Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

hoạt động cho vay theo hợp đồng tín dụng của các TCTD

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (213.17 KB, 22 trang )

MỤC LỤC
ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong một nền kinh tế đang phát triển như ở Việt Nam hiện nay thì nhu cầu về vốn để
phát triển sản xuất, kinh doanh là một trong những nhu cầu rất lớn. Các doanh nghiệp, cá
nhân, hộ gia đình…có thể có nguồn vốn này từ nhiều nguồn như: tự tích lũy, vay mượn
bạn bè…Tuy nhiên, có một giải pháp có thể đem lại nguồn vốn dồi dào cho họ, đó chính
là việc vay vốn thông qua hợp đồng tín dụng của các TCTD. Trong bối cảnh nền kinh tế
đa rơi vào tình trạng lạm phát, lãi suất ngân hàng tăng cao thì đây là một trong những chủ
đề kinh tế nóng bỏng hiện nay. Sau đây bài làm của em sẽ đi tìm hiểu về hoạt động cho
vay theo hợp đồng tín dụng của các TCTD và những vấn đề thực tiễn pháp lý, đề xuất
hướng giải quyết để giải quyết hạn chế của pháp luật phát sinh trong quá trình cho vay.
Trong bài làm chắc chắn còn nhiều thiếu sót,em rất mong nhận được sự góp ý của các
thầy cô.
Em xin chân thành cảm ơn!
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I) MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG
1) Khái niệm và đặc điểm của hợp đồng tín dụng
1
Hợp đồng tín dụng về bản chất là những hợp đồng cho vay tài sản theo quy định của Bộ
luật Dân sự 2005 (BLDS). Tuy nhiên, chỉ gọi là hợp đồng tín dụng trong trường hợp bên
cho vay là các TCTD (TCTD), trong đó chủ yếu là các ngân hàng, ngoài ra quỹ tín dụng
nhân dân, công ty tài chính, tổ chức tài chính vi mô.
Hợp đồng tín dụng là là sự thoả thuận bằng văn bản giữa TCTD (bên cho vay) với
khách hàng là tổ chức, cá nhân (bên vay) nhằm xác lập quyền và nghĩa vụ nhất định giữa
các bên theo quy định của pháp luật, theo đó TCTD (bên cho vay) chuyển giao một khoản
vốn tiền tệ cho khách hàng (bên vay) sử dụng trong một thời hạn nhất định với điều kiện
khách hàng sẽ hoàn trả khoản tiền đó (tiền gốc) và lãi vay sau một thời gian nhất định.
Trong quan hệ tín dụng, trước khi giải ngân, thì thế mạnh hoàn toàn thuộc về TCTD và
TCTD là người quyết định có hay không cho vay. Dấu ấn vẫn đang hiện hữu trong Luật
các TCTD năm 2010 để chỉ quá trình chuẩn bị giao kết hợp đồng, đó là những cụm từ
“cấp tín dụng” và “xét duyệt cấp tín dụng” hay là “yêu cầu khách hàng cung cấp tài liệu


chứng minh” tính khả thi của phương án vay vốn và khả năng trả nợ. Tuy nhiên, ngay sau
khi thực hiện hợp đồng, tức là sau khi TCTD giải ngân, thì xu thế lại hoàn toàn đảo
ngược. Khi ấy, bên vay là người nắm vai trò chủ động trong việc trả nợ. Mặc dù TCTD
có khá nhiều quyền chi phối theo quy định của pháp luật về hợp đồng tín dụng, nhưng
vẫn trở thành bên thụ động.
Hợp đồng tín dụng có một số đặc điểm như sau:
+ Về chủ thể: bên cho vay bắt buộc phải là TCTD, có đủ điều kiện luật định, còn bên
vay có thể là tổ chức, cá nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác có đủ điều kiện vay vốn do pháp
luật quy định.
+ Đối tượng của hợp đồng tín dụng bao giờ cũng là tiền, bao gồm tiền mặt và bút tệ. Số
tiền này được ghi rõ trong hợp đồng.
+ Hợp đồng tín dụng chứa đựng rất nhiều rủi ro cho quyền lợi của bên cho vay. Nếu
thời hạn cho vay càng dài thì nguy cơ rủi ro và bất trắc càng lớn.
+ Về cơ chế thực hiện quyền và nghĩa vụ: nghĩa vụ chuyển giao tiền vay của bên cho
vay bao giờ cũng phải được thực hiện trước để làm cơ sở và tiền đề cho việc thực hiện
quyền và nghĩa vụ của bên vay.
2) Vai trò của hoạt động cho vay thông qua hợp đồng tín dụng
+ Thứ nhất: Hoạt động cho vay này giúp cho bên vay giải quyết được những khó khăn
kinh tế trước mắt, giúp cho các cá nhân, tổ chức, hộ gia đình…khắc phục được tình trạng
khó khăn về vốn, từ đó có thể đầu tư vào sản xuất kinh doanh…nhằm phát triển kinh tế.
+ Thứ hai: Hợp đồng tín dụng còn là công cụ để thực hiện việc phân phối lại vốn tiền tệ
nhằm phục vụ phát triển kinh tế đất nước. Thông qua việc huy động vốn trong dân chúng
để cho vay, các TCTD có thể tạm thời điều tiết nguồn vốn trong xã hội từ nơi tạm thời
thừa vốn sang nơi tạm thời thiếu vốn, tức là điều tiết nguồn cung và cầu về vốn tiền tệ
2
trong nhân dân. Và như vậy đồng tiền được sử dụng một cách có hiệu quả hơn, hạn chế
tối đa đồng tiền “chết”.
+ Thứ ba: Hợp đồng tín dụng là cung cụ để Nhà nước thực hiện sự giúp đỡ của mình về
mặt tài chính đối với các đối tượng là người dân nghèo, điều kiện kinh tế khó khăn, các
đối tượng Nhà nước cần khuyến khích phát triển có lợi cho quốc kế dân sinh bằng việc

cho các đối tượng này vay với những ưu đãi nhất định về lãi suất, thời hạn vay…
+ Thứ tư: cho vay thông qua hợp đồng tín dụng là một hoạt động cấp tín dụng của các
TCTD. Qua hoạt động này các TCTD có thể thu lại lợi nhuận cho mình thông qua việc
hưởng chênh lệch giữa lãi suất huy động và lãi suất cho vay.
II) THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH HOẠT ĐỘNG CHO VAY
THEO HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG CỦA TỔ CHỨC TÍN DỤNG
1) Chủ thể của hợp đồng tín dụng
1.1) Bên cho vay
Theo quy định của pháp luật hiện hành, một TCTD muốn trở thành chủ thể cho vay
trong hợp đồng tín dụng phải thoả mãn các điều kiện sau:
+ Có giấy phép thành lập và hoạt động do Ngân hàng Nhà nước cấp.
+ Có điều lệ do Ngân hàng Nhà nước chuẩn y.
+ Có giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hợp pháp.
+ Có người đại diện đủ năng lực và thẩm quyền để giao kết hợp đồng tín dụng với khách
hàng.
Việc pháp luật quy định những điều kiện này đối với bên cho vay không chỉ góp phần
làm lành mạnh hóa các quan hệ tín dụng và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các nhà đầu
tư, mà còn là căn cứ để các luật gia hay các thẩm phán, trọng tài viên tiến hành thẩm định
và đánh giá một cách khách quan vấn đề hiệu lực pháp lý của hợp đồng tín dụng.
1.2) Bên vay
Bên vay là tổ chức, cá nhân phải thoả mãn các điều kiện sau (về nguyên tắc, những điều
kiện này có tính chất bắt buộc chung với mọi chủ thể đi vay trong mọi hợp đồng tín
dụng):
+ Bên vay phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự. Đối với tổ chức, hộ gia
đình, tổ hợp tác…còn phải có người đại diện hợp pháp có đủ năng lực và thẩm quyền đại
diện để ký kết hợp đồng tín dụng.
+ Mục đích sử dụng vốn vay phải hợp pháp.
Ngoài những điều kiện chung như trên, bên vay còn có thể phải thỏa mãn những điều
kiện riêng khác nữa do TCTD yêu cầu trong từng hợp đồng tín dụng. Những điều kiện
này chỉ có tính bắt buộc phải thỏa mãn đối với bên vay khi TCTD yêu cầu.

Theo quy định của pháp luật hiện hành, các điều kiện này bao gồm:
+ Bên vay có khả năng tài chính đảm bảo trả nợ trong thời hạn cam kết.
3
+ Bên vay có phương án sử dụng vốn khả thi, hiệu quả.
+ Bên vay có tài sản cầm cố, thế chấp hoặc có bảo lãnh bằng tài sản của người thứ ba trên
cơ sở hợp đồng cầm cố, hợp đồng thế chấp, hợp đồng bảo lãnh.
Tóm lại, việc pháp luật quy định các điều kiện cụ thể đối với bên cho vay và bên đi vay
trong hợp đồng tín dụng, ngoài mục đích thiết lập trật tự, kỷ cương trong hoạt động tín
dụng còn có ý nghĩa là giải pháp nhằm đảm bảo sự an toàn trong hoạt động kinh doanh
của TCTD.
2) Hình thức của hợp đồng tín dụng
Theo quy định tại Điều 17 Quy chế cho vay của TCTD đối với khách hàng do NHNN
ban hành kèm theo Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31-12-2001 thì mọi hợp
đồng tín dụng đều phải được ký kết bằng văn bản thì mới có giá trị pháp lý. Sở dĩ pháp
luật quy định như vậy là vì những ưu điểm sau đây:
- Hợp đồng tín dụng được ký kết bằng văn bản sẽ tạo ra một bằng chứng cụ thể cho
việc thực hiện hợp đồng và giải quyết các tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng.
- Việc ký kết hợp đồng tín dụng bằng văn bản thực chất là một sự công bố công
khai, chính thức về mối quan hệ pháp lý giữa những người lập ước để cho người thứ ba
biết rõ về việc lập ước đó mà có những phương cách xử sự hợp lý, an toàn trong trường
hợp cần thiết.
- Việc ký kết hợp đồng tín dụng bằng văn bản mới có thể khiến cho các cơ quan có
trách nhiệm của chính quyền thi hành công vụ được tốt hơn.
Theo quy định hiện hành, văn bản hợp đồng tín dụng được hiểu bao gồm văn bản viết
và văn bản điện tử. Hợp đồng tín dụng được xác lập thông qua phương tiện điện tử dưới
hình thức thông điệp dữ liệu được coi là giao dịch bằng văn bản. Các hợp đồng điện tử
được coi là có giá trị pháp lý như văn bản hợp đồng viết và có giá trị chứng cứ trong quá
trình giao dịch. Việc pháp luật quy định mọi hợp đồng tín dụng phải được kí kết bằng văn
bản cùng với sự chấp nhận hai hình thái của hợp đồng nói trên có thể xem là những nỗ
lực rất đáng kể của các nhà lập pháp, nhằm bảo đảm cho sự an toàn pháp lý cho các bên

tham gia hợp đồng tín dụng.
Mẫu hợp đồng mà các TCTD đưa ra không phải là hợp đồng mẫu theo quy định của
BLDS (Điều 407), mà chỉ là bản thảo để thuận tiện trong quá trình đàm phán ký kết hợp
đồng. Bên vay hoàn toàn có thể thoả thuận với ngân hàng thay đổi bất kỳ nội dung nào.
Tuy nhiên, trên thực tế thì bên vay thường phải chấp nhận những điều khoản thiên về
ràng buộc chặt chẽ đối với bên vay và có lợi hơn cho ngân hàng.
3) Nội dung của hợp đồng tín dụng\
Nội dung của hợp đồng tín dụng là tổng thể những điều khoản do các bên có đủ tư cách
chủ thể cam kết với nhau một cách tự nguyện, bình đẳng và phù hợp với pháp luật. Các
4
điều khoản này vừa thể hiện ý chí của các bên, đồng thời cũng làm phát sinh những
quyền và nghĩa vụ pháp lý cơ bản của mỗi bên tham gia hợp đồng tín dụng.
Theo quy định tại Điều 17 Quy chế cho vay của TCTD đối với khách hàng do NHNN
ban hành kèm theo Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31-12-2001 nội dung của
hợp đồng tín dụng bao gồm các điều khoản cơ bản sau đây:
- Điều khoản về điều kiện vay vốn. Khi thỏa thuận điều khoản này, các bên cần ghi
rõ trong hợp đồng tín dụng những tiêu chuẩn cụ thể mà bên vay phải thỏa mãn thì hợp
đồng tín dụng mới có hiệu lực. Theo quy định tại điều 7 Quy chế cho vay của TCTD đối
với khách hàng thì:
+ Thứ nhất: Khách hàng vay vốn cần phải có năng lực pháp luật, năng lực hành vi dân
sự và chịu trách nhiệm dân sự theo quy định của pháp luật.
Đối với khách hàng vay là tổ chức, cá nhân Việt Nam: các cá nhân, chủ doanh nghiệp
tư nhân, đại diện hộ gia đình, thành viên công ty hợp danh phải có năng lực pháp luật và
năng lực hành vi dân sự. Còn tổ chức thì cần phải có năng lực pháp luật. Khi quy định
“tổ chức phải có năng lực pháp luật” và “chủ doanh nghiệp tư nhân phải có năng lực
pháp luật và năng lực hành vi dân sự” là không cần thiết bởi tổ chức thì luôn luôn có
năng lực pháp luật, còn để trở thành chủ doanh nghiệp tư nhân thì cá nhân đó buộc phải
có đầy đủ cả năng lực pháp luật và năng lực hành vi.
Đối với khách hàng vay là tổ chức, cá nhân nước ngoài: các nhân và tổ chức muốn vay
phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự theo quy định của nước mà tổ chức

đó có quốc tịch hoặc cá nhân đó là công dân nếu pháp luật nước ngoài đó được Bộ luật
Dân sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các văn bản pháp luật khác của Việt
Nam quy định hoặc được điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
ký kết hoặc tham gia quy định. Đây là quy định mới theo hướng mở rộng khách hàng vay
theo hướng phù hợp với thực tế với thông lệ quốc tế, tạo điều kiệ cho các tổ chức , cá
nhân nước ngoài có cơ hội được tiếp cận với nguồn vốn vay.
+ Thứ hai: Mục đích sử dụng vốn vay hợp pháp.
+ Thứ ba: Có khả năng tài chính đảm bảo trả nợ trong thời hạn cam kết.
+ Thứ tư: Thực hiện các quy định về bảo đảm tiền vay theo quy định của Chính phủ và
hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
+ Thứ năm: Có dự án đầu tư, phương án sản xuất, kinh doanh, dịch vụ khả thi và có hiệu
quả; hoặc có dự án đầu tư, phương án phục vụ đời sống khả thi và phù hợp với quy định
của pháp luật.
- Điều khoản về mục đích sử dụng tiền vay. Trong điều khoản này, các bên cần
ghi rõ vốn vay sẽ được sử dụng vào mục đích gì. Việc thỏa thuận điều khoản này trong
hợp đồng tín dụng được xem như một giải pháp đảm bảo sự an toàn về vốn cho người
đầu tư là các TCTD, nhằm tránh trường hợp bên vay sử dụng vốn một cách tùy tiện vào
5
mục đích phiêu lưu, mạo hiểm. Mặt khác, để bảo đảm lợi ích của cả hai bên và đảm bảo
cho đồng vốn đầu tư được sử dụng hiệu quả, pháp luật cũng cho phép trong thời gian sử
dụng vốn, các bên có quyền thỏa thuận lại về mục đích sử dụng vốn vay mỗi khi xét thấy
thời cơ và điều kiện sử dụng vốn đã thay đổi.
Về nguyên tắc, bên vay vốn được sử dụng vốn vay vào bất kỳ mục đích nào, nếu không
bị pháp luật cấm. Tuy nhiên, có những trường hợp không bị pháp luật cấm, như việc vay
vốn để trả nợ TCTD khác hoặc trả nợ chính TCTD đã vay, nhưng lại rất khó được chấp
nhận, vì nó được coi như một hoạt động đảo nợ. Trước đây, việc đảo nợ bị cấm, sau đó
được quy định khoản 2 điều 9 Quy chế cho vay của TCTD đối với khách hàng do NHNN
ban hành kèm theo Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31-12-2001 như sau:
“Việc đảo nợ, các TCTD thực hiện theo quy định riêng của Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam” . Tuy nhiên từ đó đến nay, vẫn không có văn bản nào của Chính phủ hay NHNN

giải thích về nội dung này.
Trong thời hạn vay vốn, nếu bên vay sử dụng vốn vay không đúng mục đích đã thỏa
thuận thì TCTD lập tức được chấm dứt hợp đồng, phạt vi phạm và thu hồi nợ trước hạn.
Để bảo đảm việc sử dụng vốn vay đúng mục đích và khả năng trả nợ của bên vay, pháp
luật quy định TCTD có quyền kiểm tra, giám sát quá trình vay vốn, sử dụng vốn vay và
trả nợ của bên vay.
- Điều khoản về phương thức và kỳ hạn trả nợ: Theo quy định tại khoản 1 điều
13 Quy chế cho vay của TCTD đối với khách hàng thì các bên có thể thỏa thuận lựa chọn
phương thức trả nợ căn cứ vào đặc điểm sản xuất, kinh doanh, hoạt động dịch vụ của
khách hàng cũng như khả năng tài chính của họ. Điều này giúp cho chủ thể đi vay có thể
chủ động hơn trong việc hoàn trả nợ cho TCTD. Các bên có thể thỏa thuận số tiền vay sẽ
được hoàn trả dần hàng tháng (chia thành các kỳ hạn) hay là trả toàn bộ một lần khi hợp
đồng vay đáo hạn.
Việc phân ra các kỳ hạn trả nợ là một cách thức thông minh và linh hoạt của pháp luật.
Bởi lẽ nó sẽ giúp cho các TCTD thu hồi dần được vốn cho vay cùng với một khoản lãi để
duy trì hoạt động của mình, đồng thời cũng chia nhỏ gánh nặng cho chủ thể đi vay, không
phải trả một lần toàn bộ số tiền đã vay. Như vậy sẽ giảm bớt rủi ro cho ngân hàng khi
khách hàng không có khả năng hoàn trả toàn bộ số nợ một lần.
`- Điều khoản về lãi suất: lãi suất trong hợp đồng vay tiền là tỉ lệ nhất định mà bên
vay phải trả thêm vào số tiền đã vay tính theo đơn vị thời gian. Lãi suất thường được tính
theo tuần, tháng hoặc năm do các bên thoả thuận hoặc do pháp luật quy định.
Lãi suất được áp dụng trong hợp đồng tín dụng theo hai phương thức cơ bản là lãi suất cố
định và lãi suất thay đổi (hay còn được gọi là lãi suất thả nổi). Nếu các bên thoả thuận áp
dụng lãi suất cố định, thì lãi suất sẽ không thay đổi trong suốt thời hạn vay, bất kể lãi suất
thị trường có tăng lên hay giảm xuống. Nếu các bên thoả thuận áp dụng lãi suất thay đổi
6
thì sẽ điều chỉnh lãi suất lên, xuống dựa vào lãi suất thị trường. Tuy nhiên với tình hình
nền kinh tế lạm phát như hiện nay, chỉ số tiều dùng thường lên xuống thất thường, lãi
suất ngân hàng thường bị động trước những biến đổi ấy. Vì vậy, hầu hết các TCTD đều
áp dụng quy định một lãi suất biến đổi theo từng thời kỳ. Trong thời gian vừa qua, trước

sự phát triển nhanh của nền kinh tế, nhu cầu vốn cũng theo đó mà càng tăng lên. Các
TCTD thường tiến hành hàng loạt các biện pháp để thu hút vốn. Từ đó diễn ra cuộc chạy
đua tăng lãi suất huy động vốn giữa các TCTD, đặc biệt là giữa các ngân hàng thương
mại. Mặc dù NHNN đã ban hành Thông tư số 02/2011/TT-NHNN ngày 3/3/2011 quy
định mức lãi suất huy động vốn tối đa bằng VND, với quy định:. “TCTD ấn định lãi suất
huy động vốn bằng VND (lãi suất tiền gửi, lãi suất giấy tờ có giá) của các tổ chức (trừ các
TCTD) và cá nhân bao gồm cả khoản chi khuyến mại dưới mọi hình thức không vượt quá
14%/năm. Riêng các quỹ tín dụng nhân dân cơ sở ấn định mức lãi suất huy động vốn
bằng VND không vượt quá 14,5%/năm”. NHNN kỳ vọng quy định này sẽ giúp thì trường
tiền tệ đi vào ổn định. Nhưng chỉ được một thời gian ngắn, nhiều ngân hàng thương mại
bắt đầu “lách” bằng cách đưa ra một loạt các hình thức khuyến mại cho khách hàng gửi
tiền. Việc này đã khiến mức lãi suất huy động tăng cao, có thời điểm lên đến 17.5% đến
18%. Với lãi suất huy động như vậy thì ngân hàng sẽ buộc phải cho vay ở mức 21% –
22%/năm mới tồn tại được. Điều này đã gây áp lực cho doanh nghiệp, cho các cá nhân
vay vốn. Với một mức lãi suất cao như vậy, họ sẽ rất khó khăn trong việc phát triển sản
xuất, dẫn đến tình trạng nợ xấu của ngân hàng tăng nhanh. Điều này quay ngược lại ảnh
hưởng trực tiếp tới các ngân hàng và chính những cá nhân, tổ chức gửi tiền vào ngân
hàng.
Lãi suất quá hạn: Hầu hết các TCTD vẫn thoả thuận trong hợp đồng tín dụng về lãi suất
quá hạn bằng 150% lãi suất cho vay trong hạn đối với chính hợp đồng tín dụng đó. Mức
lãi suất quá hạn không quá 150% này là do NHNN quy định dựa trên cơ sở BLDS năm
1995 giao cho NHNN quy định mức lãi suất quá hạn. Nhưng từ năm 2006 trở đi, nếu vẫn
áp dụng mức lãi suất quá hạn này là không đúng pháp luật, vì BLDS năm 2005 quy định
mức lãi suất quá hạn được tính “theo lãi suất cơ bản do NHNN công bố tương ứng với
thời hạn vay tại thời điểm trả nợ” (Điều 474 khoản 5). Hai quy định này có sự chênh lệch
rất đáng kể, nhất là trong thời kỳ lãi suất có sự biến động lớn.
- Điều khoản về đối tượng hợp đồng. Trong điều khoản này, các bên phải thỏa
thuận về số tiền vay, tổng số tiền phải trả khi hợp đồng tín dụng đáo hạn.
- Điều khoản về thời hạn sử dụng vốn vay. Các bên phải ghi rõ trong hợp đồng tín
dụng về ngày, tháng, năm trả tiền, hoặc phải trả tiền sau bao lâu kể từ ngày ký hợp đồng.

Nếu có thể gia hạn hợp đồng thì các bên cũng dự liệu trước về khả năng này trong hợp
đồng tín dụng, còn thời gian gia hạn sẽ tiến hành thỏa thuận sau trong quá trình thực hiện
hợp đồng tín dụng. Có một thời kỳ NHNN quy định khoản vay ngắn hạn chỉ được gia hạn
7
tối đa bằng thời hạn cho vay; khoản vay trung, dài hạn tối đa bằng ½ thời hạn cho vay.
Như vậy, khoản vay 12 tháng thì được phép gia hạn thêm 12 tháng nữa, nhưng nếu là
khoản vay 13 tháng, thì chỉ được phép gia hạn thêm 6,5 tháng. Đến nay, các khoản nợ
được gia hạn nhiều lần, với thời hạn không bị hạn chế. Tuy nhiên, khi đó khoản nợ sẽ bị
đánh giá về khả năng rủi ro và phải phân loại vào nhóm nợ thích hợp để trích lập dự
phòng.
- Điều khoản về giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng. Đây là điều khoản mang
tính chất thường lệ, theo đó các bên có quyền thỏa thuận về biện pháp giải quyết tranh
chấp bằng con - đường thương lượng, hòa giải hoặc lựa chọn cơ quan tài phán sẽ giải
quyết tranh chấp cho mình. Nếu trong hợp đồng tín dụng không ghi điều khoản này, có
nghĩa là các bên không thỏa thuận thì việc xác định thẩm quyền, thủ tục giải quyết tranh
chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng đó sẽ được thực hiện theo quy định của pháp luật.
Ngoài ra, nếu hợp đồng tín dụng được giao kết có điều kiện bảo đảm bằng tài sản như
cầm cố, thế chấp, bảo lãnh thì các bên có thể thỏa thuận một điều khoản riêng rẽ nằm
trong hợp đồng tín dụng (hợp đồng chính) hoặc lập thành một hợp đồng phụ kèm theo
hợp đồng chính. Trên thực tế các bên thường kí kết hợp đồng phụ (hợp đồng cầm cố, hợp
đồng thế chấp, hợp đồng bảo lãnh) theo thể thức luật định nhằm thể hiện rõ ý chí của
mình trong việc cầm cố, thế chấp, bảo lãnh. Về lí thuyết, hợp đồng cầm cố, hợp đồng thế
chấp, hợp đồng bảo lãnh chỉ có tính cách là hợp đồng phụ nên hiệu lực của nó phụ thuộc
hoàn toàn và hiệu lực của hợp đồng chính (hợp đồng tín dụng).
4) Giao kết hợp đồng tín dụng
4.1) Nguyên tắc giao kết hợp đồng
+ Nguyên tắc tự do giao kết hợp đồng nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội.
Nguyên tắc này biểu hiện rõ ràng quyền tự do dân chủ mà nhà nước trao cho công dân.
Pháp luật tôn trọng sự tự do thỏa thuận của các chủ thể, đồng thời nâng cao ý thức của
người dân trong bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, trên thực tế còn tồn tại

nhiều trường hợp vì lợi nhuận mà các TCTD “lách luật” đồng ý cho vay đối với các
doanh nghiệp không thỏa mãn các điều kiện vay vốn (Các điều kiện quy định tại điều 7
Quy chế cho vay của TCTD đối với khách hàng).
+ Nguyên tắc tự nguyện và bình đẳng trong giao kết hợp đồng.
Có thể nói các nguyên tắc trên đã phản ánh đúng đắn bản chất quan hệ hợp đồng trong
cơ chế thị trường, trong đó là các quan hệ tự nguyện, có sự thỏa thuận về ý chí trong trao
đổi hàng hóa, dịch vụ xuất phát từ nhu cầu nội tại của các chủ thể tham gia thị trường.
Tuy nhiên, ý nghĩa pháp lý của các nguyên tắc này dường như không được bảo đảm trong
hoạt động vay vốn hiện nay. Với bối cảnh nền kinh tế phát triển “quá nóng”, biến động
thất thường, lợi dụng tình trạng nhu cầu vốn của cá doanh nghiệp lớn, các TCTD thường
cho vay vốn lãi suất cao hơn quy định đến 3 – 4%. Để hợp thức hóa phần chênh lệch này,
8

×