Tải bản đầy đủ (.doc) (43 trang)

Thực trạng và giải pháp thúc đẩy xuất khẩu đồ gỗ vào thị trường Hoa Kỳ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (247.48 KB, 43 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Ngày nay, quốc tế hoá, toàn cầu hoá đang là xu thế chung của nhân loại, không
một quốc gia nào có thể thực hiện một chính sách đóng cửa mà vẫn có thể phồn vinh
được. Trong bối cảnh đó, thương mại quốc tế là một lĩnh vực hoạt động đóng vai trò
mũi nhọn thúc đẩy nền kinh tế trong nước hội nhập với nên kinh tế thế giới, phát huy
những lợi thế so sánh của đất nước, tận dụng tiềm năng về vốn, công nghệ, khoa học
kỹ thuật, kỹ năng quản lý tiên tiến từ bên ngoài, duy trì và phát triển văn hoá dân tộc,
tiếp thu những tinh hoa văn hoá nhân loại.
Đảng và Nhà nước ta chủ trương mở rộng và phát triển quan hệ đối ngoại và kinh
tế đối ngoại, trong đó một lĩnh vực cực kỳ quan trọng là thương mại quốc tế. Nó đóng
một vai trò quan trọng vào sự thành công của công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước. Đó là chủ trương hoàn toàn đúng đắn và phù hợp với thời đại, với xu thế
phát triển của nhiều nước trên thế giới trong những năm gần đây.
Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ đã có hiệu lực, tạo ra cơ hội rất lớn
cho việc xuất khẩu hàng hoá của Việt nam sang thị trường Mỹ nói chung và với mặt
hàng đồ gỗ nói riêng. Thị trường Hoa Kỳ là một thị trường lớn nhưng rất mới đối với
các doanh nghiệp của Việt nam. Thị trường này có những đặc thù riêng đòi hỏi phải
có những nghiên cứu toàn diện.
Mặt hàng đồ gỗ là một trong những mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu ngày càng tăng
và chiếm một tỷ trọng lớn trong số các mặt hàng đang xuất khẩu vào thị trường Hoa
Kỳ. Mặc dù đã có mặt tại thị trường lớn và cũng đầy thách thức này nhưng sản phẩm
gỗ Việt Nam vẫn chỉ chiếm một thị phần rất nhỏ.
Với những tài liệu tham khảo của mình, trong khuôn khổ bài đề án môn học này,
em xin được trình bày về “Thực trạng và giải pháp thúc đẩy xuất khẩu đồ gỗ vào
thị trường Hoa Kỳ”
Chương một:
Những vấn đề cơ bản về xuất khẩu đồ gỗ vào thị trường Hoa Kỳ
I. Thị trường Hoa Kỳ
Hoa Kỳ là một quốc gia Bắc Mỹ rộng lớn có diện tích 9.327.614 km2 với số
dân 280 triệu người (năm 2000). Đây là một thị trường riêng lẻ lớn nhất thế giới, là
nước tham gia và giữ vai trò chi phối hầu hết các tổ chức kinh tế quốc dân quan trọng


trên thế giới như: Tổ chức thương mại thế giới (WTO), Ngân hàng thế giới (WB),
Quỹ tiền tệ quốc tế ( IMF), là đầu tàu của khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ
(NAFTA) Và ngay cả đối với ASEAN/ AFTA, Hoa Kỳ tuy không phải là thành viên
song lại là một bên đối thoại quan trọng nhất của tổ chức này. Bởi lẽ trừ Brunei và
Việt Nam, hiện nay Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu quan trọng nhất của các nước
thành viên ASEAN. Chính vì vậy, để có thể thâm nhập thành công vào một thị trường
như vậy trước hết cần phải tìm hiểu về môi trường kinh doanh cũng như là hệ thống
luật pháp của Hoa Kỳ để từ đó có cách tiếp cận phù hợp. Phần này xin đề cập đến một
số đặc điểm của thị trường Hoa Kỳ.
1. Đặc điểm về kinh tế
Nền kinh tế Hoa Kỳ là nền kinh tế thị trường, hoạt động theo cơ chế thị trường
cạnh tranh có lịch sử phát triển hàng trăm năm nay. Hiện nay nó được coi là nền kinh
tế lớn nhất thế giới với tổng giá trị sản phẩm quốc nội bình quân hàng năm trên
10.000 tỷ USD, chiếm trên 20% GDP toàn cầu và thương mại chiếm khoảng 20%
tổng kim ngạch thương mại quốc tế. Với GDP bình quân đầu người hàng năm 32.000
USD, có vai trò thống trị trên thế giới với hơn 24 nước gắn trực tiếp các đồng tiền của
họ vào đồng USD, 55 nước neo giá vào đồng USD, các nước còn lại ở nhiều mức độ
khác nhau vẫn sử dụng các hệ thống dựa vào chỉ tiêu biến động của đồng USD để tính
toán giá trị đồng tiền của mình. Thị trường chứng khoán của Hoa Kỳ hàng năm chi
phối khoảng 8.000 tỷ USD, trong khi đó các thị trường chứng khoán Nhật Bản chỉ vào
khoảng 3.800 tỷ USD, thị trường EU khoảng 4 tỷ USD. Mọi sự biến động của đồng
USD và hệ thống tài chính Hoa Kỳ đều có ảnh hưởng đáng kể đến sự biến động của
nền tài chính quốc tế.
Thị trường Hoa Kỳ vừa là nơi thuận lợi cho đầu tư nước ngoài lại vừa là nơi
đầu tư ra nước ngoài hàng đầu thế giới. Năm 1997, Hoa Kỳ nhận khoảng 108 tỷ USD
đầu tư trực tiếp nước ngoài đồng thời đầu tư trực tiếp ra nước ngoài 120 tỷ USD.
Không những thế, Hoa Kỳ còn là nước đi đầu trong quá trình quốc tế hoấ kinh
tế toàn cầu và thúc đẩy tự so hoá thương mại phát triển bởi vì việc mở rộng sản xuất
hàng hoá và dịch vụ để xuất khẩu rathị trường toàn cầu là một trong những yếu tố cơ
bản cho sự tăng trưởng kinh tế Hoa Kỳ. Mức độ phụ thuộc của nền kinh tế Hoa Kỳ

vào mậu dịch quốc tế ngày càng tăng. Kim ngạch xuất khẩu đã tăng từ 14% GDP năm
1986 lên 25% năm 1998. Tuy vậy, Hoa Kỳ cũng là nước hay dùng tự do hoá thương
mại để yêu cầu các quốc gia khác mở cửa thị trường của họ cho các Công ty của mình
nhưng lại tìm cách bảo vệ nền sản xuất trong nước thông qua hệ thống các tiêu chuẩn
kỹ thuật, vệ sinh an toàn thực phẩm và môi trường Những năm gần đây, kinh tế Hoa
Kỳ đạt được sự phục hồi và tăng trưởng vững chắc, đạt đỉnh cao nhất vào năm 1999
với tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 4,5%. Trong năm 2001 vừa qua, mặc dù có nhiều
biến động lớn xảy ra và có ảnh hưởng không nhỏ đến nền kinh tế - nhất là sau sự kiện
11/9/2001. Tuy nhiên, có một điều chắc chắn rằng, hiện tại và trong những thập kỷ
đầu của thế kỷ 21 này, Hoa Kỳ cũng sẽ vẫn tiếp tục là một nền kinh tế mạnh nhất, có
ảnh hưởng lớn đến kinh tế toàn cầu.
2. Đặc điểm về chính trị
Hệ thống chính trị của Hoa Kỳ hoạt động theo nguyên tắc tam quyền phân lập.
Quyền lập pháp tối cao ở Hoa Kỳ được quốc hội thực hiện thông qua hai viện:
Thượng viện và Hạ nghị viện. Chủ tịch Hạ nghị viện sẽ do các nghị sĩ bầu ra, còn chủ
tịch Thượng nghị viện sẽ do Phó tổng thống đảm nhiệm mặc dù không tham gia trực
tiếp vào các cuộc thảo luận của cơ quan này. Nhiệm kỳ của Thượng nghị viện là 6
năm và cứ 2 năm thì 1/3 số Thượng nghị sỹ sẽ được bầu lại. Nhiệm kỳ của các Hạ
nghị sỹ, đồng thời của Hạ nghị viện là 2 năm. Công việc của hai viện phần lớn được
tiến hành tại các uỷ ban. Hệ thống uỷ ban của hai viện được phát triển khá rộng rãi và
các uỷ ban này đều chịu sự kiểm soát của Đảng có nhiều đại biểu hơn tại viện đó. Nói
chung quyền lãnh đạo ở cả hai viện đều nằm trong tay các thành viên thuộc Đảng có
ưu thế.
Hệ thống luật pháp của Hoa Kỳ được phân chia thành hai cấp chính phủ: các
Bang và Trung ương. Tuy các Bang là những đơn vị hình thành nên một hệ thống
quốc gia thống nhất, nhưng các Bang cũng có những quyền khá rộng rãi và đầy đủ.
Các Bang tự tổ chức Chính phủ Bang, chính quyền địa phương của mình và đưa ra các
nguyên tắc để hệ thống này hoạt động. Các Bang thực hiện điều chỉnh thương mại của
Bang, thiết lập ngân hàng cùng với Chính phủ Trung ương. Toà án của Bang có
quyền phán xét các cá nhân và trừng trị tội phạm.

Trên lãnh thổ mỗi Bang tại Hoa Kỳ đều có hai chính phủ hoạt động: Chính phủ
của Bang với các tổ chức chính quyền và toà án nhằm thực hiện luật pháp của Bang và
chính quyền Trung ương với các tổ chức chính quyền và toà án thi hành luật pháp của
liên bang. Nhà nước có quyền đặt ra tiêu chuẩn đo lường, cấp chứng nhận bản quyền,
bằng phát minh, điều chỉnh thương mại giữa các bang với các nước đồng thời cùng
với chính quyền các Bang đưa ra các quy định về thuế, thành lập ngân hàng
Người đứng đầu chính quyền Trung ương là Tổng thống. Hiến pháp cho phép
Tổng thống được quyền bổ nhiệm nhất định, tuy nhiên những quyết định bổ nhiệm
vào các vị trí quan trọng phải được Thượng nghị viện thông qua. Tổng thống có quyền
bổ nhiệm và bãi nhiệm các quan chức thuộc cơ quan Bang chủ yếu thông qua các cơ
quan hành pháp, uy tín và năng lực chính trị của cá nhân Tổng thống. Phó tổng thống
là người sẽ phụ trách nội các.
Để hiến pháp có hiệu lực, quốc hội đã tạo ra một hệ thống toà án hoàn chỉnh.
Chánh án toà án thuộc hệ thống pháp quyết của Tổng thống bổ nhiệm. Đứng đầu hệ
thống này là toà án tối cao Hoa Kỳ với 9 thẩm phán có trụ sở ở Washington. Để hệ
thống toà án liên bang và toà án Bang thực hiện tốt quyền phán quyết trên cùng một
lãnh thổ, một hệ thống nguyên tắc đã được thiết lập. Theo đó, những vấn đề thuộc
hiến pháp, luật pháp của liên bang sẽ được toà án tối cao Hoa Kỳ xem xét cuối cùng;
việc vi phạm luật lệ của Bang sẽ do toà án của Bang xét xử. Hiến pháp của các Bang
và liên bang nghiêm cấm việc xét xử một công dân hai lần vì cùng một tội. Tuy nhiên,
trong trường hợp bên nguyên đưa đơn ra toà án Bang, bên bị đơn chuyển trường hợp
đó lên toà án liên bang thì vụ án sẽ do toà án liên bang xét xử. Quyết định của toà án
tối cao có tầm quan trọng hàng đầu đối với hệ thống luật của Hoa Kỳ.
Các đảng phái chính trị của Hoa Kỳ có ảnh hưởng lớn trong các cuộc bầu cử ở
cơ sở, Bang và toàn quốc. Từ năm 1960 đến nay, hai Đảng Cộng hoà và Dân chủ là
hai Đảng duy nhất có khả năng giành thắng lợi trong bầu cử, sự khác biệt giữa các
đảng là không lớn mặc dù các Đảng này có những nguyên tắc riêng. Mục đích ban đầu
của hoạt động của các Đảng là giúp cho Chính phủ trình bày cho cử tri các vấn đề
chính trị nảy sinh. Chức năng chủ yếu của các Đảng là đề cử và bầu cử Tổng thống.
Hội nghị đề cử các ứng viên Tổng thống là cách thức chính để các Đảng trong cả nước

thực hiện chức năng của mình.
Một đặc điểm lớn về chính trị của Hoa Kỳ trong chính sách đối ngoại nói chung
và chính sách kinh tế đối ngoại nói riêng là Hoa Kỳ thường hay sử dụng chính sách
cấm vận và trừng phạt kinh tế để đạt được mục đích của mình. Theo thống kê thì kể từ
năm chiến tranh thế giới thứ nhất đến năm 1998 Hoa Kỳ đã áp đặt 115 lệnh trừng
phạt, trong đó hơn một nửa được ban hành trong 4 năm cuối và 2/3 dân số thế giới
đang phải chịu một hình thức trừng phạt nào đó do Hoa Kỳ áp đặt. Các lệnh trừng
phạt, cấm vận này đã vi phạm những nguyên tắc cơ bản về thách thức có tiềm năng
phá hoại tương lai của WTO.
3. Đặc điểm về luật pháp
Hoa Kỳ có hệ thống luật pháp chặt chẽ, chi tiết và phức tạp hàng đầu thế giới.
Luật pháp được xem là một vũ khí thương mại lợi hại của Hoa Kỳ. Người ta nói rằng
có hiểu biết về luật pháp xem như bạn đã đặt được một chân vào thị trường Hoa Kỳ.
Đứng trên góc độ xâm nhập của các doanh nghiệp vào thị trường Hoa Kỳ, hệ
thống luật pháp về kinh doanh của Hoa Kỳ có một số đặc điểm đáng chú ý sau đây:
Khung luật cơ bản cho việc xuất khẩu sang Hoa Kỳ gồm luật thuế suất năm
1930, luật buôn bán năm 1974, hiệp định buôn bán 1979, luật tổng hợp về buôn bán
và cạnh tranh năm 1988. Các luật này đặt ra nhằm điều tiết hàng hoá nhập khẩu vào
Hoa Kỳ; bảo vệ người tiêu dùng và nhà sản xuất khỏi hàng giả, hàng kém chất lượng;
định hướng cho các hoạt động buôn bán; quy định về sự bảo trợ của Chính phủ với
các chướng ngại kỹ thuật và các hình thức bán phá giá, trợ giá, các biện pháp trừng
phạt thương mại.
Về luật thuế, đáng chú ý là danh bạ thuế quan thống nhất HTS và chế độ ưu đãi
thuế quan phổ cập GSP. Trong đó GSP rất quan trọng với các quốc gia đang phát triển
như Việt Nam. Nội dung chính của chế độ ưu đãi thuế quan phổ cập GSP là miễn thuế
hoàn toàn hoặc ưu đãi mức thuế thấp cho những mặt hàng nhập khẩu từ các nước đang
phát triển được Hoa Kỳ chấp thuận cho hưởng GSP. Đây là hệ thống ưu đãi của GSP
thậm chí còn thấp hơn mức thuế ưu đãi tối huệ quốc MFN-là chế độ ưu đãi với điều
kiện có đi có lại giữa các nước thành viên WTO, các nước có hiệp định song phương
với Hoa Kỳ.

Về Hải quan, hàng hoá nhập khẩu vào Hoa Kỳ được áp dụng thuế suất theo
biểu quan Hoa Kỳ gồm 2 cột: cột 1 quy định thuế suất tối huệ quốc, cột 2 quy định
thuế suất đầy đủ hoặc thuế suất pháp định áp dụng cho các nước không được hưởng
quy chế tối huệ quốc. Sự khác biệt giữa hai cột thuế suất này thông thường là từ 2-5
lần. Cách xác định giá trị hàng hoá để thu thuế của Hải quan Hoa Kỳ hiện nay chủ yếu
căn cứ theo hiệp định về cách tính trị giá tính thuế của Hải quan trong Hiệp định
Tokyo của GATT (nay WTO) và luật về các hiệp định thương mại năm 1979. Phí thủ
tục Hải quan được quy định trong Luật Hải quan và thương mại năm 1990. Ngoài ra,
còn cần phải chú ý các quy định khác của Hải quan như nhãn mác phải ghi rõ nước
xuất xứ và về chế độ hoàn thuế.
Một vấn đề nữa mà các doanh nghiệp cần lưu ý về môi trường luật pháp của
Hoa Kỳ và Luật thuế bù giá và Luật chống phá giá. Đây là hai đạo luật phổ biến nhất
bảo hộ các ngành công nghiệp Hoa Kỳ chống lại hàng nhập khẩu. Cả hai luật này quy
định rằng, phần thuế bổ sung sẽ được ấn định đối với hàng nhập khẩu nếu chúng bị
phát hiện là được trao đổi không công bằng.
4. Đặc điểm về văn hoá và con người
Hoa Kỳ có thành phần xã hội đa dạng, gồm nhiều cộng đồng riêng biệt. Hầu hết
người Hoa Kỳ có nguồn gốc từ châu Âu, các dân tộc thiểu số gồm người Hoa Kỳ bản
xứ, Mỹ gốc Phi, Mỹ La Tinh, châu Á và người từ các đảo Thái Bình Dương. Các dân
tộc này đã đem vào nước Hoa Kỳ những phong tục tập quán, ngôn ngữ, đức tin riêng
của họ. Điều này tạo nên một môi trường văn hoá phong phú và đa dạng. Tuy nhiên,
nhìn chung văn hoá Hoa Kỳ chủ yếu thừa hưởng một số kinh nghiệm và địa danh của
người bản xứ Indian, còn hầu hết các mặt như ngôn ngữ, thể chế, tôn giáo, văn học,
kiến trúc, âm nhạc đều có xuất xứ từ châu Âu nói chung và nước Anh, Tây Âu nói
riêng.
Có thể nói, chủ nghĩa thực dụng là nét tiêu biểu nhất của văn hoá Hoa Kỳ và lối
sống Hoa Kỳ. Một số học giả nước ngoài đã nhận xét: "Cái gắn bó của người Hoa Kỳ
với nhau là quyền lợi chứ không phải là tư tưởng". Điều này thể hiện trong cách tính
toán sòng phẳng đến chi li trong mọi việc với bất kỳ ai, từ người thân trong gia đình
tới bạn hữu. Người Hoa Kỳ trọng sự chính xác, cách làm việc cần thận, tỉ mỉ, khoa

học. Họ rất quý trọng thời gian, ở Hoa Kỳ có câu thành ngữ "thời gian là tiền bạc".
Chính vì vậy, họ đánh giá cao hiệu quả và năng suất làm việc của một người, có chế
độ đãi ngộ thích đáng với đóng góp của người nào đó; đồng thời cũng có thói quen
khai thác tối đa những người làm việc với họ. Người Hoa Kỳ thường đánh giá con
người qua sự đóng góp vào sản xuất ra của cải vật chất, coi trọng trình độ chuyên môn
và khả năng ra quyết định của cá nhân.
Một đặc điểm lớn của lối sống Hoa Kỳ là tính cá nhân chủ nghĩa cao độ. Nó thể
hiện ở chỗ người ta rất coi trọng tự do cá nhân, coi trọng dân chủ, họ chỉ quan tâm đến
những gì có liên quan đến đời sống hàng ngày của họ. Trong kinh doanh, chủ nghĩa tự
do cá nhân biểu hiện ở việc các cá nhân, doanh nghiệp được tự do lựa chọn việc làm,
nơi làm việc, chọn loại hình kinh doanh, loại hình đầu tư.
Tôn giáo chiếm vị trí quan trọng trong đời sống văn hoá tinh thần của người
Hoa Kỳ. Ở Hoa Kỳ có tới 219 tôn giáo lớn nhỏ, song chỉ có 3 trụ cột chính là Kito tôn
giáo chiếm 40%, Thiên chúa giáo 30%, Do Thái giáo 3,2%. Còn lại là đạo chính thống
Phương Đông, Đạo Phật, Đạo Hồi hoặc không đi theo tôn giáo nào. Tuy đa số dân
chúng theo đạo nhưng tín ngưỡng ở Hoa Kỳ không được coi trọng bằng chủ nghĩa cá
nhân, cho dù theo đạo nhưng đôi khi họ vẫn tán thành những đức tin trái ngược hoàn
toàn với tôn giáo mà họ đang theo. Đây chính là thuận lợi đối với những doanh nghiệp
muốn xâm nhập vào thị trường Hoa Kỳ, bởi vì các doanh nghiệp ít khi (nếu không nói
là không) gặp phải trở ngại nào do yếu tốn tín ngưỡng hay tôn giáo như các thị trường
khác.
II. Thị trường đồ gỗ Hoa Kỳ
1. Quy mô thị trường
Hoa Kỳ là nước nhập khẩu gỗ, sản phẩm gỗ và đồ nội thất hàng đầu thế giới.
Hàng năm Hoa Kỳ nhập một khối lượng trên 40 tỷ USD đồ gỗ và nội thất. Năm 2002
Hoa Kỳ nhập khẩu khoảng gần 16 tỷ USD gỗ và sản phẩm gỗ (HTS44) và 27 tỷ đồ
nội thất và đồ gỗ (HTS94). Theo đánh giá của Viện Nghiên cứu Công nghiệp đồ nội
thất (Furniture Industry Research Institute, www.csilmilano.com), sức tiêu thụ đồ nội
thất ở Hoa Kỳ sẽ tăng 25,5% trong giai đoạn 2000-2010, đạt mức 80,04 tỷ USD năm
2010.

Chỉ tiêu cho đồ gỗ và nội thất tăng một cách đáng kể ở khắp các bang trên nước
Hoa Kỳ, trong đó các bang miền Tây luôn giữ vị trí hàng đầu. Hiện tại bang California
là thị trường hàng gỗ và nội thất quan trọng nhất của Hoa Kỳ, Texas và Florida cũng
là các thị trường rất lớn cho các nhà xuất khẩu hàng gỗ và nội thất trên toàn thế giới.
Bang Washington ở phía đông bắc không chỉ có vị trí thuận lợi mà còn có tốc độ siêu
tăng trưởng, tuy nhiên các bang được dự đoán có tiềm năng tăng trưởng cao nhất
trong tương lai là Nevada, Utah, Arizona và Colorado.
Không chỉ nhập khẩu, Hoa Kỳ cũng là nước xuất khẩu gỗ và đồ gỗ hàng đầu thế
giới và ngành công nghiệp gỗ của Hoa Kỳ cũng rất năng động. Tổng số các công ty
chế biến gỗ ở Hoa Kỳ lên tới 86.000 công ty, trong đo có khoảng 19.000 công ty sản
xuất gỗ, 53.000 công ty sản xuất đồ gỗ và 14.000 công ty chế tạo nội thất. Oregon là
bang sản xuất đồ gỗ lớn nhất của Hoa Kỳ, trong khi bang North Caronia là gang sản
xuất đồ gỗ nội thất lớn nhất. Ngành công nghiệp gỗ của Hoa Kỳ rất chủ động trong
việc xuất khẩu và kim ngạch xuất khẩu trung bình hàng năm đạt 5-6 tỷ USD. Tuy
nhiên, trong những năm gần đây, mức độ năng động của ngành công nghiệp gỗ bị
giảm sút, nguyên nhân chủ yếu là vì hàng hóa Hoa Kỳ bị đội giá do giá lao động cao
và tỉ giá USD ngày càng cao so với nhiều đồng tiền khác (trừ Euro sau chiến tranh
Iraq đã tăng giá so với đồng USD).
Phân tích nhập khẩu của Hoa Kỳ cho thấy những mặt hàng nhập khẩu lớn nhất
là: bàn ghế bằng gỗ (chiếm 15% nhập khẩu của nhóm HTS94), phụ kiện ghế dùng cho
xe cộ bằng kim loại (13%), đồ gỗ nhà bếp (8%), bàn ghế văn phòng (7%), gỗ tùng
bách (39% nhập khẩu của nhóm HTS44).
Nhập khẩu đồ nội thất và đồ gỗ của Hoa Kỳ (năm 2002)
HTS Tên hàng
Trị giá
(triệu USD)
Tỷ
trọng
94036080 Bàn ghế bằng gỗ 3.897 14,6%
94019010

94035090
94032000
94051060
94016160
94017900
94039070
94054080
94033080
94016960
94016140
94039080
94019050
94054060
94017100
94052060
94055040
94031000
94052080
94049085
94059940
94053000
94038060
94049080
94049020
94029000
Phụ tùng ghế xe cộ kim loại
Đồ gỗ dùng nhà bếp
Bàn ghế văn phòng kim loại
Đèn chùm trang trí nơi công
cộng

Ghế gỗ nhồi đệm bằng vật liệu
khác
Ghế kim loại không nhồi đệm
Phụ tùng ghế thực vật
Đèn trang trí không kim loại
Đồ văn phòng bằng vật liệu
khác
Ghế nhồi đệm bằng gỗ
Ghế gỗ nhồi đệm
Phụ tùng bàn ghế khác
Phụ tùng ghế xe cộ, khôn kim
loại
Đèn trang trí khác bằng kim
loại
Ghế kim loại nhồi đệm
Đèn cây bằng kim loại
Đèn không dùng điện
Đồ nội thất văn phòng
Đèn cây làm bằng vật liệu khác
kim loại
Phủ giường bằng vật liệu khác
3.545
2.059
1.990
1.176
965
897
639
639
603

585
546
546
487
483
472
423
410
360
338
302
284
238
227
200
170
165
13,3%
7,7%
7,4%
4,4%
3,6%
3,4%
2,4%
2,4%
2,3%
2,2%
2,0%
2,0%
2,0&

1,8%
1,8%
1,6%
1,5%
1,3%
1,1%
1,1%
0,9%
0,8%
0,7%
0,6%
0,6%
0,6%
94037080
94016980
94051080
94038030
Phụ tùng đèn không dùng điện
Đèn Noel
Ghế bằng vật liệu thực vật khác
Phủ giường bằng bông
Gối
Bàn ghế y tế
Bàn ghế nhựa
Ghế gỗ không nhồi đệm
Đèn chùm trang trí nhà ở
Ghế bằng mây tre
159
156
150

117
0,6%
0,6%
0,6%
0,4%
Tổng nhập khẩu HTS94 26.717 100%
(Bảng số liệu 01)
Nhập khẩu gỗ và gỗ chế biến của Hoa Kỳ (năm 2002)
HTS Tên hàng
Trị giá
(triệu USD)
Tỷ
trọng
44071000
44189045
44102900
44102100
44091040
44140000
44111940
44121340
44089001
44079900
44185000
Gỗ tùng bách
Đồ mộc bằng gỗ
Gỗ ván xẻ đã sơ chế
Gỗ ván xẻ thô cha mài nhẵn
Gỗ ép
Khung ảnh bằng gỗ

Gỗ dán trên 0.8g/cm3
Gỗ dán 6mm bằng gỗ nhiệt
đới
Gỗ bìa mỏng để làm gỗ dán
Gỗ không phân hạng khác
6.156
806
558
518
463
399
338
300
287
286
230
39%
5%
4%
3%
3%
3%
2%
2%
2%
2%
1%
44121405
44201000
44121431

44121940
44112100
44081001
44152080
44072400
44219040
Gỗ dăm
Gỗ dán 6mm bằng gỗ
không phải nhiệt đới
Tượng Gỗ
Gỗ dán 6mm không phủ
mặt
Gỗ dán 6mm bằng tùng
bách
Gỗ dán từ 0.5-0.8g/cm3
Gỗ dán dời 6mm
Gỗ palet
Gỗ nhiệt đới
Mành che
213
189
184
164
143
136
113
91
72
1%
1%

1%
1%
1%
1%
1%
1%
0%
Tổng nhập khẩu nhóm HTS44 15.725 100
(Bảng số liệu 02) Nguồn: USITC
Phần lớn nhóm hàng gỗ và chế biến được nhập khẩu để phục vụ nhu cầu tiêu
dùng nội địa, một phần được chế biến để xuất khẩu và tái xuất khẩu.
Đặc điểm nổi bật nhất của thị trường Hoa Kỳ là quy mô lớn, nhu cầu tăng
thường xuyên và rất đa dạng sản phẩm. Nhưng đây cũng là khó khăn cho nhiều quốc
gia đang phát triển, trong đó có Việt Nam vì các đơn hàng thường rất lớn nên khó đáp
ứng được yêu cầu.
Thị trường Hoa Kỳ cũng là thị trường mở nên cạnh tranh rất ác liệt và nước có
lao động rẻ như Trung Quốc đã chiếm lĩnh thị phần lớn nhất (37%) trong nhập khẩu
của Hoa Kỳ, Canada đứng thứ 2 (18%) và Mehico đứng thứ 3 (17%). Nhờ có hiệp
định thương mại song phương Việt Nam - Hoa Kỳ từ cuối năm 2001, Việt Nam đã
thâm nhập thị trường Hoa Kỳ và năm 2003 đã đứng vào danh sách 15 nước xuất khẩu
lớn nhất vào Hoa Kỳ.
Xuất khẩu đồ gỗ (HTS94) của các nước/khu vực sang Hoa Kỳ (thị phần nhập
khẩu đồ nội thất và đồ gỗ của Hoa Kỳ)
Nước/khu vực 2002 (tỷ USD) 9 T/2003 (tỷUSD) Tỷ trọng (2002, %)
Trung Quốc
Canada
Mehico
Italia
Đài Loan
Indonesia

Malaysia
Thái Lan
Philippine
Brazil
Anh
Việt Nam
Đan Mạch
10
4,9
4,5
1,4
0,97
0,55
0,5
0,4
0,28
0,25
0,3
0,085
0,15
8,6
3,8
3,8
1,1
0,7
0,4
0,4
0,3
0,2
0,2

0,2
0,15
0,14
37,5%
18,4%
16,9%
3,6%
2,1%
1,9%
1,5%
1,0%
0,9%
1,1%
0,7%
0,6%
(Bảng số liệu 03) Nguồn: USITC
2. Những định chế và đòi hỏi của thị trường
2.1 Những vấn đề chung về hải quan
Hải quan Hoa Kỳ hoạt động ở 50 bang cùng với quận Colombia và Pierto Rico,
có trụ sở chính tại thành phố Washinton D.C và được chia thành 7 vùng địa lý. Ở mỗi
vùng hải quan lại được chia nhỏ về các quận phụ trách các cửa khảu biển và sân bay.
Hàng hóa nhập khẩu vào Hoa Kỳ nói chung được phân thành 3 loại chủ yếu:
hàng hóa để sử dụng ngay, hàng hóa được lưu giữ trong kho hàng và hàng quá cảnh.
Yêu cầu nhập khẩu cho cả ba loại hàng này như nhau, nhưng thời gian để hoàn tất các
thủ tục hải quan cho mỗi loại khác nhau.
Để nhập khẩu hàng hóa, nhà nhập khẩu (thường là người mua hàng hay nhà môi
giới hải quan) ngoài việc phải trả một khoản lệ phí hải quan, phải trình những giấy tờ
khác, gồm: Vận đơn, hóa đơn thương mại của nhà xuất khẩu, bản kê khai hàng hóa
chở trên tàu (mẫu hải quan số 7533) hoặc đơn xin và giấy phép đặc biệt cho giao hàng
ngay (mẫu hải quan số 3461), phiếu đóng gói.

Theo quy định của Hải quan Hoa Kỳ, sau khi xuất trình các chứng từ trên, hàng
hóa sẽ được thông quan nếu không có vi phạm gì về pháp luật hoặc hành chính. Hồ sơ
nhập khẩu sẽ được lưu và thuế nhập khẩu ước tính phải được thanh toán trong vòng
10 ngày làm việc kể từ lúc giải phóng hàng hóa ở trạm hải quan được chỉ định.
Đối với mặt hàng gỗ và sản phẩm gỗ (HST44), các thủ tục rời bến được cho là
quá nhiều khó khăn cho các nhà xuất khẩu. Hải quan Hoa Kỳ đã thay đổi phân loại gỗ
dán (HS 4412) và nhiều loại đã bị tăng thuế từ 0% lên 8%. Còn với hàng gỗ nội thất
(HS 94), thủ tục hải quan không quá khó khăn. Việc nhập khẩu hàng gỗ và gỗ nội thất
phụ thuộc phạm vi điều chỉnh của các quy định chung như được xác định trong các bộ
luật của các quy định liên bang (các văn bản nhập khẩu – 19 CRF 141; điều tra Hải
quan – 19 CFR 151 và thuế Hải quan 19 CFR – 159).
Tất cả hàng hóa được nhập vào Hoa Kỳ phải được dán nhãn xuất xứ. Hải quan
Hoa Kỳ có một yêu cầu chung cho việc ghi nước xuất xứ vào tất cả các mặt hàng
ngoại nhập vào Hoa Kỳ. Các mặt hàng này phải được dán nhãn dễ đọc với tên tiếng
Anh của nước xuất xứ trừ phi pháp luật có quy định khác. Trong các sản phẩm gỗ, chỉ
gỗ xẻ, rào gỗ, gỗ lát nền là không cần dán nhãn xuất xứ. Nhãn mác xuất xứ phải dễ
đọc và phải dán ở mặt dễ nhận thấy, đồng thời phải khó tẩy xóa và lâu bền cùng sản
phẩm. Tuy nhiên bất kỳ một biện pháp hợp lý trong dãn nhãn đều được chấp nhận kể
cả mác dính. Chỉ có một điều kiện duy nhất đó là mác dính luôn phải dính trên sản
phẩm và chỉ có thể bị phá hủy bởi các hành động có chủ ý.
Các hàng hóa được yêu cầu phải dán nhãn xuất xứ nếu nhập vào Hoa Kỳ mà
không có nhãn mác xuất xứ sẽ phảỉ nộp thuế phụ thu hoặc bị phá hủy theo yêu cầu
điều tra của hải quan trước khi đưa vào Hoa Kỳ. Các nhà xuất khẩu nên dán nhãn xuất
xứ vào sản phẩm một cách chính xác để tránh bị phạt và nộp phí bổ sung tại Hải quan.
Thông thường, trong các trường hợp này mức phạt vào khoảng 10% (áp dụng 19CFR
134).
2.2 Thuế và thuế nhập khẩu
Mức thuế ở Hoa Kỳ nói chung là thấp. Đối với đồ gỗ thuộc mã HS 44, thuế
quan thay đổi từ 0 đến 10,7%. Trên thực tế, thuế đánh vào gỗ dán cao nhất (8 và
10,7%). Thuế suất được áp dụng cho hàng gỗ nội thất (mã HS94) đa số là 0% và có

một số mặt hàng đệm giường bằng lông vịt có mức thuế 9 và 13% (HST 94043080 và
94049085 và 13%).
Một số công ty sản xuất gỗ lâm sản nhà đã phàn nàn về gánh nặng thuế phụ thu
đánh vào các nhà nhập khẩu, điều này sẽ làm tăng mức thuế nhập khẩu. Cụ thể:
Phí xử lý hàng hóa (MPF) (0,21%) theo giá FOB, trị giá từ 25 USD đến 485
USD. Phí này do Hải quan Hoa Kỳ và Puerto Rico thu.
Thuế bảo quản cầu cảng (HMT) (0,125%) giá FOB
Loại khác: phí thanh quản và tiền đặt cọc (bond) nộp cho Hải quan.
2.3 Chứng chỉ và tiêu chuẩn của Hoa Kỳ
Ở rơm hay đồ bao bọc bằng gỗ khi nhập vào Hoa Kỳ phải có giấy chứng nhận
vệ sinh dịch tễ. Giấy chứng nhận này có thể do nhà xuất khẩu cung cấp. Giấy chứng
nhận cần xác nhận rằng các sản phẩm không bị nhiễm bệnh hay dịch của gỗ. Quy định
này do Văn phòng điều tra sức khỏe động thực vật ban hành tại các điều khoản của 7
CFR 300 và 7 CFR 319. Giấy chứng nhận xử lý nhiệt cũng được yêu cầu đối với việc
nhập khẩu các nguyên liệu đóng gói bằng gỗ.
Hiệp hội ngành gỗ CEI Bois đã chuyển đến ban tư vấn những phàn nàn liên
quan đến các khó khăn mà các thành viên gặp phải trong việc tuân thủ một số tiêu
chuẩn của Hoa Kỳ:
Gỗ thông xẻ khung: Chất lượng của các bộ phận của gỗ xẻ phải được Ủy ban
tiêu chuẩn gỗ Hoa Kỳ thử nghiệm và công nhận trên cơ sở vị trí địa lý của khu vực
trồng.
Gỗ thông đã được cưa (HS 4407): hệ thống ALS yêu cầu kiểm tra kỹ thuật thiết
yếu và giám sát chất lượng hàng tháng tại xưởng cưa đối với cấp độ xây dựng.
Gỗ ván sàn: Chi phí vận tải cao hơn do việc hạn chế khối lượng vận tải (21
tấn/xe chở). Theo các nhà xuất khẩu và nhập khẩu của Hoa Kỳ, quy định vận tải của
Hoa Kỳ không cho phép các xe có trọng lượng vượt quá 21 tấn.
Ngoài ra còn những vấn đề khác như: các quy tắc vệ sinh dịch tễ và các yêu cầu
về chứng chỉ vệ sinh dịch tễ đối với đồ nội thất được nhồi đệm quá phiền phức hay
các quy định kiểm tra gỗ thông của Hoa Kỳ khác với quy định của EU.
Các công ty nhập khẩu chủ yếu phàn nàn về các quy tắc phân loại gỗ. Chương

trình phân cấp gỗ này do Ủy ban tiêu chuẩn gỗ Hoa Kỳ (ALSC) thực hiện. Ủy ban này
bao gồm các nhà sản xuất, phân phối, sử dụng và người tiêu dùng, hoạt động như một
ủy ban thường trực về tiêu chuẩn gỗ thông của Hoa Kỳ (tiêu chuẩn sản phẩm tự
nguyện PS 20). Ủy ban này cũng phụ trách quản lý các chương trình ủy nhiệm phân
loại cấp bậc gỗ được sản xuất theo PS 20. Hệ thống tiêu chuẩn gỗ của Hoa Kỳ (ALS)
là một bộ phận thống nhất của nền kinh tế công nghiệp gỗ, là cơ sở cho giao dịch
thương mại của tất cả các loại gỗ thông tại khu vực Bắc Mỹ. Hệ thống này cũng đưa
ra các tiêu chuẩn chấp thuận gỗ và giá trị kiểu dáng gỗ thông qua việc xây dựng một
bộ luật chung cho toàn liên bang.
Như đã được ghi nhận ở trên, chức năng của hệ thống ALS là để đảm bảo các
tiêu chuẩn gỗ thông của Hoa Kỳ. Ủy ban ALSC theo thủ tục phát triển các tiêu chuẩn
của hàng hóa một cách tự nguyện của Bộ Thương mại Hoa Kỳ, thông qua quá trình
đồng thuận sẽ thiết lập các tiêu chuẩn kích cỡ, các khoản điều tra, các chính sách, các
yêu cầu dán nhãn phân loại và các chế tài cho cho chương trình chứng nhận. Các hoạt
động trên được Ủy ban ALSC thực hiện hoặc thông qua khuôn khổ do ALSC, PS 20
và ủy ban quy tắc phân loại quốc gia (NGRC) thành lập. Ủy ban NGRC là một cơ
quan có thẩm quyền hoạt động theo quyết định của ALSC trong một số lĩnh vực cụ
thể liên quan đến viêc đảm bảo các quy tắc phân loại quốc gia cho hàng gỗ kích thước
lớn.
Thậm chí nếu các tiêu chuẩn của ALDS có vẻ như không bắt buộc thì các nhãn
hàng vào Hoa Kỳ cũng nên xem xét việc tôn trọng các tiêu chuẩn của Hoa Kỳ để tiêu
thụ hàng hóa của mình tại Hoa Kỳ. Việc tôn trọng các tiêu chuẩn này sẽ gây ra các chi
phí bổ sung cho các công ty xuất khẩu, bởi vì họ sẽ phải tiến hành những cuộc thử
nghiệm mới và phải lắp đặt máy móc mới.
Theo chính sách đối với gỗ ngoại nhập của ALSC, các văn phòng công ty nước
ngoài có thể được chứng nhận, phân loại hàng gỗ. Đối với gỗ có nguồn gốc nước
ngoài được phân loại theo hệ thống ALSC. Việc phân loại này phải được thực hiện
trên cơ sở các thủ tục đã được ALSC quy định và các quy định phân cấp quốc gia cho
gỗ có kích thước lớn hoặc quy tắc phân loại do Văn phòng hoạch định quy tắc Hoa Kỳ
ban hành.

Cùng với chương trình chứng nhận gỗ chưa được xử lý, Ủy ban ALSC cũng
quản lý chương trình chứng nhận dán nhãn chất lượng cho gỗ đã qua xử lý được sản
xuất theo tiêu chuẩn do Hiệp hội bảo tồn gỗ Hoa Kỳ ban hành và giám sát, chương
trình dán nhãn gỗ nguyên liệu đóng gói không có nguồn gồc công nghiệp do Hiệp ước
bảo vệ gỗ quốc tế quy định. Từ tháng 7/2001, chương trình đóng gói gỗ không có
nguồn gốc công nghiệp đã được áp dụng.
Theo một số công ty, cần phải bỏ nhiều chi phí để đáp ứng các tiêu chuẩn phân
loại của Hoa Kỳ. Để có thể xuất khẩu gỗ chưa được xử lý sang Hoa Kỳ, các tiêu
chuẩn của Hoa Kỳ yêu cầu tiệt trùng cụ thể và các thiết bị để tiệt trùng lại rất đắt. Hơn
thế, máy móc thiết bị sản xuất phải được văn phòng do Hoa Kỳ ủy quyền kiểm tra.
Các công ty thường miễn cưỡng xuất trình kỹ thuật này bởi họ không biết liệu công
việc kinh doanh của mình với Hoa Kỳ có thành công hay không. Canada cũng áp dụng
quy định tương tự và chính tình trạng này đã làm hạn chế việc xuất khẩu của các nước
vào thị trường Bắc Mỹ.
2.4 Quy tắc dán nhãn
Hàng gỗ nội thất cần được dán nhãn theo đúng Luật dán nhãn và đóng gói hợp
lý -15 CFR, mục 500-503.
Luật dán nhãn và đóng gói hợp lý yêu cầu mỗi kiện hàng hóa tiêu dùng dành
cho hộ gia đình (mặt hàng mà được đưa vào đạo luật) phải mang nhãn hiệu hàng hóa,
theo đó:
Tuyên bố xác định hàng hóa.
Tên và địa chỉ của nơi sản xuất, đóng gói hoặc phân phối.
Khối lượng tịnh của sản phẩm về mặt trọng lượng, kích thước hay số đém (kích
thước phải được đo bằng đơn vị inch và cm).
Liên quan đến đồ nội thất gia đình, Ủy ban Thương mại Liên bang đã thông qua
một hướng dẫn liên ngành công nghiệp đồ gỗ gia dụng. Hàng nội thất và các bộ phận
của nó phải tuân thủ với các quy định cụ thể với mục đích bảo vệ người tiêu dùng
(16CFR). Hướng dẫn này dự báo từng nhãn hàng hóa cụ thể miêu tả đồ gỗ và hàng
nhái cũng như nhãn hiệu liên quan đến đặc điểm của hàng hóa. Nhãn hiệu cần chứa
đựng các thông tin về kiểu dáng và nguồn gốc xuất xứ hàng hóa. Hướng dẫn này cũng

cần điều chỉnh việc sử dụng một số thuật ngữ cụ thể, ví dụ từ “new” (mới). Thông tin
đầy đủ của cuốn hướng dẫn này có thể tham khảo trên website của Ủy ban thương mại
Liên bang. Các quy định này không bắt buộc pahỉ tuân thủ đối với thủ tục qua hải
quan nhưng phải tuân thủ nếu muốn bán hàng tại Hoa Kỳ.
Bên cạnh đó, đạo luật các chất có khả năng gây hại của Liên bang còn bổ sung
một số yêu cầu đối với mặt hàng gỗ gia dụng dùng cho trẻ em (giường) (xem 16CFR
1508; 16CFR 1500; 16CFR 1513). Các nhà nhập khẩu hang nhồi đệm cần phải chú ý
rằng một số nước đã quy định nhãn bổ sung đối với đồ gỗ cho trẻ em hoặc các dạng
khác của đồ gỗ nội thất.
Đạo luật hàng vải dễ cháy cũng quy định các tiê chuẩn an toàn cháy nổ cụ thể.
Đạo luật này chỉ được áp dụng đối với vải được dùng để sản xuất trang phục (vải
thuộc về trang trí thuộc về tiêu chuẩn tự nguyện). Các nước thành viên đã báo cáo
rằng cấp độ liên bang đối với hàng vải trang trí đã bị bắt buộc phải áp dụng tại cấp độ
bang (như Califonia, Masachusett).
2.5 Luật pháp liên quan
Các quy định của Hoa Kỳ về gỗ và đồ gỗ như sau:
HTS 44: Gỗ và sản phẩm gỗ: Bao gồm gỗ củi, gỗ đốt lấy than, gỗ cây, gỗ vụn,
mạt gỗ, gỗ làm đường ray, gỗ xẻ, gỗ băm, gỗ lạng, gỗ ván ép, gỗ ép từ vụn gỗ, gỗ làm
khung, gỗ đóng thùng hàng, gỗ mỏ, gỗ xây dựng… và các đồ dùng dụng cụ bằng gỗ,
như mắc áo, đồ gỗ nhà bếp…
Đối với danh mục này, việc nhập khẩu phải:
Phù hợp với quy định của Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ (USDA) về giám định tại
cảng đến.
Phù hợp với Luật liên bang về sâu bệnh ở cây.
Phù hợp với quy định của Hội đồng thương mại Liên bang (FTC) và Hội đồng
an toàn tiêu dùng (nếu là hàng tiêu dùng.
Phù hợp với các quy định về lập hóa đơn (đối với một số hàng gỗ).
Phù hợp với các quy định của FWS về giấy phếp nhập khẩu, giấy phép xuất
khẩu của nước xuất xứ, các quy định về tài liệu giao hàng và hồ sơ theo dõi (nếu là gỗ
quý hiếm).

Nhập vào cửa khẩu/cảng theo chỉ định của FWS và phù hợp với các quy định
của FWS và Hải quan về việc thông báo hàng đến và giám định tại cảng đến (nếu
thuộc loại quý hiếm).
Nhập khẩu gỗ cây phải xin giấy phép của APHIS thuộc USDA.
Nhập khẩu gỗ quý hiếm phải ghi nhãn (Marking) rõ ràng bê ngoài container tên
và địa chỉ người xuất khẩu và người nhập khẩu, mô tả chính xác chủng loại gỗ.
Những văn bản pháp luật điều tiết chế độ nhập khẩu hàng hóa thuộc nhóm
HTS44
Số văn bản Loại biện pháp áp dụng Cơ quan nhà nước điều hành
15 USC 1263
16 USC 1531
16 USC 3371 et
seg.
18 USC 42 et seg.
19 CFR 12.10 et
seg.
7 CFR Part 351
CITES
Quy chế an toàn tiêu dùng
Cấm nhập khẩu thịt thú dữ
Cấm nhập khẩu động vật
quý mà nước khác cấm
Thủ tục khai báo hải quan
Thủ tục khai báo hải quan
Vệ sinh dịch tễ
Cấm nhập khẩu động thực
vật quý hiếm
APHIS PPQ, FWS, USCS
APHIS PPQ, FWS. USCS
APHIS PPQ, FWS, USCS

APHIS PPQ, FWS. USCS
APHIS PPQ, FWS, USCS
APHIS PPQ, FWS, USCS
APHIS PPQ, FWS, USCS
(Bảng số liệu 03)
HTS 94: Đồ nội thất: Bao gồm các loại ghế, đồ đạc dụng cụ trong bệnh viện;
các đồ đạc trong nhà, văn phòng, giường tủ, bàn ghế, đệm; đèn và các tám ngăn xây
dựng làm sẵn… Các đồ dùng này có thể làm hoàn toàn bằng kim loại, gỗ, nhựa, hay
làm khung có bọc da, vải hoặc các vật liệu khác.
Đối với danh mục hàng này, việc nhập khẩu phải:
Phù hợp với các tiêu chuẩn sản phẩm tiêu dùng của Uỷ ban an toàn tiêu dùng
(CPSC) về an toàn tiêu dùng.
Đối với đệm: phù hợp với các tiêu chuẩn Underwriter’s Laboratory (UL), do
CPSC quản lý.
Các đồ có thành phần là vải dệt phải ghi theo các quy định TFPLA về xác định
nguồn gốc vải.
Những văn bản pháp luật điều tiết chế độ nhập khẩu hàng hóa thuộc nhóm
HTS94:
Số văn bản Loại biện pháp áp dụng
Cơ quan nhà nước
điều hành
15 USC 1191-1204
15 USC 1263
15 USC 70-77
16 CFR 1610, 1611,
1615, 1616, 1630-1632
19 CFR 1112b
Luật về hàng dệt may dễ cháy
Quy chế an toàn tiêu dùng
TFPIA-Luật về hàng dệt may

Tiêu chuẩn hàng dệt may dễ
cháy
Quy chế về nhãn mác dệt may
FTC, CPSC, USCS
FTC, CPSC, USCS
FTC, CPSC, USCS
FTC, CPSC, USCS
FTC, CPSC, USCS
(Bảng số liệu 04)
3. Xu hướng tiêu dùng hàng gỗ tại thị trường Hoa Kỳ
Người Hoa Kỳ không quan tâm nhiều đến chất liệu, màu sắc có tự nhiên hay
không, họ cần hoàn thiện sản phẩm một cách chu đáo, phong cách trang trí đơn giản
và màu sắc thích hợp, thể hiện qua cách đánh bóng, độ mịn bề mặt, bả lề và các phụ
kiện chắc chắn, độ khít sản phẩm, đóng mở tiện lợi dễ dàng.
Phong cách trang trí đóng một vai trò hết sức quan trọng để họ quyết định có
nên mua hay không. Hầu hết thiết kế nhà của người Hoa Kỳ đều mang phong cách
hiện đại nên đồ trang trí nội thất cũng phải phù hợp với phong cách đó. Hàng đồ gỗ
chạm khảm hoa lá hiếm khi thấy xuất hiện trên thị trường Hoa Kỳ, thậm chí những
đường cong, đường uốn cũng phải được giảm thiểu một cách tối đa. Trang trí chủ yếu
là các đường thẳng chìm hoặc nổi và các nắm tay câm to hình tròn bằng gỗ hoặc bằng
đồng. Tất cả đều đi thành bộ với nhau như giường, bàn ghế, tủ áo quần, tủ đựng thuốc,
tủ đựng đồ tắm, tủ đựng chăn, tủ trang điểm, khung gương… Một số sản phẩm rất
được ưa chuộng gần đây là các loại tủ nhiều ngăn (4-6 ngăn) có tay cầm hình tròn,
khung ảnh và khung gương to bản…
Nói chung thị trường Hoa Kỳ không quá khó tính và nhiều khi mẫu mã sản
phẩm đã cũ kỹ đối với bang này nhưng lại rất bán chạy khi chuyển đến bang khác.
Ngoài ra, cách phân phối hàng thường kết hợp giữa việc bán hàng trên mạng và phân
phối tại các hệ thống cửa hàng bán lẻ nên các nhà nhập khẩu thường yêu cầu đối tác
có khả năng cung cấp số lượng lớn và rút ngắn thời gian giao hàng. Nếu một lô hàng
sản xuất mất hai thang, thì thời gian từ khi đặt hàng đến tay người nhận và tung ra thị

trường mất khoảng từ 4-5 tháng là quá lâu, nhiều doanh nhân Hoa Kỳ yêu cầu rút
ngắn thời gian sản xuất một lô hàng xuống còn 20-25 ngày.
Theo kinh nghiệm của một số doanh nghiệp chế biến đồ gỗ Việt Nam thì người
tiêu dùng Hoa Kỳ có vẻ ưa chuộng vẻ đẹp bên ngoài. Họ không cần các sản phẩm
được làm bằng các loại gỗ tốt như lim, gụ… mà chỉ cần gỗ cao su, gỗ thầu đâu, thậm
chí là MDF (ván gỗ ép) nhưng nước sơn phủ bên ngoài phải thật đẹp, bắt mắt và kiểu
dáng phải đẹp. Để đạt được nước sơn phủ lên các sản phẩm đồ gỗ xuất sang Hoa Kỳ
khá phức tạp, khó hơn nhiều so với yêu cầu của các thị trường EU, thường để hoàn tất
chu trình sơn một sản phẩm hoàn hảo cho thị trường Hoa Kỳ có khi phải sơn đến 10
lần.
Thói quen của khách hàng tại thị trường Hoa Kỳ có thể được xem xét ở vài
phân đoạn. Xếp hạng tầm quan trọng của chúng là: thu nhập, tuổi tác và địa lý. Người
ta đã coi những người có thu nhập từ trung bình đến cao là đối tượng hướng đến của
thị trường hàng đồ gỗ ngoài trời.
Khách hàng có thu nhập cao thường có xu hướng mua những mặt hàng có giá
trị cao hơn và thường xuyên hơn. Thu nhập cao nhất của một hộ gia đình trong nhóm
này hàng năm khoảng 150,000 USD đến 249,000 USD. Nhóm này cũng là đối tượng
tiềm năng nhất để mua mặt hàng ngoài trời. Khi đứng trước những quyết định mua
mặt hàng đồ gỗ ngoài trời, 56% trong số họ có xu hướng mua hơn những nhóm khác.
Những hộ gia đình có thu nhập khoảng từ 60,000USD đến 100,000 USD chiếm
nhiều nhất ở Hoa Kỳ. Bởi vậy nhóm này cũng được xem là đối tượng rất quan trọng.
Nhóm nhu nhập này thường có những đặc tính như: (1) họ là những người có tuổi
nghề trẻ, (2) vừa mới mua nhà đầu tiên trong thành phố, (3) thích không gian ngoài
trời, và (4) muốn mua những mặt hàng đồ ngoài trời chất lượng cao với giá hợp lý.
Người lớn tuồi từ 35-44 và 45-54 tại Hoa Kỳ có xu hướng mua đồ ngoài trời
nhiều nhất. Hai nhóm tuổi nhiều nhất là từ 35-44 và từ 45-54. Khách hàng ở nhóm
tuổi 35-44 thường là những cặp vợ chồng trẻ mới cưới và vừa mới xây dựng ngôi nhà
đầu tiên, đang tìm kiếm cảm giác thoải mái giống như nhà bố mẹ họ. Tuy nhiên nhóm
tuổi này không có sức mua bằng nhóm tuổi thời bùng nổ dân số. Họ sẽ tìm kiếm
những sản phẩm kiểu cách nhưng giá rẻ.

Nhóm tuổi từ 45-54 tập trung vào các cá nhân có thu nhập cao, những người
này có xu hướng mua bộ đồ ngoài trời thứ hai hay trang bị đồ đạc cho ngôi nhà thứ 2
của mình. Dường như họ dành nhiều tiền bạc và thời gian vào việc mua sắm hơn. Tuy
nhiên theo một cách nào đó thì có thể nhận định rằng thị trường này dường như đã bão
hòa, nhóm này có thể sẽ đóng vai trò cải thiện ngôi nhà như việc thêm một phòng đón
nắng ngoài trời cho ngôi nhà của họ. Bởi vậy việc họ mua đồ dùng ngoại thất chính là
việc mở rộng phạm vi mua sắm những đồ dùng nội thất. Thực tế, từ năm 2006-2010,
bán hàng gia tăng là do nhóm đối tượng của thời kỳ bùng nổ dân số những người được
mong đợi sẽ tiêu thụ những sản phẩm cao cấp.
Địa lý cũng quyết định thị hiếu của khách hàng và thói quen mua hàng. Hoa Kỳ
được phân chia thành 4 vùng: Miền Bắc, miền Tây, miền Nam. Khách hàng miền Tây
Bắc được xem là có triển vọng cao nhất trong việc tiêu thụ hàng đồ gỗ ngoại thất.
Nhóm này cũng có thu nhập cao hơn các nhóm khác và thời tiết khắc nghiệt ở vùng
Tây Bắc này cũng tạo ra nhu cầu cần thiết cho việc sử dụng đồ ngoại thất. Lý do phổ
biến nhất thúc đẩy khách hàng mua đồ ngoại thất là nhu cầu thay thế các đồ đã hỏng
và cũ (69%). Thêm nữa, những người ở vùng Tây Bắc có xu hướng di chuyển nhiều
hơn và họ cũng ít khi chuyển cả đồ ngoại thất đi theo khi chuyển nhà. Các khách hàng
ở vùng này dường như thích những đồ nhỏ nhắn trong khi những người ở Tây Nam lại
thích những sản phẩm ngoại thất có kích thước lớn và đồ sộ.
Khách hàng ở các bang miền duyên hải có thị hiếu về mặt hàng nặng bởi nó ít
có khả năng bị những cơn gió biển mạnh cuốn băng đi. Những khách hàng thuộc
nhóm này không thích những mặt hàng được làm bằng kim loại bởi nó rất dễ bị han
dỉ.
Ở những bang thuộc miền Nam, người tiêu dùng thích không gian ngoài trời do
họ được hường thời tiết ấm áp hơn các vùng khác, tuy nhiên tiềm năng họ tạo ra trong
việc tiêu thụ mặt hàng đồ ngoại thất này ít hơn so với các nhóm khách hàng khác do
thu nhập của họ thấp hơn đáng kể.
Chương hai:
Thực trạng xuất khẩu đồ gỗ của Việt nam vào thị trường Hoa Kỳ
I. Tổng quan về ngành công nghiệp gỗ Việt Nam

Ngành gỗ Việt Nam đã vươn lên vị trí thứ 4 trong khối các nước Đông Nam Á
(sau Malaysia, Indonesia và Thái Lan) trong cuộc đua chiếm thị phần xuất khẩu đồ gỗ.
Sản phẩm đồ gỗ của Việt Nam đã xuất khẩu sang 120 nước, trong đó EU, Hoa Kỳ,
Nhật Bản là những thị trường tiêu thụ sản phẩm lớn nhất, chiếm hơn 70% tổng sản
phẩm gỗ xuất khẩu của cả nước.
Theo Hiệp hội gỗ và lâm sản Việt Nam, nhu cầu sử dụng đồ gỗ trên thế giới
hiện vẫn tăng khá cao, trong khi đó thị phần đồ gỗ của Việt Nam chưa đạt tới con số
1% thị phần đồ gỗ thế giới. Còn theo nguồn tin từ Bộ Công Thương, sau khi Việt Nam
gia nhập WTO, ngành chế biến gỗ xuất khẩu của Việt Nam được giảm thuế nhập khẩu
gỗ nguyên liệu cũng như giảm thuế xuất khẩu sản phẩm hàng hóa vào thị trường các
nước. Đây là những yếu tố tạo ra lợi thế kinh doanh trên thị trường. Bên cạnh đó, việc
Hoa Kỳ đánh thuế chống bán phá giá khá cao đối với Trung Quốc cũng là một trong
những lợi thế để các doanh nghiệp tăng cường xuất khẩu vào thị trường này.
Theo Hội Mỹ nghệ và chế biến gỗ TP. HCM (HAWA), ngoài những lợi thế nêu trên,
Việt Nam còn nhiều thế mạnh khác mà chúng ta chưa tận dụng hết. Đó là Việt Nam
có nguồn nhân công dồi dào, có các cảng biển trải dài trên địa bàn cả nước, rất phù
hợp cho việc vận chuyển những container cồng kềnh, chiếm nhiều chỗ như đồ gỗ.
Kim ngạch tăng trưởng xuất khẩu của ngành gỗ cũng đang dẫn đầu trong các mặt
hàng xuất khẩu. Nếu tính chung giai đoạn từ năm 2001-2005, kim ngạch tăng trưởng
xuất khẩu của ngành gỗ đạt hơn 38%/năm. Cả nước hiện có khoảng 2.600 doanh
nghiệp, trong đó có 200 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, sử dụng 170.000 lao
động.
Theo nhận định của các chuyên gia Canada trong lĩnh vực xuất nhập khẩu đồ
gỗ, ngành chế biến gỗ xuất khẩu của Việt Nam đang đứng trước nhiều cơ hội để phát
triển. Bằng chứng là đã có rất nhiều đầu mối cung cấp gỗ nguyên liệu của Canada,
Hoa Kỳ và một số nước Bắc Mỹ đặt văn phòng đại diện tại Việt Nam.
Liên tục trong những năm qua, nhóm hàng đồ gỗ xuất khẩu (XK) của Việt Nam
luôn đứng trong nhóm hàng XK có tốc độ tăng trưởng cao nhất, với mức tăng trưởng
trung bình trên 30%. Năm 2006, kim ngạch XK của đồ gỗ Việt Nam đã xấp xỉ 2 tỷ
USD, năm 2007 xuất khẩu được 2,4 tỷ USD, đến năm 2008 xuất khẩu 2,8 tỷ USD, dự

kiến năm 2009 là 3,2 tỷ USD.
Theo Bộ Công Thương, mặt hàng đồ gỗ XK đã có sự phát triển vượt bậc. Hiện
đồ gỗ đã trở thành mặt hàng XK chủ lực đứng thứ 5 của Việt Nam sau dầu thô, dệt
may, giày dép và thủy sản. Sự phát triển này đã đưa Việt Nam vượt Indonesia và Thái
Lan trở thành một trong hai nước xuất khẩu đồ gỗ đứng đầu Đông Nam Á . Chất
lượng sản phẩm đồ gỗ Việt Nam luôn được nâng cao, có khả năng cạnh tranh được
với các nước trong khu vực và Trung Quốc.
Hiện nay sản phẩm gỗ của Việt Nam đã thâm nhập đến 120 quốc gia và vùng
lãnh thổ. Trong đó 3 thị trường lớn và rất khó tính thì hàng của chúng ta đã có được
những vị thế nhất định, trong tổng kim ngạch xuất khẩu thì Hoa Kỳ chiếm trên 20%,
EU chiếm 28%, Nhật Bản chiếm 24%. Tuy nhiên, đồ gỗ Việt Nam hiện mới chiếm

×