Tải bản đầy đủ (.pdf) (96 trang)

Định hướng chiến lược cho thu hút Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam thời kỳ sau khủng hoảng và suy thoái kinh tế thế giới 2008-2009

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (884.28 KB, 96 trang )



BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƢƠNG
---------0o0---------

Đề tài tham dự cuộc thi
“Sinh viên nghiên cứu khoa học đại học ngoại thƣơng năm 2009”

Tên đề tài:
Định hƣớng chiến lƣợc cho thu hút Đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài tại Việt Nam
thời kỳ sau khủng hoảng và suy thoái kinh tế thế giới 2008-2009

Giáo viên hƣớng dẫn: PGS – TS Vũ Chí Lộc
Chủ tịch Hội đồng nhà trường
Sinh viên thực hiện:
1. Hoàng Tuấn Anh (chịu trách nhiệm chính)
Lớp: A9 Khoá: 47 Khoa: Tài chính Ngân hàng
2. Nguyễn Lan Anh
Lớp: A6 Khóa: 47 Khoa: Tài chính Ngân hàng


Hà Nội, tháng 7 năm 2010



ii

LỜI CẢM ƠN



-

- Giáo sư – Tiến sỹ Vũ Chí Lộc, giáo viên trực tiếp hướng dẫn chúng tôi trong quá
trình nghiên cứu.
- Câu lạc bộ YRC và các thầy cô, bạn bè trong Khoa Tài chính Ngân hàng, Trường
Đại học Ngoại thương Hà Nội đã nhiệt tình ủng hộ và giúp đỡ chúng tôi.
Nhóm thực hiện
Hoàng Tuấn Anh, Nguyễn Lan Anh
Hà Nội, tháng 7 năm 2010



iii

DANH MỤC BIỂU ĐỒ, HÌNH VẼ
Biểu đồ 1.1 : Tăng trưởng thương mại thế giới về trao đổi hàng hóa và dịch vụ (%),
2000-2007
Biểu đồ 1.2 : FDI nhập các quý từ năm 2007 đến 2009 của Thế giới và khu vực
Bảng 3.1 : Danh sách các công ty, tập đoàn lớn nhất Nhật Bản
Bảng 3.2 : Danh sách các công ty, tập đoàn lớn nhất Hàn Quốc



iv

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
APEC Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương
ARM Vay thế chấp lãi suất thả nổi
ASEAN Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
BITs Hiệp định đầu tư song phương

CARIFORUM Diễn đàn Caribe và Mercosur
CDS Hợp đồng hóa đổi rủi ro tín dụng
CIS Cộng đồng các quốc gia độc lập
DTTs Hiệp định chống đánh thuế hai lần
EU Liên minh châu Âu
FDI Đầu tư trực tiếp nước ngoài
GCC Hội đồng hợp tác Vùng Vịnh
GDP Tổng sản phẩm quốc nội
IIAs Hiệp định đầu tư quốc tế
IWFs Quỹ hợp tác đầu tư quốc tế
M&A Mua bán & Sáp nhập
MBS Chứng khoán đảm bảo bằng tài sản thế chấp
OECD Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế
R&D Nghiên cứu & Phát triển
SWFs Quỹ lợi ích quốc gia
TNCs Tập đoàn kinh tế xuyên quốc gia
UNCTAD Hội nghị Liên hiệp quốc về Thương mại và Phát triển
UNDP Chương trình hỗ trợ phát triển của Liên hiệp quốc
WB Ngân hàng Thế giới



v

MỤC LỤC
Trang
CHƢƠNG I: TÁC ĐỘNG CỦA CUỘC KHỦNG HOẢNG VÀ SUY
THOÁI KINH TẾ THẾ GIỚI 2007-2009 ĐẾN HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƢ
TRỰC TIẾP NƢỚC NGOÀI TRÊN TOÀN CẦU
2


1. Diễn biến cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế thế giới
2007-2009
2
2. Tác động của cuộc khủng hoảng và suy thoái kinh tế thế giới giai
đoạn 2007-2009 đến hoạt động đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài trên toàn
cầu
8
2.1. Tác động của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế
thế giới đến hoạt động đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài của các
công ty, tập đoàn xuyên quốc gia (TNCs)
10
2.1.1. Tác động làm thiếu hụt nguồn lực tài chính của các công ty, tập
đoàn xuyên quốc gia
10
2.1.2. Tác động do tâm lý e ngại về tình hình kinh tế ảm đạm đến hoạt
động đầu tư nước ngoài của các TNCs
12
2.2. Tác động của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế
đến dòng vốn FDI theo từng khu vực trên thế giới
13
2.2.1. Khu vực các nền kinh tế phát triển: Bắc Mỹ, khu vực EU, các quốc
gia phát triển tại châu Á, khu vực Cộng đồng các quốc gia độc lập
CIS, các quốc gia phát triển khác
14
2.2.2. Khu vực các nền kinh tế đang phát triển (Đông, Nam và Đông Nam
Á, Tây Á, châu Phi, châu Mỹ La tinh)
15
2.2.3. Khu vực các nền kinh tế chuyển tiếp 16
3. Chính sách đối phó của các quốc gia trên thế giới trƣớc cuộc khủng

hoảng và suy thoái kinh tế và tác động đến hoạt động đầu tƣ trực tiếp
nƣớc ngoài
16
3.1. Những xu hƣớng chính về chính sách thúc đẩy hoạt động đầu
tƣ trực tiếp nƣớc ngoài trên thế giới
18
3.1.1. Chính sách trên cấp độ quốc tế 18
3.1.2. Chính sách trên cấp độ quốc gia 19
3.2. Chính sách đối phó cụ thể của một số nền kinh tế trong khu
vực
20
3.2.1. Trung Quốc 20
3.2.2. Ấn Độ 22
3.2.3. Khu vực các quốc gia Đông Nam Á - ASEAN 24


vi

CHƢƠNG II: BẢN CHẤT CỦA HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƢ TRỰC TIẾP
NƢỚC NGOÀI VÀ XU HƢỚNG ĐẦU TƢ TRỰC TIẾP NƢỚC NGOÀI
TRÊN TOÀN CẦU GIAI ĐOẠN SAU KHỦNG HOẢNG VÀ SUY
THOÁI KINH TẾ
26

1. Nghiên cứu về bản chất đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài
27
1.1. Cơ sở cho hoạt động đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài
27
1.1.1. Lợi ích của nhà đầu tư 27
1.1.2. Lợi ích của quốc gia nhận đầu tư 29

1.2. Phân loại đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài
33
1.3. Những yếu tố thúc đẩy hoạt động đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài
36
1.3.1. Nhóm yếu tố nền tảng của môi trường đầu tư 36
1.3.2. Nhóm yếu tố nguồn lực hỗ trợ hoạt động đầu tư 38
1.3.3. Nhóm yếu tố chính sách hỗ trợ hoạt động đầu tư 41
1.4. Nhận xét về bản chất dòng vốn đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài tại
Việt Nam
42
1.4.1. Nhóm đối tác tìm kiếm tài nguyên 42
1.4.2. Nhóm đối tác tìm kiếm thị trường 44
1.4.3. Nhóm đối tác tìm kiếm hiệu quả 45
2. Xem xét các nhân tố thúc đẩy đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài tại Việt
Nam
45
2.1. Thế mạnh không còn là tài nguyên thiên nhiên
45
2.2. Cơ hội khi Việt Nam có cơ cấu dân số vàng
47
2.3. Những thách thức trong các ngành công nghiệp phụ trợ
48
2.4. Sự cạnh tranh ngày càng lớn từ các quốc gia trong khu vực
50
2.5. Trọng tâm xây dựng thế mạnh chiến lƣợc của Việt Nam trong
tƣơng lai
52
3. Xu hƣớng chuyển dịch cơ cấu đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài giai đoạn
sau khủng hoảng và suy thoái kinh tế
56

3.1. Trên phạm vi toàn cầu
56
3.1.1. Xu hướng dịch chuyển cơ cấu FDI theo vùng 56
3.1.2. Xu hướng dịch chuyển cơ cấu FDI theo ngành 57
3.1.3. Xu hướng dịch chuyển cơ cấu FDI theo hình thức đầu tư 58


vii

3.2. Khu vực Đông Á – Đông Nam Á
59
3.3. Việt Nam
60
3.3.1. Xu hướng dịch chuyển cơ cấu FDI theo vùng 60
3.3.2. Xu hướng dịch chuyển cơ cấu FDI theo ngành 60


CHƢƠNG III: XÂY DỰNG ĐỊNH HƢỚNG CHIẾN LƢỢC CHO THU
HÚT ĐẦU TƢ TRỰC TIẾP NƢỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM GIAI
ĐOẠN SAU KHỦNG HOẢNG KINH TẾ THẾ GIỚI 2008-2009

62

1. Tổng quan về Định hƣớng chiến lƣợc cho thu hút Đầu tƣ trực tiếp
nƣớc ngoài tại Việt Nam giai đoạn sau khủng hoảng kinh tế thế giới
2008-2009
62
1.1. Sự cần thiết phải có một định hƣớng chiến lƣợc
62
1.2. Mục đích của việc đề ra định hƣớng chiến lƣợc

65
1.3. Cấu trúc của bản định hƣớng chiến lƣợc
65
2. Nội dung Định hƣớng chiến lƣợc cho thu hút Đầu tƣ trực tiếp nƣớc
ngoài tại Việt Nam giai đoạn sau khủng hoảng kinh tế thế giới 2008-
2009
66
2.1. Mục tiêu và nhiệm vụ của hoạt động thu hút đầu tƣ trực tiếp
nƣớc ngoài giai đoạn sau khủng hoảng kinh tế thế giới
66
2.2. Định hƣớng thu hút Đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài
67
2.2.1. Định hướng theo ngành và lĩnh vực kinh tế 67
2.2.2. Định hướng theo vùng kinh tế 75
2.2.3. Định hướng theo đối tác đầu tư 77
2.3. Hoạch định nhóm giải pháp chiến lƣợc
83
2.3.1. Nhóm giải pháp đặt ra cho nhà nước 83
2.3.2. Nhóm giải pháp đặt ra cho chính quyền địa phương 87
2.3.3. Nhóm giải pháp đặt ra cho khu vực doanh nghiệp trong nước 88

MỞ ĐẦU


viii

Trong giai đoạn 10 năm 2000 - 2009, thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
(FDI) vào Việt Nam đã đạt được những kết quả đáng khen ngợi, góp phần quan trọng
vào nhiệm vụ chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hiện đại. Tuy nhiên,
trước bối cảnh thế giới đầy biến động với những hậu quả mà cuộc khủng hoảng và suy

thoái kinh tế thế giới để lại, xu hướng lưu chuyển dòng vốn đầu tư quốc tế đã cho thấy
những thay đổi nhất đinh. Đây là những thách thức, nhưng cũng chính là cơ hội cho
hoạt động thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam trong giai đoạn tới. Bên
cạnh đó, trong mỗi quá trình vận động và phát triển của nền kinh tế trong nước, vai trò
của FDI cũng đã có những thay đổi nội tại và giai đoạn này cũng không phải ngoại lệ.
Vì vậy, chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu để tài “Định hƣớng chiến lƣợc cho thu
hút Đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài tại Việt Nam thời kỳ sau khủng hoảng và suy
thoái kinh tế thế giới 2008-2009”. Đề tài gồm 3 chương với các nội dung tương ứng:
Chương I: Phân tích tổng quan về những tác động của cuộc khủng hoảng và suy
thoái kinh tế đến hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài trên toàn cầu; cùng với chính
sách đối phó của các quốc gia trên thế giới.
Chương II: Nghiên cứu bản chất của hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài, trên cơ
sở đó nhận định xu hướng đầu tư trực tiếp nước ngoài trên toàn cầu và Việt Nam giai
đoạn sau khủng hoảng và suy thoái kinh tế thế giới.
Chương III: Đề ra định hướng và kiến nghị các giải pháp chiến lược cho hoạt động
thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam giai đoạn sau khủng hoảng và suy
thoái kinh tế thế giới.
Qua đề tài, chúng tôi muốn đưa ra những đánh giá về tình hình thu hút Đầu tư trực
tiếp nước ngoài trên thế giới nói chung và tại Việt Nam nói riêng, từ đó xây dựng
được bước đi cần thiết cho hoạt động thu hút Đầu tư trực tiếp nước ngoài, đảm bảo
phù hợp với xu hướng quốc tế và tình hình phát triển kinh tế xã hội Việt Nam trong
những giai đoạn tiếp theo.


ix

CHƢƠNG I:
TÁC ĐỘNG CỦA CUỘC KHỦNG HOẢNG VÀ SUY THOÁI KINH TẾ THẾ
GIỚI 2007-2009 ĐẾN HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƢ TRỰC TIẾP NƢỚC NGOÀI
TRÊN TOÀN CẦU


1. Diễn biến cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế thế giới trong giai
đoạn 2007-2009

Nền kinh tế thế giới vừa trải qua giai đoạn tồi tệ nhất trong gần một thập kỷ trở lại đây
dưới tác động của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu. Xuất phát từ
những bất ổn trên thị trường cho vay tín dụng, thị trường tài chính Hoa Kỳ cho thấy
những dấu hiệu khủng hoảng từ cuối năm 2007. Ảnh hưởng của nó nhanh chóng lan
rộng sang các quốc gia phát triển trên thế giới, những nền kinh tế có sự liên kết chặt
chẽ với thị trường tài chính tại Hoa Kỳ như Nhật Bản, Liên minh châu Âu,... Tác động
của cuộc khủng hoảng ngày trở nên nghiêm trọng khi sự yếu kém trong hoạt động tài
chính đã kéo theo sự gián đoạn trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Hoạt động
thương mại quốc tế cũng như đầu tư quốc tế suy giảm nghiêm trọng. Nền kinh tế thế
giới không tránh khỏi cuộc suy thoái nghiêm trọng nhất kể từ sau cuộc đại suy thoái
đầu những năm 1930. Vào thời điểm hiện tại, tuy nền kinh tế thế giới đang cho thấy
những dấu hiệu phục hồi hơn dự kiến, nhưng những ảnh hưởng sâu sắc mà cuộc
khủng hoảng gây ra trong ngắn hạn vẫn chưa đảm bảo cho một quá trình tăng trưởng
ổn định ngay trở lại.

a, Nền kinh tế thế giới giai đoạn trước khi xảy ra cuộc khủng hoảng:
Cho đến trước khi xảy ra cuộc khủng hoảng tài chính tại Hoa Kỳ vào cuối năm 2007,
nền kinh tế thế giới đã chứng kiến một giai đoạn phát triển ngoạn mục. Với vai trò nổi
lên ngày càng mạnh từ các nền kinh tế đang phát triển cùng tốc độ tăng trưởng ổn định
tại các nền kinh tế phát triển, kinh tế thế giới đã có những bước tăng trưởng bùng nổ
kể từ sau cuộc khủng hoảng tài chính Đông Á 1997. Tính chất của một nền kinh tế
toàn cầu hóa cũng là điểm sáng và là một trong những cú hích quan trọng cho sự phát
triển giai đoạn này. Trong giai đoạn từ 2003 đến 2007, tốc độ tăng trưởng trong sản
lượng thực tế toàn cầu luôn duy trì ở mức cao trong nhiều năm liên tiếp và đạt mức



x

tăng trưởng trung bình 5% qua mỗi năm
1
. Các nền kinh tế mới nổi tại châu Âu cùng
các các nền kinh tế đang phát triển tại châu Á để lại dấu ấn mạnh mẽ khi luôn dẫn đầu
về tốc độ tăng trưởng kinh tế toàn cầu, và ngày càng thu hẹp dần khoảng cách với các
nền kinh tế phát triển. Tại châu Á, Trung Quốc và Ấn Độ phát huy triệt để sức mạnh
nội tại cùng những chính sách phát triển đúng đắn đã cho thấy những những bước tiến
vượt trội trong cả khu vực và trên thế giới. Hoạt động thương mại và đầu tư trên thế
giới cũng đạt tốc độ tăng trưởng cao. Trong giai đoạn này, động lực phát triển trên hầu
khắp các nền kinh tế trên thế giới đặc biệt tại các quốc gia đang phát triển đã kéo theo
sự tăng tốc nhanh chóng trong thương mại toàn cầu. Những số liệu về tăng trưởng về
hoạt động xuất nhập khẩu trên thế giới phản ánh rõ nét xu hướng thương mại trong
giai đoạn này.
Hình 1.1:
Tăng trƣởng thƣơng mại thế giới về trao đổi hàng hóa và dịch vụ (%), 2000-2007
(Tăng trưởng dựa trên giá trị xuất nhập khẩu)
Thương mại hàng hóa Thương mại dịch vụ










* Nguồn: Tổ chức Thương mại thế giới WTO

Cũng như tốc độ tăng trưởng kinh tế, tăng trưởng thương mại quốc tế vẫn ghi nhận vị
trí dẫn đầu của các nền kinh tế đang phát triển của châu Á, đặc biệt là Ấn Độ và Trung
Quốc, hai nền kinh tế chiếm tỷ trọng lớn trong thương mại toàn cầu đồng thời cũng có
tốc độ tăng trưởng thương mại quốc tế vượt trội. Hoạt động đầu tư quốc tế cũng có
diễn biến tương tự khi không ngừng tăng trưởng. Xu hướng toàn cầu hóa nền kinh tế

1
Theo số liệu của Quỹ tiền tệ quốc tế IMF


xi

thế giới đã kéo theo hàng loạt những chiến lược mở rộng thị trường sản xuất cũng như
tiêu thụ của các công ty, tập đoàn lớn trên thế giới. Sức hấp dẫn ngày càng lớn từ các
nền kinh tế đang phát triển cùng những chính sách nới lỏng tiền tệ tại các thị trường
tài chính lớn trên thế giới cũng đã tác động mạnh mẽ thúc đẩy hoạt động đầu tư toàn
cầu. Tuy nhiên, quá trình tăng trưởng ấn tượng này đã dần có dấu hiệu chững lại khi
nền kinh tế thế giới bắt đầu chịu tác động của cuộc khủng hoảng tài chính tại Hoa Kỳ.

b, Những diễn biến xấu từ cuộc khủng hoảng tài chính Hoa Kỳ:
Trong khi các quốc gia khác thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bằng các khuyến khích đầu
tư và đẩy mạnh xuất khẩu, Hoa kỳ chọn cho mình con đường tăng trưởng kinh tế bằng
cách kích thích tiêu dùng nội địa. Trong vòng 3 năm từ 2001 đến 2003, nhằm đối phó
với hậu quả của vụ khủng bố 11/9/2001, chính phủ Mĩ đã liên tục hạ lãi suất cho vay
và tỉ lệ dự trữ bắt buộc từ 6.5% xuống còn 1.0%. Thêm vào đó, trong thời gian này,
thâm hụt cán cân thanh toán của Hoa Kỳ tăng thêm 650 tỉ đô la, tăng từ 1.5% lên đến
5.8% GDP. Để tài trợ cho sự thâm hụt này, Hoa Kỳ đã vay một số lớn tiền từ nước
ngoài mà chủ yếu là từ những nền kinh tế mới nổi ở châu Á và các nước xuất khẩu
dầu mỏ bằng cách phát hành các trái phiếu chính phủ. Vì vậy, một lượng tiền lớn từ
nước ngoài đã đổ vào thị trường tài chính Hoa Kỳ. Với việc lãi suất cho vay hạ thấp,

chi phí của việc đi vay giảm đi càng mở rộng tăng trưởng tín dụng. Người dân sử
dụng những khoản tiền vay từ nước ngoài này để tài trợ cho tiêu dùng của mình còn
các tổ chức tài chính dùng những khoản tiền này để đầu tư vào các chứng khoán thế
chấp.

Hoạt động cho vay dưới chuẩn, cho những đối tượng có khả năng trả nợ thấp, kèm
theo mức độ rủi ro cao, cũng phát triển nhanh trong thời gian này. Cùng với sự thông
thoáng trong hoạt động tín dụng, trong những năm trước cuộc khủng hoảng, chính phủ
Hoa Kỳ và các tổ chức tài chính, đặc biệt là các ngân hàng đầu tư và các tổ chức được
tài trợ bởi chính phủ như Fannie Mae và Freddie Mac đã gia tăng lượng cho vay dưới
chuẩn đầy rủi ro này. Trong giai đoạn từ 2005 đến 2006, cho vay thế chấp dưới chuẩn
chiếm gần 20% các khoản vay thế chấp. Phần lớn người dân Hoa Kỳ mua nhà bằng
cách vay tiền ngân hàng với hợp đồng thời hạn từ 10 đến 30 năm. Khi thị trường nhà


xii

đất phát triển, các ngân hàng và tổ chức tung ra các chương trình cho vay dưới chuẩn,
khuyến khích cả những đối tượng không đủ khả năng tài chính vay. Sau đó, các tổ
chức tài chính của phố Wall lại tập hợp những hợp đồng cho vay bất động sản này làm
tài sản đảm bảo cho việc phát hành trái phiếu ra thị trường quốc tế. Những trái phiếu
này được gọi là Mortgage Backed Securities - MBS là một công cụ tài chính phái sinh
được đảm bảo bởi các hợp đồng cho vay bất động sản có thế chấp. Những trái phiếu
này được các công ty tín nhiệm đánh giá cao. Do đó nó được các công ty bảo hiểm,
các quỹ đầu tư trên toàn thế giới mua vào mà không hề biết tài sản đảm bảo cho nó là
những hợp đồng cho vay thế chấp dưới chuẩn, đầy rủi ro. Ngoài ra, các tổ chức tài
chính và các công ty bảo hiểm quốc tế còn bán ra các hợp đồng bảo lãnh nợ khó đòi
Credit Default Swap - CDS trong đó bên bán CDS cam kết thanh toán cho bên mua
trong trường hợp người đi vay không thanh toán.


Với lượng tiền lớn rót vào thị trường tài chính, giá cả nhà đất và các tài sản tài chính
tăng lên nhanh chóng. Từ năm 1997 đến 2006, giá nhà trung bình tại Hoa Kỳ tăng
khoảng 124%. Đến năm 2006, giá một ngôi nhà trung bình ở Hoa Kỳ gấp 4.6 lần thu
nhập trung bình của người dân. Thị trường bất động sản bị đánh giá cao hơn giá trị
thực của nó. Và khi bong bóng bất động sản bị phá vỡ đã kéo theo một loạt sự đổ vỡ
của các tổ chức tài chính khác. Với các hợp đồng ARM, hết thời gian trả lãi suất cố
định, người đi vay phải trả mức lãi suất thả nổi. Điều này khiến cho mức lãi phải trả
tăng cao và người đi vay khó trả nợ hơn. Thị trường bất động sản hạ nhiệt làm cho
việc bán nhà đất trở nên khó khăn và nếu có bán được thì giá trị bất động sản cũng
xuống thấp tới mức không đủ thu hồi vốn để trả các khoản vay nợ. Kết quả là những
hợp đồng cho vay bất động sản có thế chấp trở thành những hợp động nợ khó đòi.
Những trái phiếu được đảm bảo bởi những hợp động này mất giá trên thị trường thứ
cấp hoặc không thể bán được. Những ngân hàng, các nhà đầu tư nắm giữ trái phiếu
này bị lỗ trầm trọng và không có khả năng thanh toán. Đến lượt các công ty bảo hiểm
nắm giữ các hợp đồng CDS chịu tác động khi những người đi vay không có khả năng
trả nợ. Nguyên nhân khiến cho cuộc khủng hoảng tài chính không chỉ bó hẹp trong
phạm vi nước Hoa Kỳ mà còn lan ra toàn thế giới là do rất nhiều ngân hàng lớn trên
thế giới đã đầu tư vào trái phiếu MBS. Đến tháng 9 năm 2008, nền kinh tế thế giới


xiii

chính thức ghi nhận cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu khi Lehman Brothers, một
trong những ngân hàng đầu tư lớn nhất tại Hoa Kỳ, tuyên bố phá sản.

c, Nền kinh tế thế giới thực sự đối mặt với cuộc khủng hoảng và suy thoái kinh tế
mang tính chất toàn cầu:
Dấu hiệu suy giảm của nền kinh tế thế giới được thể hiện rõ từ nửa cuối năm 2008 đến
đầu năm 2009. Tổng sản lượng trên thế giới chịu tác động nghiêm trọng từ cuộc
khủng hoảng tài chính khi mà giá trị tài sản giảm mạnh và sự yếu kém của hệ thống

tài chính toàn cầu đã dẫn tới gián đoạn trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Tăng
trưởng kinh tế thế giới trong năm 2008 giảm còn 1,7%, từ mức 3,5% trong năm 2007,
mức tăng trưởng thấp nhất kể từ năm 2003 trở lại đây. Hoa Kỳ cùng khu vực các quốc
gia phát triển khu vực Liên minh châu Âu EU cho thấy những dấu hiệu rõ ràng nhất
về một sự suy giảm tăng trưởng của nền kinh tế, với mức tăng trưởng trung bình cho
nhóm này chỉ khoảng 1% trong năm 2008, trong khi đó tỷ lệ này trong năm 2007 là
2,5%. Nền kinh tế châu Á cũng cho thấy tốc độ tăng trưởng GDP thấp ở mức 2% so
với 4,9% năm 2007. Tuy nhiên lại xuất hiện khoảng cách rất lớn về tốc độ tăng trưởng
giữa các nền kinh tế phát triển như Nhật Bản, Úc, Niu di lân với các nền kinh tế đang
phát triển trong khu vực châu Á. Tại châu Phi, tốc độ tăng trưởng cũng có dấu hiệu
chững lại với 5% năm 2008, giảm 0,7% so năm trước. Các quốc gia xuất khẩu dầu mỏ
vẫn giữ được bước tăng trưởng ổn định do giá dầu cùng khí đốt có những diễn biến
tăng kéo dài từ đầu năm 2007 cho đến quý 2 năm 2008. Tác động từ thị trường tài
chính, giá cả ngành hàng năng lượng đặc biệt là dầu mỏ và khí đốt đã chịu những biến
động bất thường. Giai đoạn giữa năm 2008 chứng kiến giá dầu leo thang lên mức trên
140 USD/thùng, nhưng sau đó lại tụt mạnh về mốc hơn 50 USD/thùng trong vòng gần
nửa năm sau. Những biến động này gây ra nhiều ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động
sản xuất kinh doanh trên toàn cầu, đặc biệt cũng gây ra sự bất ổn định về giá cả hàng
hóa tại nhiều nền kinh tế trên thế giới. Hoạt động thương mại quốc tế chịu tác động
của cuộc khủng hoảng và gián đoạn ngay từ giai đoạn cuối năm 2008. Tăng trưởng
thực tế khu vực thương mại hàng hóa giảm còn 2% từ 6% năm 2007, và thay đổi 15%
tính theo giá trị danh nghĩa. Khu vực thương mại dịch vụ cũng chỉ tăng trưởng ở mức
khiêm tốn. Đầu tư nước ngoài cũng cho thấy tình trạng thoái lui tại nhiều khu vực trên


xiv

thế giới. Dòng vốn FDI toàn cầu kết thúc một thời kỳ dài tăng trưởng dương liên tục
với mức suy giảm 14% trong năm 2008. Có thể nói, những ảnh hưởng thực sự từ cuộc
khủng hoảng tài chính đã tác động một cách toàn diện đến nền kinh tế toàn cầu. Nền

kinh tế thế giới cho đến đầu năm 2009 vẫn tiếp tục diễn biến xấu, kèm theo những dự
báo không sáng sủa về tương lai kinh tế toàn cầu. Tuy nhiên, đến cuối năm 2009 đầu
năm 2010, kinh tế thế giới đã đón nhận những tín hiệu tốt ngoài dự kiến, cho thấy khả
năng sớm vượt qua khủng hoảng và suy thoái. Trải qua giai đoạn khó khăn đầu năm
2009, nền kinh tế toàn cầu đã tăng trưởng trở lại tại mức 3,25%vào quý thứ hai và
4,5% trong nửa cuối năm 2009
2
. Tại các nền kinh tế phát triển, những gói cứu trợ
cùng những cải cách nhằm tìm kiếm thị trường tiêu thụ sản phẩm đồng thời làm giảm
bớt tỷ lệ thất nghiệp đã có những tác dụng bước đầu. Thị trường trái phiếu hồi phục
cũng thúc đẩy quá trình sản xuất và kinh doanh hoạt động tích cực trở lại. Trong khi
đó, các nền kinh tế nhờ vào lực cầu mạnh từ ngay thị trường nội địa đã có cơ sở để tạo
đà hồi phục. Tuy nhiên, ở một số nền kinh tế như khu vực cộng đồng các quốc gia độc
lập CIS hay tại nhiều bang của Hoa Kỳ, diễn biến suy thoái vẫn chưa có dấu hiệu
dừng lại.

d, Kinh tế thế giới giai đoạn hiện nay, sau gần 2 năm đối đầu với khủng hoảng tài
chính và suy thoái kinh tế toàn cầu:
Mặc dù đã có những dấu hiệu cho thấy đà suy thoái kinh tế trên đã phần nào được
ngăn chặn, nhưng các quốc gia vẫn tỏ ra thận trọng trong việc hoạch định chiến lược
phát triển giai đoạn sắp tới. Sự thận trọng đó là có cơ sở do nền kinh tế thế giới chưa
thực sự ổn định sau những những tác động sâu sắc mà cuộc khủng hoảng và suy thoái
kinh tế để lại. Kinh tế thế giới năm 2009 chứng kiến tăng trưởng âm ở mức -1,3%,
thương mại quốc tế cũng suy giảm tới 10%. Tình trạng thâm hụt ngân sách nhiều quốc
ngày càng ở mức độ nghiêm trọng do chi phí khổng lồ để khắc phục hậu quả của cuộc
khủng hoảng. Hệ thống tài chính thế giới vẫn còn nhiều bất ổn, tỷ lệ thất nghiệp tăng
cao, thêm những vấn đề về an sinh xã hội, khủng hoảng niềm tin sẽ là những thách
thức lớn cho kinh tế thế giới nếu muốn vượt qua giai đoạn khủng hoảng và phục hồi
trở lại.


2
Quỹ tiền tệ quốc tế IMF - WORLD ECONOMIC OUTLOOK, April 2010


xv


2. Tác động của cuộc khủng hoảng và suy thoái kinh tế thế giới giai đoạn 2007-
2009 đến hoạt động đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài trên toàn cầu

Cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế thế giới đã có tác động mạnh mẽ đến
dòng vốn FDI toàn cầu trong hai năm 2008 và 2009. Giai đoạn này đánh dấu kết thúc
một chu kỳ tăng trưởng của hoạt đầu đầu tư trực tiếp nước ngoài, bắt đầu từ năm 2003
và kết thúc vào năm 2007. Dòng vốn FDI đạt đỉnh điểm vào năm 2007 với trên 1,9
nghìn tỷ USD. Tuy nhiên, dưới tác động của cuộc khủng hoảng tài chính, dòng vốn
FDI toàn cầu đã sụt giảm 14% trong năm 2008, xuống còn gần 1,7 nghìn tỷ USD.
Bước sang năm 2009, khi mà nền kinh tế thế giới lâm vào tình trạng suy thoái trầm
trọng, hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài đã chứng kiến sự sụy giảm mạnh nhất
trong hơn một thập kỷ trở lại đây, ở mức âm 39%.

Nhóm các nền kinh tế phát triển vẫn dẫn đầu về khối lượng FDI toàn cầu nhưng phải
chịu những ảnh hưởng tiêu cực nhất từ cuộc khủng hoảng và suy thoái kinh tế. Tốc độ
suy giảm dòng vốn FDI khu vực nhóm các nước phát triển trong hai năm liên tiếp
2008, 2009 lần lượt ở mức 25,3% và 41%. Tốc độ thoái lui đầu tư mạnh đã kéo thụt
lùi dòng vồn FDI vào các quốc gia phát triển, đồng thời cũng dần thu hẹp lại khoảng
cách với nhóm đi sau, đặc biệt là các nền kinh tế mới nổi và đang phát triển. Tuy
nhiên, do những tác động ngày càng lan rộng của cuộc khủng hoảng và suy thoái kinh
tế, trong năm 2009, dòng vốn FDI vào nhóm các nền kinh tế đang phát triển giảm
35%, mức sụt giảm mạnh nhất, kết thúc 6 năm có tăng trưởng dương liên tục.


Hình 1.2: Khối lƣợng FDI nhập trên thế giới và các khu vực
(đơn vị: tỷ USD)


xvi



* Nguồn: World Investment Report 2009

Đối mặt với cuộc khủng hoảng và suy thoái kinh tế thế giới, điều kiện tín dụng bị thắt
chặt, suy giảm lợi nhuận sản xuất kinh doanh, triển vọng ảm đạm và không chắc chắn
cho sự tăng trưởng kinh tế toàn cầu, nhiều công ty đã phải cắt giảm sản xuất, sa thải
công nhân và cắt giảm chi phí vốn, tất cả đều có xu hướng làm giảm hoạt động FDI.
Tác động của cuộc khủng hoảng đến nền kinh tế trên thế giới rất khác nhau tùy theo
từng khu vực và từng quốc gia. Vì thế, mức độ tác động và ảnh hưởng của cuộc khủng


xvii

hoảng đến dòng chảy FDI cũng rất khác nhau trên nhiều vùng và nền kinh tế trên thế
giới. Tóm lại, tác động của cuộc khủng hoảng và suy thoái kinh tế đến hoạt động đầu
tư trực tiếp nước ngoài có thể được phản ánh qua hai yếu tố cơ bản: những thay đổi
trong chiến lược đầu tư của tập đoàn kinh tế xuyên quốc gia - TNCs thời kỳ khủng
hoảng và những biến đổi về môi trường đầu tư toàn cầu.

2.1. Tác động của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế thế giới đến
hoạt động đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài của các công ty, tập đoàn xuyên quốc gia

Hiện nay, trên thế giới có khoảng 82.000 công ty, tập đoàn xuyên quốc gia - TNCs,

cùng với nó là trên 810.000 các chi nhánh đang hoạt động tại nước ngoài. Những công
ty này giữ một vị trí quan trọng, góp phần vào quá trình phát triển của nền kinh tế thế
giới. Vai trò của các TNCs được thể hiện thông qua hoạt động thương mại quốc tế,
phát triển nguồn nhân lực, nghiên cứu phát triển và chuyển giao công nghệ và đặc biệt
quan trọng là vai trò nổi bật trong hoạt động thúc đẩy đầu tư quốc tế. Trên thực tế, hầu
hết các hoạt động đầu tư nước ngoài được thực hiên thông qua các TNCs, với tỷ lệ
chiếm tới trên 90% tổng FDI toàn thế giới
3
. Với tư cách là chủ thể quan trọng của
hoạt động đầu tư trên thế giới, TNCs là nhân tố đặc biệt quan trọng có vai trò mang
tính quyết định tới quá trình lưu chuyển dòng vốn đầu tư quốc tế. Do vậy, những ảnh
hưởng trực tiếp từ cuộc khủng hoảng và suy thoái kinh tế đến hoạt động của các TNCs
có tác động đương nhiên đến khối lượng cũng như cơ cấu dòng vốn FDI toàn cầu.

2.1.1. Tác động làm thiếu hụt nguồn lực tài chính của các công ty, tập đoàn đa quốc
gia:

Cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính thế giới đã trực tiếp ảnh hưởng đến nguồn lực tài
chính của các công ty, tập đoàn xuyên quốc gia. Những tác động của nó đến từ cả yếu
tố tài chính nội tại cũng như các yếu tố nguồn lực tài chính từ bên ngoài doanh nghiệp.
Một mặt, diễn biến trên thị trường tài chính thế giới cho thấy mức độ ngày một phức
tạp. Hàng loạt sự sụp đổ của các định chế tài chính lớn đã kéo theo khuynh hướng sụt
giảm mạnh trên các thị trường chứng khoán thế giới. Việc nhiều định chế tài chính giữ

3
World Investment Report 2009 - United Nations Conference on Trade and Development


xviii


vai trò trung gian quan trọng cung cấp nguồn tín dụng cho hoạt động đầu tư nước
ngoài bị thua lỗ hay phá sản đã ảnh hưởng lớn đến nguồn cung tài chính cho các
TNCs. Trong khi đó, thị trường chứng khoán thế giới đi xuống mạnh với việc mất
điểm của các chỉ số quan trọng tại Hoa Kỳ, Nhật Bản, châu Âu và châu Á. Tại Hoa
Kỳ, các chỉ số chứng khoán Dow Jones, Standard & Poor’s 500 và chỉ số tổng hợp
Nasdaq mất điểm khoảng 40% trong năm 2008 và nửa đầu năm 2009. Các chỉ số như
Nikkei của Nhật Bản, FTSE 100 của Anh, CAC của Pháp hay DAX của Đức cũng có
diến biến tương tự. Mất đi khoảng 50% giá trị trên thị trường chứng khoán toàn cầu
4

đã làm yếu đi rất nhiều khả năng tài chính của các TNCs do tác động làm giảm nguồn
vốn huy động được thông qua cổ phiếu và trái phiếu, đồng thời hoạt động mua bán sáp
nhập sử dụng cổ phần vì thế cũng bị hạn chế. Trong năm 2008, giá cổ phiếu trên hầu
khắp các thị trường chứng khoán sụt giảm tương đương với sự giảm giá 81 tỉ đô la về
giá trị các thương vụ M&A, đóng góp 18% trong sự sụt giảm chung của FDI toàn cầu.
Cũng trong năm 2008, số lượng các siêu thương vụ M&A (thương vụ có giá trị trên 1
tỉ đô la) cũng giảm 21%. Ở các nước phát triển thì con số này là 26%. Tại những nước
đang phát triển và các nền kinh tế chuyển tiếp thì số lượng siêu thương vụ tăng mạnh
trong năm 2008 nhưng bắt đầu giảm từ quý 1 năm 2009. Bên cạnh những tác động từ
thị trường chứng khoán, việc thắt chặt điều kiện tín dụng làm chi phí kinh tế tăng cao
cũng khiến cho các công ty khó có khả năng tiếp cận nguồn tài chính bên ngoài để đầu
tư cho các dự án mới. Mặt khác, lợi nhuận suy giảm do lực cầu yếu từ thị trường tiêu
thu thế giới cũng ảnh hưởng đến xu hướng mở rộng đầu tư nước ngoài. Các nhà đầu tư
đối phó với tình hình chung bằng những biện pháp như đẩy mạnh chuyển lợi nhuận về
nước, giảm vốn tài trợ cho các công ty con ở nước ngoài quay hướng về trong nước.
Chiến lược phát triển thận trọng của hầu hết các TNCs đã buộc dòng vốn FDI sụt
giảm trong hai năm 2008, 2009.

2.1.2. Tác động do tâm lý e ngại về tình hình kinh tế ảm đạm đến hoạt động đầu tư
nước ngoài của các TNCs:



4
World Investment Report 2009 – United Nations Conference on Trade and Development


xix

Cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế với những hậu quả nghiêm trọng để
lại trong ngắn hạn đã tác động tiêu cực đến triển vọng FDI trong hai năm 2008 và
2009. Diễn biến khó lường của nền kinh tế thế giới tiềm ẩn rất nhiều rủi ro, gây ảnh
hưởng đến kế hoạch cũng như chiến lược đầu tư của các TNCs trong ngắn hạn cũng
như trong dài hạn. Những dự báo không khả quan về tiến trình phục hồi của nền kinh
tế toàn cầu, sự bất ổn định trên thị trường tài chính, và những thay đổi chính sách tạo
bất lợi cho nhà đầu tư khi các quốc gia gia tăng các biện pháp bảo hộ trong nước là
các mối đe dọa đặc biệt nghiêm trọng, tác động lớn đến hoạt động đầu tư nước ngoài
của các TNCs. Bên cạnh đó, những biến động giá bất thường của dầu mỏ, nguyên vật
liệu và sự không ổn định về tỷ giá cũng được coi là những mối đe dọa lớn tác động
đến dòng chảy FDI trong hai năm 2008 và 2009. Tâm lý e ngại do mức độ rủi ro kinh
doanh cao khi đưa ra quyết định đầu tư đã khiến dòng vốn FDI bị hạn chế về cả số
lượng cũng như quy mô, đồng thời phạm vi đầu tư cũng bị thu hẹp hơn.

Theo điều tra của UNCTAD về triển vọng đầu tư trong năm 2008, những tín hiệu thận
trọng trong đầu tư đã xuất hiện. Có 61% trong các công ty được điều tra vẫn gia tăng
các kế hoạch đầu tư vào năm 2008 so với năm 2007. Tuy nhiên, phần lớn trong đó chỉ
dự định tăng quy mô trên mức độ vừa phải. Những điều tra về triển vọng đầu tư trong
năm 2009 lại cho thấy dấu hiệu nghiêm trọng hơn khi mà tỷ lệ các công ty dự định
tăng vốn FDI chỉ là 22%, tụt quá xa so với tỷ lệ 61% có được trong năm 2008. Đa số
các công ty đều cho thấy những kế hoạch cắt giảm kế hoạch đầu tư, nhất là những kế
hoạch đầu tư ở nước ngoài. Những số liệu cũng cho thấy lo ngại của các TNCs về ảnh

hưởng tiêu cực từ sự suy giảm kinh tế và khủng hoảng tài chính ngày một gia tăng,
cũng tác động mạnh làm suy giảm dòng vốn FDI trong thời kỳ khủng hoảng.

Mức độ rủi ro tăng cao, đặc biệt là từ những biến động về tỷ giá và những thay đổi
trong chính sách đối với nhà đầu tư nước ngoài của các quốc gia, đã khiến các TNCs
có định hướng thu hẹp phạm vi đầu tư ra nước ngoài. Hoạt động tìm kiếm và nghiên
cứu thị trường được tăng cường nhằm giúp các công ty có thể phân loại nhằm tập
trung vào những thị trường ít rủi ro hơn. Phần lớn các TNCs đều có chiến lược thu hẹp
hoạt động đầu tư trong thời kỳ khủng hoảng về thị trường trong nước, nhằm tạo những


xx

cú hích vực lại nền kinh tế đồng thời cũng tận dụng được những ưu đãi về chính sách
nội địa. Những tác động sâu sắc này cũng đã tạo ra xu hướng thoái lui lớn trong dòng
vốn FDI trên thế giới, tuy nhiên ở các mức độ khác nhau tùy theo từng khu vực địa lý
và nền kinh tế.

Tuy nhiên cuộc khủng hoảng không hoàn toàn ảnh hưởng tiêu cực tới hoạt động đầu
tư của các công ty đa quốc gia. Trong giai đoạn khủng hoảng, giá trị tài sản của công
ty, tập đoàn kinh tế có xu hướng giảm mạnh. Đây là điều kiện thuận lợi để các tập
đoàn có nguồn tài chính dồi dào thực hiện các thương vụ mua bán sáp nhập (M&A)
nhằm củng cố sự hiện diện của mình ở thị trường nước ngoài và đầu tư cải tiến kĩ
thuật. Trong năm 2008, nhóm 100 TNCs lớn nhất thế giới đã tiến hành 21 vụ mua bán
sáp nhập với tổng giá trị 3 tỉ đô la. Có thể kể đến những thương vụ của Bank of
America mua lại Merrill Lynch, Santander thâm nhập vào thị trường Mĩ bằng cách
mua lại cổ phần của Sovereign Bancorp, Numura (Nhật Bản) và Barclays (Anh) mua
lại tài sản của Lehman Brothers nhằm mở rộng hoạt động của mình. Đầu năm 2009,
Royal Bank of Scotland (Anh) đã bán toàn bộ cổ phần của mình ở Bank of China với
giá 2.3 tỉ đô la, Bank of America giảm cố phần của mình ở China Construction Bank

bằng cách bán 7.3 tỉ đô la cổ phần. Những công ty đã có tình hình tài chính đáng lo
ngại từ trước khủng hoảng không còn lựa chọn nào khác ngoài việc bị mua lại với giá
rẻ. Chryler, Endesa, Volvo đều đã bị mua lại. Ngược lại, những công ty chịu ảnh
hưởng ít hơn, có nguồn tài chính dồi dào như Suez, Fiat, Roche tận dụng cơ hội để
mua lại các công ty khác và tăng lợi thế cạnh tranh.

2.2. Tác động của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế đến dòng vốn
FDI theo từng khu vực trên thế giới:

Cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế có tác động sâu sắc đến môi trường
đầu tư và kinh doanh trên toàn thế giới, tuy nhiên với các mức độ khác nhau tùy thuộc
vào từng khu vực kinh tế cũng như từng quốc gia cụ thể. Chính những khác biệt này
cũng tác động đến chiều hướng dòng chảy FDI trong giai đoạn 2008 và 2009. Khác
với cuộc khủng hoảng Đông Á 1997, khi khu vực các nước đang phát triển chịu ảnh
hưởng nặng nề nhất, làm mất dần sức hấp dẫn của môi trường đầu tư, thì cuộc khủng


xxi

hoảng năm 2008 lại đánh dấu chiều hướng hoàn toàn trái ngược. Cuộc khủng hoảng
vừa qua xuất phát và ảnh hưởng trực tiếp đến một hệ thống các quốc gia phát triển, tác
động mạnh mẽ làm suy giảm sức thu hút của môi trường đầu tư tại các quốc gia này.
Thực tế cũng cho thấy dòng vốn FDI chảy vào khu vực các nền kinh tế phát triển dẫn
đầu xu hướng suy giảm trên toàn cầu. Trong khi đó, với những tác động gián tiếp và ít
nghiêm trọng hơn từ cuộc suy thoái kinh tế thế giới, các nền kinh tế đang phát triển và
các nền kinh tế chuyển tiếp tỏ ra hấp dẫn tương đối về môi trường thu hút đầu tư trực
tiếp nước ngoài.

2.2.1. Khu vực các nền kinh tế phát triển: Bắc Mỹ, khu vực EU, các quốc gia phát
triển tại châu Á, khu vực Cộng đồng các quốc gia độc lập châu Âu CIS, các quốc gia

phát triển khác:

Các nền kinh tế phát triển bắt đầu chịu những ảnh hưởng tiêu cực từ cuộc khủng
hoảng tài chính tại Hoa Kỳ từ đầu năm 2008. Sau sự sụp đổ của Lehman Brothers,
một trong những ngân hàng đầu tư lớn tại Hoa Kỳ, cuộc khủng hoảng tài chính lan
rộng sang châu Âu và các nền kinh tế phát triển tại châu Á như Nhật Bản, Úc, Niu Di
Lân. Các nền kinh tế này nhanh chóng đón nhận những tác động nghiêm trọng đến
dòng vốn FDI ngay trong năm 2008 với mức sụt giảm 29% so với năm 2007, xuống
còn 962 tỷ USD. Tình hình trong năm 2009 càng trở nên trầm trọng khi dòng vốn FDI
khu vực này nhận được chỉ khoảng 566 tỷ USD, giảm 41,2%
5
.

Mặc dù chịu những tác động mạnh từ cuộc khủng hoảng khiến suy giảm sức thu hút
đầu tư, nhưng các nền kinh tế phát triển vẫn là khu vực chính tiếp nhận phần lớn dòng
vốn FDI toàn cầu. Tuy không có lợi thế về chi phí lao động hay tốc độ tăng trưởng
kinh tế vẫn duy trì âm, nhưng bù lại khu vực các quốc gia phát triển lại có được quy
mô thị trường rộng lớn cùng môi trường kinh doanh chất lượng. Dù vậy, những lợi thế
có được vẫn không đảm bảo cho một tốc độ tăng trưởng dương của dòng vốn FDI
trong giai đoạn này.


5
UNCTAD


xxii

Nếu như năm 2007 đánh dấu mức tăng vượt bậc FDI xuất của các nước phát triển thì
năm 2008 do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế, các công ty

đa quốc gia ít khả năng đầu tư ra nước ngoài hơn. Dòng FDI xuất ra nước ngoài từ
Hoa Kỳ giảm cho dù lợi nhuận tái đầu tư của các chi nhánh ở nước ngoài vẫn ổn định.
Điều tương tự cũng xảy ra với khối đồng tiền chung Euro, trong đó ở Anh các TNCs
cắt giảm tới 60% các hoạt động đầu tư. Tuy nhiên, trong số những nước phát triển,
Nhật Bản là một ngoại lệ. Các doanh nghiệp Nhật Bản có tình hình tiền mặt dồi dào, tỉ
lệ nợ trên vốn nằm trong mức an toàn. Tận dụng cơ hội giá trị các công ty suy giảm,
các doanh nghiệp Nhật Bản tăng cường các thương vụ mua bán và sáp nhập. Vì vậy là
FDI đầu tư ra nước ngoài của Nhật tăng mạnh, trong đó giá trị các vụ M&A đạt 54 tỉ
đô la năm 2008. Nhật Bản trở thành một nước đóng vai trò quan trọng trong toàn bộ
FDI xuất của thế giới.

2.2.2. Khu vực các nền kinh tế đang phát triển Đông, Nam và Đông Nam Á, Tây Á,
Châu Phi, Châu Mỹ La tinh:

Trong năm 2008, các nước đang phát triển chưa chịu tác động trực tiếp của cuộc
khủng hoảng kinh tế bởi hệ thống tài chính ở các quốc gia này có sự liên kết chưa chặt
chẽ với hệ thống tài chính của Hoa Kỳ và châu Âu, tốc độ tăng trưởng kinh tế vẫn giữ
ở mức cao. Do vậy, dòng vốn FDI nhập vào các nước đang phát triển vẫn chưa chịu
ảnh hưởng lớn như ở các nước phát triển. Lượng vốn FDI vào các nước này trong năm
2008 vẫn tăng ở mức 17%, không bằng mức tăng trưởng trong năm 2007, nhưng lại
tốt hơn rất nhiều so với mức tăng trưởng âm tại các quốc gia phát triển. Bước sang
năm 2009, nền kinh tế thế giới lâm vào suy thoái, nó nhanh chóng tác động mạnh đến
dòng vốn FDI vào các quốc gia đang phát triển. Gánh chịu mức sụt giảm mạnh 35%
trong năm 2009, khu vực các nền kinh tế đang phát triển đã chấm dứt 6 năm đạt tốc độ
tăng trưởng dương về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài.

Dòng FDI xuất của các nước đang phát triển tăng 3% trong năm 2008 và bắt đầu giảm
từ quý I năm 2009. Các nước đang phát triển ngày càng chiếm tỉ trọng lớn trong luồng
FDI xuất của thế giới, tăng từ 13% năm 2007 lên 16% năm 2008; trong đó nổi lên như
Trung Quốc, Ấn Độ,…



xxiii


2.2.3. Các nền kinh tế chuyển tiếp:

FDI nhập ở các nền kinh tế chuyển tiếp ở Đông Nam Âu hay khối CIS (Khối độc lập
chung gồm 12 nước là thành viên Liên bang Xô Viết cũ) tăng lên mức cao nhất trong
năm 2008. Mặc dù bị quản lý chặt chẽ, đầu tư trực tiếp nước ngoài vào thành phần các
nguồn tài nguyên thiên nhiên của Liên bang Nga vẫn tăng lên. Tuy nhiên đến năm
2009, do ảnh hưởng lan tỏa của khủng hoảng kinh tế thế giới, FDI vào các nền kinh tế
chuyển tiếp cũng bắt đầu giảm.

FDI xuất của khu vực chuyển tiếp tăng mạnh trong năm 2008, chiếm 3% toàn thế giới
và vẫn duy trì ổn định trong năm 2009.

3. Chính sách đối phó của các quốc gia trên thế giới trƣớc cuộc khủng hoảng và
suy thoái kinh tế và tác động đến hoạt động đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài:

Trước những ảnh hưởng nghiêm trọng của cuộc khủng hoảng và suy thoái kinh tế đến
hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài trên thế giới, việc đề ra những chính sách hiệu
quả ở cả cấp độ quốc tế tế cũng như quốc gia đóng một vai trò quan trọng trong việc
thúc đẩy dòng vốn FDI vượt qua thời kỳ suy giảm và đạt tăng trưởng trở lại. Những
chính sách khắc phục hậu quả của cuộc khủng hoảng và suy thoái kinh tế cũng có thể
trực tiếp hoặc gián tiếp tác động đến hoạt động đầu tư nước ngoài toàn cầu, và theo
chiều hướng tiêu cực hay tích cực.

Với khu vực các quốc gia phát triển, nhiều chính phủ đã thực hiện kế hoạch giải cứu
cho các ngành tài chính. Những biện pháp hỗ trợ cũng như bảo đảm của nhà nước tạo

tâm lý an toàn hơn, thúc đẩy hoạt động đầu tư. Hơn nữa, nhiều chính phủ cũng tìm
kiếm sự tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài cho những gói cứu trợ trong từng
ngành, từng lĩnh vực cụ thể. Bên cạnh chính sách giải cứu cho ngành tài chính, chính
phủ cũng thực hiện những chương trình đầu tư công cộng lớn, chủ yếu là xây dựng cơ
sở hạ tầng, không chỉ xây dựng niềm tin cho nền kinh tế mà còn mở ra cơ hội đầu tư
của các nhà đầu tư, đặc biệt là các TNCs. Một số quốc gia, chủ yếu là các nền kinh tế
phát triển như Hoa Kỳ hay các quốc gia châu Âu, thực hiện các chính sách tài chính,


xxiv

tiền tệ nới lỏng nhằm thúc đẩy sự lưu thông dòng vốn, tác động không nhỏ đến dòng
chảy của FDI. Những biện pháp nhằm tạo điều kiện tín dụng trở nên dễ dàng hơn có
thể kích hoạt động đầu tư trở lại.

Tại khu vực các nền kinh tế đang phát triển, những gói kích cầu đầu tư cũng như tiêu
dùng công cộng đã được tung ra nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Hoạt động đầu tư
công cũng được đẩy mạnh nhằm nâng cao triển vọng của nền kinh tế cũng như niềm
tin của các nhà đầu tư tạo ra những lợi thế thu hút dòng vốn FDI. Những chính sách
ưu đãi về thuế cũng như những điều kiện đảm bảo của chính phủ nhiều quốc gia cũng
tạo ra tâm lý an toàn hơn cho các nhà đầu tư nước ngoài, thúc đẩy hoạt động đầu tư.

Trên phạm vi toàn cầu, những hiệp định thương mại được ký kết nhằm rỡ bỏ những
rào cản trong hoạt động buôn bán hàng hóa, dịch vị quốc tế. Nhiều sáng kiến chung về
cung cấp bảo hiểm cho hoạt động đầu tư cũng như xuất nhập khẩu cho các doanh
nghiệp nước ngoài cũng góp phần cải thiện dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại
nhiều khu vực.

Tuy vậy, nhiều biện pháp nhằm giải cứu nền kinh tế trong nước cũng tác động tiêu
cựu đến hoạt động đầu tư nước ngoài. Việc nhiều quốc gia phải quốc hữu hóa các

doanh nghiệp tư nhân, mua lại cổ phần của các công ty tài chính, bảo hiểm và ngân
hàng cũng hạn chế hoạt động đầu tư của khu vực tư nhân, trong đó có đầu tư trực tiếp
nước ngoài. Bên cạnh đó, nhiều nền kinh tế cũng thực hiện chính sách bảo hộ cho các
ngành công nghiệp quan trọng trong nước tạo ra tâm lý e ngại đối với các nhà đầu tư
nước ngoài, gây hạn chế về cả số lượng cũng như quy mô của các dự án đầu tư.

3.1. Những xu hƣớng chính về chính sách thúc đẩy hoạt động đầu tƣ trực tiếp
nƣớc ngoài trên thế giới

3.1.1. Chính sách trên cấp độ quốc tế:
Rất nhiều quốc gia đã thực hiện kế hoạch mua lại, đưa ra những gói trợ giúp các
doanh nghiệp, đặc biệt là các công ty thuộc lĩnh vực tài chính. Nhiều nước phát triển
cũng như đang phát triển đã thực hiện những gói kích thích kinh tế bao gồm những


xxv

chương trình đầu tư, cắt giảm thuế và lãi suất. Những biện pháp này có tác động tích
cực tới dòng vốn FDI.

Bên cạnh việc cải cách hệ thống tài chính, các quốc gia còn tích cực tham gia vào các
hiệp định quốc tế. Trong suốt năm 2008, hệ thống các hiệp định đầu tư quốc tế (IIAs)
không ngừng được mở rộng, 59 hiệp định đầu tư song phương (BITs) mới được kí kết.
Cùng với đó là hiệp định quan trọng về chống đánh thuế hai lần (DTTs). Những hiệp
định giữa các nước phát triển và các nước đang phát triển vẫn chiếm phần lớn với
38% số hiệp định mới.

Phần lớn trong số các hiệp định được ký kết mới là các hiệp định tự do thương mại
liên quan đến tự do hóa đầu tư và bảo hộ. Về một khía cạnh nào đó, các hiệp định đầu
tư quốc tế đóng vai trò ngăn chặn chủ nghĩa bảo hộ đầu tư. Các hiệp định này dựa trên

nguyên tắc không phân biệt đối xử, buộc các nước kí kết phải đối xử công bằng với
các nhà đầu tư trong nước cũng như nước ngoài. Một loạt những ví dụ cho những nỗ
lực này như: Cộng đồng chung châu Âu EC kí hiệp định thành viên kinh tế với 15
CARIFORUM States với việc nhấn mạnh vai trò của tự do hóa đầu tư; ASEAN cũng
kí kết hiệp định với Nhật Bản trong việc hợp tác đầu tư; Hội đồng hợp tác vùng vịnh
(GCC) lần đầu tiên kí kết hiệp định với Singapore và giữa các nước thành viên với
nhau; Hoa Kì kí kết Hiệp định khung thương mại và đầu tư với Cộng đồng các quốc
gia Đông Phi và Hiệp định hợp tác thương mại và đầu tư với Cộng đồng các quốc gia
Nam Phi. Những hiệp định này thiết lập khung cơ sở cho việc quản lý thương mại và
quan hệ đầu tư giữa các bên tham gia và được cho là biện pháp để xúc tiến đầu tư.
Tại hội nghị thượng đỉnh G20 ở Washington D.C. vào ngày 14 tháng 11 năm 2008,
các nhà lãnh đạo của các nước này đã tuyên bố trong vòng 12 tháng, các nước này sẽ
hạn chế việc đưa ra các rào cản đầu tư, thương mại. Tuyên bố này còn được tái khẳng
định tại hội nghị thượng đỉnh G20 2 tháng 4 năm 2009 với lời cam kết không sử dụng
các biện pháp bảo hộ tài chính đặc biệt là các điều luật nhằm hạn chế dòng lưu chuyển
vốn trên thế giới.

3.1.2. Chính sách trên cấp độ quốc gia:

×