Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Giao dịch dân sự và giao dịch dân sự vi phạm sự tự nguyện của chủ thể

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (197.77 KB, 22 trang )

LỜI NÓI ĐẦU:
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường Việt Nam hội nhập ngày càng
sâu rộng với kinh tế quốc tế thì các giao dịch dân sự, thương mại được xem
như một công cụ hữu hiệu giúp các chủ thể tìm kiếm được lợi ích của mình.
Một nền kinh tế năng động luôn chứa đựng những yếu tố rủi ro và việc nhận
biết chúng, khắc phục và ngăn chặn những rủi ro ngay từ chính những giao
dịch được kí kết là một cách làm khôn ngoan và chủ động mà các nhà làm
luật đã dự phòng thông qua việc thiết kế qui định pháp luật về các biện pháp
bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự. Và một trong những hoạt động tích cực
và hiệu quả nhất của con người nhằm hướng tới mục đích đó là việc tham
gia vào các loại giao dịch khác nhau, trong đó có giao dịch dân sự. Giao dịch
dân sự là một trong những phương thức hữu hiệu cho cá nhân, pháp nhân, hộ
gia đình, tổ hợp tác xác lập và thực hiện các quyền nghĩa vụ dân sự nhằm
thỏa mãn các nhu cầu trong sinh hoạt, tiêu dùng, và trong sản xuất kinh
doanh. Giao dịch dân sự càng có ý nghĩa qua trọng trong điều kiện của nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Thực tế cho thấy giao dịch dân sự vi phạm sự tự nguyện của chủ thể vẫn là
vấn đề phức tạp, gây ra nhiều vướng mắc. Việc nắm vững và hiểu rõ một số
vấn đề về giao dịch dân sự vi phạm sự tự nguyện của chủ thể có ý nghĩa rất
quan trọng với mỗi người trong xã hội hiện nay.
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:
I. Giao dịch dân sự và giao dịch dân sự vi phạm sự tự nguyện của chủ
thể:
1, Giao dịch dân sự:
Theo Điều 121 BLDS 2005 :“Giao dịch dân sự là hành vi pháp lý đơn
phương hoặc hợp đồng của cá nhân, pháp nhân hoặc của các chủ thể khác
nhằm làm phát sinh, thay đổi hoặc làm chấm dưt quyền và nghĩa vụ dân sự”
Hợp đồng dân sự là giao dịch trong đó thể hiện ý chí của hai hay nhiều
bên nhằm làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự. Hợp
đồng dân sự là loại giao dịch dân sự phổ biến nhất trong đời sống hằng ngày.
Thông thường hợp đồng có hai bên tham gia trong đó thể hiện sự thống nhất


ý chí của các chủ thể trong một quan hệ cụ thể (mua bán, cho thuê…) nhưng
cũng tồn tại hợp đồng có nhiều bên tham gia (hợp đồng hợp tác – Điều 111
1
BLDS 2005). Mỗi bên trong hợp đồng có thể có một hoặc nhiều chủ thể
tham gia. Trong hợp đồng ý chí của một bên đòi hỏi sự đáp lại của bên kia,
tạo thành sự thống nhất ý chí của các bên, từ đó mới hình thành được hợp
đồng. Do vậy, hợp đồng dân sự là sự thỏa thuận ý chí của hai hay nhiều bên
về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự.
Hành vi pháp lý đơn phương là giao dịch trong đó thể hiện ý chí của
một bên nhằm làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự.
Thông thường, hành vi pháp lý đơn phương. Thông thường, hành vi pháp lý
đơn phương được xác lập theo ý chí của một bên chủ thể duy nhất (lập di
chúc, từ chối hưởng thừa kế). Có thể có nhiều chủ thể cùng tham gia vào
một bên của giao dịch (hai cá nhân, tổ chức cùng tuyên bố hứa thưởng…).
Hành vi pháp lý đơn phương là một giao dịch cho nên nội dung và hình thức
phải phù hợp với các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự (Điều 122
BLDS).
• Ý chí tự nguyện của chủ thể trong giao dịch dân sự:
Bản chất của giao dịch dân sự là sự thống nhất giữa ý chí và bày tỏ ý
chí, cho nên tự nguyện bao gồm các yếu tố cấu thành là tự do ý chí và bày tỏ
ý chí. Không có tự do ý chí và bày tỏ ý chí không thể có tự nguyện, nếu một
trong hai yếu tố này không có hoặc không thống nhất cũng không thể có tự
nguyện. Sự tự nguyện của một bên (hành vi pháp lý đơn phương) hoặc sự tự
nguyện của các bên trong một quan hệ dân sự (hợp đồng) là một trong các
nguyên tắc được quy định tại điều 4 BLDS năm 2005: Tự do, tự nguyện cam
kết thỏa thuận. Vi phạm sự tự nguyện của chủ thể là vi phạm pháp luật. Vì
vậy, giao dịch thiếu sự tự nguyện không làm phát sinh hậu quả pháp lý. Bộ
luật dân sự quy định một số trường hợp giao dịch xác lập không có sự tự
nguyện sẽ bị vô hiệu. Đó là các trường hợp vô hiệu do giả tạo, do nhầm lẫn,
do bị lừa dối, bị đe dọa, do xác lập tại thời điểm không nhận thức và làm chủ

được hành vi của mình.
Nguyên tắc tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận là một nguyên tắc cơ
bản trong giao dịch dân sự. Điểm c khoản 1 Điều 122 BLDS 2005 quy định:
Chủ thể của giao dịch dân sự có thể là cá nhân, pháp nhân, tổ hợp tác, hộ gia
đình nhưng trực tiếp tham gia giao dịch bao giờ cũng là con người cụ thể.
Dù với tư cách cá nhân hay với tư cách đại diện cho pháp nhân, tổ hợp tác,
hộ gia đình thì người tham gia giao dịch dân sự cũng phải hoàn toàn tự
nguyện.
2
Tự nguyện được hiểu là sự phù hợp, thống nhất giữa mong muốn bên
trong với sự bày tỏ mong muốn đó ra bên ngoài bằng một hình thức nhất
định. Ý chí của chủ thể phải là ý chí đích thực, tức là nguyện vọng, mong
muốn chủ quan bên trong của chủ thể không bị tác động bởi bất cứ yếu tố
khách quan hay chủ quan nào khác dẫn tới việc chủ thể đó không nhận thức
hoặc kiểm soát được ý chí của mình. Giữa ý chí đích thực của chủ thể (bên
trong) với sự biểu hiện ý chí (sự biểu hiện ra bên ngoài) phải có sự thống
nhất. Nếu không có sự thống nhất ý chí thì chủ thể không có sự tự nguyện.
2. Giao dịch dân sự vi phạm sự tự nguyện của chủ thể:
Giao dịch dân sự vi phạm sự tự nguyện của chủ thể là giao dịch vi
phạm sự thống nhất giữa mong muốn bên trong với sự bày tỏ, thể hiện mong
muốn đó ra bên ngoài. Vi phạm sự tự nguyện trong giao dịch dân sự có thể
là hành vi vô ý hoặc cố ý thực hiện hoặc không thực hiện đúng những cam
kết, thỏa thuận, điều kiện mà một bên đưa ra và được bên kia chấp nhận.
Trong những trường hợp một người không muốn tham gia một giao
dịch nhưng họ buộc phải tham gia giao dịch đó hoặc muốn tham gia giao
dịch này nhưng buộc phải chấp nhận một nội dung khác vì những lý do nhất
định làm cho họ không xử sự khác được thì giao dịch đó sẽ bị coi là vi phạm
sự tự nguyện của chủ thể.
• Giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm sự tự nguyện của chủ thể:
Vô hiệu theo nghĩa thông thường là “không có hiệu lực, không có hiệu

quả”. Như vậy, có thể suy ra là giao dịch dân sự vô hiệu là giao dịch không
tồn tại theo quy định của pháp luật, không có hiệu lực pháp lý.
Thông thường giao dịch hợp pháp sẽ làm phát sinh quyền và nghĩa vụ
của các chủ thể. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, xuất phát từ các nguyên
nhân khác nhau mà giao dịch có thể có sự vi phạm vào một trong các điều
kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự. Điều 127 BLDS 2005 quy định giao
dịch dân sự vô hiệu là “Giao dịch không có một trong các điều kiện được quy
định tại Điều 122 của Bộ luật này”.
Giao dịch dân sự vi phạm sự tự nguyện của chủ thể là giao dịch dân sự
vô hiệu do không có một trong các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân
sự là “Người tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện” (Điểm c khoản 1
Điều 122 BLDS 2005).
3. Các trường hợp giao dịch dân sự vi phạm sự tự nguyện của chủ thể:
3
Để đảm bảo nguyên tắc tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận trong
giao dịch dân sự được quy định tại Điều 4 BLDS 2005, pháp luật dân sự
cũng đã quy định một trong các điều kiện để giao dịch dân sự có hiệu lực đó
là: “Người tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện” (Điều 122 BLDS 2005).
Các trường hợp giao dịch dân sự vi phạm sự tự nguyện của chủ thể bao
gồm:
3.1 Giao dịch dân sự được xác lập bởi sự giả tạo:
- Khái niệm giả tạo trong giao dịch dân sự:
Giả tạo được hiểu là không thật, vì được tạo ra một cách không tự
nhiên. Như vậy, giao dịch dân sự giả tạo là giao dịch dân sự được tạo ra một
cách không tự nhiên.
Đối với giao dịch dân sự được xác lập do giả tạo, chủ thể hoàn toàn
mong muốn sự thể hiện một ý chí ra bên ngoài dưới một hình thức nhất định
mặc dù ý chí đó không phải là ý chí đích thực. Do đó, có thể hiểu giao dịch
dân sự được xác lập do giả tạo là giao dịch dân sự được xác lập để nhằm che
dấu một giao dịch khác hoặc để trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba.

+) Giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo theo quy định của pháp luật:
Điều 129 BLDS 2005 quy định: “Khi các bên xác lập giao dịch dân
sự một cách giả tạo nhằm che giấu một giao dịch khác thì giao dịch giả tạo
vô hiệu, còn giao dich bị che dấu vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp giao dịch
đó cũng vô hiệu theo quy định của Bộ luật này. Trong trường hợp giao dịch
giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba thì giao dịch đó vô hiệu”
Trên cơ sở xác định mục đích của việc xác lập giao dịch giả tạo, Điều
129 BLDS 2005 đã phân chia giao dịch dân sự được xác lập do giả tạo thành
hai trường hợp:
+) Giao dịch dân sự được xác lập với mục đích nhằm che giấu một giao dịch
khác:
Như vậy, ít nhất trong trường hợp này có hai giao dịch song song
tồn tại đó là giao dịch đích thực (bên trong) và giao dịch giả tạo (giao dịch
che dấu, thể hiện ra bên ngoài).
Giao dịch giả tạo để nhằm che giấu giao dịch khác luôn luôn vô hiệu,
còn giao dich đích thực (giao dịch bên trong) vẫn có hiệu lực pháp lý. Tuy
nhiên, nếu giao dịch đích thực cũng vi phạm vào các điều kiện có hiệu lực
của giao dịch dân sự thì có thể vô hiệu.
Vụ án cụ thể: A là thành viên của 1 Công ty TNHH có 3 thành viên
A,B,C. Năm 2002 vì cần vay tiền Ngân hàng nên A đồng ý cho công ty
4
mượn tài sản là 1.1992m2 đất để thế chấp vay. A,B,C đã lập 1 biên bản giả
có nội dung: công ty uỷ quyền cho A mua đất chứ không phải đất của A.
Nhưng biên bản này không được Ngân hàng chấp nhận vì thế họ đã phải làm
thủ tục bảo lãnh cho công ty vay tiền Ngân hàng bằng quyền sử dụng đất của
A. Tháng 4/2005 A xin rút khỏi Công ty và Công ty chỉ còn 2 thành viên B
và C. Đến tháng 6/2005 Công ty trả hết nợ, lấy các giấy tờ bảo lãnh tại ngân
hàng, nhưng không trả lại giấy tờ đất cho A mà lại tiến hành khởi kiện đòi A
phải giao đất cho công ty. Căn cứ kiện là biên bản giả lập ban đầu mà A sơ
suất không huỷ sau khi Ngân hàng không chấp nhận. Vậy, A có thể làm gì

để bảo vệ quyền lợi của mình đối với mảnh đất?
Như vậy, biên bản có nội dung "diện tích 1.992m2 là tài sản của công
ty, ông A chỉ là người đứng tên" chỉ là biên bản giả được các thành viên
công ty thoả thuận lập ra nhằm mục đích để Ngân hàng cho vay tiền (vì theo
quy định người vay phải có tài sản thế chấp cho Ngân hàng để đảm bảo cho
khoản vay). Tuy nhiên Ngân hàng đã không chấp nhận biên bản này mà yêu
cầu ông A đứng ra bảo lãnh cho khoản vay của Công ty (vì ông A là người
đứng tên quyền sử dụng đất). Yêu cầu của Ngân hàng là phù hợp với quy
định của điều 366 Bộ luật dân sự cụ thể: "1. Bảo lãnh là việc người thứ ba
(gọi là người bảo lãnh) cam kết với bên có quyền (gọi là người nhận bảo
lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ (gọi là người được bảo
lãnh) nếu khi đến thời hạn mà người được bảo lãnh không thực hiện hoặc
thực hiện không đúng nghĩa vụ. 2. Người bảo lãnh chỉ được bảo lãnh bằng
tài sản thuộc sở hữu của mình" .
Việc Ngân hàng đã chấp nhận sự bảo lãnh của ông A (bằng tài sản
1.992m2 đất do ông đứng tên) và cho Công ty của ông vay tiền là căn cứ để
chứng minh: biên bản do 3 thành viên của công ty lập chỉ là giao dịch dân sự
giả tạo còn giấy tờ đất đứng tên ông mới là giao dịch thật. Căn cứ điều 138
Bộ luật dân sự quy định về giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo như sau: "Khi
các bên xác lập giao dịch dân sự 1 cách giả tạo nhằm che giấu 1 giao dịch
khác, thì giao dịch giả tạo vô hiệu, còn giao dịch bị che giấu vẫn có hiệu
lực".
Vì ông A đã sơ suất không huỷ biên bản giả này nên Công ty (cụ thể là
2 thành viên B và C còn lại sau khi ông A đã rút khỏi Công ty) đã sử dụng
để làm căn cứ kiện đòi ông phải giao đất. Căn cứ khoản 2 điều 58 Bộ luật tố
tụng dân sự quyền của bị đơn khi tham gia tố tụng như sau: "a). Có quyền
cung cấp chứng cứ, chứng minh để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
5
mình.b) Yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức đang lưu giữ, quản lý chứng cứ
cung cấp chứng cứ đó cho mình để giao nộp cho toà án". Do đó ông có thể

yêu cầu Ngân hàng cung cấp các tài liệu gồm: hồ sơ vay vốn ban đầu (có sử
dụng biên bản giả) và hồ sơ vay vốn lần thứ hai (có giấy tờ của ông cam kết
bảo lãnh cho công ty vay tiền bằng tài sản của ông là quyền sử dụng
1.992m2 đất). Các chứng cứ này sẽ giúp ông chứng minh quyền sở hữu của
ông đối với diện tích 1.992m2.
(căn cứ theo phần tư vấn pháp luật của báo Kinh tế và đô thị )
- Giao dịch dân sự được xác lập với mục đích nhằm trốn tránh nghĩa vụ với
người thứ ba:
Trong trường hợp này, giao dịch dân sự được xác lập có sự tự nguyện
khi thể hiện ý chí, tuy nhiên sự thể hiện ý chí này lại nhằm mục đích trốn
tránh nghĩa vụ với một chủ thể khác. Thông thường, việc trốn tránh nghĩa vụ
với người thứ ba thường thể hiện ở hai trường hợp:
+ Bản thân chủ thể tham gia giao dịch đã tồn tại một nghĩa vụ với
một chủ thể khác, do đó để trốn tránh nghĩa vụ này, chủ thể đã xác giao dịch
giả tạo.
+ Khi tham gia giao dịch, chủ thể có thể phải thực hiện một nghĩa
vụ nhất định đối với Nhà nước nhưng chủ thể đã xác lập giao dịch với sự giả
tạo.
Giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo là giao dịch dân sự vô hiệu tuyệt
đối (đương nhiên vô hiệu), hay nói cách khác, giao dịch dân sự vô hiệu do
giả tạo là giao dịch dân sự không bị hạn chế về thời hiệu yêu cầu tòa án
tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu (Khoản 2 Điều 136 BLDS 2005).
3.2 Giao dịch dân sự được xác lập bởi sự nhầm lẫn:
- Khái niệm nhầm lẫn trong giao dịch dân sự:
Theo nghĩa thông thường, nhầm lẫn được hiểu là hành vi thực hiện
hoặc nhận thức không đúng với ý định của người thực hiện hành vi hay nhận
thức. Trong khoa học pháp lý, nhầm lẫn được hiểu là sự thể hiện không
chính xác ý muốn đích thực của một bên hoặc các bên trong giao dịch dân
sự. Hay nói theo cách khác, ở đó không có sự thống nhất giữa ý muốn thật
và ý chí bày tỏ ra bên ngoài của chủ thể. Bên cạnh đó, cũng có cách hiểu cho

rằng nhầm lẫn là việc các bên hình dung sai về nội dung của giao dịch mà
tham gia vào giao dịch gây thiệt hại cho mình hoặc cho bên kia. Dù cách thể
6
hiện ngôn từ có khác nhau, nhưng về cơ bản, nhầm lẫn chính là sự không
phù hợp giữa việc thể hiện ý chí của chủ thể với thực tế của sự việc.
+) Giao dịch dân sự vô hiệu do nhầm lẫn theo quy định của pháp luật:
Điều 131 BLDS 2005 quy định: “Khi một bên có lỗi vô ý làm cho bên
kia nhầm lẫn về nội dung của giao dich dân sự mà xác lập giao dịch thì bên
bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu bên kia thay đổi nội dung của giao dịch đó, nếu
bên kia không chấp nhận thì bên bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu Tòa án tuyên
bố giao dịch vô hiệu. Trong trường hợp một bên do lỗi cố ý làm cho bên kia
nhầm lẫn về nội dung của giao dịch thì được giải quyết theo quy định tại
Điều 132 của Bộ luật này”.
Nhầm lẫn là việc mà các bên hình dung sai về nội dung của giao dịch
dân sự mà tham gia xác lập giao dịch gây thiệt hại cho mình hoặc cho bên
kia. Sự nhầm lẫn về đối tượng sự việc, sự nhầm lẫn phải được thể hiện ra rõ
ràng mà căn cứ vào nội dung của giao dịch phải xác định được. Nếu bên bị
nhầm lẫn chứng minh được sự nhầm lẫn của mình thì giao dịch đó bị tuyên
bố vô hiệu.
Theo Điều 131 BLDS 2005, pháp luật dân sự Việt Nam coi các nhầm
lẫn về nội dung chủ yếu của giao dịch dân sự là yếu tố đưa đến sự vô hiệu
của giao dịch dân sự. Như vậy, các nhầm lẫn về nội dung không chủ yếu,
cũng như những nhầm lẫn về chủ thể, nhầm lẫn về luật không được thừa
nhận là yếu tố đưa đến sự vô hiệu của giao dịch.
Nếu một bên do lỗi cố ý làm cho bên kia nhầm lẫn về nội dung của
giao dịch thì sẽ thuộc trường hợp vô hiệu do lừa dối.
Giao dịch dân sự vô hiệu do nhầm lẫn là giao dịch bị hạn chế về thời
hiệu yêu cầu tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu (khoản 1 Điều 136
BLDS 2005). Thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu
do nhầm lẫn là hai năm kể từ ngày giao dịch dân sự được xác lập.

Vụ án cụ thể: Công ty TNHH dịch vụ thương mại sản xuất Việt Á
Châu (bên mua) đã kiện Công ty TNHH Connell Bros (bên bán) để đòi bồi
thường thiệt hại do việc hàng hóa do Công ty TNHH Connell Bros cung cấp
không đạt yêu cầu về chất lượng. Cụ thể như sau: Ngày 7/7/2003, Công ty
TNHH dịch vụ thương mại sản xuất Việt Á Châu (Công ty Việt Á Châu) ký
hợp đồng số 241/03-VU mua của Công ty TNHH Connell Bros (Công ty
Connell Bros) sản phẩm Myflame 84527E, số lượng 16.080 kg (67 thùng
ống), đơn giá 2,9 USD/kg CIF HCMC, trị giá hợp đồng 46.632 USD, xuất
xứ hàng hóa: Vương quốc Anh. Sau đó, ngày 11/7/2003 các bên lại ký tiếp
7
hợp đồng số 243/03-VU mua 10.080 kg sản phẩm trên, trị giá 29.232 USD
và 5.987,472 kg sản phẩm Performax TF 1133, trị giá 20.357,40 USD. Điều
khoản chất lượng của hai hợp đồng này chỉ ghi “theo Bản đặc điểm kỹ
thuật” (same as Specifications).
Sau khi ký hợp đồng mua hàng với Công ty Connell Bros, bên mua đã
ký hợp đồng số 086/07-2003-VG-GCDI ngày 18/7/2003 gia công cán phủ
chất chống cháy lên vải Poly-oxford cho Xí nghiệp may Bình Thạnh thuộc
Công ty cổ phần sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu Bình Thạnh –
GILIMEX. Ngày 19/8/2003, bên mua đã giao lô hàng thành phẩm cho Xí
nghiệp may Bình Thạnh. Đến giữa tháng 9/2003, Xí nghiệp Bình Thạnh phát
hiện ra số hàng gia công không đạt yêu cầu do loại chất Myfame 84527E nói
trên: vải được gia công ra không khô, dẻo dính, bong tróc. Vì thế, Xí nghiệp
Bình Thạnh đã từ chối thanh toán tiền gia công cho bên mua.
Vụ kiện được xử sơ thẩm lần đầu tiên vào ngày 28/9/2004 và đã trải
qua bốn phiên xét xử với những kết luận khác nhau qua mỗi lần xét xử. Lần
xét xử sơ thẩm thứ nhất vào ngày 28/9/2004, Tòa án nhân dân TP. Hồ Chí
Minh đã bác yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn (Công ty Việt Á Châu) đòi
bị đơn bồi thường thiệt hại do hàng hóa cung cấp không đúng chất lượng và
chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn (Công ty Connell Bros) về yêu cầu
thanh toán tiền hàng còn thiếu của nguyên đơn đối với bị đơn

1
. Bản án sơ
thẩm đã bị kháng cáo và bị Tòa phúc thẩm hủy án để giao cho Tòa sơ thẩm
giải quyết lại
2
. Vụ kiện sau đó đã được Tòa án nhân dân TP. Hồ Chí Minh và
Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại TP. Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm
và phúc thẩm lại vào các ngày 1/8/2006 và 12/7/2007. Cả hai Tòa này đều
tuyên hai hợp đồng mua bán trên vô hiệu do nhầm lẫn và tranh chấp của các
bên được giải quyết theo quy định của Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế về xử lý
hợp đồng vô hiệu: “Các bên có nghĩa vụ hoàn trả cho nhau tất cả tài sản đã
nhận được từ việc thực hiện hợp đồng. Trong trường hợp không thể trả được
bằng hiện vật thì phải trả bằng tiền… Thiệt hại phát sinh, các bên tự gánh
chịu”
3
.
(1) Xem Bản án số 245/KTST ngày 28/9/2004 của Tòa án nhân dân TP.HCM.
(2) Xem Bản án số 37/KTPT ngày 20/10/2004 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao
tại TP.HCM.
8

×