TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA THƯƠNG MẠI VÀ KINH TẾ QUỐC TẾ
BÁO CÁO TỔNG KẾT
ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CẤP TRƯỜNG
Tên đề tài: Sử dụng 5 ngoại tệ để giảm thiểu sự phụ thuộc vào đồng
USD trong thanh toán quốc tế của các DNTM Việt Nam thời kì hậu
khủng hoảng
Họ và tên sinh viên: PHẠM MINH ĐỨC
Giảng viên hướng dẫn: PGS.TS NGUYỄN THƯỜNG LẠNG
HÀ NỘI, NĂM 2011
1
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA THƯƠNG MẠI VÀ KINH TẾ QUỐC TẾ
BÁO CÁO TỔNG KẾT
ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CẤP TRƯỜNG
Tên đề tài: Sử dụng 5 ngoại tệ để giảm thiểu sự phụ thuộc vào đồng
USD trong thanh toán quốc tế của các DNTM Việt Nam thời kì hậu
khủng hoảng
Họ và tên sinh viên: Phạm Minh Đức
Chuyên ngành: Quàn Trị Kinh Doanh Thương Mại
Lớp: Thương Mại 50A
Khóa: 50
Hệ:Chính Quy
Giảng viên hướng dẫn: PGS.TS Nguyễn Thường Lạng
HÀ NỘI, NĂM 2011
2
Lời cam đoan
Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu và kết quả
trong bài là trung thực và chưa từng được công bố trong bất cứ công trình nào
khác.
Sinh viên thực hiện
Phạm Minh Đức
3
Chương mở đầu
-oOo-
1.1 Đặt vấn đề
Sau bốn năm kể từ ngày gia nhập WTO (2007) nền kinh tế Việt Nam đã có nhiều
khởi sắc đáng chú ý nhưng bên cạnh đó giá trị của đồng tiền Việt lại liên tục bị mất
giá. Mỗi năm VND mất giá 6%-8% so với đồng USD. Nguyên nhân chủ yếu là do
nguồn cung USD không đủ đáp ứng cầu thanh toán USD. Ngân hàng nhà nước
Việt Nam đề ra chính sách dự trữ khoảng 20 tỷ USD mỗi năm để giảm tác động
trượt giá của VND nhưng con số này vẫn là quá nhỏ. Số liệu mới đây nhất do bộ
Kế hoạch và đầu tư Việt Nam cho biết đến cuối năm 2010 con số này chỉ còn 10 tỷ
USD. Trong khi đó nhập khẩu của Việt Nam luôn ở mức cao 84 tỷ USD (2010).
Nếu chỉ đưa giải pháp tăng lượng dự trữ USD thì chúng ta liệu có đủ sức để điều
chỉnh tỉ giá trong nền kinh tế thị trường nhập siêu quá lớn như Việt Nam. Quan
trọng hơn đó không phải là vấn đề giải quyết triệt để sự chênh lệch cung-cầu USD
dẫn đến mất giá VND.
Hiện thực cho thấy, các doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt doanh nghiệp thương mại
sử dụng USD chủ yếu để thanh toán quốc tế. Trong lĩnh vực xuất nhập khẩu, số
lượng doanh nghiệp Việt Nam sử dụng đồng euro còn thấp so với giao dịch bằng
đồng USD, các đồng ngoại tệ khác như bảng Anh, yên Nhật dùng không đáng kể.
Cầu USD sẽ ngày càng tăng khi Việt Nam tiến xa hơn trong quá trình hoàn thiện
nền kinh tế thị trường. Sử dụng duy nhất một đồng tiền giao dịch khiến cho việc
thanh toán của các doanh nghiệp cũng thiếu đi tính linh hoạt đồng thời làm mất
thêm thời gian và chi phí cho các ngân hàng trung gian.Vì vậy các chính sách và
giải pháp cần phải đưa ra nhằm giúp các doanh nghiệp chủ động, linh hoạt và thuận
lợi trong các giao dịch thương mại quốc tế. Giải pháp nghiên cứu để khắc phục
4
thực trạng này đó là cần phải đa dạng hóa thanh toán ngoại tệ để tránh sự phụ thuộc
quá sâu sắc vào đồng USD, cùng với đó cả nền kinh tế sẽ giảm 1 lượng lớn về cầu
USD và gia tăng sức mạnh cho đồng nội tệ.
Cuộc khủng hoảng trầm trọng năm 2007 của nền kinh tế Mỹ cũng đã làm cho giá
trị của đồng USD bị sụt giảm so với các đồng ngoại tệ khác. Việt Nam cũng không
tránh khỏi sự ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng này. Trong đó phải kể đến hệ thống
tài chính và ngân hàng với khả năng giao dịch và thanh toán quốc tế bị giảm do
chính sách thắt chặt tiền tệ của Mỹ. Khủng hoảng cũng gây ra sự sụt giảm tài sản
do chính những quốc gia tích trữ lượng lớn đồng USD do giá USD giảm so với các
đồng ngoại tệ mạnh khác như EUR, GBP, JPY Đồng VND lâu nay vẫn dựa vào
USD nhưng khi cuộc khủng hoảng xảy ra thì kéo theo cả đồng VND tụt dốc. Như
vậy đồng tiền của Việt Nam đã bị tác động kép do hậu quả của tài chính toàn cầu.
Rủi ro này có thể sẽ hạn chế được nếu như chính phủ không để VND quá dựa vào
USD để định tỷ giá. Bài học này đã cho thấy việc phụ thuộc vào một đồng tiền sẽ
không thể phát triển bền vững và ổn định. Sử dụng nhiều ngoại tệ khác trong
thương mại sẽ giảm thiểu được rủi ro không chỉ với nền kinh tế đang phát triển của
Việt Nam mà còn cả tới các DN đặc biệt là các DN trong ngành XNK. Các DN
XNK là người đầu tiên phải hứng chịu những thay đổi bất thường của tỷ giá và
cũng là những DN bị ảnh hưởng nặng nề. Tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam
2010 vừa qua đạt 71.6 tỷ USD, nhập khẩu đạt 84 tỷ USD. Với khối lượng hàng hóa
cần thanh toán USD lớn như vậy thì các DN XNK rất nhảy cảm với những biến đổi
tỷ giá và đặc biệt là tỷ giá VNĐ/USD. Tỷ giá chỉ cần thay đổi nhẹ 100, 200đ cũng
có thể làm DN thiệt hại từ vài chục triệu cho đến hàng tỷ đồng. Các giao dịch USD
với khối lượng ngày càng lớn khiến cho các DN XNK ngày càng phụ thuộc vào
USD và bị ảnh hưởng của tỷ giá càng mạnh. Trong khi đó các giao dịch, thanh toán
bằng các ngoại tệ khác lại hạn chế. Điều này dẫn đến một nghịch lý trong thời điểm
từ cuối năm 2010 và đầu tháng 1/2011 USD giảm giá so với các đồng ngoại tệ
5
mạnh khác nhưng lại tăng giá so với đồng VNĐ vì cầu lớn và cung là NHNN
không đáp ứng đủ.
Trong tiến trình hội nhập với nền kinh tế thế giới, Việt Nam cần phải có những
quyết sách phù hợp với chính sách tiền tệ hợp lý để tạo ra được vị thế nhất định cho
nền kinh tế. Đồng thời với những chính sách vĩ mô của chính phủ thì các DN cũng
cần phải có những giải pháp thực tiễn cùng thực hiện và hỗ trợ các chính sách này.
Sự kết hợp giữa nhà nước và DN càng bền chặt và phục vụ lợi ích lẫn nhau sẽ làm
cho các chính sách phát huy hiệu quả và theo đó sẽ đem lại lợi ích lớn cho chính
các DN và cả nền kinh tế.Quá trình hội nhập và toàn cầu hóa sẽ có nhiều thách thức
khó khăn đối với nền kinh tế Việt Nam. Các DN XNK cũng là những DN đi đầu
trong tiến trình này nên cần phải có các giải pháp đối phó với hai khó khăn lớn của
năm 2011 đó là Lạm phát và vấn đề về tỷ giá. Nếu như DN không thể đối phó với
vấn đề tỷ giá một cách linh hoạt và hiệu quả thì khả năng canh tranh và phát triển
DN sẽ khó có thể đương đầu với các DN nước ngoài với vốn đầu tư lớn. Các DN
cần phải xây dựng chiến lược lâu dài cho sự linh hoạt về thanh toán, giao dịch tránh
phụ thuộc vào USD hay những biến động về tỷ giá của một đồng tiền mà cần phải
phân tán rủi ro vào nhiều ngoại tệ mạnh khác. Đề tài đưa ra phân tích những vấn đề
tồn đọng, khó khăn của DN NXK và những chính sách ngoại hối của VN để từ đó
đưa ra giải pháp thực tiễn, hiệu quả cho DN và gợi ý hoàn thiện chính sách ngoại
hối của chính phủ Việt Nam.
1.2 Mục tiêu của đề tài
Đề tài đưa ra nhằm giải quyết và đưa ra giải pháp cho các vấn đề chính như sau:
- Gợi ý và đưa ra giải pháp đa dạng ngoại tệ trong thanh toán quốc tế của các
doanh nghiệp TM Việt Nam. Dùng đến các ngoại tệ mạnh khác như EUR, JPY,
CNY…để giảm lượng cầu USD đang ngày càng lớn dần trong thương mại. Góp
phần giảm đáng kể vào việc mất giá của VND so với đồng USD, đưa vị thế nền
kinh tế lên tầm cao hơn, phát triển ổn định và bền vững hơn.
- Một số gợi ý cho chính sách quản lý ngoại hối của ngân hàng Việt Nam hiện
nay và các chính sách tiền tệ tác động đến nền kinh tế của chính phủ. Các gợi ý
6
này chủ yếu trọng tâm vào vấn đề đa dạng lượng ngoại tệ dự trữ của ngân hàng
nhà nước Việt Nam, cùng với đó là các chính sách vĩ mô của chính phủ nhằm
khuyến khích các doanh nghiệp góp phần vào việc đa dạng thanh toán ngoại tệ.
1.3 Đối tượng nghiên cứu :
- Nghiên cứu về các phương thức thanh toán quốc tế của doanh nghiệp thương
mại hiện nay kết hợp với đó đưa ra giải pháp đa dạng hóa thanh toán ngoại tệ
cho doanh nghiệp.
- Nghiên cứu về chính sách tiền tệ của ngân hàng nhà nước Việt Nam ảnh hưởng
đến nền kinh tế vĩ mô và đến các doanh nghiệp thương mại trong nước. Từ đó
đưa ra gợi ý, giải pháp cho chính sách của chính phủ nhằm mục đích hỗ trợ
doanh nghiệp thương mại trong lưu thông và thanh toán ngoại tệ.
1.4 Phạm vi và giới hạn nghiên cứu :
- Quá trình nghiên cứu và khảo sát chủ yếu trọng tâm vào các doanh nghiệp xuất
nhập khẩu với địa điểm là 3 tỉnh thành : Hà Nội , Đà Nẵng, thành phố Hồ Chí
Minh. Mục đích của nghiên cứu 3 tỉnh thành trên để quá trình nghiên cứu được
khách quan, thực tiễn và phù hợp với thực tế.
- Phạm vi kiến thức trong khuôn khổ các phương thức thanh toán quốc tế hiện
nay của Việt Nam, các chính sách về tiền tệ của chính phủ từ năm 2000 đến
nay, nghiên cứu kinh nghiệm và bài học của một số quốc gia thuộc Châu Á về
các giải pháp thanh toán ngoại tệ và chính sách tiền tệ.
- Số liệu được phân tích trong các bảng, biểu, mô hình được nghiên cứu trong
khoảng thời gian 10 năm từ 2000 đến năm 2010. Khoảng thời gian được chọn vì
năm 2007 có các chuyển biến lớn đối với nền kinh tế Việt Nam : hội nhập với
nền kinh tế thế giới, và chịu tác động của khủng hoảng tài chính Mỹ từ đó phân
tích, đo lường, đánh giá, nhận xét về chính sách tiền tệ, mức độ ảnh hưởng và sự
thay đổi giá trị của đồng USD.
1.5 Cấu trúc của đề tài :
Chương 1: Giới thiệu tổng quan về đề tài
Chương 2: Cơ sở lí luận
7
2.1 Các lý luận cơ bản về ngoại tệ
2.1.1 Khái niệm ngoại hối
2.1.2 Khái niện thị trường ngoại hối
2.2 Tỷ giá hối đoái
2.2.1 Khái niệm
2.2.2 Các nhân tố tác động đến tỷ giá
2.2.3 Các loại tỷ giá
Chương 3: Thực trạng thanh toán quốc tế của các DNTM
3.1 Nét cơ bản về DNTM VN:
3.2 Tình hình sử dụng ngoại tệ trong TTQT của DNTM
3.2.1
3.2.2. Huy động ngoại tệ từ NHNN
3.3 Diễn biến tỷ giá USD/VND từ 2007 đến nay
3.4 Chính sách ngoại hối tác động đến TTQT của DNVN
3.4.1 Các điều kiện tạo thuận lợi
3.4.2 Các mặt còn hạn chế
3.5 Phân tích các rủi ro ngoại tệ của DNTM VN và nền kinh tế
3.2.1 Đối với nền kinh tế
3.2.2 Đối với DNTM
Chương4: Gợi ý và giải pháp cho thanh toán quốc tế của DNTM và chính sách
ngoại hối của VN
4.1 Lựa chọn 5 đồng tiền : EUR, JPY, CNY, GBP, USD cho TTQT
4.2 Giải pháp đa dạng ngoại tệ thanh toán
4.2.1 Phân tích mô hình cung cầu ngoại tệ và tỷ giá
4.2.2 Tính toán đa dạng ngoại tệ cho DNTM
4.2.3 Sử dụng các công cụ phái sinh
4.3. Một số gợi ý với các chính sách quản lý ngoại tệ của NHNN VN
4.3.1 Áp dụng tỷ giá trung bình để xác định giá trị đồng nội tệ
4.3.2 Đa dạng việc gắn tỷ giá VND với các ngoại tệ mạnh khác
4.3.3 Các khuyến khích của Chính Phủ
Chương 5: Kết Luận.
8
Mục lục :
Danh mục từ viết tắt
Danh mục bảng biểu
Danh mục hình vẽ
9
Danh mục các chữ viết tắt :
DNTM : Doanh nghiệp thương mại
XNK : xuất nhập khẩu
NHNN : Ngân hàng nhà nước
NHTM : Ngân hàng Thương mại
BQLNH : Bình quân liên ngân hàng
ASEAN : Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
WTO : Tổ chức thương mại thế giới
EU : Liên minh châu Âu
GDP : Tổng sản phẩm quốc nội
10
CPI : chỉ số giá tiêu dùng
TTQT : thanh toán quốc tế
Chương 2 Cơ sở lí luận
2.1 Các lý luận cơ bản về ngoại tệ
2.1.1 Khái niệm ngoại hối:
Từ thời xa xưa, cùng với tiền trình phát triển kinh tế của mỗi dân tộc, cộng đồng dân
cư và mỗi nước, nhu cầu trao đổi, buôn bán hàng hóa và dịch vụ qua lại giữa họ ngày
một tăng lên. Do vậy đồng tiền của dân tộc, cộng đồng dân cư và nước này cũng được
làm phương tiện thanh toán và tích lũy ở các dân tộc, cộng đồng dân cư và các nước
khác khi có trao đổi, buôn bán qua lại giữa họ với nhau. Đồng tiền nước này tồn tại ở
nước khác thì gọi là ngoại hối.
11
Có nhiều nhà kinh tế có những định nghĩa khác nhau về ngoại hối, nhưng hầu hết đều
thống nhất chọn định nghĩa đơn giản về ngoại hối như sau: Ngoại hối ( ngoại tệ - tiền
nước ngoài) là đồng tiền của các nước ngoài tồn tại trong một nước khác. Ví dụ ở Việt
Nam các đồng tiền được gọi là ngoại hối như : đô la Mỹ, Yên Nhật, EURO… Đồng
tiền chỉ được gọi là ngoại hối khi đồng tiền đó được tiêu dùng, sử dụng ở bên ngoài
biên giới nước phát hành ra nó.
Ngoại hối ( ngoại tệ) được phân làm 2 loại: ngoại tệ mạnh và ngoại tệ bình thường.
Ngoại tệ mạnh là ngoại tệ được phát hành ở những nước có nền kinh tế mạnh và đồng
tiền đó có khả năng chuyển đổi cao và nhiều quốc gia sử dụng chung trong tích lũy,
tiêu dùng và thanh toán trong thương mại quốc tế… Ví dụ: Đô la Mỹ, EURO, bảng
Anh, yên Nhật…
2.1.2 Khái niệm thị trường ngoại hối
Thị trường ngoại hối là nơi diễn ra sự trao đổi các đồng tiền nước ngoài, nói một cách
khác là nơi diễn ra sự mua và bán các đồng tiền của các nước khác nhau trên thế giới.
Vào từng thới điểm, các chủ thể kinh tế mong muốn mua bán hoặc mua đồng tiền nước
này với nước khác, trên cơ sở cung và cầu ngoại tệ, tức là xác định giá của đồng tiền
này so với đồng tiền khác.
Thị trường ngoại hối có đặc tính hết sức riêng biệt, đó là đặc tính toàn cầu. Thị trường
này ẩn chứa nhiều rủi ro. Một trong những chức năng chủ yếu chủa thị trường này là
cho phép các tổ chức kinh tế quản lý được rủi ro hối đoái do biến động rủi ro ngoại hối
gây ra. Thị trường ngoại hối là thị trường quan trọng bậc nhất trong các thị trường,
trong đó thong tin được truyền đi nhanh chóng và các giao dịch được thực hiên không
vấp phải cản trở nào. Các giao dịch ngoại hối ( ví dụ như đồng Đô la Mỹ, bảng Anh…)
có thể tiến hành ở Paris, London, New York trên cơ sở cung và cầu ngoại tệ và có thể
được thực hiện qua điện thoại, điện tín hoặc hệ thốn vi tính, nó cho phép ghi nhận và
thực hiện giao dịch một cách nhanh chóng. Thị trường ngoại hối giống như một thị
trường mạng lưới, nó vượt qua biên giới 1 quốc gia.
12
2.2 Tỷ giá hối đoái
2.2.1 Khái niệm
Theo quan điểm kinh tế học, tỷ giá hối đoái là một phạm trù kinh tế quan trọng trong
thương mại quốc tế, là công cụ đo lường giá trị tương đối giữa các đồng tiền, và là
phương tiện cạnh tranh hữu hiệu của các quốc gia trong thương mại, đầu tư quốc tế. Tỷ
giá ảnh hưởng tới giá cả và tác động đến các hoạt động kinh tế xã hội trong và ngoài
nước.
Theo các nhà kinh doanh, tỷ giá hối đoái là sự so sánh mối tương quan giá trị giữa hai
đồng tiền phát sinh từ các hoạt động liên quan đến hoạt động kinh tế đối ngoại. Hoặc,
tỷ giá là gía của một đồng tiền được biểu thị bằng số lượng đơn vị tiền tệ khác. Chẳng
hạn, 1EUR = 1,4090 USD.
2.2.2 Các nhân tố tác động đến tỷ giá
Trong nền kinh tế thị trường, tỷ giá được điều tiết bởi quan hệ cung - cầu tiền tệ.
Các nhân tố ảnh hưởng đến cung - cầu ngoại tệ chính là các yếu tố tác động đến tỷ giá
hối đoái. Trong nền kinh tế thị trường, tỷ giá bị tác động bởi các nhân tố:
• Hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá, dịch vụ
Cầu ngoại tệ của một quốc gia bắt nguồn từ nhu cầu nhập khẩu và cung ngoại tệ
trong nền kinh tế xuất phát từ khả năng xuất khẩu của quốc gia đó. Nói cách khác,
cung cầu ngoại tệ trong nền kinh tế được quyết định bởi tổng kim ngạch xuất, nhập
khẩu hàng hoá, dịch vụ trong kỳ. Nếu giá trị nhập khẩu tăng nhanh hơn mức tăng giá
trị xuất khẩu thì cầu ngoại tệ sẽ tăng nhanh hơn cung. Kết quả ngoại tệ lên giá. Và
ngược lại, khi cán cân thanh toán của quốc gia thặng dư, cung ngoại tệ trong nền kinh
tế dồi dào sẽ tạo áp lực ép ngoại tệ giảm giá.
13
Để ổn định giá trị bản tệ, chính phủ các nước luôn sử dụng nhiều biện pháp gia
tăng kim ngạch xuất khẩu, hạn chế giá trị nhập khẩu.
• Chuyển tiền một chiều
Chuyển tiền một chiều bao gồm các khoản viện trợ không hoàn lại, chuyển lợi
nhuận, trả lãi, thanh toán tiền thuê, kiều hối, chi phí du học v.v. Các hoạt động này
tạo nên các luồng tiền chuyển ra hoặc chuyển vào quốc gia, làm thay đổi cung cầu
ngoại tệ và tác động đến tỷ giá hối đoái. Nếu một quốc gia có khoản chuyển tiền vào
trong nước lớn hơn các khoản phải chuyển ra nước ngoài, cung ngoại tệ sẽ tăng. Kết
quả là bản tệ lên giá. Ngược lại, các quốc gia có khoản chuyển tiền ròng ra quốc tế, cầu
ngoại tệ của các nước này sẽ tăng và bản tệ giảm giá.
• Đầu tư quốc tế
Đầu tư nước ngoài bao gồm các khoản đầu tư trực tiếp, đầu tư gián tiếp và các khoản
vay mượn quốc tế. Khi nhận được một khoản đầu tư của nước ngoài, cung ngoại tệ của
quốc gia nhận vốn sẽ gia tăng. Ngược lại, khi các nhà đầu tư trong nước chuyển vốn ra
nước ngoài kinh doanh, cầu ngoại tệ của quốc gia chuyển vốn sẽ tăng. Vì vậy, trong
điều kiện các nhân tố khác không đổi, giá trị bản tệ của một quốc gia sẽ tăng nếu quốc
gia đó có luồng vốn đầu tư ròng vào trong nước; và bản tệ của một quốc gia sẽ giảm
giá khi quốc gia này có khoản đầu tư ròng ra nước ngoài.
Bên cạnh sự tác động của lượng vốn đầu tư, tỷ giá hối đoái còn bị ảnh hưởng bởi tỷ
suất sinh lời của vốn đầu tư, cũng như độ rủi ro của các nước nhận vốn đầu tư. Đây là
các yếu tố đóng vai trò quyết định hiệu quả của vốn đầu tư.
• Lạm phát
Lạm phát tác động trực tiếp đến giá trị hàng hoá xuất nhập khẩu, làm ảnh hưởng đến
tính cạnh tranh của quốc gia trên thị trường thế giới, qua đó làm thay đổi tỷ giá hối
đoái. Thật vậy, nếu tốc độ lạm phát của một quốc gia cao hơn các nước khác, hàng
xuất tính bằng ngoại tệ của nước này sẽ trở nên đắt hơn, hậu quả là khả năng cạnh
tranh của quốc gia trong thương mại quốc tế giảm sút. Điều này đồng nghĩa với cung
ngoại tệ giảm. Đối với nhập khẩu, giá trị nhập khẩu tăng nhẹ (do yếu tố lạm phát ở
14
nước ngoài), nhưng mức tăng giá của hàng nhập thấp so với mức tăng giá của hàng hoá
trong nước (do tỷ lệ lạm phát trong nước cao hơn nước ngoài), nên cầu hàng nhập
không giảm. Mặt khác, trong ngắn hạn, người tiêu dung trong nước chưa kịp thay đổi
thói quen sử dụng, các doanh nghiệp nội địa chưa kịp sản xuất hàng thay thế hàng
nhập; do đó, nền kinh tế buộc phải trả một lượng ngoại lệ nhiều hơn để nhập hàng. Hậu
quả là cầu ngoại tệ gia tăng, Cung ngoại tệ giảm, cầu ngoại tệ tăng sẽ tạo áp lực đẩy
ngoại tệ lên giá, kéo bản tệ hạ giá. Ngoài ra, khi tỷ lệ lạm phát của một nước tăng cao
hơn các quốc gia khác, sức mua của bản tệ giảm giá so với ngoại tệ. Theo học thuyết
ngang bằng sức mua, bản tệ sẽ giảm giá; và ngược lại, giá trị bản tệ sẽ gia tăng nếu tỷ
lệ lạm phát của quốc gia thấp hơn tỷ lệ lạm phát của nước có đồng tiền đối ứng. Tóm
lại, đồng tiền của quốc gia có tỷ lệ lạm phát cao hơn sẽ bị giảm giá so với đồng tiền
của quốc gia có tỷ lệ lạm phát thấp hơn, và ngược lại.
• Các chính sách kinh tế, tài chính quốc gia.
Sau khi hệ thống tiền tệ Bretton Woods bị thất bại, Qũy Tiền tệ quốc tế đã họp bàn về
cơ chế hoạt động của IMF và hệ thống tiền tệ quốc tế tại Jamaica vào tháng 1/1976.
Một trong những vấn đề then chốt của Thỏa ước này là ngân hàng trung ương được
quyền can thiệp vào thị trường ngoại hối nhằm điều tiết sự biến động của tỷ giá. Ngoài
ra, do tỷ giá là một trong các công cụ của chính sách tài chính- tiền tệ của chính phủ,
nên ngoài việc chịu điều tiết bởi cung cầu tiền tệ, tỷ giá còn chịu tác động bởi mục tiêu
của các chính sách kinh tế, tài chính của quốc gia trong từng thời kỳ nhất định. Trên
thế giới, hầu hết các chính phủ đều tác động trực tiếp hay gián tiếp đến tỷ giá hối đoái.
• Yếu tố tâm lý
Lòng tin của công chúng vào giá trị của đồng tiền nói riêng và vào chính sách kinh tế,
tiền tệ của chính phủ nói chung đóng một vai trò quan trọng trong việc nghiên cứu tỷ
giá. Lòng tin của công chúng là yếu tố phức tạp và rất khó đo lường. Khi người dân lo
sợ về sự ổn định của nền kinh tế (có hoặc không có cơ sở), họ luôn tìm cách đẩy đồng
bản tệ ra lưu thông hoặc chuyển nó thành ngoại tệ, bất động sản, hoặc hàng hoá v.v
Việc làm này được diễn ra nhanh chóng với một khối lượng chuyển đổi rất lớn, tạo cơn
15
sốt giả tạo về ngoại tệ, đẩy ngoại tệ tăng giá và kéo bản tệ giảm giá. Gía trị bản tệ ổn
định, tỷ giá ít biến động là điều mà mọi chính phủ đều mong ước trong quá trình thiết
lập và thực hiện chính sách tiền tệ.
Tóm lại, tỷ giá bị tác động bởi nhiều yếu tố của nền kinh tế như tình hình xuất
nhập khẩu, lạm phát, đầu tư nước ngoài, chính sách kinh tế- tài chính của chính phủ
v.v Tỷ giá là chỉ tiêu tổng hợp phản ảnh hoạt động và sức khỏe của nền kinh tế, là
một công cụ linh hoạt và nhạy cảm của chính sách tài chính – tiền tệ; do vậy, trong quá
trình vận hành, tỷ giá luôn tác động ngược lại nhằm thúc đẩy hoặc kiềm chế sự phát
triển của các nhân tố trên. Chính mối quan hệ biện chứng này đã làm cho việc điều
hành và thực hiện cơ chế tỷ giá của chính phủ trong từng thời kỳ trở nên khó khăn,
phức tạp.
2.2.3 Các loại tỷ giá
1. Tỷ giá thực và tỷ giá danh nghĩa:
a. Tỷ giá danh nghĩa (Nominal Exchange Rate).
Tỷ giá danh nghĩa là tỷ lệ trao đổi số lượng tuyệt đối giữa hai đồng tiền. Hay, tỷ giá
danh nghĩa là giá cả của một đồng tiền được biểu thị thông qua đồng tiền khác. Trong
thực tế, tỷ giá danh nghĩa được niêm yết công khai trên các phương tiện thông tin đại
chúng hoặc tại các tổ chức kinh doanh tiền tệ. Chẳng hạn, bảng yết giá của Ngân hang
Ngoại thương là S (VND/USD) = 19.450- 19.500. Điều này có nghĩa, giá mua USD
trao ngay của ngân hàng là 19.450 VND/USD, giá bán USD trao ngay là 19.500
VND/USD.
b. Tỷ giá thực (Real Exchange Rate)
Tỷ giá thực đo lường giá cả tương quan của hàng hoá giữa hai quốc gia. Tỷ giá thực
được xác định bằng cách so sánh giá quốc tế của hàng hoá được tính bằng đồng tiền
yết giá với giá trong nước của hàng hoá được tính bằng đồng tiền định giá. Tương quan
giữa tỷ giá thực và tỷ giá danh nghĩa được biểu diễn bằng công thức sau:
16
E* (i/j) = E(i/j) Pj/Pi
Trong đó:
• E* (i/j): Tỷ giá thực của đồng tiền i và j; với j là đồng yết giá, i là đồng định giá.
• E (i/j) : Tỷ giá danh nghĩa của đồng tiền i và j.
• Pj : Gía hàng hoá tại nước phát hành đồng tiền j.
• Pi : Gía hàng hóa tại nước phát hành đồng tiền i.
Nói cách khác, tỷ giá thực bằng tỷ giá danh nghĩa nhân với tỷ số giữa mức giá cả hang
hoá ở hai nước. Vì vậy, khi phân tích sự biến động của tỷ giá thực, các nhà nghiên cứu
không chỉ quan tâm tới tỷ giá danh nghĩa mà còn lưu ý đến sự thay đổi giá cả hàng hoá
nữa. Trong nền kinh tế, tỷ giá thực có thể được sử dụng để phân tích khả năng cạnh
tranh trong thương mại quốc tế của các quốc gia.
3 Tỷ giá song phương và tỷ giá trung bình.
a. Tỷ giá song phương - (Bilateral Exchange Rate)
Tỷ giá của hai đồng tiền bất kỳ được gọi là tỷ giá song phương. Sự thay đổi của
tỷ giá song phương thể hiện sự lên hoặc xuống giá của đồng tiền này so với đồng tiền
kia. Trên thị trường hối đoái, giá trị của một đồng tiền được đo lường bằng nhiều lượng
đồng tiền khác. Nói cách khác, tại cùng một thời điểm, trong cùng một thị trường, luôn
tồn tại nhiều tỷ giá song phương của một đồng tiền với nhiều đồng tiền khác.
Ngày nay, trên Thế giới có trên 170 đồng tiền; như vậy, mỗi đồng tiền có thể có
trên 170 tỷ giá song phương. Một câu hỏi được đặt ra là, tại một thời điểm nhất định,
trong một thị trường nhất định, làm thế nào biết được một đồng tiền đang lên giá hay
xuống giá. Nếu sử dụng trên 170 tỷ giá song phương để tính giá trị của một đồng tiền
thì quá phức tạp và không cần thiết. Để giải quyết vấn đề này, các nhà kinh tế đã tìm ra
một giải pháp hữu hiệu, đó là tỷ giá trung bình.
b. Tỷ giá trung bình- Effective Exchange Rate
Cách xác định tỷ giá trung bình tương tự cách tính chỉ số giá trung bình. Tỷ giá
trung bình được tính dựa vào sự thay đổi giá trị của một đồng tiền so với một rổ đồng
17
tiền chuẩn. Thông thường tỷ giá trung bình được xác định dựa trên tỷ giá danh nghĩa
song phương; trong trường hợp này, nó được gọi là tỷ giá trung bình danh nghĩa. Bên
cạnh tỷ giá danh nghĩa, các nhà kinh tế còn nghiên cứu tỷ giá thực- tỷ giá thực song
phương.
Ngoài các cách phân loại tỷ giá như trên, trong thị trường hối đoái, tỷ giá còn
được chia thành tỷ giá bán, tỷ giá mua; tỷ giá kỳ hạn, tỷ giá trao ngay, tỷ giá hoán đổi;
tỷ giá chính thức, tỷ giá tự do; tỷ giá chuyển khoản, tỷ giá tiền mặt; tỷ giá đóng cửa, tỷ
giá mở cửa v.v
Chương 3
Thực trạng thanh toán quốc tế của các DNTM
-oOo-
3.1 Nét cơ bản về DNTM VN:
DNTM là một phạm trù rộng nên đề tài chủ yếu nghiên cứu về các DNTM hoạt
động trong lĩnh vực XNK cùng với các giao dịch quốc tế. Do tiến trình hội nhập ngày
càng sâu rộng nên sự phát triển của các DN TM cũng ngày càng đa dạng. Các DNTM
cũng được hưởng ưu đãi từ các chính sách của chính phủ về thuế, về hạn ngạch, nới
lỏng quản lý, hỗ trợ lãi suất…DNTM đã góp phần đẩy nhanh sự hiện đại hóa, công
nghiệp hóa của đất nước cùng với việc trao đổi hàng hóa đáp ứng nhu cầu ngày càng
18
tăng cao cả về số lượng và chất lượng. Người tiêu dùng trong nước đã được hưởng
những hàng hóa nước ngoài với giá trị cao hơn, nâng cao mức sống tiêu dùng của
người dân lên nhiều bậc. Các DNTM lưu thông hàng hóa trong nước và nước ngoài,
tạo thu nhập lớn cho nền kinh tế. Số liệu do Tổng cục thống kê năm 2010 Tổng kim
ngạch xuất khẩu trị giá 71.6 tỷ USD, kim ngạch nhập khẩu đạt 84 tỷ USD . Nhập khẩu
Việt Nam tăng trưởng mạnh từ 25% - 30%/ năm . Giải thích cho sự nhập siêu ngày
càng tăng của Việt Nam có hai nguyên nhân chính : Việt Nam gia nhập các tổ chức
ASEAN, WTO tạo thuận lợi cho các DN Việt Nam và nước ngoài đẩy mạnh lưu thông
hàng hóa và dịch vụ, các DN Việt Nam mở rộng thị trường, quy mô nhưng vấn đề
nguyên vật liệu, máy móc vẫn phải nhập khẩu từ nước ngoài, thu nhập của người dân
ngày càng tăng dẫn đến nhu cầu các sản phẩm, dịch vụ có chất lượng cao từ nước
ngoài ví dụ như : oto, xe gắn máy, mỹ phẩm, thời trang, dược phẩm,…Đây cũng là một
hệ quả tích cực từ khi Việt Nam mở cửa thị trường, gia nhập ASEAN, WTO. Song
cũng xuất phát một vấn đề lớn với chính phủ đó là việc quản lý nguồn ngoại tệ một
cách hiệu quả, phục vụ cho nhu cầu rất lớn của các hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu
như hiện nay.
Kim
ngạch
2005 2006 2007 2008 2009 2010
Nhập
khẩu
36.7 44.4 60.8 80.4 68.8 84
Xuất
Khẩu
32.2 39.6 48.4 62.9 56.6 71.6
3. 2 Tình hình sử dụng ngoại tệ trong TTQT của các DNTM:
Theo số liệu của Bộ Công Thương nhập siêu năm 2010 ước tính là 12.375 tỷ USD,
bằng 17,27% kim ngạch xuất khẩu. Chính phủ đã đưa ra nhiều chính sách để hạn chế
19
nhập siêu cùng với việc phát động phong trào “ Người Việt dùng hàng Việt”. Nhập
khẩu vẫn tiếp tục tăng một phần do mức sống của người dân ngày càng tăng dẫn đến
nhu cầu ngày càng cao và đa dạng. Các ngành công nghiệp vẫn là những đơn vị chủ
lực trong nhập khẩu. Các mặt hàng nhập khẩu phục vụ thiết yếu cho sản xuất, chế biến
như : nguyên vật liệu, máy móc thiết bị, xăng dầu, khí đốt chiếm 70% tổng kim ngạch
nhập khẩu. Nền kinh tế Việt Nam đang phát triển theo hướng công nghiệp hóa, hiện
đại hóa nên không thể tránh khỏi nhập máy móc, thiết bị, công nghệ của nước ngoài.
Nguồn lực và vấn đề công nghệ trong nước vẫn đang rất hạn hẹp và chưa có sự phát
triển mang tính cách mạng. Chính vì vậy việc phụ thuộc vào nước ngoài và các sản
phẩm nhập khẩu vẫn đặt ra bài toán nan giải nhập siêu của Việt Nam. Hệ quả của vấn
đề nhập siêu là dẫn đến lượng cầu USD rất lớn từ các DN nhập khẩu. Trong khi đó
nhập khẩu các hàng hóa từ Mỹ năm 2010 chỉ đạt gần 3.8 tỷ USD chiếm 4.48% so với
tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam song tỷ lê các giao dịch thanh toán bằng USD
lại chiếm một phần rất lớn. So với các thị trường lớn như Nhật, Trung Quốc hay EU thì
kim ngạch nhập khẩu gấp nhiều lần ( Nhật gấp 3 lần, Trung Quốc gấp 7 lần, EU gấp 2
lần) nhưng cầu ngoại tệ từ các quốc gia hay liên minh này lại không cao. Chính điều
này đã gây nên sức ép đối với nguồn cung ngoại tệ của chính phủ thời gian qua. Sức ép
này đã dẫn đến NHNN không cung cấp đủ ngoại tệ cho DN, tạo đà cho thị trường tự do
đẩy tỷ giá lên cao. Đây là một vấn đề không hợp lý trong việc thanh toán quốc tế của
các DNTM VN hiện nay. Hệ quả của nó là việc gây thiệt hại cho chính những DNTM
và đồng thời kéo theo cả nền kinh tế trượt giá theo, thị trường tài chính bất ổn. Nguyên
nhân khách quan và chủ quan đến từ phía DN : có những DN từ lâu đã quen với việc
thanh toán bằng USD nên việc chuyển đổi sang các ngoại tệ khác không phải đơn giản
với DN, phía khách quan là từ các đối tác nước ngoài đều yêu cầu thanh toán ngoại tệ
bằng USD do đồng tiền này vẫn là đồng tiền thanh toán phổ biến trên thế giới. Nếu chỉ
một phần từ phía DN thay đổi những thói quen, thông lệ thanh toán của mình thì sẽ rất
khó khăn và cần một khoảng thời gian dài. Nhưng nếu vấn đề này có cả sự nỗ lực của
20
DN và đồng thời có sự hỗ trợ, thúc đẩy của chính phủ thì bài toán về tỷ giá và ngoại tệ
của Việt Nam sẽ phần nào được giải quyết.
Nước Kim ngạch nhập khẩu ( đơn vị : tỷ USD)
Mỹ 3,766
Nhật 9,016
Trung Quốc 20,018
EU 5,907
Các thị trường khác 45,293
( nguồn Tổng cục Thống Kê)
( nguồn Tổng cục Thống Kê)
21
3.2.2 Huy động ngoại tệ từ Ngân hàng
Theo quy định của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) trong Thông tư số 07/2011/TT-
NHNN vừa ban hành, ngày 6/5 tới đây, NHNN sẽ áp dụng cơ chế cho vay ngoại tệ
mới. Theo đó, khách hàng vay vốn bằng ngoại tệ phải đảm bảo có nguồn vốn ngoại tệ
đối ứng để trả nợ khi đáo hạn. Như vậy có thể thấy, ở cơ chế mới, NHNN đã đưa ra
yêu cầu các nhu cầu vay vốn phải đảm bảo và chứng minh được nguồn ngoại tệ đối
ứng để trả nợ, cũng như tiếp tục áp điều kiện để hướng đến các quan hệ tín dụng tái tạo
được ngoại tệ.
Trước thông tin này, nhiều doanh nghiệp (DN) tỏ ý lo lắng bởi trước giờ họ vốn đã khó
tiếp cận nguồn vốn này, nay lại quy định chặt hơn. Một DN kinh doanh ngành thép cho
biết, khoảng 70% chi phí đầu vào ngành phải thanh toán bằng ngoại tệ.
Tuy nhiên, việc vay USD từ NH hiện rất khó khăn. Nhiều NH dù niêm yết tỷ giá công
khai nhưng lại có những điều kiện ràng buộc, buộc DN phải vay USD theo tỷ giá thỏa
thuận. Để vay được, DN cũng phải chứng minh khả năng sử dụng vốn, tài sản đảm bảo
với nhiều tiêu chí ngặt nghèo. Cũng vì thế mà nhiều chuyên gia cho rằng, sự mạnh tay
của NHNN sẽ tác động tích cực và lâu dài đến thị trường.Tuy nhiên, với những DN
hằng ngày phải đối mặt với bài toán vốn vay, lợi nhuận thì quy định mới này, dù ít hay
nhiều, đều có ảnh hưởng đến sản xuất - kinh doanh của họ.
Theo nhận định thì cung - cầu vốn USD giữa DN với NH trước nay vốn đã không được
cải thiện, một khi quy định mới thực thi thì việc tiếp cận nguồn vốn sẽ càng khó khăn.
Sẽ có những DN cần vay vốn nhưng không thể đáp ứng được yêu cầu khiến kinh
doanh bị trì trệ. Bên cạnh đó sẽ nảy sinh tâm lý găm giữ ngoại tệ của một số DN. Bởi
lẽ, nếu vay USD khó, các DN này khi có nguồn thu về họ sẽ tăng xu hướng găm giữ
thay vì bán lại cho NH. Điều này sẽ khiến cho nguồn cung trên thị trường suy giảm,
đẩy giá tăng, hình thành vòng luẩn quẩn, gây khó cho cả DN lẫn NH.
22
3.2 Diễn biến của tỷ giá USD/VNĐ từ 2007 đến nay:
Khác với giai đoạn trước, từ năm 2007 đến nay, biểu đồ tỷ giá VND/USD chuyển biến
liên tục và đầy kịch tính. Từ cuối năm 2006, lần đầu tiên trong điều hành tỷ giá, các
NHTM niêm yết tỷ giá VND/USD ở mức thấp nhất (giá sàn). Nguyên nhân của hiện
tượng này là nguồn cung USD tăng vọt chủ yếu từ nguồn vốn đầu tư gián tiếp nước
ngoài vào thị trường chứng khoán Việt Nam. Tỷ giá giảm làm gia tăng nhập khẩu, hạn
chế xuất khẩu, cán cân thương mại bị thâm hụt. Để cải thiện cán cân thương mại,
NHNN buộc phải điều chỉnh tỷ giá.
( nguồn NHNN chi nhánh tại tp Hồ Chí Minh)
23
Thực tế, những ngày đầu năm 2007, NHNN đã tăng cường mua vào USD để gia tăng
quỹ dự trữ ngoại hối. Tuy nhiên mặt trái của việc làm này là chỉ số lạm phát có dấu
hiệu gia tăng do cung tiền tăng lớn.Những tháng cuối năm, tỷ giá làm giảm mạnh mà
nguyên nhân của nó cũng chính là từ nguồn vốn đầu tư nước ngoài đầu tư vào thị
trường bất động sản của Việt Nam. Đối phó với áp lực giảm giá USD, NHNN đã nới
rộng biên độ xác định tỷ giá kinh doanh từ +/- 0.5% lên +/- 0.75%. Tỷ giá bình quân
trên thị trường liên ngân hàng năm 2007 cả năm chỉ tăng 0.08%.
Sang đầu năm 2008, biến động tỷ giá lại tương tự như những tháng đầu năm 2007.
NHNN đã 3 lần điều chỉnh biên độ xác định tỷ giá kinh doanh từ +/- 0.75% lên +/- 1%,
+/-2% rồi +/-3%. Tuy nhiên tỷ giá vẫn luôn bị cứng nhắc. Quý 1 năm 2008, trước tình
hình VND tăng giá so với USD, NHNN đã phải điều chỉnh giảm tỷ giá bình quân liên
ngân hàng, tỷ giá vào cuối tháng 3/2008 là 15.960 VND/USD so với mức 16091
VND/USD vào cùng kỳ tháng 1/2008, đồng thời nâng biên độ giao dịch lên mức ±1%.
Lúc này, hấu hết NHTM phải mua bán tại mức giá sàn, thậm chí tỷ giá tại thị trường tự
do thấp hơn giá giao dịch tại thị trường chính thức. Tỷ giá giảm một lần nữa tác động
xấu đến cán cân thương mại. Sang quý 2 năm 2008, tỷ giá bình quân liên ngân hàng
tăng lên 16541 VND/USD vào cuối tháng 6/2008, tỷ giá giao dịch tại các NHTM lại
đụng trần, tỷ giá trên thị trường tự do tăng tới mức 19,400 VND/USD (giữa tháng
6/2008), khoảng cách chênh lệch giữa tỷ giá chính thức và tỷ giá chợ đen lên tới trên
2000 đồng.Những biến động bất lợi từ các yếu tố nội sinh lẫn ngoại sinh đã làm tỷ lệ
lạm phát 6tháng đầu năm 2008 tăng vượt trội, chỉ số CPI có thời điểm trên 20%. Để
kiềm chế lạm phát, NHNN buộc phải thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt nhằm giảm
lượng tiền trong lưu thông như: phát hành 20.300 tỷ VND trái phiếu bắt buộc. So với
năm 2007, VND bị mất giá 1,68%.
Năm 2009, thị trường ngoại tệ diễn biến hết sức căng thẳng. Nguyên nhân của hiện
tượng này trước hết là dòng vốn nước ngoài như FDI, FII, ODA, kiều hối đều giảm do
24
nền kinh tế toàn cầu suy giảm vì cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008. Một nguyên
nhân góp phần đáng kể căng thẳng USD trong giai đoạn này là tác động tiêu cực của
gói kích cầu thông qua hỗ trợ lãi suất 4% của Chính phủ. Với chính sách này, lãi suất
vay VND giảm một cách tương đối so với vay USD. Các doanh nghiệp nhập khẩu thay
vì vay USD đã tăng cường vay VND sau đó mua USD thanh toán hàng nhập khẩu.
Điều này làm tăng cầu vốn bằng VND và làm khan hiếm USD trong nền kinh tế. Trong
khi đó, nguồn cung USD từ các doanh nghiệp xuất khẩu lại hạn chế. Do kỳ vọng USD
tăng giá nên các nhà xuất khẩu găm giữ USD trên tài khoản. Cung USD giảm, cầu
USD tạo áp lực tăng tỷ giá. Trước tình thế này, NHNN quyết định nâng biên độ giao
dịch lên mức ±5% (24/3/2009) và sau đó giảm xuống ± 3% (26/11/2009). Tỷ giá mua
bán niêm yết tại các NHTM luôn trong tình trạng bằng nhau và tăng kịch trần biên độ
cho phép. Tỷ giá BQLNH trong suốt 9 tháng đầu năm 2009 được NHNN giữ gần như
là cố định, tỷ giá BQLNH cuối tháng 9/2009 chỉ tăng 0.08% so với cuối tháng 1/2009.
Trong khi đó, tỷ giá trên thị trường tự do liên tục tăng mạnh, ba tháng cuối năm 2009,
hoạt động mua bán ngoại tệ trên thị trường tự do nóng nhất từ trước tới nay, thời điểm
giữa tháng 11, tỷ giá được điều chỉnh hàng giờ. Khoảng cách chênh lệch giữa tỷ giá
chính thức và tỷ giá chợ đen trong thời gian này lớn, trung bình khoảng 1,500
VND/USD.
Năm 2010, USD lại tiếp tục căng thẳng, giá mua bán USD tại các NHTM luôn chạm
trần. Sau một thời gian dài không điều chỉnh tỷ giá BQLNH, ngày 11/2/2010, NHNN
đã bất ngờ tăng giá USD 3%. Mặc dù tăng tỷ giá nhưng áp lực về cầu USD vẫn không
giảm. Tình trạng găm giữ ngoại tệ vẫn không suy giảm. Nhiều NHTM không cân đối
được nguồn ngoại tệ đã buộc phải thương lượng giá với bên cung rồi cộng thêm khoản
phí vào giá bán USD cho người có nhu cầu mua ngoại tệ. Tỷ giá bị chèn ép. Ngày
17.8.2010, lần thứ hai trong năm, NHNN điều chỉnh USD tăng 2%. Tỷ giá bình quân
liên ngân hàng từ 18.544 đã tăng lên 18.932 VND/USD. Các NHTM được phép mua
bán USD ở mức giá 19500 VND/USD, tăng 400VND/USD so với ngày 17.8.10. Việc
25