Tải bản đầy đủ (.doc) (70 trang)

Giải pháp đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu tại Công ty Cổ phần và đầu tư Thành tín

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (368.12 KB, 70 trang )

Nông Quang Chung Lớp KDQT K39
MỤC LỤC
N MĂ 40
S N L NG XU T KH U(TR T N)Ả ƯỢ Ấ Ẩ Ấ 40
Doanh số xuất khẩu 40
GIÁ TRỊ 40
2005 40
330 40
833 40
100 40
2006 40
170 40
1.026 40
123 40
2007 40
388 40
2.910 40
309 40
2008 40
770 40
4.955 40
595 40
2009 40
775 40
4.225 40
570 40
2010 40
1.015 40
6.296 40
756 40
T NGỔ 40


3.448 40
20.245 40
Nông Quang Chung Lớp KDQT K39
Thị trường 58
Tỷ trọng 58
Nhật Bản 58
Thị trường khác 58
Nông Quang Chung Lớp KDQT K39
PHẦN MỞ ĐẦU
1)Lý do nghiên cứu đề tài:
+ Mặt hàng thuỷ sản là một trong những mặt hàng có kim ngạch xuất
khẩu ngày càng tăng và chiếm một tỷ trọng lớn trong số các mặt hàng đang
xuất khẩu của Việt nam ra nhiều thị trường các nước trong khu vực cũng như
trên thế giới. .
+Công ty Cổ phần và đầu tư Thành Tín là một doanh nghiệp chủ yếu
chuyên kinh doanh về mặt hàng thủy hải sản qua một thời gian ngắn kể từ khi
thành lập đến nay hoạt động sản xuất kinh doanh đã đạt được một số kết quả
như sau:Hoạt động kinh doanh,dịch vụ hàng hoá sản phẩm hàng thủy sản năm
2007 đạt doanh thu 2.91 triệu đô la năm 2008 đạt 4.95triệu đô la và đến năm
2009 đạt4,255triệu đô la.Hoạt động kinh doạnh mặt hàng thủy sản của công ty
còn khiêm tốn mặc dù về phía công ty đã có nhiều sự nỗ lực cố gắng song vẫn
chưa thực sự hoạt động kinh doanh hiệu quả trong lĩnh vực này.Vấn đề mà
công ty gặp phải chưa phát huy hết khả năng kinh doanh,chưa khai thác hết giá
trị và những ưu điểm mà mặt hàng này đem lại.chưa mở rộng quy mô kinh
doanh do đó chưa đạt hiệu quả cao trong lĩnh vực nghành này.Với lý do đó qua
thời gian thực tập tại công ty tôi nhận thấy rằng để có kế hoạch và tương lai cụ
thể cho hoạt động xuất khẩu của công ty đạt hiệu quả tốt hơn tôi chọn đề tài
“Giải pháp đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu tại Công ty Cổ phần và đầu tư
Thành tín” Để nghiên cứu trong chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình.
2)Mục đích nghiên cứu của đề tài

-Mục đích của chuyên đề là nghiên cứu đề xuất các giải pháp nhằm đẩy
mạnh hoạt động xuất khẩu hàng thủy sản của Công ty Cổ Phần và Đầu Tư
Thành Tín.Để đạt được những mục đích đó chuyên đề sẽ đề cập giải quyết
những nhiệm vụ nghiên cứu sau đây.
1
Nông Quang Chung Lớp KDQT K39
+ Hệ thống hoá những vấn đề lý luận về hoạt động xuất khẩu của doanh
nghiệp.
+ Phân tích thực trạng xuất khẩu mặt hàng thuỷ sản của Công ty Cổ phần
và đầu tư Thành Tín trong giai đoạn từ năm 2007-2009.
+Đề xuất các giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu mặt hàng
thủy sản của Công ty Cổ phần và đầu tư Thành Tín.
3)Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài:
Đối tượng nghiên cứu chính của chuyên đề là hoạt động xuất khẩu của
Công ty Cổ phần và đầu tư Thành Tín
- Phạm vi nghiên cứu của đề tài:
Đề tài nghiên cứu hoạt động xuất khẩu hàng thuỷ sản của Công ty Cổ
phần và đầu tư Thành Tín với thời gian nghiên cứu từ năm 2007 tới nay,và đề
xuất giải pháp đến năm 2015
4)Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu và kết luận Chuyên đề bao gồm ba chương như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận chung về hoạt động xuất khẩu của Doanh
nghiệp
Chương 2: Thực trạng xuất khẩu hàng thuỷ sản của Công ty Cổ phần và
đầu tư Thành Tín.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng thuỷ
sản của công ty cổ phần và đầu tư Thành Tín giai đoạn 2010-2015
2
Nông Quang Chung Lớp KDQT K39

CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU
CỦA CÁC DOANH NGHIỆP
1.1 Khái niệm,vai trò và hình thức xuất khẩu
1.1.1 Khái niệm xuất khẩu.
Xuất khẩu là một hoạt động kinh tế quan trọng của bất kỳ quốc gia nào
trên thế giới trong điều kiện toàn cầu hoá ngày nay. Đối với các nước đang
phát triển, đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu là một ưu tiên nhằm phát triển kinh
tế. Việt Nam là một nước có nền kinh tế mở, thể hiện qua tỷ lệ xuất khẩu so
với GDP luôn ở mức trên 60% và còn tiếp tục tăng trong thời gian tới. Xu
hướng đáng mừng này là kết quả của việc nền sản xuất trong nước đã hướng
mạnh vào xuất khẩu: các mặt hàng ngày càng hoàn thiện về chất lượng, phong
phú về mẫu mã, chủng loại đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của khách
hàng quốc tế. Kết quả chung này đạt được là kết quả tổng hợp của rất nhiều
thành công của các doanh nghiệp trong nền kinh tế, những doanh nghiệp định
hướng hoạt động vào xuất khẩu.
Hoạt động xuất khẩu là một hoạt động phức tạp, bao gồm nhiều bên tham
gia từ các nước khác nhau, với văn hoá nói chung và văn hoá kinh doanh nói
riêng mang không ít điểm khác biệt, chịu sự điều chỉnh của nhiều nguồn luật
trong mỗi nước và quốc tế… Bởi vậy, để đảm bảo cho các thương vụ xuất
khẩu được thực hiện thành công cần có một quy trình chính xác, cụ thể, phân
công rõ ràng trách nhiệm trong từng khâu thực hiện hợp đồng.
1.1.2Vai trò của hoạt động xuất khẩu
1.1.2.1Đối với quốc gia:
Tăng cường hoạt động xuất khẩu là nhiệm vụ hàng đầu cho mỗi quốc gia
để phát triển nền kinh tế quốc dân,tăng thu ngoại tệ cho quốc gia,dù bất cứ đó
là một quốc gia nào và nền kinh tế ra sao.(quốc gia chậm phát triển,phát
3
Nông Quang Chung Lớp KDQT K39
triển,kém phát triển,quốc gia tăng trưởng mạnh hay khủng hoảng tài chính

kinh tế)đều phải thực hiện chính sách hướng tới xuất khẩu.Trong gói giải phát
nhằm đưa nền kinh tế thoát khỏi sự khủng khoảng tài chính,chỉnh phủ của
tổng thống mỹ Barac OBAMA cũng đã đề cập tới vấn đề này năm 2009 nhằm
đưa đất nước mỹ thoát khỏi tình trạng khủng hoảng trầm trọng trong suất mấy
năm trở lại đây,Do đó không thể phủ nhận tầm quan trọng của hoạt động xuất
khẩu đối với nền kinh tế mỗi quốc gia,Điều này chứng minh rằng một quốc
gia có kim ngạch xuất khẩu lớn hơn kim ngạch nhập khẩu sẽ có lợi thế rất
nhiều về phát triển kinh tế với một quốc gia khác đồng thời dự trữ ngoại tệ
làm cho quốc gia đó sẽ có tiềm lực lớn hơn về các hoạt động và các chính
sách phát triển kinh tế trong hiện tại cũng như trong tương lai,Khi một quốc
gia bị thâm hụt thương mại thì biện pháp tăng cường xuất khẩu giảm nhập
khẩu sẽ là giải pháp tốt nhât cho việc giải quyết về vấn đề thâm hụt thương
mại,cũng từ việc này dưới góc độ nhìn nhận của một cá nhân tham gia quản lý
kinh tế có thể đánh giá thêm rất nhiều vấn đề có liên quan,chẳng hạn khi thâm
hụt thương mại giữa mỹ và trung quốc sảy ra và chênh lệch rất lớn điều này
chứng minh rằng gia trị ngoại tệ của hai đồng tiền cũng thay đổi và khoảng
cách cũng sẽ là rất lớn…Và người quản lý kinh tế của hai quốc gia này sẽ
nghiên cứu và đưa ra những giải pháp thích hợp để giải quyết vấn đề
này.Nhưng nhìn chung kim ngạch xuất khẩu ổn định và cân bằng giữa nhập
khẩu sẽ là yếu tố quyết định sự ổn định của nền kinh tế mỗi quốc gia và nền
kinh tế thế giới.
1.1.2.2 Đối với doanh nghiệp:
Việc mở rộng hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu ra các thị trường nước
ngoài là rất quan trọng,hoạt động này mang lại nhiều lợi ích to lớn cho các
doanh nghiệp nhất là trong thời đại hội nhập kinh tế quốc tế cụ thể là:
4
Nông Quang Chung Lớp KDQT K39
-Tìm được những khách hàng mới và nguồn lợi mới nhờ tăng doanh số
bán hàng.
-Tăng cường năng lực sản xuất và hiệu quả sản xuất nhờ tăng năng xuất

lao động và hạ chi phí sản xuất theo quy mô.
-Tăng nguồn thu ngoại tệ để nhập khẩu máy móc thiết bị,công nghệ và
nguyên liệu phục vụ cho sản xuất trong nước.
-Tận dụng được lực lượng lao động dư thừa trong nước,phân tán các rủi
do trong kinh doanh.
-Mở rộng kinh doanh xuất khẩu các sản phẩm mang tính mùa vụ
-Khắc phục được quy mô nhỏ bé của thị trường nội địa hay tình trạng trì
trệ và giảm sút của nó trong các giai đoạn kinh doanh nhất định v.v
-Tăng doanh thu bán dẫn đến tăng khả năng đầu tư và khả năng cạnh
tranh đối với các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài,mở rộng thị phần và
quy mô của doanh nghiệp.
-Ngoài những vấn đề trên hoạt động xuất khẩu còn có vai trò là cầu nối
giữa các doanh nghiệp trong và ngoài nước tìm hiểu và hợp tác kinh doanh
trao đổi kinh nghiệm nhằm củng cố và hoàn thiện hơn những yếu tố còn yếu
kém trong các giao dịch thương mại quốc tế của doanh nghiệp v.v
Tuy nhiên nếu như việc mở rộng hoạt động xuất khẩu ra thị trường nước
ngoài mang lại nhiều lợi thế cho các doanh nghiệp thì quá trình này cũng tiềm
ẩn nhiều rủi do,nguy cơ thậm chí là rất lớn đối với họ cụ thể là:
-Thuế quan nhập khẩu cao.
-Các rào chắn phi thuế quan do chính phủ các nước đặt ra để bảo vệ thị
trường nội địa.
-Những rủi do lớn về chính trị,luật pháp,tài chính và thương mại ở thị
trương nước ngoài.
5
Nông Quang Chung Lớp KDQT K39
Như vậy sự hiện diện trên thị trường nước ngoài vừa là cơ hội song đồng
thời cũng là thách thức đối với các doanh nhiệp.Điều đó buộc các doanh
nghiệp phải nhận thức sự cần thiết có được những cách thức có hiệu quả để
khai thác được các thị trường nước ngoài.Ở đây vai trò xuất khẩu đối với một
doanh nghiệp cần thiết được nghiên cứu kỹ hơn nữa trong mọi hoạt động kinh

doanh chủ yếu của doanh nghiệp.
1.1.3 Hình thức xuất khẩu
Trong thương mại quốc tế tồn tại rất nhiều giao dịch và nhiều hình thức
hợp đồng hợp tác kinh doanh trong đó xuất khẩu là một khâu quan trọng
trong chiến lược phát triển và mở rộng quy mô kinh doanh của doanh
nghiệp,thông qua hoạt động xuất khẩu doanh nghiệp sẽ đưa sản phẩm thâm
nhập vào thị trường một cách nhanh chóng hơn,mở rộng hơn thị phần của
mình trong nền kinh tế.
Một doanh nghiệp có thể xuất khẩu sản phẩm của mình bằng hai cách là
xuất khẩu trực tiếp và xuất khẩu gián tiếp.
1.1.3.1Xuất khẩu trực tiếp:
Hầu hết các doanh nghiệp,nhà sản xuất chỉ sử dụng các trung gian phân
phối trong những điều kiện cần thiết.Khi đã phát triển đủ mạnh để tiến tới
thành lập tổ chức bán hàng riêng của mình để có thể kiểm soát trực tiếp thị
trường họ thường thích sử dụng hình thức xuất khẩu trực tiếp hơn.Trong hình
thức này nhà sản xuất,doanh nghiệp giao dịch trực tiếp với khách hàng nước
ngoài ở khu vực thị trường nước ngoài thông qua tổ chức của mình.
Về nguyên tắc mặc dù xuất khẩu trực tiếp có làm tăng thêm rủi do
trong kinh doanh song nó có những ưu điểm cơ bản sau:
- Giảm bớt lợi nhuận trung gian sẽ làm tăng chênh lệch giữa giá bán và
chi phí tức là làm tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp,nhà sản xuất.
6
Nông Quang Chung Lớp KDQT K39
- Nhà sản xuất có liên hệ tực tiếp và đều đặn với khách hàng,với thị
trường,biết được như cầu của khách hàng và tình hình bán hàng do đó có thể
thay đổi sản phẩm và các điều kiện bán hàng trong trường hợp cần thiết.
Các tổ chức bán hàng trực tiếp của nhà sản xuất bao gồm các hình thức
sau:
+ Cơ sở bán hàng trong nước:Các bộ phận này hoặc có thể liên quan trực
tiếp tới nghiệp vụ bán hàng xuất khẩu hoặc hoạt động như một trụ sở

marketing xuất khẩu đặt trong nước để phân phối hay điều hành các tổ chức
phụ thuộc khác đặt tại thị trường nước ngoài.Có ba loại tổ chức xuất khẩu đặt
trong nước là:
+Gian hàng xuất khẩu:Tổ chức này là hình thức đơn giản nhất,bao gồm
một giám đốc bán hàng và một số nhân viên trợ giúp với nhiệm vụ chủ yếu là
bán hàng trực tiếp và thực sự còn các hoạt động khác do bộ phận khác đảm
nhận
Mặc dù có ưu thế là đơn giản song nó có hạn chế là hoạt động marketing
xuất khẩu sẽ bị lu mờ do nó được các bộ phận khác thực hiện với trình độ
hiểu biết nghiệp vụ xuất nhập khẩu rất hạn chế.Điều đó làm giảm hiệu quả
xuất khẩu
+Phòng xuất khẩu:Là một đơn vị hoạt động độc lập quản lý phần lớn các
hoạt động xuất khẩu.Phòng xuất khẩu có thể được tổ chức theo chức
năng,theo vùng địa lý,theo sản phẩm,khách hàng hay một vài kiểu kết hợp tuỳ
thuộc vào sự thay đổi nhiệm vụ của hoạt động xuất khẩu.
Sự hình thành phòng xuất khẩu có thể loại trừ các hạn chế của hình thức
gian hàng xuất khẩu.Trước hết hình thức này sẽ loại trừ được sự xung khắc
giữa việc kinh doanh nội địa và quốc tế mặc dù việc phân bổ hợp lý nguồn lực
cho các loại hoạt động trên vẫn cần giải quyết.Sau nữa nó tạo điều kiện cho
việc chuyên môn hoá trong hoạt động do đó nâng cao được hiệu quả xuất
7
Nông Quang Chung Lớp KDQT K39
khẩu và khả năng thâm nhập thị trường quốc tế.Cuối cùng phòng xuất khẩu sẽ
có độ linh hoạt cao kể cả trong nghiệp vụ cũng như vị trí đặt cơ sở
+Chi nhánh bán hàng xuất khẩu:Để tách biệt hoàn toàn các hoạt động nội
địa,một số doanh nghiệp có thể thành lập chi nhánh bán hàng xuất khẩu như
một công ty con.Mặc dù chi nhánh bán hàng xuất khẩu vẫn do công ty mẹ
quản lý song nó chịu trách nhiệm và có quyền hạn đầy đủ trong các hoạt động
xuất khẩu,thậm chí cả lợi nhuận.Với hình thức này nhà sản xuất có thể đánh
giá chính xác lợi ích của xuất khẩu và tránh được các đối lập không cần thiết

bắt nguồn từ kinh doanh nội địa.
Chi nhánh bán hàng xuất khẩu được thành lập nhằm các mục đích sau:
-Thống nhất sự kiểm soát của hoạt động xuất khẩu
-Kiểm soát chi phí và lợi nhuận liên quan đến xuất khẩu.
-Phân phối đơn đặt hàng giữa các nhà máy của doanh nghiệp nhanh hơn
và giám sát trách nhiệm hiệu quả hơn.
-Dễ huy động các nguồn lực tài chính cần thiết hơn.
-Cung cấp các lô sản phẩm hoàn chỉnh hơn.
-Tiết kiệm hơn về các loại thuế kinh doanh.
*-Đại diện bán hàng xuất khẩu:Đối với nhiều loại sản phẩm các nhà xuất
khẩu có thể sử dụng các đại diện bán hàng thường trực hoặc tạm thời của
mình ở thị trường nước ngoài.Đại diện là các nhân viên của doanh nghiệp có
nhiệm vụ thu thập các đơn hàng của khách hàng,có hai loại đại diện là:
+Người đại diện được hưởng lương:Là người của doanh nghiệp cử ra thị
trường nước ngoài để giao dịch với khách hàng.Trong nhiều trường hợp
người đại diện là một người bản xứ vì người đó nắm được những tập quán xã
hội và thương mại,tâm lý,thực tiễn thị trường v.v…Tức là tất cả những khác
biệt giữa nước này với nước khác.Tất nhiên không phải lúc nào người đại
diện địa phương cũng chu đáo với trách nhiệm của mình.
8
Nông Quang Chung Lớp KDQT K39
+Văn phòng đại diện:Trên thực tế ngoại trừ những thị trường nhỏ và
ngoài lề,rõ ràng một người đại diện duy nhất không thể sử lý hết mọi việc do
đó cần tổ chức một công thức hợp lý và linh hoạt theo từng điều kiện cụ
thể.Ưu thế của công thức này có thể là các nhân viên của văn phòng do được
hưởng lương của nhà sản xuất sẽ tích cực hơn và các nhà phân phối nước
ngoài sẽ cảm thấy được theo sát và hỗ trợ đáng kể khi cần thiết do họ gần gũi
hơn và hiểu biết tốt hơn thị trường.
*-Chi nhánh bán hàng tại nước ngoài:Là một bộ phận của doanh nghiệp
nằm tại các nước ngoài có trách nhiệm quản lý cả công việc xúc tiến và phân

phối hàng hoá trên toàn bộ khu vực thị trường đã định.Trong thực tế khi một
vùng thị trường đã được hình thành bởi các đại lý và các nhà phân phối địa
phương thì người ta thiết lập một chi nhánh bán hàng.
Ở mức độ cao hơn,chi nhánh bán hàng có thể được nâng lên thành công
ty chi nhánh bán hàng tại nước ngoài với quyền tự chủ cao hơn và trách
nhiệm rộng lớn hơn.Nó có thể có kho hàng,phương tiện vận tải và thâu tóm
mọi hoạt động một cách độc lập,có quyền thông qua và đáp ứng mọi yêu cầu
của khách hàng nước ngoài.Cả chi nhánh bán hàng và công ty chi nhánh bán
hàng ở nước ngoài đều là các tổ chức có đăng ký hoạt động.
Việc thành lập các chi nhánh bán hàng ở nước ngoài có các ưu điểm là:
-Là cơ sở để các nhà sản xuất trưng bày các sản phẩm của họ.
-Là trung tâm cung cấp dịch vụ cho khách hàng.
*-Tổ chức trợ giúp ở nước ngoài:Là một công ty riêng rẽ được thành lập
và đăng ký ở nước ngoài song hầu hết vốn cổ phần của nó lại do nhà xuất
khẩu nắm quyền sở hữu.Cũng như chi nhánh bán hàng tổ chức trợ giúp xuất
khẩu có thể giúp nhà xuất khẩu giải quyết nhiều vấn đề xuất khẩu,nhất là có
những hạn chế về nhập khẩu,có yêu cầu về sản phẩm phải phù hợp với một số
thị trường.v.v…
9
Nông Quang Chung Lớp KDQT K39
Trong xuất khẩu trực tiếp,ngoài việc hình thành các tổ chức bán hàng
riêng của mình,các nhà xuất khẩu cũng có thể sử dụng các trung gian phân
phối đã có sẵn ở thị trường nước ngoài.Là các trung gian sau đây:
*-Đại lý nhập khẩu:Về hình thức đại lý nhập khẩu cũng tương tự như đại
lý xuất khẩu hoặc thậm chí chúng giống nhau về tư cách pháp nhân,về chức
năng,dịch vụ và các trả thù lao.Sự khác biệt ở chỗ là đại lý nhập khẩu nằm ở
thị trường xuất khẩu của nhà sản xuất do đó hợp đồng giữa nhà sản xuất và
đại lý nhập khẩu được điều chỉnh theo luật của nước sở tại.Điều đó có nghĩa
là nếu có khác nhau thì nhà sản xuất không thể dùng một mẫu hợp đồng thống
nhất.Đôi khi nhà sản xuất còn phải chứng minh rằng hợp đồng của mình có

giá trị pháp lý ở tại nước có đại lý sở tại.Trong hoạt động thì việc kiểm soát
các đại lý nhập khẩu cũng khó khăn hơn do nó nằm ở thị trường nước ngoài.
*-Đại lý đặc quyền:Là người môi giới thương mại quốc tế mà mối liên hệ
với nhà xuất khẩu chặt chẽ hơn cả.Một thương gia độc lập ký với bạn hàng
một hợp đồng quy định các điều kiện hợp tác tức là trách nhiệm trở lại trong
thời hạn quy định đặc quyền
Một cách tổng quát,đại lý đặc quyền phải thực hiện ít nhất ba chức năng:
-Thương mại:Người đó có lực lượng bán hàng riêng và theo từng thương
vụ có thể hỗ trợ nhà xuất khẩu trong quảng cáo ở địa phương cũng như trong
từng khu vực.
-Kỹ thuật:Người đó đảm trách các dịch vụ sau bán hàng và bảo hành sản
phẩm khi có yêu cầu.
-Cung ứng và dịch vụ tài chính:Người đó cấp tài chính cho việc lưu kho
và cấp tín dụng cho khách hàng cũng như lo cơ sở vật chất cho việc bán sản
phẩm
Về phần mình nhà cung cấp cam kết cung cấp đúng thời hạn,theo
những điều kiện thuận lợi nhất,tham gia vào những chi phí phải trả cho quảng
10
Nông Quang Chung Lớp KDQT K39
cáo cũng như cho giới thiệu sản phẩm tại hội chợ và phòng trưng bày,cung
ứng các dịch vụ cần thiết v.v…
Hai bên bạn hàng cam kết cung cấp cho nhau thông tin về thị
trường(sản phẩm,khách hàng,đối thủ cạnh tranh)các rủi do của đại lý đặc
quyền được bù đắp bằng tiền lãi trong doanh số thực hiện.Chính ở đây sẽ có
một khó khăn không tránh khỏi,giá bán trong vùng đại lý đó có thể do nhà
xuất khẩu quy định nếu quy định ở địa phương đó cho phép hoặc do đại lý
quy định,điều đó sẽ do hai bên thảo luận song một hay nhiều chu trình cung
cấp “đột kích” hay “song song” có thể cùng đưa ra một sản phẩm với giá thấp
hơn giá mà nhà xuất khẩu đề nghị với đại lý đặc quyền v.v…Hoặc đại lý đặc
quyền cung cấp theo cách đó cho một nước khác với giá thấp hơn giá được

quy định tại nước đó.Cần phải dự phòng điều đó bằng cách đưa vào hợp đồng
một điều khoản cấm tái xuất.
-Nhà nhập khẩu phân phối cũng là một thương nhân độc lập song khác
với đại lý đặc quyền ở nhiều khía cạnh,đó chỉ có thể xẩy ra đối với các sản
phẩm vừa không nổi tiếng,không được quảng cáo và ở những thị trường yếu
cũng như tập quán thương mại gia đình được thực hiện.Điều bất tiện của hình
thức này là nhà nhập khẩu thường có vị trí vững vàng trong guồng máy
thương mại của nước họ,trên thực tế sẽ là một hình ảnh đối với nhà xuất khẩu
vì người đó tự lập hoá đơn,để cho nhà xuất khẩu bỏ qua số lưọng danh tính
khách hàng của nó.Các duy nhất để khắc phục điều đó là quan hệ cá nhân với
nhà nhập khẩu,chẳng hạn cho phép nhà nhập khẩu tháp tùng nhà phân phối
đến tại chỗ hoặc bán sát lực lượng bán hàng để cảm nhận và nắm bắt thị
trường tốt hơn.
Một hình thức xuất khẩu trực tiếp khác đáng chú ý là xuất khẩu các
dịch vụ kỹ thuật và sản xuất.Hiện nay có những hình thức chủ yếu sau:
11
Nông Quang Chung Lớp KDQT K39
*Chuyển giao hoặc xuất khẩu bí quyết công nghệ:Nó có hai loại cần
phân biệt là:
+Chuyển nhượng giấy phép sử dụng bằng phát minh sáng chế:Đây là sự
nhượng lại quyền khai thác một sáng chế đã được công bố và độc quyền khai
thác được bảo đảm trong một thời gian nhất định mà nhà nước đã cấp cho nhà
sáng chế.Ta thường thấy công thức này khi nhà xuất khẩu không tự sản
xuất,khi một nhà sáng chế đơn lẻ hay một hiệp hội kỹ thuật không thể sản
xuất hoặc bán kết quả sáng chế đó,hoặc là do cần có những đầu tư nhất
định,những quy định hải quan,những định mức kỹ thuật nội địa v.v…Thậm
chí có những thị trường bị gò bó thực tế không thể bảo đảm cho nhà xuất
khẩu sản xuất tại chỗ hoặc không thể đưa sản phẩm vào thị trường thông qua
đại lý hay nhà nhập khẩu tại nước đó.
Việc nhượng lại giấy phép cho phép sử dụng sáng chế mà không tự mình

sản xuất song điều đó cũng không hoàn toàn dễ dàng vì khách hàng khi tiến
hành khai thác công nghiệp sáng chế đó có nhu cầu được bảo đảm về giá trị
kinh tế chắc chắn của nó.Lợi thế đối với người nhượng quyền là nhanh chóng
triển khai sáng chế của người đó và bảo đảm đi tiên phong trên thị trường
trước các đối thủ cạnh tranh.
+Chuyển giao quốc tế về kỹ thuật là một thao tác quốc tế mà đối tượng
của nó là tạo ra những điểm mới trong sản xuất hoặc khai thác một kỹ thuật
nào đó dưới sự kiểm soát hoặc không kiểm soát của nó và cung ứng cho
người nhận tổng thể những kiến thức và dữ liệu thí nghiệm mà nó đã tự áp
dụng và cung cấp cho người nhận những công cụ vật liệu và toàn bộ trang
thiết bị cần thiết cho sự khai thác đó.Hiện nay loại hình xuất khẩu này khá
phát triển qua các giai đoạn từ cung cấp bí quyết kĩ thuật xây dựng xí nghiệp
và duy trì sản xuất,điều mà không chỉ có sự chuyển giao đơn thuần mà còn
phải làm cho kĩ thuật thích nghi nữa.Trong một số trường hợp điều đó còn
12
Nông Quang Chung Lớp KDQT K39
bao gồm cả việc đào tạo cho khách hàng và nhân sự của họ để có thể tiếp
nhận hấp thụ và khai thác có hiệu quả kiến thức kĩ thuật cũng như tổ chức sản
xuất và đôi khi cả thương mại nữa.
*-Trợ giúp kỹ thuật cho nước ngoài là việc bán dịch vụ kèm theo bán
trang thiết bị và những loại cung ứng khác có thể giúp cho việc thực hiện một
dự án cho tới khi đưa một đơn vị sản xuất vào hoạt động thông qua việc đào
tạo nhân sự,cung cấp các kiến thức liên quan đến việc tổ chức và các phương
pháp công nghệ.v.v…Thực chất đây là sự quay trở lại hoặc sự tiếp tục của
một thao tác xuất khẩu trước đó.
*-Hợp đồng quản lý cũng là một dạng bán dịch vụ xuất khẩu vì nó đảm
bảo việc quản lý trong một thời hạn xác định hoặc không xác định,một đơn vị
sản xuất hoặc dịch vụ mà xuất khẩu đã tự mình xây dựng hoặc không.Hình
thức xuất khẩu này ở nước ngoài gần giống với hình thức đại lý.
1.1.3.2 Xuất khẩu uỷ thác:

Xuất khẩu gián tiếp là hình thức khi doanh nghiệp thông qua dịch vụ
của các tổ chức độc lập đặt ngay tại nước xuất khẩu để tiến hành xuất khẩu
sản phẩm của mình ra nước ngoài.Hình thức xuất khẩu gián tiếp khá phổ
biến ở những doanh nghiệp mới tham gia vào thị trường quốc tế.Hình thức
này có ưu điểm cơ bản là ít phải đầu tư.Doanh nghiệp không phải triển khai
một lực lượng bán hàng ở nước ngoài cũng như các hoạt động giao tiếp và
khuyếch trương ở nước ngoài.Sau nữa nó cũng hạn chế được các rủi do có
thể sảy ra tại thị trường nước ngoài vì trách nhiệm bán hàng thuộc về các tổ
chức khác.Tuy nhiên hình thức này cũng có hạn chế là giảm lợi nhuận của
doanh nghiệp do phải chia sẻ với các tổ chức tiêu thụ và do không có liên hệ
trực tiếp với thị trường nước ngoài nên việc nắm bắt các thông tin về thị
trường nước ngoài bị hạn chế,không thích ứng nhanh được các biến động
của thị trường.
13
Nông Quang Chung Lớp KDQT K39
Trong hình thức xuất khẩu gián tiếp doanh nghiệp có thể sử dụng các
trung gian phân phối sau đây:
*-Hãng buôn xuất khẩu:Là hãng buôn bán nằm tại nước xuất khẩu,mua
hàng của người sản xuất sau đó bán lại cho khách hàng nước ngoài cao các
hãng buôn xuất khẩu tiếp tục thực hiện tất cả các chức năng và chịu mọi rủi
do liên quan đến việc xuất khẩu.Các nhà sản xuất ngoài việc quan hệ giao
dịch không khác gì nhiều so với các khách hàng trong nước.Hãng buôn xuất
khẩu phải thực hiện các chức năng tìm thị trường,chọn kênh phân phối,xác
định giá bán và các điều kiện bán hàng,cấp tín dụng cho các khách hàng nước
ngoài,thực hiện chương trình bán hàng và chiến dịch quảng cáo.Đôi khi hãng
buôn xuất khẩu cấp tín dụng cho người sản xuất và tư vấn cho người sản xuất
về thiết kế sản phẩm,bao gói và yêu cầu nhãn hiệu đặc biệt của thị trường
nước ngoài.Hầu hết các hãng buôn xuất khẩu chỉ chuyên môn hoá hoạt động ở
một số thị trường nhất định với một số mặt hàng nhất định.Tại thị trường
nước ngoài họ có lực lượng bán hàng hoặc sử dụng đại lý,thậm chí có kho

bãi,phương tiện vận tải và xí nghiệp sản xuất.Lúc đó trở thành một tổ chức
đầy quyền lực,thống trị nền thương mại của cả một khu vực thị trường.Việc
sử dụng các hãng buôn xuất khẩu cũng có những ưu điểm và hạn chế chung
như mọi hình thức xuất khẩu gián tiếp,cụ thể những ưu điểm là:
-Nhà xuất khẩu có bạn hàng ngay ở trong nước do vậy không cần đến tận
thị trường nước ngoài và không cần liên lạc với bạn hàng ở đó.
-Các rủi do đối với việc xuất khẩu là do hãng buôn xuất khẩu chịu.Người
xuất khẩu được trả tiền khi giao hàng ngay trong nước do vậy không phải lo
các vấn đề về vận tải hàng ra nước ngoài,chứng từ xuất khẩu,tín dụng và thu
tiền khách hàng nước ngoài.
14
Nông Quang Chung Lớp KDQT K39
• Các nhược điểm của hình thức này là:
-Người sản xuất sẽ không được tiếp xúc trực tiếp với các trung gian phân
phối và khách hàng ở nước ngoài do vậy họ sẽ không có được thông tin về
lượng bán,không thể biết có cần thay đổi hay cải tiến sản phẩm hay không.
-Khi giao cho hãng buôn xuất khẩu chọn kênh phân phối và khách
hàng,nhà sản xuất sẽ không thể chọn được kênh có lợi nhất cho minh.
-Nhà sản xuất sẽ không kiểm soát được thậm chí sẽ không thể tác động
được giá bán của hãng buôn xuất khẩu và việc xuất khẩu có thể bị tổ hại do
hãng buôn xuất khẩu đặt giá quá cao hoặc quá thấp.
-Nhà sản xuất không thể gây thanh thế và uy tín với khách hàng và người
tiêu dung vì khách hàng chỉ biết nhà sản xuất một cách gián tiếp thông qua
hãng buôn xuất khẩu
Một hình thức tương tự như các hãng buôn xuất khẩu là các công ty
thương mại với nhiều loại hình tổ chức khác nhau như tổng công ty thương
mại,công ty thương mại,các chi nhánh thượng mại thuộc các công ty,ngân
hàng,hoặc chi nhánh ngân hàng của công ty thương mại.Tổng công ty thương
mại khác với các công ty đa quốc gia ở chỗ hoạt động đầu tư của họ trên một
chừng mực nào đó,có sự liên hệ trực tiếp với thương mại với mục tiêu kích

thích buôn bán quốc tế.Tổng công ty thương mại cũng khác với các loại công
ty khác vì chúng không định hướng ngay cho người tiêu dung hay cho nhà sản
xuất.Chúng cung cấp dịch vụ bằng vai trò trung gian trong buôn bán hoặc
định hướng cho trào lưu buôn bán một cách độc lập.
*-Công ty quản lý xuất khẩu:Công ty quản lý xuất khẩu hoạt động giống
như một liên doanh xuất khẩu,giải quyết các chức năng maketing xuất khẩu
như nghiên cứu thị trường,chọn kênh phân phối và khách hàng,tiến hành
chương trình bán hàng và quảng cáo hàng v.v…Khác với hãng buôn xuất
khẩu,công ty quản lý xuất khẩu không bán hàng trên danh nghĩa của mình mà
15
Nông Quang Chung Lớp KDQT K39
tất cả các đơn chào hàng,lập đơn đặt hàng,chuyên chở hàng,lập hoá đơn và
thu tiền hàng đều được thực hiện với danh nghĩa của nhà sản xuất.Thông
thường chính sách giá cả,các điều kiện bán hàng,quảng cáo và ngân sách
v.v…Là do nhà sản xuất quyết định,công ty quản lý xuất khẩu chỉ giữ vai trò
cố vấn.Các dịch vụ của công ty quản lý xuất khẩu được thanh toán bằng hoa
hồng(Thể hiện bằng tỷ lệ phần trăm của giá trị hàng bán)cộng thêm một
khoản tiền cố định hàng tháng hoặc hàng năm và tiền thanh toán cho các chi
phí đã được thoả thuận(chi phí công tác,nghiên cứu thị trường,quảng
cáo…)Các công ty quản lý xuất khẩu có thể cùng một lúc thực hiện hoạt
động xuất khẩu nhân danh nhiều nhà sản xuất.Sử dụng công ty quản lý xuất
khẩu là cần thiết đối với các nhà sản xuất nhỏ chưa thành lập được công ty
xuất khẩu riêng cho mình.
Việc sử dụng công ty quản lý xuất khẩu có ưu điểm hơn hãng buôn xuất
khẩu là nhà sản xuất đã thâm nhập được phần nào vào thị trường,đã có thể tác
động và kiểm soát việc bán hàng của trung gian phân phối tuy nhiên hình thức
này vẫn còn hạn chế là nhà sản xuất ít có quan hệ trực tiếp với thị trường
nước ngoài và mức độ thành công của việc xuất khẩu chủ yếu phụ thuộc vào
dịch vụ của công ty quản lý xuất khẩu.
*-Đại lý xuất khẩu:Đại lý là một hãng hay cá nhân,theo một hợp đồng

đặc biệt bán hàng với danh nghĩa của nhà sản xuất và được trả thù lao bằng
hoa hồng.Quyền sở hữu hàng hoá được chuyển trực tiếp từ người sản xuất đến
người mua hàng không qua trung gian vào bất cứ lúc nào(Tuy nhiên đại lý
cũng có thể có quyền sở hữu hàng hoá nếu trên đường vận chuyển đến người
mua hàng hoá phải qua kho của đại lý).Có nhiều kiểu đại lý khác nhau thực
hiện xuất khẩu gián tiếp.Những hình thức chủ yếu là:
+Hãng xuất khẩu uỷ thác(đại lý mua hàng xuất khẩu)là một tổ chức đại
điện cho những người mua nước ngoài cư trú tại nước của người xuất
16
Nông Quang Chung Lớp KDQT K39
khẩu.Hoạt động của nó dựa trên các đơn đặt hàng của khách hàng nước
ngoài.Như vậy hãng xuất khẩu uỷ thác theo hoạt động sự quan tâm của người
mua nên người mua có trách nhiệm phải trả tiền hoa hồng.Nhà sản xuất không
liên quan trực tiếp đến việc xác định thời gian mua vì điều đó được uỷ thác và
khách hàng nước ngoài quyết định.Hãng xuất khẩu uỷ thác căn cứ vào yêu
cầu của khách hàng nước ngoài gửi các yêu cầu đó cho các nhà sản xuất để
mời thầu và lựa chọn nhà cung cấp.
*-Khách vãng lai:Phần lớn các nhà nhập khẩu nước ngoài và các nhà
phân phối như các cửa hàng,hệ thống cửa hàng tạp phẩm và thực phẩm,các
nhà sản xuất sử dụng nguyên liệu thô và linh kiện thường dung khách du lịch
từ nước này sang nước khác như nguồn cung cấp hàng.Các khách du lịch là
nhân viên của nhà nhập khẩu nhà phân phối hoặc nhà sản xuất được đào tạo
như các chuyên gia về đánh giá chất lượng sản phẩm,bao gói,trang thiết bị
dùng cho nhà sản xuất.
*-Các tổ chức phối hợp:Các tổ chức phối hợp là sự pha tạp giữa xuất
khẩu gián tiếp và xuất khẩu trực tiếp.Nó là kênh gián tiếp vì không phải là bộ
phận của nhà sản xuất.Song cũng có thể xem nó như một kênh trực tiếp khi
nhà sản xuất có thể sự dụng các điều hành mang tính hành chính đối với chính
sách hoạt động của tổ chức phối hợp.Có hai loại tổ chức phối hợp là phối hợp
qua trung gian và các tổ hợp xuất khẩu.

1.2 Nội dung hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp:
Một công ty kinh doanh xuất nhập khẩu có thể hoạt động kinh doanh
xuất nhập khẩu trong nhiều lĩnh vực nhiều mặt hàng và quy trình xuất khẩu
hàng hoá đối với từng trường hợp cụ thể đều có những đặc điểm và đặc thù
khác nhau,song quy trình này cũng có những nét và những bước cơ bản
như sau:
17
Nông Quang Chung Lớp KDQT K39
1.2.1 Nghiên cứu lựa chọn thị trường xuất khẩu:
Là một khâu quan trọng và là khâu đầu tiên cho việc thực hiện quy
trình xuất khẩu hàng hoá.Doanh nghiệp cần nghiên cứu và lựa chọn thị trường
thích hợp cho hàng hoá mà mình sẽ có chiến lược thâm nhập và chiếm lĩnh thị
trường đồng thời doanh nghiệp cũng tìm hiểu và tiếp cận đối tác.Số liệu
nghiên cứu cần chính xác để quyết định xuất khẩu hàng hoá vào những thị
trường này có mức độ thành công nhiều hơn.Đó có thể là một số nhân tố cơ
bản sau:
- Quy mô thị trường(tổng số và các đoạn thị trường)
- Sự tăng trưởng của thị trường(tổng số và các đoạn)
- Những cơ hội thị trường và biến động thị trường.
- Tình trạng cạnh tranh(sự tập trung sức mạnh,trở ngại thâm nhập)Các
cản trở của thị trường(hàng rào thuế quan,hạn chế nhập khẩu v.v
- Sự can thiệp của chính phủ(kiểm soát giá cả,dung lượng địa phương,trợ
cấp xuất khẩu v.v )
- Sự ổn định về kinh tế chính trị.
- Đối tác có ảnh hưởng trên thị trường ra sao.
- Quy mô hoạt động kinh doanh của đối tác.
1.2.1.1 Nắm vững thị trường nước ngoài.
Khi doanh nghiệp tham gia hoạt động kinh doanh quốc tế việc hiểu rõ và
nẵm vững thị trường là rất quan trọng,đặc bịêt là thị trường nước ngoài thị
trường này sẽ quyết định kết quả kinh doanh xuất nhập khẩu của doanh

nghiệp việc nẵm vững thị trường nước ngoài của doanh nghiệp thực sự hiệu
quả khi kết quả nghiên cứu thị trường có đọ chính xác cao có thể các nhân tố
cơ bản trong việc nẵm vững thị trường của doanh nghiệp như:
-Về điều kiện thị trường:
+Số lượng và cơ cấu của tâp hợp khách hàng tiềm năng.
18
Nông Quang Chung Lớp KDQT K39
+Đặc điểm nhu cầu mong muốn và thị hiếu tiêu dùng của khách hàng.
+Trình độ phát triển kinh tế thị trường.
-Về sản phẩm:
+Thị trường có thể chấp nhận sản phẩm ở mức độ nào?
+Đối thủ cạnh tranh của sản phẩm ra sao?
+Sản phẩm có thể thích hợp và khai thác ở thị trường nào?
-Về khả năng của doanh nghiệp:
+Khả năng kinh doanh của doanh nghiệp cũng là nhân tố cầ xem xét khi
quyết định thâm nhập thị trường nước ngoài chủ yếu là các khía cạnh sau:
+Năng lực quản lý.
+Kinh nghiệm hoạt động trên thị trường nước ngoài.
+Quy mô của công ty và của chủng loại sản phẩm.
+Sức mạnh về tài chính và khả năng huy động nguồn tài chính bổ xung.
1.2.1.2 Nhận biết mặt hàng kinh doanh trước và lựa chọn mặt hàng kinh
doanh.
Khi tham gia kinh doanh xuất nhập khẩu kiến thức về sản phẩm là yếu
tố chủ yếu cho việc có quyết định kinh doanh mặt hàng này hay không,mặt
hàng này đang có những ưu điểm gì,tương lai,hiệu quả kinh doanh có thể
mong muốn và đạt được bao nhiêu?Không thể kinh doanh một mặt hàng mà
doanh nghiệp chưa hiểu rõ cụ thể về mặt hàng này,chu kỳ sống ra sao.?.Trong
quá trình kinh doanh cũng cần phải sàng lọc sản phẩm cho thích hợp.Phát
triển những sản phẩm có hiệu qủa kinh doanh cao loại trừ những sản phẩm
không đạt hiệu quả hoặc hiệu quả kinh doanh mang lại cho doanh nghiệp

thấp.
1.2.1.3 Tìm kiếm thương nhân giao dịch.
Thương nhân giao dịch hay đối tác giao dịch là những tổ chức hay cá
nhân có quan hệ buôn bán giao dịch hàng hoá với doanh nghiệp và là cầu nối
19
Nông Quang Chung Lớp KDQT K39
cho việc tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp xuất khẩu hàng hoá ra nước
ngoài.Tìm kiếm thương nhân giao dịch đòi hỏi nhiều yếu tố để có thể quyết
định hợp tác hay không với đối tác ví thử như:
-Uy tín của đối tác như thế nào?
-Khả năng về tiềm lực tài chính ra sao?
-Quy mô có đáp ứng yêu cầu cần thiết tối thiểu nhất của một doanh
nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu không?
Sau khi đã hoàn thành các bước cơ bản cũng như tìm được thương nhân
giao dịch rồi công việc tiếp theo của quy trình xuất nhập khẩu là:
1.2.2 Đàm phán ký kết hợp đồng xuất khẩu
1.2.2.1 Đàm phán:
Trong kinh doanh ngoại thương,việc giao dịch,trao đổi thông tin và hàng
hoá diễn ra liên tục.Trước khi có những trao đổi về hàng hoá,các đối tác cần
phải trao đổi các thông tin và giao dịch với nhau.Đàm phán kinh doanh là
công việc quan trọng là quá trình trao đổi thông tin và quan điểm giữa các đối
tác về đối tượng mua bán giá cả và các điều kiện giao dịch nhằm đi đến thống
nhất về thương vụ kinh doanh.
Cách tiếp cận đàm phán trong kinh doanh gồm có tiếp cận cạnh
tranh,tiếp cận hợp tác,tiếp cận tổng hợp,các giao dịch đàm phán có thể chia
thành giao dịch đàm phám một lần,nhiều lần,theo phương thức có thể là đàm
phán trực tiếp hay đàm phán gián tiếp,theo nội dung có thể chia thành đàm
phán về hàng hoá và giá cả,đàm phán về thuê phương tiện chuyên chở,đàm
phán về phương thức thanh toán ,về bảo hiểm v.v…Giao dịch dàm phán được
chia thành nhiều giao dịch như giao dịch qua thư tín,giao dịch đàm phán qua

các phương tiện truyền thông,qua gặp gỡ trực tiếp bênh cạnh đó nhà quản lý
kinh doanh của những doanh nghiệp cung cần phải có kỹ năng chuyên
môn,phong cách nghệ thuật trong đàm phán.
20
Nông Quang Chung Lớp KDQT K39
1.2.2.2 Ký kết hợp đồng:
Ký kết hợp đồng đợc coi là thời điểm quan trọng và mang tính bước
ngoặt giữa những yêu cầu,đòi hỏi,nghĩa vụ và trách nhiệm khi trở thành
những cam kết cụ thể.Những cam kết đó mang tính pháp lý cao nhất.Những
văn bản được hai bên ký kết với đầy đủ những nội dung cơ bản được coi là
hợp đồng sẽ có hiệu lực pháp lý.Do vậy ký kết hợp đồng không đơn thuần chỉ
là những xác nhận giữa hai bên mà còn được pháp luật thừa nhận nếu đáp ứng
đầy đủ các điều kiện hiệu lực của hợp đồng.Có nhiều hình thức ký kết hợp
đồng là ký kết hợp đồng trực tiếp và ký kế hợp đồng gián tiếp.Căn cứ vào số
lượt có thể chia thành ký kết hợp đồng một lượt hay ký kết hợp dồng nhiều
lượt.Ngoài các yêu cầu trên thì nhà kinh doanh cũng cần có phương án tổ
chức ký kết hợp đồng một cách linh hoạt và đạt tiến độ càng sớm càng tốt.
1.2.3 Tạo nguồn hàng xuất khẩu:
• Chuẩn bị hàng hoá xuất khẩu.
Theo những yêu cầu khách hàng đã đề ra doanh nghiệp đơn vị kinh
doanh thu mua hoặc tự sản xuất hàng bênh cạnh đó đảm bảo việc đóng gói và
kỹ mã hiệu hàng hoá.
• Thu gom tập trung làm thành lô hàng xuât khâu.
Việc thu gom hàng hoá hay tự sản xuất hàng hoá phải đáp ứng yêu cầu
của hợp đồng đã ký,doanh nghiệp cần tập trung hàng hoá để chuẩn bị cho
công việc xuất khẩu tiếp theo.việc tìm kiếm nguồn hàng trong nước cũng cần
có thời gian và tiến độ thích hợp để không ảnh hưởng đến tiến độ giao
hàng,chất lượng hàng hoá xuất khẩu được coi là yếu tố quan trọng nhất cho
thương vụ kinh doanh.Hàng sau khi thu mua trong nước cần bảo quản tốt và
phân thành lô hàng chuẩn bị xuất khẩu.

21
Nông Quang Chung Lớp KDQT K39
• Đóng gói bao bì hàng xuất khẩu ký mã hiệu hàng hoá
Đóng gói bao bì ký mã hiệu hàng hoá phục vụ cho xuất khẩu sẽ làm cho
các khâu về khai báo hải quan khai báo thuế được tiến hành tốt hơn hơn nữa
việc cung cấp chứng từ xuất xứ hàng hoá của nhà xuất khẩu sẽ đáp ứng yêu
cần của nhà nhập khẩu và những yêu cầu liên quan đến chất lượng hàng hoá
của doanh nghiệp.
• Kiểm tra chất lượng hàng hoá
Kiểm tra hàng về phẩm chất số lượng ,chất lượng,trọng lượng,bao
bì,nếu hàng xuất khẩu là động vật thì phải kiểm dịch,Kiểm tra chất lượng
hàng hoá trước khi xuất khẩu sẽ giúp cho doanh nghiệp tránh được việc sai
sót về chất lượng hàng hoá khi xuất khẩu tránh việc trả lại hàng của đối tác
khi không đảm bảo chất lượng hàng.
1.2.4 Thực hiện hợp đồng xuất khẩu:
a) Thư hỏi hàng: Thư hỏi hàng được chuyển đến Phòng Đối ngoại từ
đơn vị xúc tiến thương mại của Công ty, hoặc từ các nguồn khác. Trong khâu
này, cán bộ chú ý lưu thông tin về khách hàng.
b) Nghiên cứu yêu cầu và kiểm tra nguồn hàng: Cán bộ tổng hợp (thuộc
Phòng Khu vực thị trường) nghiên cứu kỹ các yêu cầu của khách hàng qua
thư hỏi hàng: mẫu mã, kích thước, bao bì đóng gói, điều kiện giao hàng. Kiểm
tra nguồn hàng trong nước: khả năng đáp ứng về số lượng, giá cả, thời gian và
chất lượng.
c) Lập bản chào hàng: Cán bộ tổng hợp lập bản chào hàng gửi cho khách
hàng. Nếu khách hàng yêu cầu gửi mẫu thì gửi mẫu theo quy trình gửi mẫu.
Sau khi gửi bản chào hàng và mẫu thì theo dõi phản hồi của khách hàng và
kịp thời đáp ứng yêu cầu bổ sung.
Các bước chào giá: Khi nhận được yêu cầu chào giá của khách hàng, cán
bộ tổng hợp cần tiến hành theo các bước:
22

Nông Quang Chung Lớp KDQT K39
Bước 1: Khảo sát thông tin từ Phòng nghiệp vụ
Bước 2: Làm bảng chào giá và gửi cho khách hàng. (Lưu ý: ghi thời gian
hiệu lực của giá)
d) Đàm phán và hoàn chỉnh hợp đồng (fax / email / trực tiếp): khi
chuẩn bị soạn thảo hợp đồng cán bộ tổng hợp cần phân loại:
- Đơn hàng đặt mẫu đã xác nhận:
Khi nhận được đơn hàng này, cán bộ tổng hợp cần:
+ Yêu cầu Phòng nghiệp vụ thông báo số khối và thời gian giao hàng cho
số lượng đặt hàng.
+ Làm hợp đồng và gửi cho khách.
- Đơn hàng đặt lại các mã cũ
Khi nhận được đơn hàng này, cán bộ tổng hợp cần:
+ Khảo sát lại giá nội và yêu cầu Phòng nghiệp vụ thông báo số khối,
thời gian giao hàng cho số lượng đặt hàng.
+ Kiểm tra lại giá ngoại đã chào.
+ Báo lại giá mới (nếu có thay đổi), đồng thời gửi hợp đồng cho khách
hàng.
e) Kiểm tra: Lãnh đạo Phòng Đối ngoại sẽ phải kiểm tra kỹ nội dung
hợp đồng trước khi trình lãnh đạo Tổng công ty hoặc người được uỷ quyền
ký. Nếu hợp đồng còn có những vấn đề cần sửa đổi hoặc đàm phán thêm thì
chuyển lại cho cán bộ tổng hợp hoàn chỉnh.
f) Ký duyệt: Lãnh đạo Tổng công ty hoặc người được uỷ quyền ký
duyệt hợp đồng đã được kiểm tra.
g) Tổ chức thực hiện hợp đồng:
- Khi triển khai thực hiện hợp đồng cần lưu ý một số vấn đề sau:
Khi nhận được hợp đồng khách đã ký xác nhận:
23

×