Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Thừa kế theo pháp luật là thừa kế theo hàng thừa kế, điều kiện và trình tự thừa kế do pháp luật quy định

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (166.69 KB, 19 trang )

MỤC LỤC
MỤC LỤC..............................................................................................................................................................1
ĐẶT VẤN ĐỀ........................................................................................................................................................2
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ........................................................................................................................................2
1. DIỆN THỪA KẾ THEO PHÁP LUẬT..............................................................................................................2
2. HÀNG THỪA KẾ THEO PHÁP LUẬT...........................................................................................................11
KẾT LUẬN..........................................................................................................................................................18
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..........................................................................................................19
1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Sự dịch chuyển di sản từ một người đã chết sang người còn sống được thực
hiện theo một trong hai căn cứ là ý chí của người để lại di sản và quy định
của pháp luật. Nếu sự dịch chuyển di sản đó căn cứ vào ý chí của người đã
chết để lại thì được gọi là thừa kế theo di chúc, nếu sự dịch chuyển tài sản
của người chết để lại sang người còn sống căn cứ vào quy định của pháp luật
thì được gọi là thừa kế theo pháp luật. Như vậy thừa kế theo pháp luật được
hiểu một cách đơn giản là quá trình dịch chuyển di sản của người chết sang
những người còn sống theo quy định của pháp luật về thừa kế. Mặt khác
theo quy định của pháp luật thì khi không có căn cứ để dịch chuyển di sản
của người chết theo theo ý chí của họ thì di sản đó phải dịch chuyển theo
quy định của pháp luật về hàng thừa kế, điều kiện và trình tự thừa kế. Điều
674 Bộ luật Dân sự 2005 đã định nghĩa về thừa kế theo quy định của pháp
luật như sau: “Thừa kế theo pháp luật là thừa kế theo hàng thừa kế, điều kiện
và trình tự thừa kế do pháp luật quy định”. Diện và hàng thừa kế chỉ được
đặt ra trong loại hình thừa kế theo pháp luật.
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Diện thừa kế theo pháp luật.
Thừa kế theo pháp luật là trình tự dịch chuyển di sản thừa kế của người chết
để lại theo hàng thừa kế, điều kiện, trình tự thừa kế theo quy định của pháp
luật. Nghĩa là theo trình tự này thì ai được hưởng di sản của người chết để
lại, hưởng như thế nào, bao nhiêu, hoàn toàn do pháp luật xác định. Tuy


nhiên, khi xác định phạm vi những người được hưởng di sản của người chết
để lại, pháp luật về thừa kế của bất kì quốc gia nào cũng phải dựa trên ý chí
mang tính truyền thống của người để lại di sản nếu họ chết tài sản còn lại
của họ (di sản thừ kế) phải được dịch chuyển cho những ngời thân thích của
họ. Mặt khác, pháp luật về thừa kế còn phụ thuộc vào chế độ sở hữu, điều
kiện kinh tế, xã hội của mỗi quốc gia và theo từng thời kì phát triển lịch sử
2
nhất định. Vì thế, có thể nói rằng thừa kế theo pháp luật là việc pháp luật
phỏng đoán ý chí của người để lại di sản để theo đó xác định việc dịch
chuyển di sản của người đó cho những ai trên cơ sở dựa vào điều kiện kinh
tế xã hội của nhà nước trong từng thời kì nhất định.
Một trong những vấn đề chình yếu của chế định thừa kế theo pháp luật là
việc xác định diện thừa kế. Diện thừa kế theo pháp luật là phạm vi những
người được pháp luật xác định nằm trong diện có thể được hưởng di sản của
người chết theo quy định của pháp luật. Những người được pháp luật xác
định nằm trong diện thừa kế phải là người thân thích của người để lại di sản
thừa kế được xác định trên cơ sở quan hệ hôn nhân gia đình giữa họ với
người để lại di sản.
Về diện và hàng thừa kế chỉ được đặt ra trong trình tự thừa kế theo pháp
luật. Ở nước ta, trước năm 1945 dưới các chế độ cũ, nhất là dưới chế đọ
phong kiến với ý thức bảo vệ chế độ tư hữu tài sản nhằm duy trì sự bóc lột
của mình, giai cấp thống trị xem quyền tư hữu là một quyền thiêng liêng bất
khả xâm phạm. Ngay trong quan hệ gia đình thì quan hệ huyết thống được
coi trọng và được đề cao, con quan hệ hôn nhân đã bị xem nhẹ. Tư tưởng
trọng nam khinh nữ nặng nề đã có ảnh hưởng sâu sắc đến chế định thừa kế.
Thừa kế di sản trong thời kì này được xem như một phương tiện để duy trì
và bảo vệ khối tài sản của nội tộc và do những người trong nội tộc của người
để lại di sản được ưu tiên thừa hưởng. Địa vị của người vợ trong quan hệ gia
đình luôn bị đẩy xuống bậc thứ yếu so với các con và người chồng trong
những quan hệ xã hội thông thường và trong cả quan hệ thừa kế. Bộ luật của

chế độ cũ quy định về diện thừa kế theo nguyên tắc ưu tiên bảo vệ quyền
thừa kế của những người thuộc họ nội của người để lại di sản và có sự phân
biệt giữa vợ cả với vợ thứ trong việc hưởng di sản của người chồng chết
trước. Quyền lợi của người vợ góa chỉ được bảo vệ sau các con, cháu, cha,
mẹ, ông, bà, các cụ, anh, chị, em ruột của người để lại di sản. Tóm lại, diện
thừa kế theo pháp luật của chế độ cũ chủ yếu dựa trên quan hệ huyết thống
3
nội tộc, quan hệ huyết thống ngoại tộc chỉ được xét vào diện thừa kế khi
không còn người thừa kế theo quan hệ huyết thồng nội tộc.
Ngược lại với bản chất pháp luật của chế độ cũ, pháp luật phong kiến ở nước
ta đã xóa bỏ tàn tích của tư tưởng lạc hậu trọng nam khinh nữ và quy định
người vợ góa hay người chồng góa thuộc diện thừa kế theo pháp luật của
người chồng hay người vợ chết trước. Trong giai đoạn đầu thực hiện các chủ
trương đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo, nền
kinh tế của nước ta từng bước chuyển hướng phát triển theo kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhiều thành phần kinh tế và nhiều hình
thức sở hữu cùng tồn tại và phát triển. Bên cạnh sở hữu nhà nước, sở hữu tập
thể là hình thức sở hữu cá thể, sở hữu tiểu chủ và sở hữu tư bản tư nhân cũng
đã có cơ sở pháp lý để tồn tại và phát triển. Nhằm củng cố hơn nữa sự ổn
định và bền vững trong quan hệ của các thành viên trong gia đình, dòng
tộc…để bảo vệ có hiệu quả hơn quyền thừa kế cảu công dân phù hợp với
hoàn cảnh kinh tế, xã hội ở nước ta trong thời kí đổi mới, diện những người
thừa kế theo pháp luật đã được Pháp lệnh thừa kế ngày 30/8/1990 quy định
rộng rãi hơn. Diện những người thừa kế theo pháp luật mà Pháp lệnh thừa kế
quy định không những có tất cả những người mà Thông tư số 81 hướng dẫn
xác định mà còn bao gồm thêm những người thuộc quan hệ huyết thống trực
hệ và bang hệ khác, đó là cụ nội, cụ ngoại, chú, bác, cô, dì, cậu ruột của
người để lại di sản và những người mà người để lại di sản là chú, bác, cô, dì,
cậu ruột.
Phạm vi những người thuộc diện thừa kế theo pháp luật được Pháp lệnh thừa

kế về thực chất dựa trên quan điểm mang tính truyền thống về quan hệ gia
đình Việt Nam là: “Giọt máu đào hơn ao nước lã”. Những người có quan hệ
huyết thống với người để lại di sản thuộc diện thừa kế theo pháp luật của
người đó. Lợi ích của mỗi thành viên trong một gia đình, một dòng tộc luôn
được pháp luật của nước ta coi trọng và bảo đảm thực hiện trong mối quan
hệ với lợi ích của toàn xã hội, khi mà tài sản thuộc sở hữu tư nhân ngày càng
phong phú về chủng loại và tăng cao về giá trị. Những quan hệ giữa người
4
để lại di sản và những người thuộc phạm vi được thừa kế theo quan hệ hôn
nhân, quan hệ huyết thống va quan hệ nuôi dưỡng. Người thuộc diện thừa kế
theo pháp luật là người có một hoặc đồng thời hai mối quan hệ với người để
lại di sản trong phạm vi ba mối quan hệ trên và được thể hiện cụ thể:
- Người thuộc diện thừa kế theo pháp luật có mối quan hệ nuôi
dưỡng với người để lại di sản.
- Hay người đó có mối quan hệ hôn nhân và quan hệ nuôi dưỡng
với người để lại di sản.
- Hay người đó có mối quan hệ huyết thống và quan hệ nuôi dưỡng
với người để lại di sản.
Ba mối quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống, quan hệ nuôi dưỡng giữa
người để lại di sản với người thừa kế chỉ là những căn cứ xác định diện
những người thừa kế theo pháp luật. Phạm vi những người có quan hệ huyết
thống gần, có quan hệ huyết thống xa (tính theo đời và theo thứ bậc bề trên,
bề dưới) với người để lại di sản có thuộc diện hay không thuộc diện thừa kế
còn tùy thuộc vào những quy định của pháp luật trong giai đoạn lịch sử khác
nhau.
Diện thừa kế theo pháp luật dựa trên quan hệ hôn nhân:
Theo quy định tại khoản 6 Điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình thì: “Hôn nhân
là quan hệ giữa vợ và chồng sau khi đã kết hôn”. Tại khoản 2 của Điều luật
nói trên còn quy định: “Kết hôn là việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng
theo quy định của pháp luật về điều kiện kết hôn và đăng kí kết hôn”. Quan

hệ hôn nhân là quan hệ vợ chồng cho đến thời điểm mở thừa kế phải được
xác định là hôn nhân hợp pháp. Như vậy, quan hệ hôn nhân hợp pháp là
quan hệ giữa vợ và chồng khi kết hôn đã tuân thủ các điều kiện và thủ tục
pháp luật quy định: về độ tuổi kết hôn, ý chí tự do, tự nguyện kết hôn, tự do
thỏa thuận không áp đặt ý chí của một bên đối với bên kia trong kết hôn,
không vi phạm quan hệ huyết thống, không vi phạm chế độ một vợ một
chồng và không vi phạm các điều cấm khác của pháp luật trong kết hôn như
5
giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi, giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con
nuôi, bố chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, bố dượng với con riêng của
vợ, mẹ kế với con riêng của chồng, giữa những người cùng giới tính. Người
mất năng lực hành vi không được kết hôn. Việc kết hôn phải được đăng kí
và do cơ quan nhà nước có hầm quyền thực hiện theo nghi thức tổ chức đăng
kí kết hôn. Vợ và chồng thuộc diện thừa kế theo pháp luật của nhau, khi
quan hệ hôn nhân của họ tính đến thời điểm mở thừa kế của người vợ hoặc
người chồng được xác định là hôn nhân hợp pháp. Căn cứ vào quan hệ hôn
nhân hợp pháp, quyền thừa kế của vợ, chồng trong việc nhận di sản của nhau
được bảo vệ bằng pháp luật. Quan hệ hôn nhân hợp pháp là quan hệ hôn
nhân được xác lập thông qua việc đăng kí kết hôn. Thủ tục đăng kí kết hôn
đều được quy định trong luật Hôn nhân và gia đình năm 1959, luật Hôn nhân
và gia đình năm 1986, luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đang có hiệu lực
thi hành.
Tuy nhiên, ngoài việc xác định một quan hệ hôn nhân hợp pháp theo quy
định của pháp luật thì trong những giai đoạn lịch sử nhất định vẫn cân thiết
phải đánh giá đúng mức những quan hệ hôn nhân măc dù không tiến bộ, trái
với pháp luật hiên hành nhưng vẫn tồn tại và được thừa nhận ở nước ta như
giải pháp giả quyết những tàn dư của chế độ thực dân phong kiến còn sót lại.
Để gải quyết vấn đề này, Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Thông tư số
690_DS ngày 29/4/1960 hướng dẫn xử lý việc ly hôn và các vấn đề có liên
quan đến việc ly hôn vì chế đọ đa thê. Nhằm từng bước xóa bỏ những tàn dư

như vậy của chế độ cũ, pháp luật của nhà nước ta đã xác định giới hạn đình
chỉ những quan hệ hôn nhân trái với pháp luật hiện hành: quan hệ hôn nhân
của vợ chồng xác lập trước ngày 13/01/1960 (ở miền Bắc) và trước ngày
25/3/1977 (ở miền Nam) tuy có vi phạm chế độ một vợ, một chồng nhưng
vẫn tồn tại và được coi là không trái pháp luật. Theo quy định trên, khi
chồng chết các người vợ được thừa kế của chồng hoặc khi các người vợ chết
trước thì chồng được thừa kế của các người vợ. Một vấn đề nữa được đặt ra
là hôn nhân thực tế, hôn nhân thực tế được tòa án thừa nhận cũng được coi
6
là hôn nhân hợp pháp. Vấn đề hôn nhân thực tế được thừa nhận ở nước ta
chỉ là một giải pháp tình thế nhằm giải quyết những vấn đề về con chung của
vợ chồng, vấn đề tài sản của vợ chồng, vấn đề thừa kế di sản nhằm bảo vệ
những quyền và lợi ích chính đáng của công dân nhất là bảo vệ lợi ích của
người phụ nữ và trẻ em. Những cuộc hôn nhân nào thỏa mãn đầy đủ các điều
kiện kết hôn nhưng không đăng kí kết hôn đã sống chung với nhau hàng
chục năm, có tài sản chung hay con cái chung thì có thể coi là hôn nhân thực
tế để bảo đảm quyền lợi chính đáng cho các bên đương sự, nhất là đối với
phụ nữ. Quan hệ vợ chồng chưa đăng kí mà được xác lập trước ngày
03/01/1987 thì việc đăng kí kết hôn không bị hạn chế về thời gian. Nhưng
nếu nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng từ 03/01/1987 đến
01/01/2001 mà có đủ điều kiện đăng kí kết hôn theo quy định của luật Hôn
nhân và gia đình năm 2000 thì có nghĩa vụ đăng kí kết hôn. Từ sau ngày
01/01/2003 mà họ không đăng kí kết hôn thì pháp luật không công nhận họ
là vợ chồng.
Diện thừa kế theo pháp luật dựa trên quan hệ huyết thống:
Pháp luật về hôn nhân và gia đình luôn bảo vệ lợi ích chính đáng của những
người con xét về quan hệ huyết thống với cha, mẹ và nghĩa vụ của người
làm cha, làm mẹ của con. Quyền thừa kế theo pháp luật của con không phụ
thuộc vào hình thức hôn nhân của cha, mẹ đẻ. Các con đẻ của người để lại di
sản, không phân biệt con trai hay con gái, con trong giá thú hay con ngoài

giá thú, có năng lực hành vi dân sự hay không có năng lực hành vi dân sự,
theo quy định của pháp luật họ đều thuộc diện thừa kế theo pháp luật của
nhau vì giữa họ với cha đẻ, mẹ đẻ có quan hệ huyết thống. Cha đẻ, mẹ đẻ
của con dù là con trong giá thú hay con ngoài giá thú (về hậu quả pháp lý do
pháp luật quy định để có cơ sở xác định con chung của vợ, chồng hay con
của người cha, người mẹ không phải là vợ chồng sinh ra đều là những người
có quan hệ huyết thống với con) đều có quan hệ huyết thống. Do vậy, cha
đẻ, mẹ đẻ, với các con đẻ thuộc diện thừa kế theo pháp luật của nhau. Việc
xác định cha mẹ là quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm của mỗi người con
7

×