Tuyển tập Báo cáo “Hội nghị Sinh viên Nghiên cứu Khoa học” lần thứ 6 Đại học Đà Nẵng - 2008
231
VẤN ĐỀ “ĐÓNG CỬA” VÀ “MỞ CỬA” CỦA MỘT SỐ
NƯỚC CHÂU Á TRƯỚC SỰ XÂM NHẬP CỦA CHỦ
NGHĨA THỰC DÂN PHƯƠNG TÂY (TỪ THẾ KỈ XVI ĐẾN
NỬA SAU THẾ KỈ XIX)
THE PROBLEM OF “DOOR-CLOSING” AND “DOOR-OPENING” OF SOME
ASIAN COUNTRIES BEFORE THE PENETRATION OF WESTERN
COLONIALISN (FROM THE 16
TH
CENTURY TO THE SECOND HALF OF
THE 19
TH
CENTURY)
SVTH: ĐỖ BÁ LƢU
Lớp 05ls, Khoa lịch sử, Trường Đại học sư phạm, ĐHĐN
GVHD: TH.S DƢƠNG THỊ TUYẾT
Khoa lịch sử, Trường Đại học sư phạm, Đại học Đà Nẵng
TÓM TẮT
Đề tài cho chúng ta hiểu rõ tình trạng trì tuệ, suy yếu mọi mặt của một số nước châu Á, mà cụ
thể ở đây là Việt Nam, Trung Quốc, Thái Lan, Nhật Bản trước khi chủ nghĩa thực dân phương
Tây xâm nhập. Qua đó cũng giúp chúng ta có một cái nhìn khách quan, toàn diện về sự lựa
chọn “đóng cửa” hoặc “mở cửa” đất nước của các nước châu Á trước sự xâm nhập của chủ
nghĩa thực dân phương Tây. Trên cơ sở thực tiễn lịch sử đó góp phần vào hoạch định đường
lối, chính sách đối ngoại của các nước trong xu thế hội nhập thế giới, khu vực hiện nay, đặc
biệt là đối với đất nước ta.
SUMMARY:
The theme enables us to know clearly of the situation of stagnancy, regression in every aspect
among some of the Asian countries, particularly Vietnam, China, Thailand, Japan before the
penetration of Western colonialism. It also helps us have an objective, overall view on the
option whether “to close the door” or “to open the door” of the countries in Asia before the
penetration of Western colonialism. On that basis of historical reality much will be countributed
to the planning of strategies, foreign policies of the countries in the present trend of regional
and global intergration especially for our country.
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Vào thế kỉ XVI sau những phát kiến mới về địa lí “báo hiệu buổi bình minh của thời
đại tƣ bản chủ nghĩa”, nhiều nƣớc phƣơng Tây bắt đầu quá trình xâm nhập vào phƣơng Đông
tìm kiếm thị trƣờng buôn bán và truyền đạo. Châu Á rộng lớn, đông dân, giàu tài nguyên cho
nên từ sớm châu lục này đã thu hút sự chú ý của ngƣời phƣơng Tây.
Khi xâm nhập vào các nƣớc châu Á từ những hoạt động buôn bán và truyền đạo, các
nƣớc thực dân phƣơng Tây chuyển sang chính sách xâm lƣợc. Trƣớc sức ép của chủ nghĩa
thực dân phƣơng Tây, vì chủ quyền độc lập quốc gia dân tộc xen lẫn quyền lợi giai cấp bị đe
dọa, giai cấp thống trị các nƣớc châu Á buộc phải đứng trƣớc sự lựa chọn: hoặc “đóng cửa”
hoặc “mở cửa” đất nƣớc.
Hiện nay, trong xu thế hội nhập thế giới, khu vực thì vấn đề “mở cửa” là hết sức quan
trọng, đòi hỏi các nƣớc lựa chọn con đƣờng đúng để phát triển đất nƣớc theo kịp thời đại.
Riêng Việt Nam đang trong thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc thì vấn đề đó càng
trở nên bức thiết.
Tuyển tập Báo cáo “Hội nghị Sinh viên Nghiên cứu Khoa học” lần thứ 6 Đại học Đà Nẵng - 2008
232
Từ cơ sở lí luận và thực tiễn trên mà tôi chọn đề tài: “Vấn đề “đóng cửa” và “mở cửa”
của một số nƣớc châu Á trƣớc sự xâm nhập của chủ nghĩa thực dân phƣơng Tây (từ thế kỉ XVI
đến nửa sau thế kỉ XIX)”.
2. Lịch sử vấn đề
“Vấn đề “đóng cửa” và “mở cửa” của một số nƣớc châu Á trƣớc sự xâm nhập của chủ
nghĩa thực dân phƣơng Tây (từ thế kỉ XVI đến nửa sau thế kỉ XIX)” là vấn đề quan trọng
không chỉ đối với các nƣớc châu Á lúc bấy giờ mà còn mang tính thời sự hiện nay. Cụ thể vấn
đề đó đƣợc đề cập trong các tác phẩm:
- “Lịch sử Trung Quốc” của Nguyễn Gia Phu, Nguyễn Huy Quý, Nxb giáo dục, 2003.
- “Ngoại giao giữa Việt Nam và các nƣớc phƣơng Tây dƣới triều Nguyễn (1802 -
1858)” của Trần Nam Tiến, Nxb Đại học quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, 2004.
- Cuốn “Lịch sử cận đại Nhật Bản” của Vĩnh Sính, Nxb Văn hóa Tùng Thƣ, 1990.
- “Lịch sử vƣơng quốc Thái Lan” của Vũ Dƣơng Minh, Nxb Giáo dục, 1994.
Ngoài ra còn nhiều tác phẩm khác, các tạp chí lần lƣợt đề cập đến vấn đề đóng cửa, mở
cửa. Tuy nhiên các tác phẩm trên còn rất chung chung, sơ lƣợc chƣa làm sáng tỏ vấn đề. Vì
vậy tôi muốn làm sáng tỏ vấn đề một cách khoa học và nghiêm túc đáp ứng yêu cầu ngƣời
học.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu.
-Đối tƣợng nghiên cứu của đề tài là: “Vấn đề “đóng cửa” và “mở cửa” của một số nƣớc
châu Á trƣớc sự xâm nhập của chủ nghĩa thực dân phƣơng Tây (từ thế kỉ XVI đến nửa sau thế
kỉ XIX)”.
- Phạm vi nghiên cứu : Một số nƣớc châu Á, ở đây tôi chỉ tập trung nghiên cứu các
nƣớc: Trung Quốc, Việt Nam, Thái Lan, Nhật Bản (từ thế kỉ XVI đến nửa sau thế kỉ XIX).
4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu.
4.1. Nguồn tư liệu
Tƣ liệu thành văn của các tác giả ngƣời Việt, tài liệu dịch của các tác phẩm tác giả
nƣớc ngoài, các tạp chí, thông tin trên mạng.
4.2. Phương pháp nghiên cứu.
Đề tài tôi sử dụng kết hợp nhiều phƣơng pháp: tổng hợp, phân tích đánh giá, nhận xét
đối chiếu, so sánh khi sử dụng tài liệu.
5. Đóng góp của đề tài:
- Giúp ngƣời nghiên cứu hiểu rõ thực chất của chính sách “đóng cửa” và “mở cửa” của
một số nƣớc châu Á khi chủ nghĩa thực dân phƣơng Tây xâm nhập.
- Những bài học kinh nghiệm trong xu thế hiện nay
- Tƣ liệu tham khảo cho ngƣời học tập, nghiên cứu lịch sử.
6. Cấu trúc đề tài:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, đề tài có phần nội dung gồm 2 chƣơng.
Chƣơng 1: Châu Á trƣớc khi chủ nghĩa thực dân phƣơng Tây xâm nhập.
Chƣơng 2: “Đóng cửa” hay “mở cửa”, sự lựa chọn của các quốc gia châu Á trƣớc sự
xâm nhập của chủ nghĩa thực dân phƣơng Tây.
Tuyển tập Báo cáo “Hội nghị Sinh viên Nghiên cứu Khoa học” lần thứ 6 Đại học Đà Nẵng - 2008
233
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: Châu Á trước khi chủ nghĩa thực dân phương Tây xâm nhập.
1.1. Tình hình thế giới (từ thế kỉ XVI đến thế kỉ XIX).
Chế độ tƣ bản chủ nghĩa ra đời trong lòng xã hội phong kiến tuy còn non yếu nhƣng
chủ nghĩa tƣ bản đã thể hiện rõ tính ƣu việt nhiều mặt của mình so với chế độ phong kiến, gây
nên ảnh hƣởng lớn lao đối với xã hội phong kiến. Chủ nghĩa tƣ bản đã xác lập và thắng lợi trên
tất cả các lĩnh vực từ kinh tế, chính trị, xã hội.
Về kinh tế: Thông qua các cuộc cách mạng tƣ sản: cách mạng Hà Lan (1566), cách
mạng Anh (1640), chiến tranh giải phóng dân tộc ở Bắc Mĩ (1776), cách mạng tƣ sản Pháp
(1789)… và cuộc cách mạng công nghiệp (bắt đầu từ cuối thế kỉ XVIII) nền kinh tế tƣ bản chủ
nghĩa thực sự xác lập, thắng lợi và đã xây dựng cơ sở vật chất vững chắc cho chủ nghĩa tƣ bản.
Về chính trị: Thể hiện qua cuộc đấu tranh giai cấp, giai cấp tƣ sản đã giành lấy chính
quyền và thiết lập thể chế chính trị nhà nƣớc sau khi cách mạng kết thúc.
Về xã hội: Cùng với sự xác lập và thắng lợi của nền kinh tế tƣ bản chủ nghĩa thì nó kéo
theo sự chuyển biến về tình hình xã hội. Giai cấp phong kiến bị phân hóa do sự xâm nhập của
nền kinh tế tƣ bản chủ nghĩa vào trong nông nghiệp. Bộ phận này gọi là quý tộc tƣ sản hóa, có
nhiều quyền lợi gắn với nền kinh tế tƣ bản chủ nghĩa.
Sau khi quan hệ sản xuất tƣ bản chủ nghĩa xác lập thì trong lòng xã hội tƣ bản nảy sinh
cuộc đấu tranh giai cấp gay gắt giữa giai cấp tƣ sản và vô sản. Tuy nhiên có thể khẳng định từ
thế kỉ XVI đến thế kỉ XIX chủ nghĩa tƣ bản đã dần xác lập và thắng lợi về kinh tế, giai cấp tƣ
sản giữ địa vị thống trị trong xã hội, đó cũng là một bƣớc tiến trong lịch sử nhân loại so với
chế độ phong kiến.
Sự phát triển của xã hội tƣ bản Âu, Mĩ là việc không thể tách rời đƣợc sự cƣớp bóc
của họ tại những khu vực có nền kinh tế lạc hậu trên thế giới. Chủ nghĩa thực dân tiến hành
xâm lƣợc các nƣớc Á, Phi, Mĩ latinh. Đồng thời với sự xâm lƣợc đó, sự xâm nhập của chủ
nghĩa thực dân đã làm cho nền kinh tế, xã hội ở các nƣớc Á, Phi, Mĩ latinh có sự chuyển biến
mạnh mẽ. Nền kinh tế tƣ bản chủ nghĩa thâm nhập vào làm quan hệ sản xuất phong kiến lung
lay, nó chuyển từ kinh tế tự nhiên sang kinh tế hàng hóa. Còn xã hội thì xuất hiện những giai
cấp tầng lớp mới. Việt Nam, Trung Quốc, Thái Lan, Nhật Bản cũng bị cuốn vào vòng xoáy
của chủ nghĩa thực dân.
1.2. Tình hình một số nước châu Á (Trung Quốc, Việt Nam, Thái Lan, Nhật Bản)
trước khi chủ nghĩa thực dân phương Tây xâm nhập.
Châu Á rộng lớn, đông dân, giàu tài nguyên cho nên thu hút sự chú ý của ngƣời
phƣơng Tây. Các cuộc phát triển địa lí đã mở ra thời đại xâm chiếm thuộc địa của thực dân
Âu, Mĩ. Trƣớc khi chủ nghĩa thực dân phƣơng Tây xâm nhập các nƣớc châu Á nhƣ Việt Nam,
Trung Quốc, Thái Lan, Nhật Bản đang ở trong tình trạng suy yếu mọi mặt.
Về kinh tế: Nền kinh tế vẫn là kinh tế tự nhiên xây dựng trên nền tảng tiểu nông kết
hợp chặt chẽ với thủ công gia đình. Bọn địa chủ, quan lại phong kiến tìm cách chiếm ruộng đất
và thu tô nặng (trên 50% hoa lợi của nông dân). Nông dân bị áp bức bóc lột nặng nề. Tuy
nhiên vào đầu thời cận đại ở các nƣớc đã xuất hiện những yếu tố tƣ bản chủ nghĩa: công
trƣờng thủ công ra đời, sản xuất hàng hóa nhỏ ngày càng lệ thuộc vào những ngƣời thu mua,
quan hệ hàng hóa tiền tệ thâm nhập vào nông thôn.
Về chính trị: Cho đến đầu thế kỉ XIX tình hình chính trị các nƣớc cũng rất phức tạp,
rối ren. Ở các nƣớc nhà nƣớc trung ƣơng tập quyền suy yếu trở nên bảo thủ phản động.
Về xã hội: Quan hệ hàng hóa tiền tệ phát triển làm xói mòn những giá trị tƣởng chừng
bất biến, làm thay đổi các đẳng cấp trong xã hội. Phong trào đấu tranh nông dân liên tiếp nổ ra
Tuyển tập Báo cáo “Hội nghị Sinh viên Nghiên cứu Khoa học” lần thứ 6 Đại học Đà Nẵng - 2008
234
chứng tỏ chế độ phong kiến đã suy yếu. Đó là điều kiện thuận lợi cho các nƣớc thực dân xâm
nhập vào các nƣớc châu Á. Một giai đoạn đầy khó khăn thử thách phía trƣớc đang chờ đợi các
nƣớc phong kiến châu Á.
Chương 2: “Đóng cửa” hay “mở cửa” sự lựa chọn của các quốc gia châu Á trước sự xâm
nhập của chủ nghĩa thực dân phương Tây.
2.1. Trung Quốc và Việt Nam giữa hai khuynh hướng “đóng cửa” và “mở cửa”
trong quan hệ với các nước tư bản Âu – Mĩ.
2.1.1. Đối với Trung Quốc.
Đứng trƣớc sự xâm nhập của chủ nghĩa thực dân, triều đình Mãn Thanh thực hiện
chính sách “đóng cửa” vào thế kỉ XVIII, phong tỏa duyên hải, cấm buôn bán với nƣớc ngoài.
Nhƣng thực dân phƣơng Tây khao khát thị trƣờng rộng lớn, đông dân tìm cách mở toang cánh
cửa Trung Quốc. Đi đầu là thực dân Anh tìm cách mở cửa bằng buôn bán thuốc phiện, món
hàng thu lợi nhuận lớn. Chiến tranh thuốc phiện nổ ra (1840) triều đình Mãn Thanh bị đánh
bại buộc phải kí điều ƣớc Nam Kinh (1842). Trung Quốc buộc phải mở cửa đất nƣớc, chính
sách “bế quan tỏa cảng” bị phá sản.
2.1.2.Đối với Việt Nam.
Vào cuối thế kỉ XVI đầu thế kỉ XVII, khi chúa Trịnh ở Đàng Ngoài và chúa Nguyễn ở
Đàng Trong cho phép ngƣời phƣơng Tây đến giao dịch buôn bán thì nền ngoại thƣơng Việt
Nam phát triển, góp phần hình thành hai trung tâm thƣơng nghiệp lúc bấy giờ là Phố Hiến và
Hội An.
Nhƣng đến nửa đầu thế kỉ XIX các vua triều Nguyễn lại khá lúng túng vừa muốn “mở
cửa” hòa nhập với thị trƣờng thế giới, vừa muốn “đóng cửa” ngăn chặn chủ nghĩa thực dân
nên quan hệ giữa Việt Nam và phƣơng Tây rơi vào bế tắc, luẩn quẩn. Trên cơ bản thì triều
Nguyễn vẫn thực hiện chính sách “đóng cửa”, “tự thủ khép kín” với bên ngoài.
2.2. Chính sách mở cửa của Nhật Bản, Thái Lan trong quan hệ với các nước
phương Tây.
2.2.1. Nhật Bản
Trong quan hệ với các nƣớc phƣơng Tây do lo sợ an ninh chủ quyền dân tộc bị đe dọa
nên ngay từ thế kỉ XVII (1639) Nhật Bản đã tiến hành “đóng cửa” với bên ngoài.
Nhƣng bƣớc sang thế kỉ XIX tình hình trong nƣớc và thế giới đã thay đổi. Trƣớc sự đe
dọa của phƣơng Tây (đặc biệt là Mĩ), Mạc phủ Tôcƣgaoa buộc phải kí một loạt hiệp ƣớc bất
bình đẳng với các nƣớc tƣ bản Âu, Mĩ chấp nhận “mở cửa” đất nƣớc.
2.2.2. Thái Lan
Trong nửa thập kỉ đầu XIX, Thái Lan nhờ thi hành chính sách ngoại giao “lựa chiều”
cho nên dù chịu sức ép từ phƣơng Tây Thái Lan vẫn giữ đƣợc thế bình đẳng ngang bằng trong
quan hệ với các nƣớc phƣơng Tây. Nhƣng đến giữa thế kỉ XIX trƣớc áp lực ngày càng tăng
của chủ nghĩa thực dân phƣơng Tây, Rama Mông kút đã chủ trƣơng “mở cửa” giao lƣu với thế
giới, mặc dầu phải kí những điều kiện bất lợi, kí nhiều hiệp ƣớc không bình đẳng với nƣớc
ngoài.
2.3. Hệ quả của chính sách đóng cửa và mở cửa.
2.3.1. Đối với Việt Nam, Trung Quốc
Nó đều tạo điều kiện cho quan hệ sản xuất tƣ bản chủ nghĩa xâm nhập vào các nƣớc,
tạo nên sự biến chuyển trong nền kinh tế, xã hội các nƣớc.
Trung Quốc và Việt Nam thực thi chính sách “đóng cửa” gây nên hệ quả tiêu cực cho
đất nƣớc. Trung Quốc buộc phải kí các hiệp ƣớc bất bình đẳng, bị các nƣớc đế quốc xâu xé
chia nhau từng bƣớc biến thành nƣớc nửa thuộc địa, nửa phong kiến. Còn với Việt Nam triều
Tuyển tập Báo cáo “Hội nghị Sinh viên Nghiên cứu Khoa học” lần thứ 6 Đại học Đà Nẵng - 2008
235
Nguyễn đã hèn nhát, lần lƣợt kí các hiệp ƣớc bán nƣớc để rồi thực dân Pháp biến nƣớc ta
thành nƣớc thuộc địa nửa phong kiến vào cuối thế kỉ XIX.
2.3.2. Đối với Thái Lan, Nhật Bản
Tạo điều kiện cho hai nƣớc hòa nhập vào nền kinh tế tƣ bản chủ nghĩa, phát triển đất
nƣớc. Thái Lan nhờ thi hành chính sách “mềm dẻo”, “lựa chiều” đã giữ vững “độc lập dân
tộc” dù chỉ là trên danh nghĩa. Nhật Bản học hỏi văn minh, kĩ thuật phƣơng Tây, tạo tiền đề
cho những cải cách Minh Trị Thiên hoàng sau này, vƣơn lên địa vị bình đẳng với các nƣớc tƣ
bản Âu, Mĩ.
2.3.3. Những bài học kinh nghiệm trong xu thế hiện nay.
Để lại bài học kinh nghiệm về nắm bắt xu thế thời đại luôn nâng cao vị thế của đất
nƣớc trên trƣờng quốc tế.Đặc biệt trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay, hội nhập quốc tế là tất
yếu với mỗi quốc gia. Việt Nam, Trung Quốc, Thái Lan, Nhật Bản đều nắm bắt đƣợc quy luật
này. Tuy nhiên mỗi nƣớc khi “mở cửa” lại lựa chọn những con đƣờng và nguyên tắc khác
nhau tùy vào điều kiện thực lực mỗi nƣớc. Riêng với Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc
tế, Đảng ta quán triệt đƣờng lối đối ngoại độc lập, tự chủ, phát triển kinh tế thị trƣờng định
hƣớng xã hội chủ nghĩa.
KẾT LUẬN
Qua đề tài giúp hiểu rõ hơn tình hình một số nƣớc châu Á trƣớc khi chủ nghĩa thực dân
phƣơng Tây xâm nhập đều là những quốc gia phong kiến lỗi thời, lạc hậu đang trên đà suy
vong, khủng hoảng. Qua đó cũng nắm bắt đƣợc chính sách mà các nƣớc khi thi hành trƣớc áp
lực của chủ nghĩa thực dân phƣơng Tây. Mỗi nƣớc lựa chọn con đƣờng khác nhau có kết quả
không giống nhau.
Từ bài học của lịch sử để lại những bài học kinh nghiệm trong xu thế hiện nay đó là
phải hòa nhập vào thế giới, khu vực mới phát triển đất nƣớc. Riêng Việt Nam đang trên đà hội
nhập, vƣơn ra biển lớn, đất nƣớc đang thay da đổi thịt từng ngày. Dƣới sự lãnh đạo của Đảng
và Nhà nƣớc nhất định chúng ta sẽ hội nhập thành công, thực hiện thắng lợi công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, nƣớc ta sẽ giàu mạnh sánh ngang với các cƣờng quốc năm châu.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Đỗ Thanh Bình (2005), Lịch sử phong trào giải phóng dân tộc thế kỉ XX một cách tiếp
cận, Nxb Đại học Sƣ phạm.
[2] Phan Ngọc Liên, Đỗ Thanh Bình, Nguyễn Ngọc Cơ (2005), Lịch sử nhà Nguyễn một
cách tiếp cận mới, Nxb Đại học sƣ phạm.
[3] Vũ Dƣơng Ninh (1990), Vƣơng quốc Thái Lan lịch sử và hiện tại, Nxb Đại học và trung
học chuyên nghiệp.
[4] Vũ Dƣơng Ninh (chủ biên) (2006), Chuyên đề lịch sử thế giới, Nxb Đại học quốc gia Hà
Nội.
[5] Nguyễn Gia Phu, Nguyễn Huy Quý (2003), Lịch sử Trung Quốc, Nxb Giáo dục.
[6] Nguyễn Huy Quý (2004), Lịch sử cận đại Trung Quốc, Nxb Chính trị quốc gia.
[7] Vĩnh Sính (1990), Nhật Bản cận đại, Nxb Văn hóa tùng thƣ (1990).
[8] Trần Nam Tiến (2006), Ngoại giao giữa Việt Nam và các nƣớc phƣơng Tây dƣới triều
Nguyễn (1802 - 1858), Nxb Đại học quốc gia thành phố Hồ Chí Minh.