạo ra những rào cản lớn.
Ngoài 3 khiếm khuyết trên, vẫn còn những khuyết điểm cố hữu của nền
kinh tế Việt Nam, như tham nhũng, chất lượng nguồn nhân lực và bố trí nhân
lực chưa đúng vị trí. Nếu chúng ta không nhanh chóng có những biện pháp
giải quyết những khuyết điểm này thì nó sẽ trở thành căn bệnh kìm hãm đà
phát triển của kinh tế Việt Nam.
Nắm chắc phép biện chứng duy vật khoa học về sự phát triển chính là
nắm chắc cơ sở khách quan và nguyên lý vận động của sự phát triển, cho
phép những chủ thể xã hội (các đảng chính trị, nhà nước, ) chủ động xây
dựng các lý thuyết (triết lý) phát triển xã hội một cách đúng đắn, khoa học,
phù hợp; tích cực hoạt động xây dựng xã hội, thúc đẩy xã hội tiến nhanh theo
mục đích của chủ thể, của loài người đặt ra.
HV: Vũ Thị Thuấn Lớp: CH21V
14
Tiểu luận triết học GVHD: TS Lê Ngọc Thông
Hiểu sâu sắc biện chứng phát triển thế giới nói chung, của xã hội nói
riêng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng một cách sáng tạo phép biện chứng
phát triển đó vào công cuộc xây dựng và phát triển xã hội ở Việt Nam. Người
đã xác lập những quan điểm và gắn liền với chúng là hành động thực tiễn (vì
ở Hồ Chí Minh, tư tưởng và hành động gắn liền với nhau) có tính hệ thống và
tính nguyên lý của triết lý phát triển xã hội Viêt Nam - từ cách tiếp cận chủ
nghĩa xã hội cho đến nội dung và phương thức xây dựng chủ nghĩa xã hội
Việt Nam.
Coi xã hội là trình độ phát triển cao nhất của giới tự nhiên; quốc gia là
một thực thể trọn vẹn của xã hội, Hồ Chí Minh cho rằng, để một đất nước có
thể phát triển thì điều tiên quyết, đất nước đó phải được độc lập, dân tộc đó
phải được tự do. Độc lập, tự do, theo Hồ Chí Minh có nghĩa rất rộng - không
chỉ độc lập, tự do cho dân tộc, quốc gia, mà cho cả con người; không chỉ
mang tính không gian, mà cả phẩm giá con người; không chỉ ở hiện tại mà cả
trong tương lai. Nhưng đối với một đất nước còn nô lệ, phụ thuộc, bị áp bức,
thì độc lập và tự do là điều kiện đầu tiên để dân tộc đó tự do quyết định vận
mệnh và tương lai của minh, đồng thời có thể tự do phát huy toàn bộ nội lực,
sức mạnh, tài năng của chính mình cho sự phát triển đất nước.
Có độc lập, tự do rồi thì vấn đề quyết định để bảo đảm cho một đất nước
có thể phát triển là việc xác định con đường đi đúng đắn của cách mạng. Tin
tưởng sắt đá vào nguyên lý phát triển biện chứng, Hồ Chí Minh khẳng định:
Chủ nghĩa xã hội là con đường đi tất yếu của lịch sử nhân loại. Người viết:
"Loài người đã trải qua sự phát triển từ xã hội nguyên thuỷ sang xã hội chiếm
hữu nô lệ, xã hội phong kiến rồi đến xã hội tư bản; xã hội tư bản với bản chất
vô nhân đạo và đầy mâu thuẫn tự trong lòng nó, cũng giống như những quy
luật của lịch sử xã hội, xã hội tư bản sẽ chuyển sang xã hội xã hội chủ nghĩa -
cộng sản chủ nghĩa".
Triết lý phát triển xã hội thật sự khoa học và sâu xa của Hồ Chí Minh
không chỉ là ở sự lựa chọn hướng đi và con đ]ờng đúng của dân tộc cho phù
HV: Vũ Thị Thuấn Lớp: CH21V
15
Tiểu luận triết học GVHD: TS Lê Ngọc Thông
hợp với quy luật phát triển của lịch sử. Giá trị khoa học và nhân văn trong
cách nhìn mới của Hồ Chí Minh là ở chỗ, Người không loá mắt trước hào
quang của xã hội tư bản, cũng không bi quan khi hủ nghĩa xã hội mới hình
thành; Người thấy xã hội xã hội chủ nghĩa là hướng đi tối ưu của loài người.
Theo Hồ Chí Minh, "Chỉ có chủ nghĩa xã hội mới cứu nhân loại, đem lại cho
con người tự do, bình đẳng, bác ái, hoà bình, hạnh phúc". Và với bản chất
của nó, dù mới hình thành, xã hội xã hội chủ nghĩa chứa đựng trong bản thân
mình sức sống và tiềm năng của xã hội, những yếu tố quy định sự vươn lên
của xã hội trong tương lai, chúng thúc đẩy xã hội tiến lên theo mục tiêu và lý
tưởng nhân văn của con người.
Chính vì vậy, ngay từ khi đất nước còn đắm chìm trong nô lệ, Hồ Chí
Minh đã quyết chọn con đường cách mạng Việt Nam trước hết là cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân, thực hiện dân quyền và bảo đảm dân sinh, để từng
bước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã hội, với bản chất nhân đạo và
đầy sức sống của nó, - nơi thể hiện lý tưởng cao đẹp nhất của con người, - có
khả năng tự tạo ra sức mạnh nội sinh như là nguồn lực been trong của biện
chúng phát triển để thúc đẩy xã hội đi lên phù hợp với lý tưởng chân chính
của nhân dân Việt Nam; phù hợp với quy luật vận động khách quan, tất yếu
của xã hội. Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội đã trở thành tư tưởng nhân lõi
xuyên suốt lý tưởng xây dựng xã hội mới; và đó cũng là một nội dung quan
trọng, mà Hồ Chí Minh nâng lên thành nguyên lý của triết lý phát triển xã hội.
Xã hội xã hội chủ nghĩa tuy chứa đựng bản chất và sức sống khách quan,
tất yếu của nó, song theo Hồ Chí Minh, nó chỉ được thực hiện trên cơ sở một
nhà nước vững mạnh của dân, do dân, vì dân. Đó là một nhà nước do nhân
dân làm chủ. Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất do nhân dân
dựng nên, đại diện cho ý chí của nhân dân. Chính phủ là nơi thừa hành quyền
lực của nhân dân, vận hành theo cơ chế pháp quyền, thực hiện nghĩa vụ và
trách nhiệm vì lợi ích của nhân dân. Cán bộ là người đại diện cho ý chí của
nhân dân, đồng thời là công bộc (đầy tớ) trung thành của nhân dân. Nhà nước
HV: Vũ Thị Thuấn Lớp: CH21V
16
Tiểu luận triết học GVHD: TS Lê Ngọc Thông
phải thực hiện đầy đủ bản chất, chức năng, trách nhiệm của mình: bao nhiêu
quyền lợi đều thuộc về nhân dân.
Một nhà nước như vậy sẽ là nơi tập trung ý chí, do đó thể hiện toàn bộ
sức mạnh của nhân dân, tạo ra sức mạnh xã hội. Điều đó cho thấy, ở Hồ chí
Minh, động lực thúc đẩy xã hội, sức phát triển của một xã hội được tạo ra từ
chế độ dân chủ thực sự: "Mọi sức mạnh đều ở nơi dân"; "Dễ mười lần không
dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong". Dân chủ, như vậy không chỉ
đơn thuần là yếu tố tinh thần, là cơ chế, mà là lực lượng vật chất, nó tạo ra sức
mạnh xã hội ngay trong hoạt động của các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá,
xã hội của một quốc gia.
Từ nhận thức sâu sắc rằng, kinh tế quyết định chính trị, chính trị tập
trung ở kinh tế (V.I. Lênin), Hồ Chí Minh chú trọng xây dựng một nền kinh tế
vững mạnh theo hướng xã hội chủ nghĩa. Logic phát triển thường trực ở Hồ
Chí Minh là trước hết phải làm cho người dân được "ăn no, mặc ấm", rồi mới
đến "học hành tiến bộ". Ngay từ những ngày đầu xây dựng đất nưức, Người
đã lãnh đạo toàn Đảng, toàn dân đẩy mạnh nhiệm vụ phát triển kinh tế. Đó là
thực hiện hợp tác hoá để quy tụ sức mạnh toàn dân vào xây dựng nền kinh tế
mới; cải tạo quan hệ sản xuất, phát triển lực lượng sản xuất, từng bước công
nghiệp hoá, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội. Hạt nhân
phát triển xã hội quan trọng ở đây là một nền kinh tế vững mạnh trên cơ sở
đại công nghiệp, do nhân dân lao động làm chủ để phát triển các lĩnh vực
khác của toàn xã hội.
Nếu như kinh tế là nền tảng và là yếu tố hàng đầu của phát triển xã hội,
thì văn hoá - khoa học - giáo dục được Hồ Chí Minh xem là nguồn lực nội
sinh từ thượng tầng kiến trúc tác động đến hạ tầng cơ sở, tạo nên sự vận động
của tất cả các lĩnh vực hoạt động xã hội. Coi trình độ phát triển của khoa học -
kỹ thuật tương ứng với trình độ phát triển của xã hội, ngay từ khi nước ta còn
hét sức nghèo nàn, lạc hậu, Người đã đặc biệt quan tâm phát triển khoa học -
kỹ thuật. Người nhấn mạnh rằng, chúng ta chỉ có thể xây dựng thành công
HV: Vũ Thị Thuấn Lớp: CH21V
17
Tiểu luận triết học GVHD: TS Lê Ngọc Thông
chủ nghĩa xã hội trên cơ sở một nền khoa học - kỹ thuật tiên tiến. Cần phải thi
đua phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật để nâng cao năng suất lao động.
Ngay từ kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, Hồ Chí Minh đã đặc biệt quan tâm
việc tiến hành cách mạng khoa học - kỹ thuật, từng bước thực hiện công
nghiệp hoá đất nước. Người coi khoa học - kỹ thuật là then chốt của công
nghiệp hoá, là lực lượng làm tăng sức sản xuất, tạo ra động lực làm chuyển
biến nền kinh tế - xã hội, thay đổi quan hệ sản xuất, quan hệ xã hội, góp phần
làm chuyển hoá bản chất xã hội, nâng dần trình độ phát triển xã hội theo
hướng xã hội chủ nghĩa.
Phát triển khoa học - kỹ thuật tất yếu gắn liền với giáo dục - đào tạo con
người. Con người là lực lượng quyết định nhất của lực lượng sản xuất, đồng
thời cũng là động lực bên trong thúc đẩy mọi quá trình hoạt động xã hội; nó
vừa là chủ thể tạo ra, đồng thời sử dụng khoa học - kỹ thuật, điều hành toàn
bộ quá trình xã hội. Vì vậy, bước vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội,
Hồ Chí Minh đã khẳng định: "Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, phải có con
người xã hội chủ nghĩa", - những con người "vừa hồng vừa chuyên". Theo Hồ
Chí Minh, sức mạnh của một dân tộc trước hết là tri thức, là trí tuệ. "Một dân
tộc dốt là dân tộc yếu". Phải diệt giặc dốt, nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân
lực, đào tạo nhân tài. Dân trí là điều kiện để thực hiện phát triển văn hoá - xã
hội, tạo tiềm năng trí tuệ và sức vươn lên một xã hội giàu mạnh và văn minh.
Văn hoá, theo Hồ Chí Minh, vừa là mục tiêu vừa là động lực phát triển
xã hội. Người sớm nhận thấy rằng, "Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích sống,
loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp
luật, khoa học, tôn giáo, văn học nghệ thuật và những công cụ phục vụ cuộc
sống hàng ngày như ăn mặc ở và những phương thức sử dụng chúng ". Như
vậy, văn hoá một mặt là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu phấn đấu
của xã hội, mặt khác là yếu tố bên trong như là nguồn nội lực thúc đẩy xã hội
tiến lên. Người nói: "Muốn phát triển xã hội, nền văn hoá dân tộc phải: xây
dựng tâm lý, lý cách; tinh thần độc lập tự lực tự cường; xây dựng luân lý; biết
HV: Vũ Thị Thuấn Lớp: CH21V
18
Tiểu luận triết học GVHD: TS Lê Ngọc Thông
hy sinh cho lợi ích quần chúng; xây dựng xã hội", và "Văn hoá phải vạch
đường cho quốc dân đi"
Ngay từ ngày đầu của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, Hồ Chí
Minh đã đề ra tư tưởng xây dựng nền văn hoá Việt Nam theo nguyên tắc dân
tộc hoá, khoa học hoá, đại chúng hoá với nội dung xã hội chủ nghĩa và tính
chất dân tộc. Vì theo Người, đó là những nguyên tắc giải phóng năng lượng
lớn lao của tuyệt đại bộ phận nhân dân lao động trong sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc. Tính chất đó của nền văn hoá sẽ phát huy cao độ nội lực
trong việc tiếp thu, tiếp biến các giá trị phổ biến của nhân loại, làm sâu sắc và
đậm đà thêm bản sắc văn hoá Việt Nam, tạo sức mạnh to lớn cho sự phát triển
xã hội.
Sự phát triển xã hội và một xã hội phát triển, theo Hồ chí Minh, tất cả
đều quy tụ ở vấn đề con người. Bởi nói đến xã hội là nói đến con người. Xã
hội vận động và phát triển như thế nào là do ý thức, trí tuệ, ý chí, tài năng,
nghị lực của con người. Con người trí tuệ, tài năng, ý chí, nghị lực cao là hạt
nhân sức mạnh của xã hội, tạo ra xã hội mới. Mục tiêu phát triển của một xã
hội theo hướng nhân văn là đáp ứng mọi khát vọng chính đáng của con người,
tạo điều kiện cho con người ngày càng phát triển toàn diện - hài hoà như một
chủ thể văn hoá. Mặt khác, xã hội đó lại do chính bản thân con người làm ra
với tư cách là chủ thể lịch sử, chủ thể xã hội. Con người tự đặt ra mục đích và
đồng thời là người thực hiện những mục đích đó. Một xã hội có thể phát triển
phải đi trúng mục tiêu con người với hai khía cạnh và hai ý nghĩa cơ bản này.
Do vậy, trong toàn bộ sự nghiệp cách mạng của mình, đặc biệt là trong sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh luôn đặt con người ở vị trí
trung tâm.
Những nội dung nêu trên là những thành tố thiết yếu tạo nên sự vận động
và phát triển xã hội mà sự nghiệp xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa cần có.
Nhưng ở Hồ Chí Minh, sự phát triển không chỉ cần đến các yếu tố tạo nên
động lực phát triển; điều quan trọng là các thành tố đó phải làm thành một tổ
HV: Vũ Thị Thuấn Lớp: CH21V
19
Tiểu luận triết học GVHD: TS Lê Ngọc Thông
hợp tổng hoà tất cả các mối quan hệ trong một môi trường có tính chỉnh thể
với sự tác động biện chứng, nhiều chiều, đa dạng và thường xuyên.
Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam chỉ có được khi chủ nghĩa yêu nước Việt
Nam được phát huy cao độ và được nâng lên thành chủ nghĩa yêu nước mới, -
một chủ nghĩa yêu nước cộng sản đầy trí tuệ, tài năng, toàn bộ tinh hoa và khí
phách dân tộc được biến thành hành động. Chủ nghĩa yêu nước mới đó, thực
chất là một nền đạo đức mới, - nền đạo đức lấy tiêu chí tiến bộ, nhân văn làm
đích phấn đấu. Nền tảng tinh thần xã hội nhân văn này quy tụ và nhân các tiềm
năng vật chất - kỹ thuật hiện có của xã hội lên nhiều lần, nhằm thực hiện một
mục tiêu chung: phát triển và tiến bộ của xã hôi - con người xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, góp vào sự nghiệp phát triểễpã hội - con người trên toàn thế giới.
Sức sống của phát triển lâu bền chỉ có được khi một xã hội phát huy cao
độ các yếu tố sức mạnh truyền thống và cái mới hiện đại, Sự gắn bó hài hoà
truyền thống - hiện đại, theo Hồ Chí Minh là nguyên tắc của sự phát triển. Bởi
ở đó, tương lai được tiếp sức từ nguồn sống của quá khứ và của hiện tại.
Truyền thống là tinh hoa và sức mạnh được kết tụ, chưng cất, thăng hoa từ
lịch sử ngàn đời của một dân tộc, nó là hành trang vật chất - tinh thần từ định
hướng cho đến lực lượng phát triển xã hội. Nó làm cơ sở cho xã hội truyền
thống đi vào hiện đại. Hiện đại nâng cao truyền thống - đó là sức mạnh và sức
bền của phát triển.
Cũng tương tự, yếu tố dân tộc và yếu tố quốc tế được thể hiện qua quan
hệ riêng - chung trong triết lý phát triển xã hội Hồ Chí Minh. Người luôn luôn
nhận thức rằng, dân tộc là một bộ phận của quốc tế; một dân tộc phải tồn tại
trong quan hệ nhiều dân tộc và dựa vào nhiều dân tộc khác như là quan hệ tất
yếu tự nhiên mới có thể cùng tồn tại và trưởng thành. Cho nên, Người chủ
trương và hành động một cách hiệu quả theo phương châm: cách mạng dân
tộc không thể tách rời cách mạng thế gới; hai cuộc cách mạng đó như hai
cánh của một con chim, tạo ra lực cho con chim bay lên cao. Xu thế và hoàn
HV: Vũ Thị Thuấn Lớp: CH21V
20
Tiểu luận triết học GVHD: TS Lê Ngọc Thông
cảnh quốc tế là điều kiện quan trọng cho sự tồn tại và phát triển của một quốc
gia; cho sự thành công của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội Việt Nam.
Ngay từ giữa thế kỷ XX, Hồ Chí Minh đã có cái nhìn khoa học và hiện
đại về phát triển, trong đó có những vấn đề mà nhiều lý thuyết phát triển ngày
nay đang đặt ra như phát triển bền vững, phát triển nhân văn Những vấn đề
về tăng trưởng và phát triển, nội sinh và ngoại lực, kịnh tế và xã hội, vật chất
và tinh thần, hiện tại và tương lai , những vấn đề mà trong thế giới ngày nay
các lý thuyết và các mô hình phát triển trên thế giới đang phải gải quyết, đã
được Hồ Chí Minh đề cập sâu sắc trong quan niệm của Người về bản chất,
nội dung của chủ nghĩa xã hội và quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Sự kết hợp nội sinh - ngoại lực, theo Hồ Chí Minh, là một nguyên lý tất
yếu của sự phát triển xã hội giống như nguyên lý phát triển của giới tự nhiên.
Người cho rằng, chỉ có cách mạng vô sản mới giải phóng được dân tộc và xây
dựng thành công chủ nghĩa xã hội; sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội là sự
nghiệp của nhân dân, do nhân dân tự làm lấy; đồng thời Người cũng nói rằng,
để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, chúng ta phải dựa vào các nước xã
hội chủ nghĩa, phải đoàn kết với các dân tộc, phải tranh thủ sự ủng hộ của
nhân dân thế giới.
Về tăng trưởng và phát triển, Hồ Chí Minh luôn đặt chúng trong mối
quan hệ biện chứng và hài hoà: Tiến lên chủ nghĩa xã hội phải từng bước phát
triển kinh tế và văn hoá, xã hội; nâng cao đời sống vật chất của xã hội phải
đồng thời với nâng cao đời sống tinh thần của con người; vấn đề không chỉ là
sản xuất ra nhiều của cải, mà điều quan trọng hơn là chất lượng của cải phải
ngày càng cao, và làm sao nâng cao được chất lượng sống cho nhân dân.
Người nói: chúng ta xây dựng chủ nghĩa xã hội mà dân không được hưởng
hạnh phúc thì chủ nghĩa xã hội đó cũng không có nghĩa lý gì !
Đặc biệt, đối với Hồ Chí Minh, mối quan hệ thiên nhiên - con người là
hết sức gắn bố, nó như một chỉnh thể tất yếu tự nhiên không thể chia cắt.
Người nói: Trời có bốn mùa, người có bốn đức tính. Thiên thời - địa lợi -
HV: Vũ Thị Thuấn Lớp: CH21V
21
Tiểu luận triết học GVHD: TS Lê Ngọc Thông
nhân hoà là điều kiện cho sự ổn định, phát triển và trường tồn. Người còn nói:
"Việt Nam ta có hai tiếng Tổ quốc, ta cũng thường gọi Tổ quốc là Đất nước.
Có Đất và có Nước thì mới thành Tổ quốc. Có Đất lại có Nước thì dân giàu
nước mạnh, Nhiệm vụ của chúng ta là làm cho đất với nước điều hoà với
nhau để nâng cao đời sông của nhân dân, xây dựng chủ nghĩa xã hội"5. Quan
điểm và chủ trương "Trồng cây" và "Trồng người", hành vi và phong trào
"Trồng cây" và Trồng người" của Hồ Chí Minh thể hiện triết lý hài hoà thiên
nhiên - con người trong quá trình xây dựng và phát triển xã hội bền vững,
đồng thời thể hiện ẩn ý sâu xa của Người về mối quan hệ con người - thiên
nhiên trong sự hài hoà và trường tồn của vũ trụ.
Trong hệ thống các yếu tố của phát triển, Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm
đến chủ thể của quá trình phát triển - Đảng cộng sản. Sự lãnh đạo của một
đảng cộng sản chân chính, trí tuệ và sáng tạo là yếu tố đầu tiên và cũng là yếu
tố cuối cùng có tính quyết định đối với sự định hướng và xây dựng một xã hội
mới. Bởi theo Hồ Chí Minh, Đảng cộng sản Việt Nam là đảng của nhân dân,
của cách mạng; mục đích của Đảng không có gì khác là đem lại cuộc sống ấm
no, tự do, hành phúc cho nhân dân. Đó cũng thực sự là mục tiêu của bất kỳ
một triết lý phát triển nào nhằm mục tiêu phát triển xã hội bền vững.
Toàn bộ sự nghiệp cách mạng của Hồ Chí Minh được thực hiện ở Việt
Nam chính là triết lý phát triển xã hội của Người. Do hoàn cảnh khó khăn và
điều kiện hết sức thiếu thốn của thời kỳ đầu trong công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh chưa thể thực hiện được toàn vẹn các vấn đề cụ
thể, song nội dung cơ bản của triết lý phát triển Hồ Chí Minh, đặc biệt là
nguyên lý, linh hồn của triết lý phát triển theo đúng nghĩa của nó, - phát triển
bền vững, phát triển theo hướng nhân văn, - là nguyên lý, là triết lý phát triển
đúng đắn, khoa học, phù hợp với xu thế của thời đại ngày nay; nó góp phần
quan trọng và mở hướng đúng đắn, đầy triển vọng cho quá trình loài người
trong thế giới hiện đại tiếp tục tìm tòi, khám phá, xây dựng một triết lý phát
triển bền vững, một triết lý phát triển thích hợp nhất với con người./.
HV: Vũ Thị Thuấn Lớp: CH21V
22
Tiểu luận triết học GVHD: TS Lê Ngọc Thông
2.2. Ý nghĩa của việc nghiên cứu trong nghiên cứu đối với việc tìm hiểu
xu thế vận động của đời sống kinh tế - xã hội hiện nay
Trong xã hội, phát triển thể hiện ở khả năng chinh phục tự nhiên, cải tạo
xã hội, phục vụ con người.
Trong tư duy, phát triển thể hiện ở việc nhận thức vấn đề gì đó ngày càng
đầy đủ, đúng đắn hơn.
Một đơn vị hành chính sự nghiệp thực hiện tinh giảm biên chế nhưng vẫn
đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ được giao như vậy được coi là phát triển. Bởi
vì số lượng công chức, viên chức giảm đi nhưng vẫn hoàn thành nhiệm vụ
được giao. Hơn nữa, phát triển không nên hiểu đơn giản là sự tăng lên về số
lượng. Cũng không nên hiểu giản đơn phát triển là sự vận động từ đơn giản
đến phức tạp. Thực tế cho thấy có những thứ càng đơn giản càng chứng tỏ
phát triển. Ví dụ, những thủ tục hành chính càng gọn nhẹ, đơn giản càng
chứng tỏ nền hành chính của quốc gia ấy phát triển. Nhiều đơn vị đã tiến hành
rà soát những thủ tục hành chính, làm rõ những thủ tục cần thực hiện, thủ tục
nào cần loại bỏ để tạo điều kiện thuận lợi nhất cho người dân và các doanh
nghiệp. Chính phủ cũng xây dựng nhiều chính sách nhằm cải cách bộ máy
hành chính; đổi mới, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức như thực
hiện chính sách tinh giảm biên chế. Việc thực hiện chính sách tinh giản biên
chế là một trong những chủ trương tích cực được xã hội chấp thuận cao, tạo
điều kiện rà soát lại chức năng, nhiệm vụ, sắp xếp lại tổ chức, đơn vị trực
thuộc theo hướng thu gọn đầu mối, bỏ khâu trung gian, mỗi cơ cấu tổ chức
được giao nhiều việc. Chính sách tinh giản biên chế đã khuyến khích những
cán bộ, công chức, viên chức chưa đạt "chuẩn" trình độ của vị trí công việc
đang đảm nhận; những người năng lực hạn chế, lớn tuổi, sức khỏe yếu, không
còn tâm huyết với công việc tự nguyện nghỉ để địa phương tuyển dụng, đào
tạo mới đội ngũ nhân lực trẻ, có trình độ năng lực chuyên môn phù hợp thay
thế. Ngoài ra, việc bố trí, sắp xếp đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức theo
định hướng yêu cầu vị trí việc làm và trình độ chuyên môn đào tạo giúp khai
HV: Vũ Thị Thuấn Lớp: CH21V
23
Tiểu luận triết học GVHD: TS Lê Ngọc Thông
thác, sử dụng năng lực cán bộ, công chức đạt hiệu quả cao hơn trước khi chưa
thực hiện chính sách này.
Từ năm 1987 khi đất nước bước vào đổi mới toàn diện nền kinh tế đến
nay đã trải qua 25 năm. Hoạt động thương mại của Việt Nam đã vận động
đúng định hướng mà Nhà nước và Chính phủ đã xác định, đó là:
Phát triển thương mại nhiều thành phần với nhiều loại hình sở hữu và
hình thức tổ chức kinh doanh phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất.
Quan hệ kinh tế và thương mại nói riêng với các nước được mở rộng và
phát triển không ngừng theo hướng đa phương hoá, đa dạng hoá. Việt Nam đã
gia nhập ASEAN, APEC, đã ký nhiều Hiệp định thương mại tự do song
phương (FTA) và hiện nay đã là thành viên chính thức của Tổ chức thương
mại thế giới được vài năm và đang triển khai áp dụng các quy định theo lộ
trình.
Hoạt động thương mại đã gắn liền với ổn định kinh tế vĩ mô và nâng cao
chất lượng trong công tác củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh và trật tự an
toàn xã hội.
Thực trạng hoạt động thương mại trong thời gian qua đã góp phần tích
cực vào ổn định nền kinh tế, khắc phục tình trạng lạm phát, thúc đẩy sản xuất
phát triển và phân công lại lao động xã hội, đổi mới công nghệ và nâng cao
chất lượng sản phẩm, gắn sản xuất với thị trường, bước đầu phát huy được lợi
thế so sánh của các vùng trong nước và giữa thương trường trong nước với thị
trường ở các nước khác trên thế giới. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả to
lớn đó, quá trình phát triển thương mại của Việt Nam trong 25 năm qua cũng
bộc lộ những mặt hạn chế và những tồn tại cần nhanh chóng khắc phục, đó là:
Cơ chế bao cấp và độc quyền Nhà nước trong kinh doanh vẫn còn tồn
tại; tình trạng phát triển thị trường giữa các địa bàn còn quá nhiều chênh lệch;
xuất nhập khẩu của Việt Nam và đầu tư từ nước ngoài vàoViệt Nam tuy phát
triển nhanh nhưng cơ cấu xuất khẩu chuyển dịch còn chậm và hiệu quả xuất
HV: Vũ Thị Thuấn Lớp: CH21V
24