Tải bản đầy đủ (.pdf) (33 trang)

Vấn đề giáo dục đạo đức sinh thái cho sinh viên trong các trường đại học,cao đẳng ở Hưng Yên trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (503.12 KB, 33 trang )


Vấn đề giáo dục đạo đức sinh thái cho sinh viên
trong các trường đại học,cao đẳng ở Hưng Yên
trong giai đoạn hiện nay



Nguyễn Công Cương



Trường Đại học KHXH&NV
Luận văn ThS.Chuyên Ngành: Triết học; Mã số: 60 22 80
Người hướng dẫn: TS.Nguyễn Thị Minh Tâm
Năm bảo vệ: 2013




Abstract: Làm rõ yêu cầu, nội dung giáo dục đạo đức sinh thái cho sinh viên nước ta hiện nay.
Phân tích thực trạng công tác giáo dục đạo đức sinh thái cho sinh viên trên địa bàn tỉnh Hưng
Yên và nguyên nhân của thực trạng, những vấn đề đặt ra trong công tác giáo dục đạo đức sinh
thái cho sinh viên ở Hưng Yên hiện nay. Đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm đẩy mạnh và
nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức sinh thái cho sinh viên ở Hưng Yên hiện nay.

Keywords: Triết học; Đạo đức sinh thái; Hưng Yên; Giáo dục đạo đức.

Content:

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1


Chương 1. ĐẠO ĐỨC SINH THÁI - TẦM QUAN TRỌNG, YÊU CẦU, NỘI
DUNG GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC SINH THÁI CHO SINH VIÊN NƯỚC
TA TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY 9
1.1. Tầm quan trọng của việc giáo dục đạo đức sinh thái cho sinh
viên nước ta trong giai đoạn hiện nay 9
1.1.1. Giáo dục đạo đức và đạo đức sinh thái 8
1.1.2. Sự cần thiết giáo dục đạo đức sinh thái cho sinh viên nước ta
hiện nay 26
1.2. Yêu cầu, nội dung giáo dục đạo đức sinh thái cho sinh viên
nước ta trong giai đoạn hiện nay 39
1.2.1. Một số yêu cầu trong giáo dục đạo đức sinh thái cho sinh viên
nước ta trong giai đoạn hiện nay 39
1.2.2. Nội dung giáo dục đạo đức sinh thái cho sinh viên nước ta trong
giai đoạn hiện nay 42
Chương 2. GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC SINH THÁI CHO SINH VIÊN TRÊN ĐỊA
BÀN TỈNH HƯNG YÊN - THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP 58
2.1. Thực trạng công tác giáo dục đạo đức sinh thái cho sinh viên
trên địa bàn tỉnh Hưng Yên và những vấn đề đặt ra 58
2.1.1. Thực trạng công tác giáo dục đạo đức sinh thái cho sinh viên
trên địa bàn tỉnh Hưng Yên 60
2.1.2. Những vấn đề đặt ra trong công tác giáo dục đạo đức sinh thái
cho sinh viên trên địa bàn tỉnh Hưng Yên 81
2.2. Phương hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức
sinh thái cho sinh viên các trường đại học, cao đẳng trên địa bàn tỉnh
Hưng Yên 88
2.2.1. Phương hướng 88
2.2.2. Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục đạo
đức sinh thái cho sinh viên trong các trường Đại học, Cao đẳng
trên địa bàn tỉnh Hưng Yên 97
KẾT LUẬN 113

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 116
PHỤ LỤC 121
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Giáo dục và đào tạo là một trong những lĩnh vực từ lâu được Đảng và Nhà
nước ta đặc biệt quan tâm, ngày nay vấn đề đó được xem là "quốc sách hàng
đầu".
Mục tiêu giáo dục ở nước ta trong giai đoạn hiện nay theo tinh thần Nghị
quyết Hội nghị lần thứ hai Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt
Nam khoá VIII là: Thực hiện giáo dục toàn diện đức dục, trí dục, thể dục, mỹ
dục ở tất cả các bậc học. Hết sức coi trọng giáo dục chính trị, tư tưởng, nhân
cách, khả năng tư duy sáng tạo và năng lực thực hành cho học sinh, sinh viên.
Tinh thần đó tiếp tục được khẳng định ở các kỳ Đại hội IX, X, XI. Đảng ta tiếp
tục khẳng định cần phải nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện; đổi mới cơ cấu
tổ chức, cơ chế quản lý, nội dung, phương pháp dạy và học; thực hiện “chuẩn hoá,
hiện đại hoá, xã hội hoá” để nhằm chấn hưng nền giáo dục Việt Nam đáp ứng yêu
cầu của sự nghiệp CNH, HĐH ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Nhìn một cách tổng quát, nhiệm vụ giáo dục hiện nay của nước ta là đào
tạo được những con người có cả đức và tài. Điều này đòi hỏi các cấp, các ngành
hữu quan cần phải quan tâm chăm lo giáo dục về mọi mặt, trong đó giáo dục
đạo đức cho học sinh, sinh viên trong giai đoạn hiện nay.
Ngày nay, dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật công nghệ
hiện đại, của kinh tế tri thức và toàn cầu hoá, nền sản xuất vật chất của nhân loại
phát triển mạnh mẽ. Quá trình này cũng đưa đến hậu quả là lượng khí thải quá
lớn gây ô nhiễm môi trường trầm trọng, nguồn tài nguyên thiên nhiên bị khai
thác sử dụng không tái tạo kịp đã gây hiệu ứng nhà kính, gây mất cân bằng sinh
thái, dẫn đến nguy cơ khủng hoảng môi trường sinh thái trên toàn cầu. Vấn đề
bảo vệ môi trường và con người cần có đạo đức sinh thái đã trở thành một trong
những vấn đề toàn cầu mang tính cấp bách hiện nay.

Ở Việt Nam, công cuộc đổi mới hơn 20 năm qua đã đạt được những thành
tựu hết sức to lớn và toàn diện; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân đã
không ngừng được nâng lên. Tuy nhiên, quá trình công nghiện hóa, hiện đại hóa
đã tác động mạnh mẽ đến môi trường sinh thái, khả năng tự phục hồi của tự
nhiên không cân bằng được với mức độ khai thác của con người. Tình trạng cạn
kiệt tài nguyên (bao gồm cả tài nguyên không tái tạo được và tài nguyên tái tạo
được), tình trạng ô nhiễm và suy thoái môi trường (do chất thải công nghiệp và
chất thải sinh hoạt, do sử dụng hóa chất nông nghiệp) không chỉ tạo ra những
trở ngại cho tăng trưởng kinh tế, mà còn ảnh hưởng đến sức khỏe của con
người.
Bảo vệ môi trường sinh thái trong quá trình CNH, HĐH hiện nay là yêu
cầu cấp thiết đặt ra đối với cả hệ thống chính trị, các cấp, các ngành. Nhận thức
rõ tầm quan trọng của vấn đề này, những năm qua Đảng và Nhà nước đã ban
hành nhiều chủ trương, chính sách về bảo vệ môi trường như Nghị quyết số 41-
NQ/TW ngày 15/11/2004 của Bộ Chính trị (khóa IX) về bảo vệ môi trường
trong thời ký đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước; Chỉ thị số 29-CT/TW ngày
21/01/2009 của Ban Bí thư về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết sô 41-NQ/TW;
Luật bảo vệ môi trường (sửa đổi); các nghị định của Chính phủ hướng dẫn thực
hiện Luật Bảo vệ môi trường…
Theo Báo cáo của Bộ Tài nguyên và Môi trường, tính đến ngày 20/4/2008
cả nước có khoảng gần 200 khu công nghiệp được Chính Phủ quyết định thành
lập trên địa bàn 56 tỉnh, thành phố trực thuộc TW. Tuy nhiên, theo Báo cáo của
Ủy ban khoa học, công nghệ và môi trường của Quốc hội, tỷ lệ các khu công
nghiệp có hệ thống xử lý nước thải rất thải rất thấp, có nơi chỉ đạt 15-20%.
Thực trạng đó làm cho môi trường sinh thái của các địa phương có khu công
nghiệp bị ô nhiễm nghiêm trọng. Cộng đồng dân cư, nhất là các cộng đồng dân
cư lân cận với các khu công nghiệp, đang phải đối mặt với thảm họa về môi
trường: ô nhiễm không khí, ô nhiễm nguồn nước, ô nhiễm đất…Ngoài ra, do sự
phát triển của các làng nghề thủ công, các đô thị đã làm cho môi trường ngày
càng ô nhiễm nghiêm trọng như ô nhiễm về nước thải, rác thải sinh hoạt, rác

thải y tế, không khí, tiếng ồn…
Tình trạng đáng báo động về môi trường ở nước ta hiện nay có cả nguyên
nhân khách quan lẫn nguyên nhân chủ quan, nghĩa là có nguyên nhân thuộc về
trình độ phát triển kinh tế - xã hội, có nguyên nhân thuộc về quản lý, nhận thức.
Điều đó đặt ra vấn đề làm thế nào để vừa phát triển kinh tế vừa bảo về môi
trường sinh thái, phát triển một cách có bền vững. Để thực hiện được điều này,
đòi hỏi sự nâng cao nhận thức vấn đề bảo vệ môi trường sinh thái trong tư duy
lãnh đạo của các cấp, các ngành và trong đời sống nhân dân, trong đó có lực
lượng sinh viên.
Trong giai đoạn hiện nay, sinh viên là lực lượng đông đảo, có học thức, có
trình độ, có năng lực và đầy nhiệt huyết, nhạy bén trong việc tiếp thu cái mới,
trong tương lai gần họ sẽ là lực lượng lao động có trình độ, là bộ phận sẽ tham
gia vào đội ngũ trí thức góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế, văn hoá -
xã hội của đất nước. Do đó, giáo dục đạo đức, trong đó có giáo dục đạo đức sinh
thái, có một tầm quan trọng đặc biệt trong việc định hướng đúng đắn để những
người “chủ tương lai của đất nước” nhận thức được sự cần thiết bảo vệ môi trường
sinh thái, có hành vi đạo đức sinh thái tự giác trong cuộc sống, góp phần vào quá
trình phát triển kinh tế - xã hội bền vững của đất nước.
Chính vì những lý do như trên, với mong muốn góp phần xây dựng đạo đức
sinh thái trong sinh viên, tôi chọn đề tài “Vấn đề giáo dục đạo đức sinh thái cho
sinh viên trong các trường đại học, cao đẳng ở Hưng Yên trong giai đoạn hiện
nay” làm luận văn thạc sỹ triết học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Vấn đề đạo đức sinh thái và giáo dục đạo đức sinh thái còn khá mới mẻ,
tuy nhiên những năm gần đây, ở nước ta đã có những công trình nghiên cứu về vấn
đề này như: “Môi trường sinh thái. Vấn đề và giải pháp”(Phạm Thị Ngọc
Trầm. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1997); “Quản lý môi trường cho sự phát
triển bền vững”(Lưu Đức Hà, Nguyễn Ngọc Sinh, Nxb Đại học Quốc gia, Hà
Nội, 2000); “Các công ước quốc tế về bảo vệ môi trường”(Nxb Chính trị Quốc
gia, Hà Nội, 1995); “Luật bảo vệ môi trường”(Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,

2005); “Văn hoá sinh thái, nhân văn và hệ thống tự nhiên, con người, xã
hội”(Vũ Minh Tâm, Tạp chí Khoa học xã hội, số 6, 2006); “Ý thức sinh thái và
sự phát triển lâu bền” (Phạm Văn Boong, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
2002); “Vấn đề xây dựng đạo đức sinh thái trong điều kiện kinh tế thị
trường”(Phạm Thị Ngọc Trầm, Tạp chí Triết học, số 3, 2002); “Đạo đức sinh
thái và giáo dục đạo đức sinh thái” (Vũ Trọng Dung, Nxb Chính trị Quốc gia,
Hà Nội, 2009)…
Tuy nhiên, vấn đề giáo dục đạo đức sinh thái cho sinh viên, trực tiếp là sinh
viên trên địa bàn tỉnh Hưng Yên, một tỉnh mang những đặc thù của các tỉnh
đồng bằng sông Hồng đang trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đang
đặt ra những vấn đề cần giải quyết về môi trường sinh thái, về giáo dục đạo đức
sinh thái, chưa có sự nghiên cứu mang tính chuyên đề, chuyên sâu. Việc nghiên
cứu vấn đề này sẽ góp tiếng nói trong việc giải quyết vấn đề đạo đức sinh thái
trên địa bàn và trong vùng đồng bằng sông Hồng nước ta.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích
Qua thực tế ở một số trường đại học, cao đẳng trên địa bàn tỉnh Hưng Yên,
phân tích thực trạng giáo dục đạo đức sinh thái cho sinh viên, từ đó đề xuất
phương hướng và một số giải pháp nhằm góp phần nâng cao hiệu quả công tác
giáo dục đạo đức sinh thái cho sinh viên trong các trường đại học, cao đẳng trên
địa bàn tỉnh Hưng Yên trong giai đoạn hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích trên, luận văn cần thực hiện những nhiệm vụ sau:
Thứ nhất, làm rõ khái niệm đạo đức sinh thái, tầm quan trọng của giáo dục
đạo đức sinh thái ở nước ta hiện nay.
Thứ hai, làm rõ yêu cầu, nội dung giáo dục đạo đức sinh thái cho sinh viên
nước ta hiện nay.
Thứ ba, phân tích thực trạng công tác giáo dục đạo đức sinh thái cho sinh viên
trên địa bàn tỉnh Hưng Yên và nguyên nhân của thực trạng, những vấn đề đặt ra
trong công tác giáo dục đạo đức sinh thái cho sinh viên ở Hưng Yên hiện nay.

Thứ tư, đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm đẩy mạnh và nâng cao hiệu
quả giáo dục đạo đức sinh thái cho sinh viên ở Hưng Yên hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Vấn đề giáo dục đạo đức sinh thái (đạo đức sinh thái, phương thức, yêu
cầu, nội dung giáo dục) cho sinh viên ở Hưng Yên hiện nay.
- Luận văn chủ yếu tập trung phân tích vấn đề giáo dục đạo đức sinh thái
cho sinh viên ở một số trường Đại học, Cao đẳng trên địa bàn tỉnh Hưng Yên
(Trường Đại học Chu Văn An, Đại học Sư phạm kỹ thuật Hưng Yên, Đại học
Tài chính-Quản trị kinh doanh, Cao đẳng Bách khoa Hưng Yên, Cao đẳng Sư
phạm Hưng Yên, Cao đẳng Y tế Hưng Yên, Cao đẳng Công nghiệp Hưng Yên,
Cao đẳng nghề Cơ điện và Thủy lợi, Cao đẳng ASEAN) giai đoạn từ năm 2000
đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn chủ yếu dựa trên quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về giáo dục đạo đức và giáo
dục đạo đức sinh thái cho sinh viên Việt Nam. Ngoài ra, tác giả còn sử dụng các
công trình khoa học khác có liên quan đến đề tài nhằm làm sáng tỏ thực chất,
vai trò, nội dung, ý nghĩa của việc giáo dục đạo đức sinh thái cho sinh viên ở
Hưng Yên hiện nay.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Vận dụng phương pháp luận chung của chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử kết hợp phương pháp hệ thống, so sánh, phân tích,
tổng hợp, phỏng vấn, điều tra xã hội học…
6. Đóng góp mới về khoa học và ý nghĩa của luận văn
- Góp phần làm sáng tỏ vai trò, tầm quan trọng của giáo dục đạo đức sinh
thái cho sinh viên trên địa bàn tỉnh Hưng Yên, để hình thành ở họ những phẩm
chất đạo đức sinh thái cần thiết.
- Từ thực trạng giáo dục đạo đức sinh thái cho sinh viên trên địa bàn tỉnh
Hưng Yên, đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công

tác giáo dục đạo đức sinh thái cho sinh viên ở Hưng Yên hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 2 chương, 4 tiết.

Chương 1: ĐẠO ĐỨC SINH THÁI - TẦM QUAN TRỌNG,
YÊU CẦU, NỘI DUNG GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC SINH THÁI
CHO SINH VIÊN NƯỚC TA TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

1.1. Tầm quan trọng của việc giáo dục đạo đức sinh thái cho sinh viên
nước ta trong giai đoạn hiện nay
1.1.1. Giáo dục đạo đức và đạo đức sinh thái
1.1.1.1. Giáo dục đạo đức
Khái niệm giáo dục được sử dụng trong khoa học sư phạm hiện nay để chỉ
quá trình tác động có định hướng của nhân tố chủ thể (các thiết chế xã hội, nhà
trường, gia đình) lên đối tượng giáo dục nhằm đạt các mục đích được xác định
nhất định. Bản chất giáo dục là quá trình truyền thụ và tiếp thu, lĩnh hội tri thức
của các thế hệ loài người nhằm những mục tiêu xác định đáp ứng yêu cầu của
phát triển xã hội về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội; nhằm xây dựng nhân cách
con người. Giáo dục xuất hiện, phát triển không ngừng theo trình độ phát triển
của xã hội trong từng giai đoạn lịch sử nhất định.
Từ quan niệm về giáo dục và quan niệm về đạo đức, có thể định nghĩa giáo
dục đạo đức như sau: Giáo dục đạo đức là hoạt động có định hướng, có tổ chức,
có chủ định của chủ thể giáo dục (các thiết chế xã hội, nhà trường, gia đình…)
tới cá nhân, nhằm cung cấp tri thức đạo đức, bồi dưỡng tình cảm đạo đức cho
đối tượng giáo dục, nhằm mục đích hình thành ở họ ý thức đạo đức, tình cảm
đạo đức, hành vi đạo đức phù hợp với các chuẩn mực đạo đức xã hội, giúp cá
nhân điều chỉnh những hành vi lệch chuẩn về đạo đức.
Sự cần thiết của việc giáo dục đạo đức trong gia đình, trong xã hội ở quốc
gia dân tộc, ở mọi thời đại là do vai trò quan trọng của đạo đức, do chức năng

của đạo đức trong đời sống xã hội quy định. Đó là:
Trước hết, đạo đức là một hệ thống các giá trị xã hội, có chức năng nhận
thức, chức năng giáo dục, chức năng điều chỉnh hành vi của con người. Giáo
dục đạo đức là giải pháp nâng cao ý thức đạo đức của con người, qua đó nâng
cao hiệu quả điều chỉnh của đạo đức đối với hành vi của con người, của các
thành viên xã hội phù hợp với các chuẩn mực đạo đức xã hội, nhằm xây dựng
đạo đức theo yêu cầu phát triển của xã hội.
Đạo đức có vai trò quan trọng trong sự phát triển của xã hội loài người.
Quá trình hình thành đạo đức bắt nguồn từ hoạt động lao động và các hoạt động
giao tiếp của con người. Các quan hệ đạo đức ra đời phản ánh tính hướng thiện
của con người, có tác dụng điều chỉnh hành vi của con người.
Xã hội càng phát triển, các quan hệ xã hội của con người ngày càng trở nên
phong phú và phức tạp, những quy tắc, chuẩn mực đạo đức cũng biến đổi, ngày
càng có nội dung phong phú, sâu rộng hơn. Từ hệ thống giá trị đó, đạo đức - với
tính độc lập tương đối, tác động trở lại tồn tại xã hội, nên đạo đức trở thành một
trong những phương thức định hướng, điều chỉnh, đánh giá hành vi ứng xử của
con người (trong các mối quan hệ giữa các cá nhân với nhau, với cộng đồng,
với xã hội và tự nhiên, và với chính bản thân).
Sự cần thiết giáo dục đạo đức là do hệ thống giá trị đạo đức xã hội luôn
vận động biến đổi theo trình độ phát triển kinh tế - xã hội, giáo dục đạo đức
nhằm góp phần định hướng giá trị đạo đức, điều chỉnh hành vi đạo đức xã hội,
xây dựng nhân cách theo nhu cầu phát triển của xã hội.
Sự hình thành, phát triển, hoàn thiện hệ thống giá trị đạo đức phụ thuộc
vào trình độ phát triển kinh tế - xã hội, mặt khác phụ thuộc vào sự phát triển và
hoàn thiện của ý thức đạo đức và sự điều chỉnh đạo đức.
1.1.1.2. Đạo đức sinh thái và giáo dục đạo đức sinh thái
Sở dĩ gọi là đạo đức sinh thái, đạo đức môi trường bởi vì, căn cứ vào
thuật ngữ “sinh thái” theo tiếng Hylạp là “oikos” có nghĩa là nhà ở, nơi cư trú,
sinh sống của các sinh thể, kể từ những sinh vật nhỏ bé nhất cho đến con
người. Còn theo cách hiểu hiện đại, sinh thái là lĩnh vực của các mối quan hệ

qua lại, tác động lẫn nhau giữa cơ thể sống và môi trường xung quanh chúng,
cụ thể là mối quan hệ qua lại, tác động lẫn nhau giữa con người - xã hội loài
người và toàn bộ sinh quyển.
Đạo đức duy sinh vật (biocentric ethics), xuất hiện vào những năm 70 - 80
thế kỷ XX, người sáng lập là Paul W.Taylor.
Đạo đức duy sinh thái (ecocentric ethics), đại diện là Aldo Leopold.
Từ khái niệm đạo đức và các quan niệm về đạo đức của con người trong
ứng xử với tự nhiên, và yêu cầu bảo vệ môi trường sinh thái hiện nay, có thể
khái quát như sau về đạo đức sinh thái:
Đạo đức sinh thái là một bộ phận của đạo đức xã hội nói chung. Đạo đức
sinh thái là hệ thống những quan điểm, quan niệm, tư tưởng, tình cảm, những
nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực, dùng để điều chỉnh và đánh giá hành vi ứng xử
của con người trong quá trình cải tạo, biến đổi tự nhiên nhằm đáp ứng nhu cầu
ngày càng tăng của con người và vì sự phát triển bền vững của xã hội và của cả
tự nhiên.
Đạo đức sinh thái có những đặc trưng sau:
Thứ nhất, đạo đức sinh thái là một dạng thức đặc biệt của đạo đức xã hội.
Thứ hai, đạo đức sinh thái đòi hỏi tính tự giác rất cao của con người.
Thứ ba, cũng như đạo đức xã hội, đạo đức sinh thái cũng được biểu hiện
trước tiên thông qua quan hệ lợi ích và giá trị.
Thứ tư, về bản chất đạo đức sinh thái mang tính xã hội, bởi vì hệ thống
chuẩn mực đạo đức sinh thái ra đời bao giờ cũng gắn liền với giai cấp, dân tộc
và thời đại nhất định.
Thứ năm, đạo đức sinh thái còn mang tính lịch sử - cụ thể.
Từ khái niệm đạo đức sinh thái và giáo dục đạo đức, có thể khẳng định
giáo dục đạo đức sinh thái là một lĩnh vực của giáo dục đạo đức. Giáo dục đạo
đức sinh thái cũng cần thiết, như giáo dục đạo đức nói chung.
1.1.2. Sự cần thiết giáo dục đạo đức sinh thái cho sinh viên nước ta hiện nay
Giáo dục đạo đức sinh thái cho sinh viên nước ta hiện nay là công việc
quan trọng, cần thiết vì các lý do sau:

Thứ nhất, giáo dục đạo đức sinh thái là việc làm cần thiết bắt nguồn từ vai
trò, chức năng và giá trị xã hội của đạo đức như đã phân tích.
Thứ hai, sự cần thiết giáo dục đạo đức sinh thái cho sinh viên xuất phát từ
yêu cầu thực tiễn cấp bách của việc bảo vệ môi trường sống của con người vì lợi
ích chung toàn nhân loại trước thách thức của sự suy thoái nhanh chóng và
nghiêm trọng của môi trường sinh thái - môi trường sống của nhân loại trên
phạm vi toàn cầu hiện nay.
Một là, sự ô nhiễm nguồn nước mặt và nguồn nước ngầm và đất đai trầm
trọng.
Hai là, sự ô nhiễm không khí, việc biến đổi khí hậu toàn cầu.
Ba là, sự suy giảm các nguồn tài nguyên động vật, thực vật, khoáng sản.
Bốn là, rừng ngày càng bị thu hẹp.
Thứ ba, sự cần thiết giáo dục đạo đức sinh thái cho sinh viên xuất phát từ
yêu cầu của bảo vệ môi trường sinh thái, vì sự phát triển bền vững trong quá
trình nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước ở nước ta hiện nay.
Thứ tư, sự cần thiết giáo dục đạo đức sinh thái cho sinh viên xuất phát từ vị
thế hiện tại và tương lai của đội ngũ sinh viên có vai trò quan trọng trong việc
bảo vệ môi trường sinh thái và xây dựng đạo đức sinh thái ở nước ta hiện nay.
Thứ năm, sự cần thiết giáo dục đạo đức sinh thái cho sinh viên nước ta
xuất phát từ chính yêu cầu, mục tiêu hoàn thiện nhân cách cho sinh viên.
1.2. Yêu cầu, nội dung giáo dục đạo đức sinh thái cho sinh viên nước ta
trong giai đoạn hiện nay
1.2.1. Một số yêu cầu trong giáo dục đạo đức sinh thái cho sinh viên nước
ta trong giai đoạn hiện nay
- Về mục đích
Làm cho sinh viên nhận thức được tính thực tiễn cấp bách, thiết thực của
sự cần thiết xây dựng đạo đức sinh thái hiện nay trước tình trạng suy thoái
nhanh chóng và đặc biệt nghiêm trọng môi trường sống của con người trên toàn
cầu, trong đó có nước ta.
- Về nội dung

Trang bị cho sinh viên tri thức về nội dung các quy tắc chuẩn mực đạo đức
sinh thái ở nước ta.
Nội dung giáo dục đạo đức sinh thái: giáo dục tình cảm yêu thiên nhiên,
giáo dục ý thức về nghĩa vụ của con người đối với việc bảo vệ môi trường,
nguyên tắc của hành vi đạo đức sinh thái là bảo vệ môi trường gắn với việc hài
hoà về lợi ích giữa con người và tự nhiên.
- Về phương thức giáo dục
Cần có sự tham gia của nhiều lực lượng: các cấp ủy đảng, chính quyền, các
ban ngành đoàn thể, Bộ khoa học, tài nguyên và môi trường, Bộ giáo dục và đào
tạo, các cơ sở đào tạo
1.2.2. Nội dung giáo dục đạo đức sinh thái cho sinh viên nước ta trong
giai đoạn hiện nay
Thứ nhất, giáo dục những tri thức và chuẩn mực đạo đức sinh thái cho sinh viên.
Giáo dục đạo đức môi trường trước hết chính là giáo dục cho con người
những tri thức khoa học, hiểu biết đúng đắn về mối quan hệ giữa con người với
tự nhiên, về sự thích nghi của con người với những biến đổi của môi trường tự
nhiên nhằm đảm bảo sự thống nhất biện chứng giữa con người với tự nhiên,
hướng tới mục tiêu phát triển bền vững vì cả giới tự nhiên và con người, giúp
con người có được tri thức đúng đắn về giá trị của môi trường tự nhiên đối với
cuộc sống của chính mình.
Trong điều kiện những vấn đề sinh thái trên toàn cầu và những vấn đề sinh
thái ở nước ta hiện nay, có thể xác định hệ thống các chuẩn mực đạo đức sinh thái
cơ bản nhất bao gồm:
Một là, chuẩn mực đạo đức sinh thái yêu quý, trân trọng, tôn trọng thiên
nhiên.
Hai là, phải có phương thức tiêu dùng hợp lý, tiết kiệm tài nguyên thiên
nhiên, tự giác tuân thủ các yêu cầu về bảo vệ môi trường trong các hoạt động
tiêu dùng nhằm bảo đảm cơ chế hoạt động bình thường của chu trình sinh học.
Ba là, tôn trọng, bảo vệ sự sống và tính đa dạng sinh học.
Thứ hai, giáo dục tình cảm đạo đức sinh thái và hành vi sinh thái, thực

hành nếp sống văn hóa sinh thái trong ứng xử với thiên nhiên, đồng thời giáo
dục ý thức đấu tranh, phê phán, khắc phục những hành vi lệch chuẩn về đạo
đức sinh thái.
Tình cảm đạo đức sinh thái là tình trạng xúc cảm trong đánh giá hành vi của
bản thân và của người khác trong mối quan hệ đối với tự nhiên, thể hiện sự cảm
nhận, rung động trước vẻ đẹp, trước giá trị của tự nhiên, từ đó nảy sinh tâm thức
hướng đến việc quan tâm bảo vệ tự nhiên.
Ý thức, chuẩn mực và giá trị đạo đức sinh thái phải được thể hiện bằng
hành động (hành vi) cụ thể thì mới đem lại những lợi ích cho xã hội và ngăn
ngừa được điều ác. Hành vi đạo đức sinh thái của con người được nảy sinh trên
cơ sở của ý thức đạo đức.
Hành vi đạo đức sinh thái là sự biểu hiện cao nhất của đạo đức sinh thái, là
sự tổng hợp của tất cả các yếu tố hợp thành của đạo đức sinh thái. Đó là ý thức
đạo đức sinh thái (quan niệm, tư tưởng, tình cảm); quan hệ đạo đức sinh thái
(quan hệ giữa con người với tự nhiên) và thực tiễn đạo đức sinh thái.
Thứ ba, giáo dục giá trị đạo đức sinh thái truyền thống của dân tộc.
Giá trị đạo đức sinh thái với tư cách là một trong những yếu tố cấu thành
của hệ thống các giá trị tinh thần của đời sống xã hội, được con người lựa
chọn, nhằm điều chỉnh và đánh giá hành vi ứng xử của con người đối với tự
nhiên.
Những giá trị đạo đức sinh thái truyền thống Việt Nam được biểu hiện qua
các nội dung sau:
Một là, quan niệm “Thiên - Nhân hợp nhất”.
Hai là, quan niệm “Mưu sự tại Nhân, thành sự tại Thiên”.
Ba là, người Việt không chỉ “Thành sự tại Thiên” mà còn quan niệm
“Nhân định thắng Thiên”.

Chương 2: GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC SINH THÁI
CHO SINH VIÊN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HƯNG YÊN –
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP


2.1. Thực trạng công tác giáo dục đạo đức sinh thái cho sinh viên trên địa
bàn tỉnh Hưng Yên và những vấn đề đặt ra
Hưng Yên là một tỉnh thuộc đồng bằng sông Hồng, nằm trong vùng kinh tế
trọng điểm phía Bắc với hàng loạt tuyến đường huyết mạch chạy qua như: Quốc
lộ 5A, quốc lộ 39; nguồn nhân lực dồi dào, hệ thống trung tâm đào tạo nghề
phong phú… đây chính là lợi thế cho sự phát triển về mọi mặt kinh tế, văn hoá,
xã hội.
Nhờ sự phát triển của các KCN, CCN trên địa bàn, Hưng Yên từ một tỉnh
thuần nông nay đã trở thành tỉnh có ngành công nghiệp và thương mại khá phát
triển, đời sống của người dân, nhất là nông dân có sự cải thiện đáng kể.
2.1.1. Thực trạng công tác giáo dục đạo đức sinh thái cho sinh viên trên địa
bàn tỉnh Hưng Yên
2.1.1.1. Những ưu điểm, thành công
Một là, Công tác giáo dục đạo đức sinh thái cho sinh viên trong các trường Đại
học và Cao đẳng.
Đảng uỷ, Ban Giám hiệu các trường Đại học và Cao đẳng đã có sự quan
tâm đối với công tác giáo dục đạo đức, trong đó có giáo dục đạo đức sinh thái
cho sinh viên.
Cơ sở pháp lý của công tác giáo dục đạo đức sinh thái cho sinh viên trong
các trường Đại học và cao đẳng là những chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước.
Việc giáo dục đạo đức sinh thái cho sinh viên được Ban Giám hiệu, Đảng
ủy chỉ đạo giảng dạy gắn với nội dung các môn học khác, thực hiện trong suốt
khóa đào tạo, tức là trong quá trình học tập của học sinh trong nhà trường.
Phương thức giáo dục đạo đức sinh thái cho sinh viên được Ban Giám hiệu
chỉ đạo thực hiện thông qua các mặt hoạt động cùa nhà trường, cụ thể là thông
qua các hoạt động sau:
Phát động những hoạt động, phong trào vì môi trường trong những ngày lễ
lớn như: lễ Khai giảng năm học mới, ngày Môi trường thế giới (5/6), ngày Nhà

giáo Việt Nam (20/11), Tết Nguyên Đán, ngày Làm cho thế giới sạch hơn
(22/9) đã giúp cho sinh viên có ý thức giữ gìn vệ sinh môi trường nơi đang
theo học và sinh sống.
Lồng ghép việc giáo dục đạo đức sinh thái trong quá trình giảng dạy các
môn học đại cương (Lý luận chính trị, Môi trường và con người ), môn học
chuyên ngành; gắn với việc rèn luyện nghiệp vụ.
Tổ chức các buổi sinh hoạt, xemina, cuộc thi với chủ đề sinh viên với các
hoạt động bảo vệ môi trường;
Thông qua hoạt động của Phòng Quản lý học sinh;
Thông qua các phong trào hoạt động tập thể, đoàn thể như của Đoàn thành
niên, tổ hội
Trong chương trình truyền thanh nội bộ, hệ thống sách báo trong thư viện;
Tổ chức lễ hội trồng cây đầu năm mới theo tấm gương của Chủ tịch Hồ Chí
Minh;
Việc giáo dục đạo đức sinh thái được nhà trường cụ thể hóa trong nội quy
trường học, giảng đường, ký túc xá bảo đảm “ Giữ vệ sinh môi trường học tập
có văn hóa, sạch sẽ, đồ ăn thức uống không đem vào lớp học, không vứt rác,
khạc nhổ bừa bãi ở khu vực lớp học, trong khuôn viên nhà trường, không dịch
chuyển bàn ghế và làm hư hỏng thiết bị dụng cụ phục vụ học tập, không bẻ
cành, ngắt lá, hái hoa, cây cảnh ” [24]
Bên cạnh đó, Đảng uỷ và Ban Giám hiệu các trường còn hỗ trợ kinh phí cho
các phong trào hoạt động vì môi trường của sinh viên như: hàng năm, Ban Giám
hiệu Trường Cao đẳng Bách khoa Hưng Yên đều hỗ trợ kinh phí từ 15.000.000đ
đến 20.000.000đ [3] cho Đoàn trường tổ chức chiến dịch “Mùa hè xanh”, “Ngày
chủ nhật vì môi trường” Qua khảo sát thực tế
1
, khi trả lời câu hỏi “Nhà
trường, nơi bạn học tập, có tổ chức cho sinh viên tham gia các hoạt động nào
về bảo vệ môi trường sau đây?”. Kết quả như sau:
- 49,5% sinh viên trả lời có hoạt động “Mùa hè xanh”.


1
Đề tài đã phất 1000 phiếu điều tra sinh viên tại 07 trường Đại học, Cao đẳng trên địa bàn tỉnh Hưng Yên
- 3,2% sinh viên trả lời có hoạt động thực tế, tham quan, dã ngoại.
- 7,5% sinh viên trả lời có hoạt động thi tiểu phẩm tuyên truyền giáo dục
bảo vệ môi trường.
- 15,1% sinh viên trả lời có hoạt động tổ chức tìm hiểu thực trạng về cảnh
quan môi trường, bảo vệ môi trường trong nhà trường và khu vực xung quanh.
- 8,6% sinh viên trả lời có hoạt động tổ chức cho sinh viên nghiên cứu
khoa học tìm hiểu về môi trường
- 16,1% sinh viên trả lời có hoạt động tổ chức các hoạt động văn hoá nghệ
thuật về giáo dục môi trường.
Kết quả trên cho thấy, các hoạt động bảo vệ môi trường sinh thái đã được
các trường thực hiện, nhưng chưa thu hút được nhiều sự quan tâm của sinh viên,
do vậy có thể nói mức độ tác động của hoạt động bảo vệ môi trường với ý thức
đạo đức sinh thái của sinh viên cũng còn nhiều hạn chế.
Trong quá trình nâng cao nhận thức về đạo đức sinh thái cho sinh viên, một
trong những nội dung quan trọng là phải xây dựng những chuẩn mực đạo đức sinh
thái. Đó là những quy tắc quy định phương thức ứng xử của sinh viên đối với môi
trường sinh thái. Những chuẩn mực đạo đức sinh thái được xác định như chấp hành
nghiêm chỉnh pháp luật về bảo vệ môi trường, giữ gìn môi trường sống xanh-sạch-
đẹp, có văn hóa trong ứng xử với tự nhiên Nhà trường đóng vai trò quan trọng trong
việc xác định những chuẩn mực trong ứng xử với tự nhiên thông qua việc xây dựng
những nội quy phòng học, kí túc xá và bảo vệ cảnh quan nhà trường. Với câu hỏi
“Nhà trường nơi bạn đang học có những văn bản, quy định nào về bảo vệ môi
trường” (nội quy phòng học, nội quy ký túc xá, nội quy về bảo vệ môi trường cảnh
quan nhà trường) hầu hết các bạn sinh viên đều cho rằng ở trường đang học đều có
những quy định về bảo vệ môi trường.
Sự quan tâm, chỉ đạo của Đảng ủy, Ban Giám hiệu đã có tác động lớn đến
chất lượng giáo dục, hình thành ý thức đạo đức sinh thái của sinh viên. Sinh

viên được khuyến khích và tạo điều kiện để thực hiện các hoạt động giữ gìn,
bảo vệ môi trường tự nhiên vì mục tiêu phát triển bền vững cho tương lai.
Việc giáo dục đạo đức sinh thái cho sinh viên được các tổ chức đoàn thể
của sinh viên thực hiện thông qua các phong trào hoạt động.
Đoàn thanh niên các trường Đại học, Cao đẳng đã phối hợp với Tỉnh Đoàn
Hưng Yên, phối hợp với các phòng ban trong nhà trường, tổ chức nhiều hoạt
động nhằm giáo dục đạo đức sinh viên, trong đó có giáo dục đạo đức sinh thái.
Thông qua nhiều hình thức, phương pháp hoạt động linh hoạt, đa dạng, Đoàn
thanh niên đã góp phần giáo dục đạo đức sinh thái, ý thức bảo vệ môi trường
cho sinh viên gắn với các sự kiện chính trị của đất nước. Hình thức tuyên truyền
được thực hiện phong phú bằng các chương trình hành động, khẩu hiệu, panô,
truyền thanh nội bộ, bảng tin thanh niên Mục tiêu giáo dục đạo đức sinh thái
cho đoàn viên được Đoàn thanh niên xác định là một trong những hoạt động
trọng tâm. Đoàn thanh niên đã tổ chức nhiều hoạt động với nhiều hình thức
phong phú, thiết thực lôi cuốn đông đảo đoàn viên tham gia.
Năm 2010, Đoàn TNCS Hồ Chí Minh phát động Tháng thanh niên với
chủ đề “Thanh niên hành động vì môi trường” với phương châm hoạt động là
“Mỗi thanh niên hành động, mỗi cơ sở Đoàn một hoạt động thiết thực bảo vệ
môi trường”. Tỉnh Đoàn Hưng Yên đã phát động tới toàn thể các cấp bộ Đoàn
của Hưng Yên triển khai các hoạt động thiết thực, góp phần gìn giữ, bảo vệ môi
trường.
Đoàn thanh niên các trường Đại học và Cao đẳng thường xuyên tổ chức
các hoạt động tình nguyện, đặc biệt là vào dịp hè các năm đã tổ chức chiến dịch
“Mùa hè xanh” đã thu hút nhiều sinh viên tham gia với tinh thần xung kích,
sáng tạo của tuổi trẻ, sinh viên cũng có cơ hội để khẳng định mình và đồng thời
nâng cao trách nhiệm của cộng đồng đối với vấn đề bảo vệ môi trường. Các đội
thanh niên tình nguyện được về các địa phương tham gia các hoạt động thu gom
rác thải; khơi thông dòng chảy kênh, mương; tuyên truyền, nâng cao ý thức
người dân địa phương về bảo vệ môi trường sống.
Tổ chức các hoạt động vào những ngày lễ lớn, thông qua đó thực hiện giáo

dục đạo đức sinh thái như ngày ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam 3/2,
thành lập Đoàn TNCS Hồ Chí Minh 26/3, ngày quốc tế Phụ nữ 8/3, ngày Nhà
giáo Việt Nam 20/11
Chào mừng thành công Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X Đoàn TNCS
Hồ Chí Minh nhiệm kỳ 2012-2017, Ban Thường vụ tỉnh Đoàn Hưng Yên đã
phát động các hoạt động tình nguyện của Đoàn viên thanh niên tại các cấp Đoàn
cơ sở.
Thông qua các phong trào hoạt động của Đoàn Thanh niên, Hội học sinh
đã góp phần tạo ra không khí thi đua học tập sôi nổi; lôi cuốn học sinh vào các
hoạt động lành mạnh, qua đó các em gắn bó, đoàn kết, có ý thức cộng đồng, ý
thức chính trị, ý thức dân chủ và tinh thần làm chủ, ý thức đạo đức được bồi
đắp, tri thức đạo đức sinh thái của sinh viên được nâng lên.
Qua quá trình khảo sát nhận thức về công tác giáo dục đạo đức sinh thái
của sinh viên ở các trường Đại học và Cao đẳng trên địa bàn tỉnh Hưng Yên, khi
được hỏi “Môi trường có vai trò đối với cuộc sống của con người như thế
nào?” có 87,9% các bạn sinh viên đã đánh giá tầm quan trọng của môi trường
sinh thái đối với sự tồn tại, phát triển của con người. Đồng thời, khi trả lời câu
hỏi “Con người và môi trường tự nhiên có mối quan hệ như thế nào” có 95,8%
sinh viên khẳng định con người có mối quan hệ hài hòa, tác động qua lại với tự
nhiên.
Đối với vấn đề nhận thức đối tượng được điều chỉnh trong đạo đức sinh
thái “Theo bạn đạo đức sinh thái điều chỉnh những mối quan hệ nào” có 81,2%
sinh viên cho rằng đạo đức sinh thái điều chỉnh mối quan hệ giữa con người với
tự nhiên và chỉ có 2,0% sinh viên trả lời là đạo đức sinh thái điều chỉnh mối
quan hệ giữa tự nhiên với tự nhiên. Điều đó đã chứng minh sinh viên bước đầu
đã xác định được đối tượng điều chỉnh của đạo đức sinh thái.
Trước tình trạng ô nhiễm môi trường ở nước ta nói chung và của Hưng
Yên nói riêng, khi đặt câu hỏi “Thái độ của bạn trước những vấn đề ô nhiễm
môi trường hiện nay” có 57,6% sinh viên đã có thái độ rất quan tâm đến vấn đề
ô nhiễm môi trường hiện nay và có 28,3% sinh viên trả lời là có quan tâm. Với

câu hỏi “Theo bạn bảo vệ môi trường là trách nhiệm của ai?” có 97% sinh viên
khẳng định công tác bảo vệ môi trường là trách nhiệm của toàn xã hội, toàn dân.
Khi đặt câu hỏi về nguyên nhân của tình trạng cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên và
ô nhiễm môi trường “Những nguyên nhân nào sau đây làm ô nhiễm môi trường ở
tỉnh Hưng Yên hiện nay?”, sinh viên cho rằng đó là kết quả hoạt động thiếu ý thức
của con người. Theo kết quả khảo sát có 35,4% sinh viên cho rằng nguyên nhân là do
sự phát triển của các khu công nghiệp, làng nghề thủ công; 51,6% sinh viên trả lời là
do đổ các chất thải, rác, nước thải dân cư bừa bãi và 10,6% cho rằng đó là kết quả của
các hoạt động khai thác tài nguyên thiên nhiên. Như vậy, cho dù là nguyên nhân nào
đi nữa thì cũng có vai trò của con người trong việc làm cho môi trường sinh thái bị
biến đổi theo hướng tiêu cực.
Với câu hỏi “Theo bạn, mục tiêu của giáo dục đạo đức sinh thái cho sinh
viên là gì?” có 87,3% sinh viên cho rằng mục tiêu của giáo dục đạo đức sinh
thái là giúp sinh viên nhận thức về bảo vệ môi trường, về ý thức về bảo vệ môi
trường và có thói quen, hành vi bảo vệ môi trường. Như vậy, giáo dục hành vi là
một nội dung quan trọng trong giáo dục đạo đức sinh thái. Hành vi đạo đức, đặc
biệt là hành vi đạo đức sinh thái, khác với các hành vi xã hội (chính trị, kinh tế,
tôn giáo ) ở chỗ nó được thúc đẩy bởi sự tự nguyện, tự giác, không chỉ vì lợi
ích của bản thân cá nhân. Do đó, việc bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, môi trường
sinh thái phải xuất phát từ sự quan tâm của sinh viên đối với tự nhiên. Khi trả
lời câu hỏi “Bạn quan tâm đến môi trường sinh thái ở mức độ nào?” chỉ có
2,0% sinh viên là không quan tâm so với 45,5% là thường xuyên quan tâm và
52,5% là thỉnh thoảng có quan tâm đến môi trường sinh thái.
Khi nhận thức được vai trò quan trọng của tự nhiên đối với sự tồn tại, phát
triển của con người, thông qua việc tham gia, hưởng ứng tích cực các phong
trào bảo vệ môi trường do nhà trường, đoàn thể phát động sẽ thúc đẩy hoạt động
của sinh viên trong việc giữ gìn, bảo vệ môi trường sinh thái. Có 89,8% sinh
viên được hỏi đều trả lời là đã tham gia các hoạt động bảo vệ môi trường như:
không vứt rác bừa bãi nơi đường phố, nơi công cộng; trồng cây xanh góp phần
là giảm ô nhiễm môi trường và tạo cảnh quan, tuyên truyền và vận động cho các

hoạt động bảo vệ môi trường
Nhận thức về đạo đức môi trường sinh thái đã có sự chuyển hóa thành
hành vi tự giác ở một bộ phận không nhỏ sinh viên.
Với câu hỏi “Sinh viên tham gia các hoạt động bảo vệ môi trường với lý
do gì” đã có 52,0% sinh viên cho rằng việc bảo vệ môi trường xuất phát từ sự tự
nguyện, tự giác. Chính vì vậy, sinh viên các trường Đại học và Cao đẳng trên
địa bàn tỉnh Hưng Yên không chỉ tham gia các phong trào giữ gìn, bảo vệ môi
trường tại trường đang học như phong trào “Ngày thứ Bảy tình nguyện, ngày
Chủ Nhật xanh” do Hội sinh viên trường Cao đẳng Tài chính-Quản trị kinh
doanh phát động để xây dựng môi trường học tập, sinh sống “Xanh - Sạch”;
Đoàn trường Trường Cao đẳng Công nghiệp Hưng Yên tổ chức thực hiện công
trình thanh niên tại trường, với phần việc vệ sinh môi trường toàn bộ khu vực
nhà trường, san phẳng khu vui chơi, sân vận động, khu vực ký túc xá.
Như vậy, việc giáo dục đạo đức sinh thái trong các trường Đại học, Cao
đẳng cho sinh viên ở Hưng Yên cũng đã đạt được những kết quả nhất định. Sinh
viên đã nhận thức, ý thức đúng đắn về vai trò quan trọng của tự nhiên, nguyên
nhân của tình trạng ô nhiễm môi trường như hiện nay. Đồng thời, đã giáo dục
cho sinh viên có thái độ và hành vi tích cực trong việc giữ gìn, bảo vệ môi
trường sinh thái. Sinh viên đã tuyên truyền, giáo dục, lôi kéo được quần chúng
nhân dân tham gia vào phong trào bảo vệ môi trường, góp phần nâng cao ý thức
của cộng đồng dân cư về bảo vệ, giữ gìn môi trường sinh thái.
Hai là, Đảng bộ và Ủy ban nhân dân tỉnh Hưng Yên đã quan tâm đến công
tác bảo vệ môi trường, đã ban hành các văn bản, tổ chức các hoạt động mang
tính quản lý nhằm xây dựng đạo đức sinh thái trên địa bàn tỉnh
Hưng yên là một tỉnh đang trong quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa
mạnh mẽ. Cũng như cả nước, trên địa bản tỉnh, vấn đề môi trường sinh thái
cũng trở thành một trong những vấn đề cấp thiết hiện nay, vì thế đây là vấn đề
được các cấp ủy Đảng và chính quyền địa phương hết sức quan tâm.
Các cấp ủy Đảng và chính quyền tỉnh Hưng Yên đã quán triệt sâu sắc
những chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước liên

quan đến vấn đề bảo vệ môi trường trong quá trình phát triển kinh tế- xã hội.
Ủy ban nhân tỉnh Hưng Yên đã ban hành những quy định liên quan tới vấn
đề bảo vệ môi trường sinh thái trên địa bàn tỉnh. Quyết định số 12/2010/QĐ-
UBND ngày 29/4/2010 “Về việc ban hành quy định bảo vệ môi trường tỉnh
Hưng Yên”.
Chính quyền tỉnh Hưng Yên đã kiện toàn các đơn vị chuyên môn thực hiện
công tác bảo vệ môi trường như kiện toàn cơ cấu, tổ chức Trung tâm Kỹ thuật
Tài nguyên và Môi trường trực thuộc Sở Tài nguyên và Môi trường theo Quyết
định số 17/QĐ-UBND ngày 09/01/2012.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ Tỉnh và Ủy ban nhân dân Tỉnh Hưng Yên,
các cấp, các ngành, các địa phương trong tỉnh đã tăng cường đầu tư, thực hiện
công tác truyền thông, tuyên truyền về bảo vệ môi trường. Nguồn kinh phí từ
ngân sách nhà nước, ngân sách địa phương và của người dân phục vụ cho công
tác bảo vệ môi trường đã tăng lên.
Năm 2011, Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Hưng Yên đã hướng dẫn các đơn
vị trực thuộc tổ chức các hoạt động hưởng Chiến dịch làm cho thế giới sạch hơn
với chủ đề “Nơi sinh sống của chính ta…Hành tinh của chính ta…Trách
nhiệm của chúng ta” nhằm nâng cao ý thức, trách nhiệm cộng đồng về bảo vệ
môi trường, tạo thói quen tự giác tham gia các hoạt động, phong trào bảo vệ môi
trường.
Các văn bản, các hoạt động mang tính quản lý của Đảng bộ Tỉnh và
UBND tỉnh và các cơ quan hữu quan nhằm xây dựng đạo đức sinh thái trên địa
bàn tỉnh đã tác động trực tiếp đến nhận thức của sinh viên về vấn đề bảo vệ sinh
thái trên địa bàn tỉnh Hưng Yên.
2.1.1.2. Những hạn chế và nguyên nhân
Thứ nhất, việc phổ biến, tuyên truyền, giáo dục chủ trương, đường lối của
Đảng và Nhà nước về bảo vệ môi trường của các cấp Chính quyền, của các
trường Đại học và Cao đẳng trên địa bàn tỉnh Hưng Yên cho sinh viên chưa
thường xuyên, chưa thiết thực.
Thứ hai, việc xây dựng nội dung, chương trình và phương pháp giáo dục

đạo đức sinh thái ở các trường Đại học và Cao đẳng còn hạn chế.
Về nội dung, giáo trình giáo dục đạo đức sinh thái. Qua khảo sát sinh
viên cho thấy, hiện nay trong các trường Cao đẳng và Đại học không có giáo
trình riêng về môn đạo đức sinh thái.
Về phương pháp giáo dục đạo đức sinh thái. Phương pháp giáo dục chủ
yếu được áp dụng là phương pháp một chiều, tức là thầy đọc trò ghi, nặng về lý
luận, mang tính thụ động. Chính vì vậy, làm cho sinh viên cảm thấy sự nhàm
chán trong quá trình học tập, nghiên cứu, hơn nữa cũng không giúp sinh viên
nắm vững được những nội dung, mục tiêu của môn học. Điều đó cũng đã dẫn
đến mức độ quan tâm của sinh viên đối với vấn đề ô nhiễm môi trường chưa
thực sự sâu sắc.
Thứ ba, đội ngũ giảng viên chuyên môn về đạo đức sinh thái còn thiếu về số
lượng, hạn chế về chuyên môn.
Thực hiện khảo sát một số trường Đại học và Cao đẳng trên địa bàn tỉnh
Hưng Yên, cho thấy hầu hết các trường chưa đưa môn đạo đức học nói chung,
đạo đức sinh thái nói riêng là môn học bắt buộc. Việc giảng dạy môn học này
còn mang tính chất đối phó theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo hoặc
việc giảng dạy được thực hiện lồng ghép với nhiều bộ môn khác. Hơn nữa, chỉ
có những sinh viên thuộc khối ngành về môi trường mới được học chứ không
phải toàn bộ sinh viên trong trường.
Thứ tư, việc giáo dục đạo đức sinh thái cho sinh viên chưa đáp ứng được
yêu cầu bảo vệ, giữ gìn và cải thiện môi trường sinh thái.
Nguyên nhân của những hạn chế trong công tác giáo dục đạo đức sinh thái
cho sinh viên ở Hưng Yên là do:
Một là, việc quán triệt chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước về công tác giáo dục đạo đức sinh thái cho sinh viên của các
trường Cao đẳng và Đại học có nơi, có trường chưa sâu sát.
Hai là, sự phát triển của kinh tế thị trường với những tác động tiêu cực của
nó đã tác động đến sự hình thành những giá trị, chuẩn mực, hành vi đạo đức nói
chung và đạo đức sinh thái nói riêng.

Ba là, bản thân sinh viên - với tư cách là đối tượng được giáo dục. Bên
cạnh những sinh viên có ý thức học tập, tu dưỡng rèn luyện tốt, vẫn còn một bộ
phận sinh viên thiếu ý thức học tập, tu dưỡng rèn luyện đạo đức sinh thái, không
biết tôn trọng giá trị của môi trường tự nhiên, những thành quả mà trải qua bao
nhiêu thế hệ cha ông ta đã xây dựng.
2.1.2. Những vấn đề đặt ra trong công tác giáo dục đạo đức sinh thái cho sinh
viên trên địa bàn tỉnh Hưng Yên
Thứ nhất, mâu thuẫn giữa tính cấp thiết của việc giáo dục đạo đức sinh thái cho
sinh viên hiện nay với sự quan tâm, ưu tiên cho công tác này trong chương trình đạo
tạo chính khóa và sự quan tâm của Ban Giám hiệu, của các tổ chức đoàn thể trong các
trường Đại học và Cao đẳng.
Thứ hai, mâu thuẫn giữa yêu cầu giáo dục đạo đức sinh thái mang tính
chính khóa và sự bất cập của đội ngũ giảng viên giảng dạy đạo đức sinh thái ở
trường Đại học và cao đẳng.
Thứ ba, mâu thuẫn giữa yêu cầu chủ động, tích cực, tự giác trong nhận
thức và hành vi đạo đức sinh thái của sinh viên với thói quen thiếu tự giác trong
hành vi đạo đức sinh thái trong xã hội, với việc xử lý chưa nghiêm những hành
vi vi phạm pháp luật làm tổn hại đến môi trường sinh thái.
2.2. Phương hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức
sinh thái cho sinh viên các trường Đại học, Cao đẳng trên địa bàn tỉnh
Hưng Yên.
2.2.2.1.Phương hướng
Một là, quán triệt quan điểm của Đảng, Nhà nước đối với việc giáo dục
đạo đức sinh thái cho sinh viên trong giai đoạn hiện nay.
Trong những năm qua trước yêu cầu thực tiễn đặt ra đối với việc giải quyết
vấn đề ô nhiễm môi trường, Đảng và Nhà nước không ngừng bổ sung, hoàn
thiện và thể chế hóa các văn bản quy phạm pháp luật về bảo vệ môi trường.
Hai là, kết hợp chặt chẽ giữa các loại hình giáo dục trong giáo dục đạo đức
sinh thái cho sinh viên trong giai đoạn hiện nay.
Để nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức sinh thái cho sinh viên cần phải kết

hợp nhiều loại hình giáo dục. Cụ thể như sau:
Thứ nhất, vì “Đạo đức sinh thái” chưa trở thành một môn học độc lập trong
các trường Đại học, Cao đẳng
Thứ hai, để giáo dục đạo đức sinh thái cho sinh viên một cách có hiệu quả
là phải gắn lý luận với thực tiễn.
Thứ ba, giáo dục đạo đức sinh thái trong gia đình, nhà trường và các đoàn
thể xã hội.
Thứ tư, giáo dục đạo đức sinh thái thông qua các phương tiện thông tin đại
chúng.
Ba là, xây dựng môi trường kinh tế - xã hội trong sạch, lành mạnh tác động
tích cực đến việc giáo dục đạo đức sinh thái cho sinh viên trong giai đoạn hiện
nay. Cụ thể là:
Thứ nhất, cộng đồng và các cơ quan có thẩm quyền cần xây dựng kế hoạch
tổng thể phát triển kinh tế - xã hội có lồng ghép mục tiêu bảo vệ môi trường
sinh thái, coi việc giữ gìn môi trường sinh thái là một trong những mục tiêu cơ
bản của bất kỳ một chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội.
Thứ hai, các hoạt động sản xuất, cung cấp dịch vụ phải hướng vào sự phát
triển bền vững. Quá trình sản xuất có thể được điều khiển để tránh hay giảm
thiểu được các chất thải và ô nhiễm môi trường trước khi chúng được sinh ra.
Các giải pháp sản xuất sạch hơn gồm các nhóm giải pháp sau:
- Giảm thiểu chất thải tại nguồn được thực hiện bằng cách thay đổi nguồn
nguyên liệu sử dụng các nguồn tài nguyên thân thiện với môi trường, thay đổi
hoặc cải tiến công nghệ để tiết kiệm nguyên liệu, giảm chất độc hại.
- Tuần hoàn, tái sử dụng trong quá trình sản xuất giúp giải quyết nạn ô
nhiễm môi trường. Sự kết hợp giữa trồng trọt và chăn nuôi trong một quy trình
khép kín có thể được coi là một giải pháp cho quá trình sản xuất bền vững
(VAC).
- Thay đổi sản phẩm để giảm ô nhiễm môi trường là ý tưởng cơ bản của
sản xuất sạch. Sử dụng các vật dụng thân thiện với môi trường mặc dù chức
năng sử dụng không thay đổi nhưng giúp bảo vệ môi trường và giảm chi phí.

Thứ ba, đối với những hoạt động kinh tế gây ô nhiễm môi trường, người
sản xuất phải đóng góp kinh phí thích đáng cho việc xử lý chất thải và chống ô
nhiễm môi trường.
Thứ tư, gắn việc nâng cao ý thức sinh thái với việc tăng trưởng kinh tế,
phát triển xã hội, xóa đói giảm nghèo và cải thiện đời sống người dân.
2.2.2. Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục đạo
đức sinh thái cho sinh viên trong các trường Đại học, Cao đẳng trên địa bàn
tỉnh Hưng Yên
2.2.2.1. Hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách bảo vệ môi trường sinh thái

×