Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

mối quan hệ giữa hai cơ quan đại diện cho hai lĩnh vực quan trọng là lập pháp và hành pháp được quy định theo pháp luật hiện hành

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (122.09 KB, 11 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa. Mọi hoạt động của bộ máy nhà nước đều thể hiện ý chí, nguyện
vọng của nhân dân. Trong đó, Chính phủ - cơ quan hành chính nhà nước cao
nhất lại hoạt động dưới sự giám sát của Quốc hội – cơ quan đại biểu cao nhất
của nhân dân. Vì vậy, giữa hai cơ quan này có một mối quan hệ hết sức chặt
chẽ được quy định trong Hiến pháp 1992 và một số luật tổ chức.
Mối quan hệ giữa hai cơ quan quyền lực cao nhất của nhà nước ta hiện
nay còn rất nhiều vấn đề từ cơ cấu tổ chức đến hoạt động lập pháp. Việc
nghiên cứu, tìm hiểu mối quan hệ này không chỉ giúp ta hiểu rõ bản chất,
chức năng, cơ cấu tổ chức và hoạt động của hai cơ quan này. Quan trọng hơn,
qua việc làm rõ mối quan hệ này sẽ giúp ta phát huy hiệu quả về tổ chức và
hoạt động của bộ máy nhà nước ta hiện nay. Đông thời, việc nghiên cứu sẽ
cho ta thấy một đánh giá xá thực về vai trò và vị trí của hai cơ quan này trong
bộ máy nhà nước hiện nay.
Trong phạm vi bài tiểu luận này sẽ làm rõ phần nào mối quan hệ giữa
hai cơ quan đại diện cho hai lĩnh vực quan trọng là lập pháp và hành pháp
được quy định theo pháp luật hiện hành. Do hạn chế về thời gian và sự am
hiểu nên bài viết chắc chắn sẽ không tránh khỏi những sai sót, nhóm B2 rất
mong nhận được những ý kiến phê bình, đánh giá để bài viết hoàn thiện hơn.
Nhóm B2 xin chân thành cảm ơn!
1
PHẦN NỘI DUNG
I. Khái quát về Quốc hội và Chính phủ.
1. Quốc hội.
Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, đại diện cho ý
chí, lợi ích của nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt
Nam. Các đại biểu Quốc hội là những công nhân, nông dân trí thức và những
người lao động ưu tú thuộc mọi dân tộc trong cả nước được nhân dân tín
nhiệm bầu ra và chịu trách nhiệm trước quần chúng nhân dân, họ có mối liên
hệ chặt chẽ với quần chúng, nắm vững nguyện vọng, tâm tư của quần chúng


Theo điều 83, chương VI, Hiến pháp 1992: “Quốc hội là cơ quan đại
biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp.
Quốc hội quyết định những chính sách cơ bản về đối nội và đối ngoại,
nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh của đất nước, những nguyên
tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước, về quan hệ xã hội
và hoạt động của công dân.
Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động
của Nhà nước.”
Tại điều 85, chương VI đã quy định: “Nhiệm kì của mỗi khóa Quốc hội
là năm năm..
Hai tháng trước khi Quốc hội hết nhiệm kì, Quốc hội khóa mới phải
được bầu xong. Thể lệ bầu cử và số đại biểu Quốc hội do luật định.
Trong trường hợp đăc biệt, nếu được ít nhất hai phần ba tổng số đại
biểu Quốc hội biểu quyết tán thành, thì Quốc hội quyết định rút ngắn hoặc
kéo dài nhiệm kì của mình.”
Quốc hội có vai trò đặc biệt to lớn trog việc xây dựng, củng cố phát
triển bộ máy nhà nước từ trung ương đến địa phương, từ các cơ quan quyền
lực nhà nước đến các cơ quan quản lí nhà nước, cơ quan xét xử và cơ quan
kiểm sát. Quốc hội xem xét, lựa chọn, quyết định những mô hình tổ chức,
nguyên tắc hoạt động cho các cơ quan đó và được cụ thể hóa bằng Hiến pháp,
luật.
Ngoài ra, Quốc hội còn thực hiện chức năng giám sát tối cao nhằm đảm
bảo cho những quy định của Hiến pháp, luật được thi hành triệt để, nghiêm
minh và thống nhất. Đảm bảo cho các cơ quan hoàn thành nhiệm vụ, quyền
hạn đã được quy định, làm cho bộ máy nhà nước hoạt động nhịp nhàng, có
hiệu lực, không chồng chéo, chống các biểu hiện quan liêu, tham nhũng, hách
dịch cửa quyền.
Như vậy, Quốc hội có vai trò đặc biệt to lớn trog việc xây dựng, củng

cố phát triển bộ máy nhà nước từ trung ương đến địa phương, từ các cơ quan
quyền lực nhà nước đến các cơ quan quản lí nhà nước, cơ quan xét xử và cơ
quan kiểm sát. Quốc hội xem xét, lựa chọn, quyết định những mô hình tổ
2
chức, nguyên tắc hoạt động cho các cơ quan đó và được cụ thể hóa bằng Hiến
pháp, luật.
2. Chính phủ.
Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính nhà
nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. (Điều 109,
chương VIII, Hiến pháp 1992). Chính phủ do Quốc hội thành lập ra theo
nhiệm kì của Quốc hội, khi Quốc hội hết nhiệm kì Chính phủ tiếp tục hoạt
động cho đến khi bầu ra Chính phủ mới. Thành viên Chính phủ hoạt động
dưới sự giám sát của Quốc hội, Chính phủ chịu trách nhiệm và báo cáo công
tác trước Quốc hội. Chính phủ cụ thể hóa Hiến pháp, luật của Quốc hội bằng
các văn bản dưới luật như nghị định, nghị quyết…
Chính phủ có nhiệm vụ đảm bảo sự thống nhất trong quản lý nhà nước,
thực hiện vai trò lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện và kiểm tra hoạt động
của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và UBND. Các nội
dung trên đước quy định tài điều 109, chương VIII của Luật Hiến pháp 1992.
II. Một số yêu cầu đòi hỏi xác định mối quan hệ giữa Quốc hội với Chính
phủ.
1. Công tác xây dựng pháp luật ngày càng trở nên quan trọng trong điều
kiện nước ta đang chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang
cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế hiện nay. Trong quá trình chỉ đạo hoạt động lập pháp, Đảng ta
nhấn mạnh “…phấn đấu trong những năm tới dần dần có đủ các đạo luật điều
chỉnh các lĩnh vực của đời sống xã hội theo đúng đường lối, quan điểm của
Đảng, bảo đảm định hướng XHCN; dựa trên cơ sở tổng kết thực tiễn Việt
Nam, có nghiên cứu tham khảo chọn lọc kinh nghiệm nước ngoài…” và cần
phải “ Cải tiến sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan của Quốc hội và

Chính phủ để bảo đảm tính kịp thời và nâng cao chất lượng xây dựng luật”.
Trong các Nghị quyết của Chính phủ, chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ cũng
đều tập trung hướng dẫn các Bộ, nghành làm tốt hơn nữa công tác trình các
dự án luật, pháp lệnh do Chính phủ chuẩn bị trước Quốc hội và Uỷ ban
thường vụ Quốc hội.
2. Xuất phát từ chức năng của Quốc hội và Chính phủ trong bộ máy nhà
nước thông qua mối quan hệ giữa hai hoạt động lập pháp và hành pháp ở Việt
nam, Chính phủ xem như chủ thể chính trong việc soạn thảo, trình các dự án
luật, pháp lệnh trước Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, hay nói cách
khác, sáng kiến lập pháp hiện nay chủ yếu là từ phía Chính phủ (trên 90% các
dự án luật, pháp lệnh do Chính phủ trình). Điều đó khẳng định một thực tế là:
trong điều kiện một Đảng cầm quyền ở Việt Nam, việc hoạch định chính sách
cũng như xây dựng, ban hành các dự án luật, pháp lệnh không phải chỉ có
một cơ quan duy nhất, mà là sản phẩm của mối quan hệ mang tính chất “
cộng đồng trách nhiệm” giữa các chủ thể trình (trong đó có Chính phủ) và
chủ thể ban hành là Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội.
3
3. Chất lượng lập pháp của chúng ta, theo đánh giá của giới chuyên môn
hiện nay là thấp, chất lượng không cao; nhiều dự án luật, pháp lệnh không
khả thi, thiếu thực tiễn v.v…Có nhiều nguyên nhân, nhưng một trong những
nguyên nhân chính là sự phối kết hợp giữa Chính phủ (các cơ quan của Chính
phủ) vói Quốc hội (các cơ quan của Quốc hội) trong quá trình xây dựng chưa
đạt yêu cầu của một chu trình lập pháp khoa học, khách quan và mang tính
sáng tạo.
Qua theo dõi, ta nhận thấy nguyên nhân trên chính là ” vùng trũng” trong quá
trình xây dựng luật, pháp lệnh hiện nay.
4. Về mặt pháp lý, chúng ta chưa có quy chế ràng buộc lẫn nhau giữa các cơ
quan của Chính phủ với Quốc hội (thông qua các chế tài cụ thể) để quy định
rõ trách nhiệm của từng cơ quan trong mối quan hệ này. Chúng ta có các đạo
luật về tổ chức (tổ chức Quốc hội, Chính phủ), các đạo luật này chỉ quy định

thẩm quyền mang tính chất nội dung chứ không phải quy định thể hiện mối
quan hệ mang tính thủ tục trong việc phối hợp để tăng cường công tác lập
pháp. Hiện nay, chúng ta có Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật (sửa
đổi) năm 2002 quy định các thủ tục, trình tự xây dựng một dự án luật, pháp
lệnh, nhưng cũng chưa có một quy định nào khẳng định mối quan hệ (mang
tính chế tài, nếu các chủ thể không thực hiện thì phải chịu trách nhiệm gì?).
Ví dụ, việc xây dựng chương trình xây dựng pháp luật, pháp lệnh không đáp
ứng yêu cầu thực tế dẫn đến các đạo luật được ban hành không có hiệu quả
thì ai chịu trách nhiệm, Bộ, ngành chủ trì, Chính phủ, Uỷ ban thường vụ
Quốc hội hay Quốc hội? Nguyên nhân này làm cho các cơ quan tham gia xây
dựng chương trình theo hướng ‘mạnh ai, nấy làm” hoặc “ngành này có luật,
pháp lệnh thì ngành ta cũng phải xây dựng luật, pháp lệnh”.
5. Bên cạnh đó, một nguyên nhân nữa xuất phát từ thực tế chính là: Chúng
em đang học bộ môn Luật Hiến pháp Việt Nam và đây là một phần nội dung
quan trọng trong môn học. Việc làm rõ mối quan hệ giữa Quốc hội với Chính
phủ sẽ góp phần củng cố kiến thức của môn Luật hiến pháp Việt Nam.
Từ các yêu cầu trên, đòi hỏi chúng ta cần nghiên cứu kỹ nội dung các mối
quan hệ giữa Chính phủ và Quốc hội.
III. Mối quan hệ giữa Quốc hội với Chính phủ theo pháp luật hiện hành.
1. Trật tự hình thành cơ cấu của Chính phủ.
Có thể nói đây là một trong những mối quan hệ đầu tiên và cơ bản nhất
trong mối quan hệ giữa hai cơ quan này. Chính phủ là cơ quan chấp hành của
Quốc hội và quy trình thành lập của Chính phủ có sự chỉ đạo, phối hợp một
cách nhịp nhàng giữa Quốc hội và Chính phủ. Điều 3 Luật tổ chức Chính phủ
2001 quy định: “Thủ tướng do Quốc hội bầu, miễn nhiệm và bãi nhiệm theo
đề nghị của Chủ tịch nước. Thủ tướng trình Quốc hội phê chuẩn đề nghị về
việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức và từ chức đối với Phó thủ tướng, Bộ
trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ. Căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội,
4
Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức, chấp thuận việc từ chức đối

với Phó thủ tướng, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ”.
Thủ tướng Chính phủ phải đảm bảo là Đại biểu Quốc hội. Ngoài ra còn
có quy định về tiêu chuẩn thành viên Chính phủ như sau: thành viên Chính
phủ không nhất thiết phải là đại biểu Quốc hội (trừ Thủ tướng), thành viên
Chính phủ không đồng thời là thành viên Uỷ ban thường vụ Quốc hội. Việc
quy định như vậy là để đảm bảo cho các thành viên tập trung vào một công
việc chính theo nguyên tắc “bất khả kiêm nhiệm”. Các thành viên chính phủ
tập trung vào công việc chính của họ mà không kiêm nhiệm thêm bất cứ công
việc của ngành, tổ chức, cơ quan nào khác.
Điều 3, Luật tổ chức Chính phủ quy định: “Chính phủ gồm có: Thủ tướng
Chính phủ; Các Phó Thủ tướng; Các Bộ trưởng và Thủ trưởng cơ quan ngang
bộ. Số Phó Thủ tướng, Bộ trưởng và Thủ trưởng cơ quan ngang bộ do Quốc
hội quyết định. Thủ tướng do Quốc hội bầu, miễn nhiệm và bãi nhiệm theo đề
nghị của Chủ tịch nước. Thủ tướng trình Quốc hội phê chuẩn đề nghị về việc
bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức và từ chức đối với Phó Thủ tướng, Bộ
trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ. Căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội,
Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức, chấp thuận việc từ chức đối
với Phó Thủ tướng, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ.”
Hiến pháp 1992 có quy định khá cụ thể về việc thành lập Chính phủ, đây
là quy định kế thừa có chọn lọc quy định của các Hiến pháp Việt Nam trước
đó. Đồng thời cũng thay đổi những quy định không phù hợp với thực tế để
Chính phủ hoạt động tốt hơn, đáp ứng yêu cầu và tình hình mới của đất nước
nhằm thực hiện đúng quan điểm về tổ chức bộ máy nhà nước tập trung vào hệ
thống cơ quan dân cử. Điều này không đồng nghĩa với việc hạ thấp vai trò, vị
trí của Chính phủ, Hiến pháp vẫn quy định vị trí “cơ quan hành chính nhà
nước cao nhất” trong bộ máy nhà nước CHXHCN Việt Nam.
2. Chính phủ - cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính
nhà nước cao nhất.
Chính phủ với chức năng là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất được
hiểu như một cơ quan quản lý cao nhất theo ngành dọc trong cơ cấu bộ máy

nhà nước CHXHCN Việt Nam. Chính phủ đứng đầu hệ thống hành chính nhà
nước thực hiện hoạt động thực thi pháp luật, quản lí điều hành đất nước, cơ
quan thực hiện quyền hành pháp tối cao của Nhà nước. Hiến pháp và luật của
Quốc hội muốn được thực thi phải được Chính phủ cụ thể hóa bằng các văn
bản dưới luật, Chính phủ đề ra biện pháp thích hợp, phân công, chỉ đạo thực
hiện các văn bản đó trên thực tế. Các quy định về nhiệm vụ và quyền hạn của
Chính phủ được nêu ró tại chương II, luật tổ chức Chính phủ, năm 2003.
Những quy định này nhằm đề cao vị trí của Chính phủ trong bộ máy nhà
nước, tạo thế chủ động cho Chính phủ trong hoạt động quản lý nhà nước.
Việc quản lý chặt chẽ hệ thống cơ quan hành chính của cả bộ máy nhà nước
5

×