Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

tiểu luận Thực trạng ứng dụng CNTT vào dạy học ở trường THPT Hai Bà Trưng, TP Huế, tỉnh TT Huế”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (239.11 KB, 24 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Cơ sở lý luận
Năng lực sư phạm có vị trí rất quan trọng trong hoạt động (HĐ) nghề
của người GV. Nó khơng chỉ biểu hiện ở sự nắm vững hệ thống tri thức
chuyên mơn mà cịn là sự thành thạo KNSP phù hợp với u cầu nghề nghiệp
của mình. Người GV chỉ có thể thành công trong nghề khi họ biết sử dụng
thành thạo các kỹ năng dạy học (KNDH) trên cơ sở những tri thức, KN, KX
và những kinh nghiệm mà họ thu thập được trong q trình học tập và cơng
tác. KNDH sẽ giúp cho HĐ dạy của người GVMN trong mức độ nào đó,
giống như HĐ của người thầy thuốc, người nghệ sĩ...
Những nghiên cứu chuyên biệt đã chỉ ra rằng, trong hệ thống những
KNSP của GVMN, ngoài những điểm chung với những KN của giáo viên
các bậc học khác cịn có những đặc điểm riêng của bậc học MN, vì họ vừa là
người mẹ, người giáo viên, người thầy thuốc, người nghệ sĩ và người bạn của
trẻ em tuổi mầm non. Chính vì vậy, những KNSPMN rất đa dạng. Người
GVMG được gọi là lành nghề chỉ khi họ có các KNSPMN ở mức độ cao,
đặc biệt là những KNSPMN trong HĐ dạy học ở trường MN. Các KNSP cần
được hình thành ngay từ trên ghế trường SPMN và tiếp tục hồn thiện trong
q trình lao động nghề nghiệp. Chính vì vậy, việc nghiên cứu KNTCHĐ
dạy của GVMG là một việc làm vô cùng cần thiết.
1.1. Cơ sở thực tiễn
Hiện nay, ở hầu hết các trường mẫu giáo KNTC dạy của GV chưa được
nghiên cứu, đánh giá một cách đầy đủ, khách quan. Việc phân loại và bồi
dưỡng các KN dạy học cho trẻ lứa tuổi MG trên cơ sở khoa học chưa được
quan tâm, chú trọng.
Thực tế hiện nay cho thấy hầu hết GVMG còn lúng túng trong việc tổ
chức các hoạt động CS-ND trẻ, trong việc TCHĐ dạy. Đặc biệt xu hướng đổi
mới GDMN hiện nay đòi hỏi GVMG phải đổi mới hình thức tổ chức giáo
dục, mỗi HĐ giáo dục cho trẻ phải mang tính tích hợp nội dung và được thiết
kế dưới hình thức vui chơi. Vì vậy, việc làm cấp bách hiện nay là phải


nghiên cứu một cách khoa học, cơ bản thực trạng KNTCHĐ dạy của
GVMN, đặc biệt là GVMG và tìm ra những nguyên nhân dẫn đến thực trạng
ấy. Trên cơ sở đó, đề xuất một số biện pháp nhằm góp phần rèn luyện và
nâng cao hệ thống KN trong dạy trẻ MN nói chung và trẻ tuổi MG nói riêng.
Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi lựa chọn đề tài: “Nghiên cứu
kỹ năng tổ chức hoạt động dạy của giáo viên mẫu giáo trên địa bàn thành
phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa”.
1


2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu thực trạng KNTCHĐ dạy của GVMG, đề xuất một số
biện pháp nhằm góp phần rèn luyện và phát triển các KN dạy trẻ mẫu giáo.
3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Kỹ năng tổ chức hoạt động dạy của giáo viên mẫu giáo.
3.2. Khách thể nghiên cứu
- Khách thể để nghiên cứu xây dựng mẫu phiếu điều tra: 30 GVMG
và 10 CBQL trên địa bàn TP. Nha Trang.
- Khách thể để nghiên cứu thực trạng KNTCHĐ dạy: 250 GVMG và
50 CBQL trên địa bàn TP. Nha Trang.
- Khách thể nghiên cứu thực nghiệm: 2 GVMG và 25 cháu MG bé và 30
cháu MG lớn của trường MN Hương Sen, trường MG 3/2 - thành phố Nha
Trang.
4. Giả thuyết khoa học
Đa số GVMG đã có các KNTCHĐ dạy cho trẻ nhưng mức độ cịn
chưa đồng đều. Thực trạng đó là do nhiều nguyên nhân khác nhau như
trình độ đào tạo, thâm niên cơng tác, điều kiện cơng tác... Nếu có các biện
pháp tác động thích hợp thì KNTCHĐ dạy của GVMG sẽ được phát triển
cao hơn.

5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Hệ thống hóa những vấn đề lý luận về KNSP của GVMG.
5.2. Tìm hiểu thực trạng KNTCHĐ dạy nói chung, KNTC hoạt động học có
chủ đích cho trẻ mẫu giáo nói riêng của GVMG.
5.3. Trên cơ sở kết quả điều tra thực trạng đề xuất một số biện pháp nâng
cao các KNTCHĐ dạy cho GVMG.
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận
6.2. Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn
6.2.1. Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi
6.2.2. Phương pháp thực nghiệm tác động sư phạm
6.2.3. Phương pháp quan sát và chụp hình một số hoạt động dạy
6.2.4. Phương pháp trò chuyện phỏng vấn
6.2.5.Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia
6.3. Phương pháp xử lý số liệu
7. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
Chỉ nghiên cứu một số KN dạy của GVMG được thể hiện trong
việc tổ chức hoạt động học có chủ đích cho trẻ mẫu giáo.
2


8. Đóng góp của luận văn
Luận văn góp phần làm sáng tỏ lý luận và thực tiễn về KNTCHĐ
dạy của GVMG, đưa ra một số biện pháp nhằm phát triển KNTCHĐ dạy
cho GVMG, góp phần nâng cao hiệu quả rèn luyện tay nghề cho GVMG.
9. Cấu trúc của luận văn: Luận văn được trình bày trên 88 trang khơng
kể phần phụ lục. Ngoài phần mở đầu, kết luận và kiến nghị, tài liệu tham
khảo, luận văn có 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu.
Chương 2: Tổ chức và phương pháp nghiên cứu.

Chương 3: Kết quả nghiên cứu.
Các số liệu được minh họa bằng 14 bảng trong chương 3 và ở phần
phụ lục 1, 2, 3, 4.
Chương 1:

CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Nghiên cứu ở nước ngoài
Vấn đề KN, KN nghề nghiệp đã được các nhà nghiên cứu trên thế
giới quan tâm từ rất lâu. Từ thời Hy Lạp cổ đại đến nay đã có rất nhiều
cơng trình nghiên cứu, nhiều sách vở nói về vấn đề này. Nhìn chung, việc
nghiên cứu KN ở thời kỳ này được xuất phát từ hai quan điểm trái ngược
nhau là:
Quan điểm thứ nhất, TLH hành vi ra đời, đại diện là: J. Watson,
B.F.Skinner, E.L. Thordike, Tolman, Holl... Nghiên cứu một số quá trình
luyện tập, một số thao tác nào đó của động vật, sau đó rút ra kết luận về
sự rèn luyện KN của con người. Như vậy, đây là một quan niệm rất máy
móc, nhưng lý luận dạy học theo chương trình hóa của Skinner lại là một
thành tựu mới trong lý luận dạy học mà chúng ta cần học tập mặt tiến bộ
của nó.
Quan điểm thứ hai, là những nghiên cứu về KN của các nhà TLH
hoạt động theo hai hướng sau:
- Hướng thứ nhất, nghiên cứu KN ở mức độ khái quát, đại cương. Họ
đi vào nghiên cứu sâu về bản chất khái niệm KN, các giai đoạn, các qui luật
và các điều kiện hình thành KN và mối liên hệ qua lại giữa KN và KX, đó là
các tác giả: A.G.Cơvaliơv, V.X.Cuzin, V.A.Kruch,
P.Ia.Ganperin,
A.V.Pêtrơvxki, ...
- Hướng thứ hai, gồm các tác giả như: K.K.Platônôv, G.G.Gơlubev,
E.A.Milerian, B.G.Laox, V.V.Tsebưsêva,... nghiên cứu KN ở góc độ

3


TLH lao động, xem xét vấn đề KN trong mối quan hệ giữa con người với
máy móc và cơng cụ, phương tiện, điều kiện lao động. Đặc biệt N. K.
Crupxkaia rất quan tâm đến việc hình thành những KN lao động cho HS
phổ thông trong việc dạy hướng nghiệp cho họ [N. K. Crupxkaia, tuyển
tập sư phạm, Matxcơva-1959]
Trong các công trình nghiên cứu về KNHĐSP, K. I. Kixegof đã
phân tích khá sâu về KN. Khi tiến hành thực nghiệm hình thành KN ở
sinh viên sư phạm ông đã đưa ra ý kiến “KNHĐSP có đối tượng là con
người. HĐSP rất phức tạp địi hỏi sự sáng tạo, khơng thể hoạt động theo
khn mẫu cứng nhắc. KNHĐSP, một mặt địi hỏi tính nghiêm túc, mặt
khác địi hỏi tính mềm dẻo cao”.
Trong tác phẩm “Nghề của tôi – Giáo viên mầm non”, tác giả V. P.
Smưch đã nhấn mạnh rằng: Để hình thành KNSP vấn đề quan trọng phải
có tình cảm, hứng thú đến với nó mới làm cho q trình rèn luyện rút
ngắn và đỡ tiêu hao sức lực [18].
Các tác giả L. S. Xemuxina và E. A. Pancô nghiên cứu về KN và
KX nghề nghiệp của GVMN cũng đã cho thấy những đặc thù của KN
nghề GVMN.
Tất cả các nhà nghiên cứu đã thống nhất đánh giá vai trò quan trọng
của KN trong mọi lĩnh vực hoạt động, đặc biệt là những KNSP của nhà
giáo. Những KN này phải được hình thành trong khi đang học tập tại
trường SP. Từ những quan điểm trên đã cho ta một cách nhìn cơ bản và
tồn diện hơn về q trình hình thành KNSP cho GV tương lai.
1.1.2. Nghiên cứu ở Việt Nam
Ở Việt Nam, TLH là một ngành khoa học còn non trẻ. Tuy vậy,
ngay từ khi mới thành lập, tập thể các nhà nghiên cứu đã tập trung nghiên
cứu các vấn đề quan trọng như: làm rõ khái niệm về KN, KN lao động,

KNSP, KN tổ chức, KN quản trị kinh doanh, KN quản lý...
Trong TLH lao động (1992), PGS Trần Trọng Thủy đã nêu ra khái
niệm KN và điều kiện hình thành KN hoạt động lao động cơng nghiệp.
Trong TLH đại cương (1995), GS.TS Nguyễn Quang Uẩn đã khẳng
định: “Cùng với năng lực thì tri thức, KN, KX thích hợp cũng rất cần
thiết cho việc thực hiện có kết quả một hoạt động. Có tri thức, KN, KX
trong một lĩnh vực nào đó là điều kiện cần thiết để có năng lực trong lĩnh
vực này”.
Trong lĩnh vực đào tạo GVMN, cũng đã có nhiều đề tài nghiên cứu
các KN nghề GVMN cụ thể các tác giả như:
- TS. Trần Thị Quốc Minh trong luận án: “Phân tích tâm lý tình
huống có vấn đề trong quan hệ giữa GV và trẻ MG” (1996) đã xây dựng
4


hệ thống KN phân tích tâm lý các tình huống có vấn đề nảy sinh trong
hoạt động của GVMN với trẻ MG, qua đó tác giả đã chỉ rõ những KN vận
dụng lý luận vào thực tiễn để giải quyết vấn đề trong hoạt động nghề
nghiệp.
- TS. Đinh Văn Vang, trong luận án TS “KN dạy học bằng trò chơi
của GVMG” (2002), đã xác định cấu trúc hệ thống KN dạy học bằng trị
chơi và quy trình rèn luyện hệ thống KN dạy học bằng trò chơi cho
GVMG.
Tất cả các cơng trình nghiên cứu đã cho thấy, khả năng giải quyết
những nhiệm vụ SP phụ thuộc vào mức độ hình thành KNSP ở người GV.
Nói cách khác muốn thực thi có kết quả những nhiệm vụ SP người GV
cần có một hệ thống những KNSP, nhờ đó giải quyết được những nhiệm
vụ của mình một cách chuyên nghiệp. Hệ thống những KN này cần được
hình thành ở người giáo sinh ngay khi còn đang học ở trường sư phạm và
được củng cố, ổn định và phát triển ở môi trường giảng dạy sau này.

Ngồi ra, cịn có một số cơng trình nghiên cứu, những bài báo,
những tài liệu khác về KN, KNTCHDDH của các nhà TLH Việt Nam
nhưng chưa có nghiên cứu nào đi sâu nghiên cứu hệ thống KN nghề
GVMG trong HĐ dạy ở trường MG. Chính vì vậy, việc nghiên cứu đề tài
này là cần thiết, góp phần vào việc đào tạo và nâng cao tay nghề cho
GVMG nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của xã hội đối với ngành
GD nói chung và đối với ngành GDMN nói riêng.
1.2. Một số vấn đề lý luận cơ bản về HĐSP và HĐ dạy ở trường MG
1.2.1. Hoạt động sư phạm (HĐSP)
1.2.1.1. Khái niệm hoạt động sư phạm
♦ HĐSP là hoạt động chung của hai chủ thể: Thầy với tư cách là chủ
thể của HĐ dạy. Trò với tư cách là chủ thể của HĐ học. Hai HĐ đó dựa
vào nhau mà vận động và phát triển, thường xuyên tác động vào nhau,
trao đổi giá trị tinh thần cho nhau để hình thành nên những phẩm chất
nhân cách toàn diện cho người học.
♦ HĐSP là một trong những lĩnh vực lao động phức tạp của con
người. Việc thực hiện thành cơng HĐSP địi hỏi mỗi người GV bên cạnh
việc nắm tri thức khoa học tự nhiên, xã hội còn phải nắm vững KNSP
tương ứng.
1.2.1.2. Cấu trúc hoạt động sư phạm: Có 2 quan điểm:
+ Quan điểm thứ nhất cho rằng, HĐSP bao gồm: Hoạt động dạy học,
hoạt động giáo dục, hoạt động tổ chức (tổ chức các HĐSP).

5


+ Quan điểm thứ hai cho rằng, HĐSP bao gồm: HĐ dạy học, HĐ
giáo dục. Hai HĐ này có liên quan chặt chẽ, tác động lẫn nhau. Trong đó,
HĐ dạy học là cơ bản, thông qua dạy học để giáo dục con người.
Về bản chất, hai quan điểm này đều dựa vào nội dung, nhiệm vụ cụ

thể của HĐSP để phân chia HĐSP thành hai mảng: HĐDH và HĐGD.
Nhưng dù là HDDH hay HĐGD thì cũng rất cần phải tổ chức HĐ của thầy
và trò.
1.2.2. Hoạt động dạy học
1.2.2.1. Hoạt động dạy:HĐ dạy là HĐ của người lớn tổ chức và điều khiển
HĐ của trẻ nhằm giúp chúng lĩnh hội nền văn hóa xã hội, tạo ra sự phát
triển tâm lý, hình thành nhân cách của chúng
Để đạt được mục đích trên phải thơng qua HĐ dạy của thầy giáo, ở
đây, thầy giáo là chủ thể của HĐ dạy. Chức năng của thầy trong HĐ này
không làm nhiệm vụ sáng tạo ra tri thức mới (vì các tri thức này đã được
nhân loại sáng tạo ra), cũng không làm nhiệm vụ tái tạo tri thức cũ, mà
nhiệm vụ chủ yếu, nhiệm vụ đặc trưng là tổ chức quá trình tái tạo tri thức ở
trẻ (chính nó là chủ thể của hoạt động học). Như vậy, khi tiến hành HĐ
dạy, thầy giáo khơng nhằm phát triển chính mình, mà nhằm tổ chức tái tạo
nền văn hóa xã hội, nhằm tạo ra cái mới trong tâm lý HS.
Tóm lại, dạy là một HĐ chuyên biệt do người lớn đảm nhiệm nhằm
giúp trẻ lĩnh hội nền văn hóa xã hội, phát triển tâm lý thơng qua tái tạo nền
văn hóa đó. Sự tái tạo nền văn hóa phải được dựa trên cơ sở HĐ tích cực
của trẻ. Để tiến hành HĐ dạy có hiệu quả cao địi hỏi người dạy phải có
những yếu tố tâm lý cần thiết.
1.2.2.2. Hoạt động học: HĐ học là HĐ đặc thù của con người được điều
khiển bởi mục đích tự giác là lĩnh hội những tri thức, KN, KX, những
phương thức hành vi và những dạng hoạt động nhất định, những giá trị.
Hay nói cách khác, HĐ học là HĐ có đối tượng, có mục đích, có động cơ,
có hành động và có ý thức.
- Đối tượng của HĐ học là tri thức và những KN, KX tương ứng với
nó.
- Mục đích của HĐ học là nhằm thay đổi chính chủ thể HĐ (người
học).
- Trong HĐ học, hành động học là cơ sở tốt nhất để lĩnh hội những

tri thức, những khái niệm khoa học. Vì HĐ học không chỉ hướng vào việc
tiếp thu những tri thức, KN, KX mới mà còn hướng vào việc tiếp thu cả
những tri thức của chính bản thân hoạt động (cách học).
6


1.2.2.3. Mối quan hệ giữa HĐ dạy và HĐ học
HĐ dạy nhằm tái tạo ra cái mới trong tâm lý học sinh vì vậy nó phải
vận hành theo cơ chế sáng tạo. HĐ học ở học sinh nhằm lĩnh hội cái đã có
vì vậy nó phải vận hành theo cơ chế tái tạo.
Nhưng dù theo cơ chế tái tạo hay sáng tạo nó đều có liên quan với
nhau. Thầy chỉ có thể tiến hành HĐ dạy khi có HĐ học của trị. Ngược lại
học sinh có thể tái tạo lại tri thức dưới sự tổ chức, điều khiển của thầy; nhờ
sự tổ chức, điều khiển của thầy ở những trình độ khác nhau mà có thể tạo
ra mức độ tích cực khác nhau của người học. Mức độ tích cực của người
học quyết định chất lượng của HĐ học; ngược lại chất lượng của HĐ học
phụ thuộc vào sự điều khiển, tổ chức các HĐ dạy của người thầy. HĐ dạy
và HĐ học hợp lại với nhau thành HĐ dạy – học trong đó: người học có
chức năng lĩnh hội tri thức, kỹ năng, kỹ xảo; người dạy có chức năng tổ
chức, điều khiển hoạt động học của học sinh.
1.2.3. Hoạt động dạy ở trường mẫu giáo
1.2.3.1. Đặc điểm hoạt động dạy ở trường mẫu giáo
HĐ dạy ở trường MG là HĐ có mục đích, kế hoạch, là HĐ tương tác
giữa trẻ em và GV. GV hướng dẫn trẻ giải quyết các nhiệm vụ giáo dưỡng,
giáo dục và phát triển năng lực nhận thức, góp phần hình thành tồn vẹn
nhân cách cho trẻ em. Tác động SP của GVMG phải luôn thay đổi, phù
hợp với yêu cầu phát triển trong từng giai đoạn của trẻ. Phương tiện giáo
dục chủ yếu là đồ dùng, đồ chơi, là MT tự nhiên và MT xã hội phong phú,
đa dạng. GVMG cần biết tận dụng triệt để những điều kiện và phương tiện
cần thiết, thích hợp để giáo dục trẻ ở mọi lúc mọi nơi và đặc biệt trong giờ

TCHĐ học có chủ đích.
HD dạy ở trường MG là HĐ nhằm giúp trẻ lĩnh hội kiến thức, kỹ
năng hình thành chính bản thân hoạt động học tập, là nhằm chuẩn bị các
năng lực toàn diện, là quá trình chuẩn bị sẵn sàng về thể chất, tâm lý, xã
hội... cho trẻ vào học phổ thông. Trẻ MN, đặc biệt trẻ MG “học mà chơi,
chơi mà học”, vì HĐ vui chơi là HĐ chủ đạo của lứa tuổi này. Do đó,
người GVMG phải biết "chơi” cùng trẻ và phải có nghệ thuật tổ chức,
hướng dẫn "trẻ chơi để mà học”.
1.2.3.2. Xu hướng đổi mới giáo dục mầm non hiện nay
● Về nội dung giáo dục, được xây dựng theo các lĩnh vực phát triển:
thể chất, nhận thức, ngơn ngữ, tình cảm-xã hội, thẩm mỹ, đảm bảo giáo
dục trẻ một cách toàn diện. các lĩnh vực này được cấu trúc theo hướng tích
hợp chủ đề. Lấy bản thân đứa trẻ làm trung tâm, các chủ đề được xây dựng
mở rộng dần từ đơn giản đến phức tạp, từ gần đến xa, từ bản thân trẻ đến
gia đình, MTTN và MTXH gần gũi với trẻ. Đồng thời đảm bảo tính tích
7


hợp giữa nội dung ni dưỡng, chăm sóc sức khoẻ với giáo dục phát triển,
gắn với cuộc sống thực hàng ngày của trẻ.
● Đổi mới hình thức tổ chức giáo dục, mỗi HĐ giáo dục cho trẻ phải
mang tính tích hợp nội dung và được thiết kế dưới hình thức vui chơi. Mặt
khác, việc tổ chức các HĐ giáo dục cho trẻ, khác với trước đây chỉ chủ yếu
theo hình thức chung cả lớp nay sử dụng nhiều hình thức đa dạng: HĐ
chung cả lớp, HĐ theo nhóm nhỏ và đặc biệt là HĐ cá nhân. Mỗi hình
thức HĐ sẽ giúp trẻ phát triển các KN học tập khác nhau: khi HĐ cá nhân
trẻ được tự tìm hiểu, khám phá sự vật hiện tượng theo cách riêng của
mình, qua đó phát huy tính chủ động tích cực của trẻ, cịn khi tham gia học
tập theo nhóm nhỏ hay HĐ chung cả lớp trẻ được chia sẻ giúp đỡ lẫn nhau
những kinh nghiệm, học cách chung sống và hợp tác trong công việc được

giao...
● Về phương pháp giáo dục, GVMN cần sử dụng linh hoạt và phối
hợp hợp lý các phương pháp giáo dục đặc trưng cho lứa tuổi MN trong
việc tổ chức cho trẻ HĐ, chú trọng dạy trẻ cách học, phát huy tính tích cực
nhận thức của trẻ và cá nhân hố qn trình dạy học. Mặt khác, địi hỏi
người GV có những thay đổi về vai trị nhất định, trong lớp học giáo viên
trở thành người “tổ chức”, “cố vấn”, “trọng tài” và “kích thích” trẻ tích
cực hoạt động nhận thức, giúp trẻ được thoả mãn nhu cầu học tập cá nhân
và được chia sẻ những hiểu biết hay cảm xúc của mình với mọi người
xung quanh. Dưới sự hướng dẫn của giáo viên, trong bất kỳ HĐ nào, trẻ
ln được chủ động tích cực tham gia nhiều nhất và được HĐ theo hứng
thú cá nhân. Giáo viên phải linh hoạt trong việc xác định, lựa chọn và tổ
chức các HĐ đa dạng, giúp trẻ hứng thú tìm hiểu khám phá sự vật hiện
tượng theo nhiều cách khác nhau, qua đó phát triển tư duy linh hoạt và rèn
luyện khả năng xử lý nhanh các tình huống khác nhau trong cuộc sống.
Như vậy, GVMN, đặc biệt GVMG phải nắm vững xu hướng đổi mới
giáo dục mầm non hiện nay, phải có những kỹ năng sư phạm cần thiết để
có thể vừa là giáo viên, vừa là người chăm sóc, ni dưỡng, phịng và chữa
bệnh cho trẻ, là nghệ sĩ và là người mẹ thứ hai của trẻ.
1.2.3.3. Tổ chức hoạt động học có chủ đích cho trẻ mẫu giáo
- TCHĐ học có chủ đích cho trẻ MG khơng theo các bước của “tiết
học” một cách hình thức, máy móc mà xây dựng theo cách kết hợp nhiều
HĐ khác nhau một cách phù hợp, linh hoạt, tạo những tình huống HĐ của
trẻ cùng với những thao tác thử nghiệm, khám phá, tập làm... để giúp trẻ
thực sự được HĐ lĩnh hội kiến thức, hình thành KN.
- TCHĐ học có chủ đích theo quan điểm lấy trẻ làm trung tâm, đáp ứng
nhu cầu và phù hợp với khả năng cá nhân trẻ. Muốn vậy, GV phải hướng dẫn
trẻ phát huy cao độ tiềm năng vốn có của mình. Trong HĐ học có chủ đích,
trẻ là chủ thể HĐ lĩnh hội tri thức một cách sinh động và sáng tạo. HĐ học có
chủ đích là cơng việc của từng cá nhân trẻ; vì vậy GV cần thiết kế HĐ cá

8


nhân cho trẻ thông qua công việc khám phá, thử nghiệm, tập làm và các thao
tác cần thiết.
1.3. Kỹ năng, kỹ năng nghề, kỹ năng nghề của giáo viên mẫu giáo
1.3.1. Kỹ năng
Tổng kết các cơng trình nghiên cứu của một số tác giả cho thấy có
hai loại quan niệm về KN như sau:
+ Quan niệm thứ nhất: Các tác giả V.X. Cudin, V. A Cruchetxki, A.
G Covaliôv, Tsebusea, Trần Trọng Thủy... thì KN là phương tiện thực hiện
hành động phù hợp với mục đích và điều kiện HĐ mà con người đã nắm
vững mà khơng cần tính đến kết quả của hành động.
+ Quan niệm thứ hai: Các tác giả N.D Levitov, K.I Kixegof, K.K.
Platonop, G.G. Golubev, Nguyễn Quang Uẩn, Ngơ Cơng Hồn, Nguyễn
Ánh Tuyết, Trần Quốc Thành... cho rằng KN chính là năng lực thực hiện
một cơng việc có kết quả với chất lượng cần thiết và với thời gian tương
ứng trong điều kiện mới.
Như vậy, quan niệm thứ hai có chú ý đến kết quả của hành động.
Một số nhà khoa học Việt Nam như: GS.TS Nguyễn Quang Uẩn,
PGS.TS Ngơ Cơng Hồn, PGS.TS Trần Quốc Thành cũng quan niệm KN là
một mặt của năng lực con người thực hiện một cơng việc có kết quả.
Trên cơ sở xem xét các quan niệm về KN như đã trình bày ở trên đề
tài xác định chọn khái niệm: KN là khả năng thực hiện có kết quả một
hành động nào đó bằng cách vận dụng những tri thức và những kinh
nghiệm đã có để đạt mục đích đề ra. Tức là KN không chỉ đơn thuần về
mặt kỹ thuật của hành động mà còn là biểu hiện năng lực của con người.
1.3.2. Kỹ năng nghề
Theo quan điểm của Klimov, Platonov, Lomov..., Phạm Tất Dong,
Đặng Danh Ánh, Ngơ Cơng Hồn... thì kỹ năng nghề là những khả năng

phù hợp với địi hỏi riêng của nghề đó. Ngồi trình độ học vấn nói chung
nhất thiết phải có những kiến thức cơ sở, cơ bản phục vụ cho nghề đó và
chúng được gọi là kiến thức nghiệp vụ.
Theo James C. Hansen thì “Kỹ năng nghề là những khả năng mà con
người có thể sử dụng những gì đã hiểu biết để đạt được những mục đích,
những yêu cầu trong nghề nghiệp đề ra”.
Ở một số nước Nga, Đức, Pháp, Hàn Quốc... người ta xác định
những kỹ năng nghề dạy học (kỹ năng sư phạm) như:
* Nhóm những kỹ năng thiết kế và tiến hành dạy học
* Nhóm các kỹ năng sư phạm nhằm phát triển thói quen hoạt động
độc lập.
* Nhóm các kỹ năng tổ chức hoạt động giáo dục

9


Các nhà nghiên cứu Nga đã chỉ ra hệ thống KNSP như: KN thiết kế,
KN tổ chức, KN định hướng, KN giao tiếp (KN định vị và điều khiển
trong giao tiếp), KN nhận thức, KN nghiên cứu, KN kích thích động viên...
Nhiều trường sư phạm trong khu vực và trên thế giới đều khẳng định
rằng trong quá trình đào tạo GV cần hình thành cho GV khả năng giải
quyết những nhiệm vụ sư phạm. Khả năng giải quyết những nhiệm vụ này
phụ thuộc vào mức độ hình thành KNSP ở người GV. Nói cách khác,
muốn thực thi có hiệu quả những nhiệm vụ SP, người GV cần có hệ thống
các KNSP, nhờ đó giải quyết những nhiệm vụ của mình một cách “chuyên
nghiệp”, hệ thống những KN này cần được hình thành ở sinh viên ngay khi
đang cịn học ở trường sư phạm.
Ở Việt Nam nhiều tác giả đã nghiên cứu về KNSP, nhiều người đã
đồng ý với định nghĩa mà tác giả Nguyễn Như An đã đưa ra: “KNSP là
khả năng thực hiện có kết quả một số thao tác hay một loạt các thao tác

phức tạp của hành động sư phạm bằng cách lựa chọn và vận dụng những
tri thức, những cách thức, những qui trình đúng đắn”.
Nghề dạy học là một trong những nghề phức tạp và quan trọng. Trình
độ và chất lượng được đào tạo của người GV có ảnh hưởng to lớn đến
cuộc đời của biết bao HS. Vì vậy, nghệ thuật SP của người GV có ảnh
hưởng rất quan trọng. Nhưng nghệ thuật SP bắt đầu từ việc hình thành
những KNSP.
1.3.3. Kỹ năng nghề của giáo viên mẫu giáo
Các nghiên cứu chuyên môn đã chỉ ra rằng: KN nghề nghiệp của
GVMN nói chung và GVMG nói riêng có tính đặc thù được qui định bởi các
chức năng đặc thù của nghề GVMN và khách thể HĐ động của họ. GVMN
trong HĐSP của mình vừa phải thực hiện chức năng chung của người giáo
viên, vừa phải đồng thời thực hiện đầy đủ các chức năng đặc thù của “người
mẹ, người thầy thuốc và người nghệ sĩ”. GVMN vừa phải giáo dục, dạy trẻ lại
vừa phải chăm sóc-ni dưỡng, bảo vệ trẻ trong mọi HĐ của trẻ MN. Do đó
GVMN phải có những KN, KX riêng biệt.
Ở Việt Nam các nhà nghiên cứu GDMN đã đưa ra nhiều ý kiến về
KNSP mầm non. Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn GDMN, TS.
Trần Thị Quốc Minh đã dựa trên các dạng HĐ cơ bản của GVMN mà phân
loại các nhóm KN như sau: Nhóm kỹ năng nhận thức, Nhóm kỹ năng thiết
kế, Nhóm kỹ năng giao tiếp và tổ chức, Nhóm kỹ năng chuyên biệt.
Theo chúng tơi bốn nhóm kỹ năng trên được xác định là có cơ sở
khoa học và rất phù hợp trong thực tiễn vì nắm vững những kỹ năng này sẽ
giúp giáo viên mầm non đạt hiệu quả cao trong hoạt động dạy học cho trẻ
mầm non.
Chương 2

NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
10



2.1. Nội dung nghiên cứu
• Xây dựng hệ thống KNTCHĐ dạy của GVMG
• Tìm hiểu thực trạng KNTCHĐ dạy của GVMG và phân tích
những nguyên nhân dẫn đến thực trạng ấy
• Đề xuất một số biện pháp tác động nhằm hồn thiện các KNTCHĐ
dạy của GVMG, góp phần nâng cao tay nghề cho GVMG.
2.2. Tiến trình nghiên cứu
2.2.1. Điều tra thăm dị : từ 15/6 đến 15/7/2007
2.2.2. Điều tra chính thức: từ 30/7 đến 30/8/2007
2.2.3. Nghiên cứu thử nghiệm: từ 20/9 đến 20/10/2007
2.2.4. Tiến hành xử lý số liệu và phân tích kết quả nghiên cứu thực
trạng về kỹ năng sư phạm của giáo viên mẫu giáo và viết luận văn.
2.3. Các phương pháp nghiên cứu
2.3.1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu
2.3.2. Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn
2.3.2.1. Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi
♣ Điều tra thăm dò
- Dựa trên cơ sở lý luận về KNDH và KNTCDH, chúng tôi xây
dựng mẫu phiếu số 1, 2, 3.
-Tiến hành điều tra thăm dò mẫu 3 bộ phiếu trên 30 GVMG và 10
CBQL công tác tại các trường MG trong TP. Nha Trang. (30 GVMG và
10 CBQL này sẽ không tham gia trả lời phiếu điều tra chính thức).
- Hồn thiện phiếu trên cơ sở các ý kiến đóng góp của giáo viên và
cán bộ quản lý qua điều tra thăm dị để chuẩn bị điều tra chính thức.
♣ Điều tra chính thức
Phiếu 1: Điều tra việc rèn luyện và nâng cao KNTCHĐ dạy của GVMG.
Phiếu 2: Điều tra việc rèn luyện và nâng cao tay nghề của GVMG.
Phiếu 3: Điều tra việc rèn luyện KN qua sự đánh giá việc rèn luyện KN ở
GVMG của 50 CBQL trong các trường MG, trường MN.

Hướng dẫn các khách thể cách trả lời từng câu hỏi theo đúng mục
đích và yêu cầu của câu hỏi. Mỗi khách thể là GVMG sẽ độc lập trả lời
câu hỏi được nêu trong 2 phiếu (phiếu 1 và phiếu 2), khách thể là CBQL
trả lời phiếu 3.
* Thời gian tiến hành điều tra: từ 02/8/2007 đến 15/9/2007
2.3.2.2. Phương pháp thực nghiệm tác động sư phạm
* Thời gian thực nghiệm: từ 20/9 đến 20/10/2007
* Nội dung thực nghiệm: giáo viên sẽ tiến hành TCHĐ học cho trẻ với
nội dung như sau:
11


- Giáo dục âm nhạc: Dạy múa “Thật là hay” (Lớp MG 3-4 tuổi)
- LQMTXQ: Nước đổi màu (Lớp MG 5-6 tuổi).
2.3.2.3. Phương pháp quan sát và chụp hình một số HĐ của cô và trẻ
Trong đề tài nghiên cứu này, chúng tôi tiến hành PP quan sát nhằm
bổ trợ thêm cho PP chính. Chúng tơi tiến hành quan sát, ghi chép và chụp
hình những hoạt động, việc sử dụng các KN dạy học khi họ tiến hành
TCHĐ học cho trẻ MG qua môn LQMTXQ và GDÂN, đặc biệt qua
những tiết thực nghiệm.
2.3.2.4. Phương pháp trò chuyện phỏng vấn
Qua trò chuyện với GVMG, với CBQL trong các trường MG,
trường MN và các cháu MG để thu được những thông tin cịn thiếu mà
phương pháp chính khơng thu được và củng cố những thơng tin đã thu
được từ phương pháp chính.
2.3.2.5. Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia
Khi nghiên cứu đề tài, chúng tôi đã tiến hành xin ý kiến một số
chuyên gia đầu ngành Tâm lý học, ngành GDMN (5 chun gia có học
hàm, học vị, có uy tín cao trong ngành giáo dục), những người làm công
tác quản lý ở các trường MG, trường MN (50 CBQL) và các GVMG có

thâm niên giỏi, điển hình ở các trường MG để xây dựng 3 bộ phiếu trưng
cầu ý kiến cũng như khi xử lý phiếu, khi xây dựng các khái niệm công cụ,
khi đề xuất những biện pháp, kiến nghị… của đề tài để có thể giải quyết
tốt nhiệm vụ và mục đích đã đặt ra của đề tài.
2.3.3. Phương pháp xử lý số liệu
Chương 3:

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Vài nét về ngành học MN thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hịa
Tồn thành phố hiện nay có 50 trường trong đó có: 4 NT (cơng lập),
29 trường MG (CL: 3 trường, DL: 23 trường, TT: 3 trường), 18 trường
MN (CL: 7 trường, DL: 7 trường, TT: 3 trường) và 187 nhóm lớp mầm
non tư thục.
Về học sinh, có 1970 cháu nhà trẻ (tỷ lệ 21%); có 9.650 cháu MG (tỷ
lệ 74,5%); riêng trẻ MG 5 tuổi có 6320 cháu (tỷ lệ 92,5%). So với 5 năm
trước đây (năm học 2001-2002), tỷ lệ huy động trẻ trong độ tuổi MN tăng
4,55% ở nhà trẻ, tăng 12,8% ở MG và 11,2% trẻ MG 5 tuổi.
Về chất lượng CS-ND và GD trẻ: Nhìn chung, các trường lớp MN đã
có nhiều cố gắng trong việc thực hiện các chương trình CS-GD trẻ cũng
12


như các chuyên đề do Bộ GD&ĐT, Sở GD&ĐT chỉ đạo. Qua khảo sát
chất lượng trẻ những năm gần đây đều có khoảng 85% cháu đạt kết quả
khá tốt về phát triển thể chất, nhận thức, ngôn ngữ, giao tiếp... Gần 100%
cháu NT và hơn 50% cháu MG được ăn tại trường, 100% cháu được cân
đo theo dõi biểu đồ và khám sức khỏe định kỳ theo qui định. Việc phịng
chóng suy dinh dưỡng đã được thực hiện bằng nhiều biện pháp tích cực và
tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng cuối mỗi năm học thường giảm từ 5 – 6% so với
đầu năm học.

Về đội ngũ CBQL và GVMN: Toàn thành phố có 773 GVMN, trong
đó: 220 GVMN cơng lập, 235GVMN dân lập, 318GVMN tư thục. Có
83,5% GV đạt chuẩn và trên chuẩn, 16,5% GV có trình độ sơ cấp và chưa
có nghiệp vụ mà chủ yếu là GVMN tư thục.
3.2. Kết quả điều tra thực trạng KNTCHĐ dạy của GVMG
3.2.1. Nhận thức của GVMG về sự cần thiết của các KNTCHĐD ở MG
Sau khi tiến hành khảo sát thực trạng nhận thức của GVMG và
CBQL trong các trường MG, MN về sự cần thiết của các KNTCHĐ dạy,
chúng tôi thu được kết quả như sau:
Bảng 3.1. Nhận thức của GVMG và CBQL về sự cần thiết của các
KNTCHĐ dạy
Stt
1
2
3
4

GVMG

Nhóm kỹ năng

Σ
Nhóm kỹ năng nhận thức
5196
Nhóm kỹ năng thiết kế
5215
Nhóm kỹ năng tổ chức-giao tiếp 8674
Nhóm kỹ năng chuyên biệt
4292


X

4,32
4,34
4,33
4,29
X = 4,32

CBQL
TB
3
1
2
4

Σ
1357
1405
2283
1133

X

4,46
4,68
4,56
4,43
X = 4,54

TB

3
1
2
4

Qua bảng 3.1, tổng hợp ý kiến chung của GVMG và CBQL về mức độ
hình thành những KNSP trong KNTCHĐ dạy của GVMG, chúng tơi có
nhận xét sau:
- GVMG đã nhận thức được sự cần thiết của 4 nhóm KNTCHĐ dạy
của mình. Kết quả cho thấy các nhóm KN đều được đánh giá ở trên mức
“cần”một chút (Điểm trung bình từ 4,29 -> 4,34).
- Trong 4 nhóm KN trên thì nhóm KN thiết kế là nhóm KN được
GVMG nhận thức là cần nhất với điểm TB X = 4,34 ở thứ bậc 1. Tiếp
theo là nhóm KN tổ chức-giáo tiếp với X = 4,33 ở thứ bậc 2, nhóm KN
nhận thức với X = 4,30 xếp ở thứ bậc 3. Xếp cuối cùng là nhóm KN
chuyên biệt với X = 4,29 ở thức bậc 4. Điều này hoàn toàn thống nhất với
sự nhận thức của CBQL ở các trường MG, MN. Xét về mức độ cần thiết,
13


thì CBQL cịn đánh giá các nhóm KN đó ở mức “cần”hơn so với đánh giá
của GVMG, điểm TB từ 4, 43 -> 4,68. Điểm TB chung của các KNTCHĐ
dạy của CBQL cao hơn GVMG là 0,22 điểm (ý kiến của GVMG: X =
4,32, ý kiến của CBQL X = 4,54).
- Đánh giá sự cần thiết của từng KN thành phần trong mỗi nhóm KN
dạy học có sự khác biệt do trình độ đào tạo, thâm niên cơng tác, danh hiệu
mà giáo viên đạt được.
* Nhóm kỹ năng nhận thức
- Nhóm KN nhận thức là 1 hệ thống gồm 6 KN thành phần được
GVMG đánh giá ở các mức độ cần thiết theo thứ bậc từ 1 đến 6.

- Ý kiến đánh giá của GVMG và CBQL có tương quan thuận tương
đối chặt với r = 0,71.
- Loại hình cơng tác (công lập, dân lập, tư thục) hầu như không có
ảnh hưởng đến việc đánh giá sự cần thiết của từng KNTCHĐ dạy của
GVMG trong nhóm KN nhận thức.
- Trình độ đào tạo, thâm niên công tác, danh hiệu giáo viên có ảnh
hưởng lớn đến việc đánh giá sự cần thiết của từng KNTCHĐ dạy của
GVMG trong nhóm KN nhận thức.
* Nhóm kỹ năng thiết kế
- Nhóm KN thiết kế bao gồm 6 KN thành phần xếp thành 1 hệ thống
thứ bậc từ 1 đến 6 tương ứng với số điểm trung bình dao động từ 4,88
xuống 4,24.
- Trong nhóm KN thiết kế, GVMG nhận thức KN số 1 là KN rất cần
thiết với X = 4,53 xếp thứ 1 trong nhóm KN thiết kế. Nhận thức này hồn
tồn giống với nhận thức của CBQL, họ cũng cho rằng KN số 1 là cần
thiết nhất với X = 4,88. KN số 6 được GVMG và CBQL cùng đánh giá có
sự cần thiết thấp nhất trong nhóm KN thiết kế, ở thứ bậc số 6 trong nhóm
dù CBQL đánh giá cao hơn GVMG trung bình 0,08 điểm ( X = 4,32 và
X = 4,24).
Sở dĩ có kết quả trên là vì:
+ Thứ nhất, với chương trình đổi mới hiện nay thì việc xây dựng kế
hoạch CS-GD trẻ được GV thực hiện theo hướng tích hợp các chủ đề, lấy
cháu làm trung tâm sao cho phù hợp với nhu cầu và khả năng nhận thức
của trẻ của lớp mình.
+ Thứ hai, trong HĐSP đặc biệt là HĐSP của GVMG thì trước tiên
GV phải xác định được mục tiêu cần đạt trong mỗi chủ đề từ đó mới xây
dựng kế hoạch, xác định phương pháp, hình thức tổ chức các hoạt động
cho phù hợp.
+ Thứ ba, cường độ làm việc trong ngày của GVMG rất nhiều – 10
giờ/ngày- (ý kiến của 82% GVMG) nên GV khơng có thời gian đầu tư cho

việc đọc tài liệu, soạn kế hoạch nên việc xác định mục tiêu giáo dục chung
14


và mục tiêu cho từng hoạt động cho phép GV có sự linh hoạt, sáng tạo,
chủ động, phù hợp với tình huống xảy ra sao cho cuối mỗi chủ điểm tất cả
trẻ đều đạt được các mục tiêu đã đề ra.
Tóm lại
- 6 kỹ năng thành phần cụ thể của nhóm KN thiết kế đều được
GVMG đánh giá ở mức độ cần thiết.
- Giữa GVMG và CBQL trong nhận thức có mối tương quan thuận
chặt chẽ khi đánh giá sự cần thiết của từng KN trong nhóm với r = 0,81
- Loại hình trường mầm non- nơi cơng tác của GVMG hầu như
khơng có ảnh hưởng đến việc đánh giá sự cần thiết của các KN thuộc
nhóm KN thiết kế.
- Trình độ đào tạo, danh hiệu GV có ảnh hưởng lớn đến cách đánh
giá sự cần thiết của từng KN trong nhóm KN thiết kế.
- Các GVMG có khoảng cách thâm niên cơng tác càng gần thì càng có
sự tương đồng trong việc nhận thức về sự cần thiết của từng KN thuộc nhóm
KN thiết kế.
*Nhóm kỹ năng tổ chức-giao tiếp
- Nhóm KN tổ chức-giao tiếp bao gồm 10 KN thành phần. GVMG
đánh giá “KN tổ chức hoạt động học của trẻ một cách linh hoạt, sáng tạo
theo yêu cầu đổi mới GDMN (Hoạt động chung cả lớp, theo nhóm, cá
nhân)” là KN cần thiết nhất với X = 4,47 ở thứ bậc 1 trong nhóm KNTCGT. Tiếp theo “KN sử dụng có hiệu quả các phương tiện dạy học: vật thật,
tranh ảnh, đồ chơi-đồ dùng tự tạo, rối, băng hình... vào hoạt động học” cần
thiết thứ 2 trong nhóm. Cuối cùng “KN tuyên truyền kiến thức nuôi dạy trẻ
theo khoa học cho các bậc cha mẹ và cộng đồng”với X = 4,20 xếp ở bậc
thứ 10 trong nhóm. Nhìn chung, sự chênh lệch về điểm trung bình của
từng KN là khơng nhiều. Điều đó chứng tỏ các GVMG nhận thức về sự

cần thiết của các KN thuộc nhóm KNTC-GT khá đồng đều.
- Lý do của việc nhận thức đó là: Đặc điểm tâm lý chung của trẻ MG
là trẻ chưa có khả năng tập trung chú ý cao, khả năng kiềm chế thấp, ưa
thích những điều “mới lạ”, hấp dẫn, sinh động; mặc khác hoạt động chủ
đạo của trẻ mẫu giáo là hoạt động vui chơi, trẻ mẫu giáo “học qua chơi,
chơi mà học”, vì vậy nếu trong quá trình TCHĐ học cho trẻ giáo viên biết
sử dụng thành thạo những KN đó thì hiệu quả đạt được trên trẻ sẽ cao; sẽ
có sự lơi cuốn, thu hút trẻ vào các hoạt động cũng như kích thích được
hứng thú học tập của trẻ.
- GVMG và CBQL chưa có sự thống nhất cao trong việc đánh gia sự
cần thiết của từng KN trong nhóm KNTC-GT. Cụ thể: KN số 2 giữa
15


CBQL và GVMG có sự chênh lệch về thứ bậc cao, trong khi GVMG xếp
KN này ở bậc thứ 2 ( X = 4,43) thì CBQL xếp thứ 6 ( X = 4,60).
Tóm lại
- 10 kỹ năng thành phần của nhóm KNTC-GT đều được GVMG
đánh giá ở mức độ cần thiết.
- Giữa GVMG và CBQL có sự thống nhất trong nhận thức về sự cần
thiết của từng KN dạy học thuộc nhóm KNTC-GT với hệ số tương quan
thuận nhưng khơng chặt chẽ với r = 0,6.
- Trình độ đào tạo và thâm niên công tác hầu như không ảnh hưởng
đến việc đánh giá sự cần thiết của từng KN dạy học thuộc nhóm KNTCGT.
- Danh hiệu GV có ảnh hưởng lớn đến nhận thức của họ về sự cần
thiết của từng KN dạy học thuộc nhóm KNTC-GT.
* Nhóm kỹ năng chuyên biệt
Qua kết quả điều tra cho thấy những KN có điểm trung bình cao tập
trung ở các KN số 1, 3, 4, cả trong nhận thức của CBQL và GVMG; điều này
cho thấy GVMG cần thiết phải có các KN chuyên biệt đặc thù của ngành nghề

như: KN sưu tầm, lựa chọn, tự tạo đồ chơi-đồ dùng dạy học; KN đàn, hát,
múa, kể chuyện, đọc thơ, biểu diễn rối...
3.2.2.Thái độ của GVMG khi tiến hành TCHĐ dạy
Kết quả qua điều tra như sau:
- Đa số GVMG có thái độ tích cực với nghề nghiệp của họ. Điều đó
thể hiện qua thái độ tích cực của họ đối với trẻ, với đồng nghiệp, với lãnh
đạo, với phụ huynh. Cụ thể:
+ 77,5% GVMG cảm thấy “Vui”và “Rất vui”khi giao tiếp với trẻ,
đáng mừng là khơng có GVMG nào cảm thấy “Chán”khi giao tiếp với trẻ.
+ 87,5% GVMG tự đánh giá là có quan hệ tốt với trẻ, 85% GVMG
quan hệ tốt với lãnh đạo, 79% GVMG quan hệ tốt với phụ huynh, 84,5%
GVMG có quan hệ tốt với đồng nghiệp.
- Thái độ tích cực khi tiến hành TCHĐ dạy của GVMG khá trùng
hợp với nhận xét, đánh giá của CBQL. Ví dụ: theo đánh giá của CBQL ở
trường của họ có 80% GVMG “Vui”và “Rất vui”khi giao tiếp với trẻ; có
87,5% GVMG có quan hệ tốt với trẻ, 90% GVMG quan hệ tốt với lãnh
đạo, 90% GVMG quan hệ tốt với phụ huynh, 90% GVMG có quan hệ tốt
với đồng nghiệp.
- Để kiểm chứng kết quả thái độ này của GVMG, chúng tôi tiến hành
điều tra với câu hỏi số 2, 3, 7, 11 (Phiếu 2, phụ lục 1). Kết quả cho thấy,
các ý kiến hoàn toàn thống nhất với kết quả trên. Cụ thể: Có 96% GVMG
16


rất yêu trẻ và yêu trẻ, có 80,5% GVMG rất hài lịng và hài lịng về cơng việc
của mình, thậm chí nếu có cơ hội, 62,5% GVMG cũng khơng đổi nghề.
3.2.3. Thực trạng sử dụng các KN trong việc TCHĐ học có chủ đích của
GVMG:
► Khả năng sử dụng các kỹ năng trong việc xây dựng kế hoạch dạy
học (hoạt động học có chủ đích) của GVMG.

Sự chênh lệch điểm TB giữa các KN mà GVMG sử dụng khi xây
dựng kế hoạch HĐ học có chủ đích cho trẻ MG là khơng nhiều. Ví dụ:
▪ “KN chú ý đến đặc điểm lứa tuổi của trẻ”được GVMG và CBQL
xếp ở vị trí thứ 1 với X = 4,43 (ý kiến của GVMG) và X = 4,62 (ý kiến của
CBQL). Tức là họ rất thường xuyên sử dụng kỹ năng này.
▪ “Không hiểu nội dung yêu cầu của chương trình đề ra”xếp ở vị trí
cuối cùng với 109/200 GVMG (54,5%) đánh giá là rất ít khi; 72 GVMG
(36%) đánh giá đơi khi. Điểm TB là X = 2,57 (ý kiến của GVMG) và X =
2,06 (ý kiến của CBQL).
►Khả năng sử dụng các kỹ năng trong qua trình tổ chức hoạt động
học có chủ đích của GVMG.
- Trong q trình TCHĐ học có chủ đích, GVMG phải biết quan sát
tìm hiểu hứng thú học tập của trẻ để có sự sáng tạo trong khi dạy. Qua kết
quả bảng 9 chúng ta thấy:
• Có 166/200GV (83%) đánh giá sử dụng “Rất thường xuyên” và
“Thường xun” KN sáng tạo khi dạy trẻ.
• Có 181/200 GV (90,5%) đánh giá “Rất thường xuyên” và “Thường
xuyên” sử dụng KN quan sát tìm hiểu hứng thú học tập của trẻ để có sự điều
chỉnh kịp thời.
- Qua kết quả điều tra câu hỏi số 3 và số 5 trong phiếu trưng cầu ý
kiến 1 và câu 1, câu 13 trong phiếu trưng cầu ý kiến 2. Kết quả cho thấy
một điều đáng mừng là đa số GVMG đã cố gắng bằng những phương pháp
sáng tạo khác nhau để thực hiện tốt những KNTCHĐ học có chủ đích cho
trẻ. Thể hiện có trên 90% GVMG đã biết sử dụng, kết hợp một cách linh
hoạt, mềm dẻo và sáng tạo nhiều phương pháp, phương tiện dạy học; đặc
biệt là sử dụng đồ dùng trực quan mới lạ, phong phú, hấp dẫn, gần gũi với
trẻ nhằm lôi cuốn, thu hút trẻ tập trung.
- Kết quả thu được có hơn 85% GVMG hiểu được năng lực, sở thích,
nhu cầu, tâm trạng, tính cách, hứng thú, kinh nghiệm, hoàn cảnh, năng
khiếu... của từng trẻ từ đó lựa chọn phương pháp giáo dục phù hợp với

từng trẻ trong quá trình tổ chức cho trẻ hoạt động, đặc biệt hoạt động học
có chủ đích.
17


- Ngồi ra GVMG cịn nhận thức được trong q trình dạy trẻ, GV
cần có những phẩm chất, đức tính như: lòng yêu nghề, yêu trẻ, tinh thần
nhiệt huyết, sự mềm dẻo linh hoạt, lịng vị tha, tính kiên nhẫn, tính vơ tư
khơng vụ lợi...
►Kết quả thực hiện các kỹ năng thiết kế và kỹ năng tổ chức hoạt
động học có chủ đích của GVMG qua đánh giá của CBQL.
▪ Trong nhóm KN thiết kế, KN số 1, 3, 4 có 90% GVMG đạt được mức
độ Khá và Tốt, cịn lại 10% GVMG đạt loại TB, khơng có GV xếp loại
Yếu, Kém.
▪ Nhóm các KN tổ chức thực hiện, KN số 1 được đánh giá 100% GV
thực hiện Tốt và Khá.
▪ Ngồi ra có một số KN giáo viên đạt TB cao, cụ thể:
-“KN dự kiến một số tình huống có thể xảy ra, thấy trước những khó
khăn và biết cách phịng tránh”có 36% GV xếp ở mức Trung bình.
-“KN bao quát, phát hiện, xử lý các tình huống kịp thời”có 30% GV
xếp loại TB.
- “KN khuyến khích trẻ thắc mắc, trả lời, nhận xét và bổ sung câu hỏi
của cơ giáo và của bạn”có 36% GV xếp loại TB.
● Nguyên nhân dẫn đến kết quả trên là do:
+ Thứ nhất, đa số trình độ GVMG hiện nay cịn thấp (99/200 GV
trung cấp), hơn nữa thời gian công tác của họ/ngày rất nhiều, vì vậy họ
khơng có thời gian để tự học, tự nghiên cứu, tự rèn luyện nâng cao tay
nghề của mình. Điều này ảnh hưởng rất nhiều đến việc nâng cao tay nghề
cho họ.
+ Nguyên nhân thứ 2 là về phía trẻ, có nhiều cháu chưa được học

qua nhà trẻ, thậm chí chưa qua bé và nhỡ; đặc biệt là các trường MG dân
lập xã phường hiện tại chỉ ưu tiên huy động trẻ 5 tuổi ra lớp để chuẩn bị
tâm thế cho trẻ vào học lớp 1. Đây là nguyên nhân dẫn đến trình độ nhận
thức của trẻ không đồng đều, làm ảnh hưởng nhiều đến việc sử dụng thành
thạo các phương pháp dạy học mới, dạy học cá thể...
+ Về phía nhà trường, nhiều trường chưa có đầy đủ các trang thiết bị
học tập phù hợp với trẻ, chưa chú ý đến việc phân lớp theo đúng độ tuổi.
Bên cạnh đó, xã hội hiện nay chưa quan tâm đúng mức đến đời sống vật
chất và tinh thần của GVMG (theo nhận xét của GVMG trong câu 3, phiếu
trưng cầu ý kiến 1).
3.2.4. Đánh giá chung về kết quả đạt được của GVMG trong quá trình
tổ chức hoạt động có chủ đích cho trẻ mẫu giáo
+ Có 57,5% GVMG nhận thức rất tốt và 37,5% GVMG nhận thức
tốt về sự cần thiết của các KNTCHĐ dạy.
18


+ Có 66% GVMG có thái độ rất tốt và 27,5% GVMG có thái độ tốt
khi tiến hành TCHĐ học có chủ đích cho trẻ MG. Thái độ ở đây là thái độ
làm việc với trẻ, với đồng nghiệp, với lãnh đạo và với phụ huynh học
sinh.
+ Có 26% GVMG tự đánh giá đã sử dụng rất tốt các KN vào q
trình TCHĐ học có chủ đích cho trẻ MG và 54% sử dụng tốt KN này.
+ Cuối cùng, có 30% GVMG đạt kết quả rất tốt và 51% đạt kết quả
tốt khi hình thành các KN cho trẻ thơng qua việc tổ chức HĐ học có chủ
đích.
Như vậy, trong q trình TCHĐ học có chủ đích cho trẻ MG, đa số
GVMG đã đã đạt kết quả tốt, rất tốt cả về nhận thức, thái độ và hành động.
Kết quả này một lần nữa khẳng định tính khách quan đúng của kết quả
nghiên cứu.

Kết luận chung về thực trạng KNTCHĐ dạy của GVMG
- Trong quá trình TCHĐ dạy, đặc biệt là TCHĐ học có chủ đích cho
trẻ MG, đa số GVMG đã có nhận thức đúng về sự cần thiết của từng KN
dạy, có thái độ tích cực và hành động phù hợp khi sử dụng từng KN trong
4 nhóm KN: nhận thức, thiết kế, tổ chức-giao tiếp, chuyên biệt và đã hình
thành cho trẻ các KN cơ bản để chuẩn bị vào học lớp 1 phổ thông.
- Đa số GVMG đã đạt được mức độ khá cao về KN tổ chức HĐ học
có chủ đích cho trẻ MG.
- Giữa GVMG và CBQL có sự thống nhất cao về nhận thức, thái độ,
hành động và kết quả sử dụng các KN trong q trình TCHĐ học có chủ đích
cho trẻ MG.
- Trình độ đào tạo, danh hiệu và thâm niên cơng tác có ảnh hưởng ít
nhiều đến việc nhận thức khi sử dụng các KNTCHĐ dạy của GVMG.
3.3. Kiểm định KNTCHĐ dạy của GVMG thông qua đánh giá một số
chỉ số của tay nghề cao
3.3.1. Chất lượng TCHĐ học có chủ đích cho trẻ MG của GVMG
Theo kết quả điều tra tại câu 4 (phiếu trưng cầu ý kiến 2), trong q
trình dạy trẻ có 53 GV (26,5%) “Rất thường xun”và 128 GV (64%)
“Thường xun”hồn thành chương trình.
Kết quả trên cho thấy, các GVMG đã hồn thành tốt chương trình
khơng phải chỉ đơn thuần là làm xong nhiệm vụ được giao mà họ còn là
những người rất yêu nghề, yêu trẻ. Điều này thể hiện trong quá trình
TCHĐ học cho trẻ, GV đã hiểu được năng lực, sở thích, nhu cầu, nguyện
vọng của từng cá nhân trẻ cũng như phụ huynh các cháu. Trong đó,
GVMG hiểu nhất là “Năng lực của từng trẻ”ở thứ bậc 1 với X = 4,43
điểm, chỉ có 2,5% GV trả lời đơi khi hiểu năng lực của từng trẻ còn lại
19


đều trả lời hiểu và rất hiểu. Tiếp theo là “Nhu cầu của từng trẻ”được GV

hiểu rõ thứ 2 với X = 4,41điểm. Tuy nhiên, “Xu hướng phát triển của
từng trẻ”lại là vấn đề GV hiểu thấp nhất, xếp ở bậc cuối cùng với X =
3,73 điểm.
3.3.2. Kết quả tổ chức hoạt động dạy của GVMG
Để tìm hiểu kết quả TCHĐ dạy của GVMG, chúng tôi tiến hành
điều tra qua câu hỏi số 8 và số 11, phiếu trưng cầu ý kiến 2. Kết quả như
sau:
+ Số trẻ đạt loại khá trở lên chiếm 85%, đạt yêu cầu 25%.
+ Theo nhận xét của GVMG, thái độ của trẻ đối với họ rất tốt, trẻ
u q cơ và thích gần gũi, trị chuyện cùng cơ. Cụ thể:Có 82,5% GVMG
nhận xét là trẻ rất “u q, có tình cảm đối với cơ”, có 42% GVMG cho
là các cháu “Gần gũi, thân thiện, mạnh dạn”, có 31% trẻ “Ngoan ngỗn,
lễ phép, nghe lời”, có 5,5% cháu “Sợ cơ, khơng thân thiện với cơ”.
Từ kết quả trên, có thể nói rằng kết quả hoạt động dạy của GVMG
thu được là rất tốt. Đây là niềm vui, phần thưởng, nguồn khích lệ, động
viên, là lý do để họ tiếp tục cơng việc của mình, cố gắng vươn lên, trao
đồi và nâng cao kỹ năng tổ chức cho trẻ hoạt động.
3.3.3. Các phẩm chất và năng lực nghề nghiệp
Trong q trình TCHĐ học có chủ đích cho trẻ MG, GVMG đã có
những phẩm chất và năng lực ở mức tốt, phù hợp với hoạt động nghề
nghiệp của họ. Điều này thể hiện ở sự phong phú về nội dung (25 phẩm
chất, năng lực) cũng như về số điểm trung bình rất cao của từng nội dung
(dao động từ 4,65 xuống 2,38 điểm). Cụ thể:
+ Các phẩm chất được đánh giá là “Tốt” ở GV là: “Lòng yêu
nghề”xếp ở bậc thứ 1 với X = 4,65 điểm. Tiếp theo là “Tinh thần trách
nhiệm”, “Lương tâm nghề nghiệp”xếp ở bậc thứ 2 và 3. Phẩm chất “Tính
thiếu kiên nhẫn” có điểm trung bình thấp nhất thì cũng được đánh giá ở
mức “Bình thường”.
+ Năng lực của GVMG: kết quả nghiên cứu bảng trên cho thấy, trong quá
trình tổ chức các hoạt động cho trẻ, GVMG cần có các năng lực cần thiết như

“Nắm vững nội dung tri thức chuyên môn”xếp ở thứ bậc 5 với X = 4,37 điểm,
“Năng lực giao tiếp với trẻ”ở vị trí số 6 với X = 4,30 điểm... Năng lực giao
tiếp với trẻ được thể hiện ở: có 100% GVMG biết sử dụng nội dung ngôn ngữ
“Phù hợp” và “Rất phù hợp” với nội dung giao tiếp, có 100% GVMG có nét
mặt, cử chỉ, điệu bộ “Phù hợp” và “Rất phù hợp” với nội dung giao tiếp, có
82% GVMG có giọng nói “Diễn cảm” và “Rất diễn cảm”, có 85% GVMG sử
dụng cường độ, tần số lời nói “Bình thường” phù hợp với khả năng tiếp thu
của trẻ...
3.3.4. Thái độ, hứng thú của GVMG đối với hoạt động dạy
20


Đa số GVMG có thái độ tích cực, rất hứng thú với hoạt động dạy của
mình ở trường; thể hiện: Có 21,5% GVMG “Rất hài lịng” về nghề nghiệp
của mình, có 59% GVMG “Hài lịng”, có 19,5% GVMG có thái độ “Bình
thường”.
Đáng mừng là khơng có GV nào cảm thấy “Khơng hài lịng” hay
“Chán ghét” cơng việc của mình đang làm. Điều này thể hiện qua việc trả
lời câu hỏi “Nếu bây giờ có cơ hội, chị có đổi nghề khơng?” thì chỉ có
8,5% (17/200GVMG) trả lời “Có”.
- Sở dĩ, GVMG có thái độ tích cực với cơng việc của mình là vì:
+ Thứ nhất, đa số GVMG là những người yêu trẻ, có 26,5%
(53/200GVMG) tự đánh giá là “Rất yêu trẻ”, 72% (144/200GVMG) “Yêu
trẻ”, chỉ có 1,5% (03/200GVMG) có thái độ “Bình thường” với trẻ.
+ Thứ hai, phần lớn GVMG đã nhận thức được sự cần thiết, sự
cao quí của nghề mà họ đang gắn bó. Có 80% (160/200GVMG) nhận xét
“Rất đúng” và “Đúng” qua câu nói “Dưới ánh sáng mặt trời, khơng có
nghề nào cao q hơn nghề dạy học”. Có 20% (40/200GVMG) trả lời “Có
phần đúng” vì họ cho rằng nghề dạy học là nghề cao quí, song liên hệ bản
thân họ thì GVMN chưa được xã hội coi trọng, chưa có chế độ chính sách

ưu đãi, chưa quan tâm đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học...
Tóm lại, qua 4 chỉ số nêu trên đã khẳng định rằng: trong quá trình
TCHĐ dạy, đặc biệt TCHĐ học có chủ đích cho trẻ MG, GVMG đã có các
kỹ năng dạy khá cao. Mặc khác, kết quả kiểm định đã khẳng định tính
đúng đắn, khách quan của những kết luận nghiên cứu đã nêu trong phần
thực trạng ở trên.
3.4. Kết quả thực nghiệm kiểm chứng KNTCHĐ dạy của GVMG qua
việc tổ chức hoạt động học có chủ đích cho trẻ MG
Theo sự đánh giá của CBQL và các giáo viên dự giờ thì có:
• Về phần chuẩn bị cho hoạt động: Kế hoạch soạn rõ ràng, đưa ra
các yêu cầu phù hợp; các phương tiện dạy và học hấp dẫn, kích thích trẻ
HĐ.
• Về phần nội dung: GV đã biết lựa chọn nội dung phù hợp với chủ
đề; các kiến thức, kỹ năng truyền thụ cho trẻ chính xác, có hệ thống, gần
gũi với cuộc sống thực của trẻ; phù hợp với khả năng và vốn kinh nghiệm
của trẻ.
• Về phương pháp tổ chức: GV đã tổ chức các HĐ cho trẻ hợp lý, tự
nhiên; đưa ra những tình huống có vấn đề phù hợp, đúng lúc để tạo hứng
thú và kích thích trẻ HĐ, khám phá. Phong cách GV nhẹ nhàng, quan tâm
đến cá nhân trẻ và luôn tạo mọi cơ hội cho trẻ tham gia hoạt động.
21


• Kết quả trên trẻ: Qua các tiết thực nghiệm, chúng tôi thấy rằng: tất
cả trẻ tham gia các HĐ một cách tích cực và hứng thú. Trẻ biết sử dụng
hợp lý các đồ dùng, đồ chơi, nguyên vật liệu cho các hoạt động. Trẻ thực
sự chủ động làm việc và giao tiếp với nhau, với cô giáo.
+ Kết quả tiết dạy đạt:
Loại xuất sắc: Nước đổi màu (Lớp MG lớn)
Loại giỏi:

Dạy hát “Thật là hay”(Lớp MG bé).
Tóm lại, kết quả kiểm định KNTCHĐ dạy của GVMG thông qua
thực nghiệm sư phạm hoàn toàn thống nhất với kết quả nghiên cứu thực
trạng KNTCHĐ dạy của GVMG. Điều này chứng tỏ sự đúng đắn, khách
quan của kết quả nghiên cứu thực trạng.
3.5. Đề xuất các ý kiến nhằm rèn luyện và nâng cao các KHTCHĐ
dạy của GVMG
Hệ thống các biện pháp GVMG đưa ra khá phong phú (17 biện pháp).
Trong đó, theo họ biện pháp hữu hiệu nhất giúp họ rèn luyện và nâng cao tay
nghề là phải “Tạo điều kiện về vật chất và tinh thần cho GVMG được tiếp tục
đi học nâng cao trình độ chun mơn” và “Quan tâm đến đời sống giáo viên”
(100% ý kiến của GVMG). Tiếp theo là biện pháp “Giảm cường độ làm việc
của GV, nếu khơng phải có chế độ làm ngồi giờ cho thỏa đáng với công sức
họ bỏ ra” với 51% ý kiến của GVMG. Biện pháp “Tạo điều kiện cho GV
được tiếp cận với phương pháp dạy học tích cực”và “Tạo điều kiện cho GV
được tham gia các lớp bồi dưỡng năng khiếu: âm nhạc, tin học, họa, làm đồ
dùng-đồ chơi, làm và biểu diễn rối...” có 45% ý kiến đề xuất của GVMG.

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. KẾT LUẬN
1.1. Trong hệ thống Giáo dục quốc dân, GDMN là bậc học đầu tiên
có vị trí quan trọng trong chiến lược phát triển nguồn lực con người. Đội
ngũ GVMN, đặc biệt là GVMG là lực lượng cốt cán biến các mục tiêu
giáo dục thành hiện thực. Họ khơng những có chức năng là nhà giáo – giáo
dục trẻ mà còn là người mẹ, người thầy thuốc, người nghệ sĩ, người bạn
của trẻ mầm non – chăm sóc, ni dưỡng, bảo vệ trẻ, chơi mà học với trẻ.
Với những chức năng đặc thù của nghề GVMN nêu trên, họ cần được hình
thành và hoàn thiện các KN nghề, đặc biệt là KNSP trong TCHĐ dạy trẻ
lứa tuổi mầm non.
Thật cần thiết phải xác định được hệ thống các KNSP và đánh giá

được sự cần thiết của hệ thống các KNSP mầm non gồm 4 nhóm cơ bản
22


như sau: Nhóm kỹ năng nhận thức, nhóm kỹ năng thiết kế, nhóm kỹ năng
tổ chức - giao tiếp, nhóm kỹ năng chuyên biệt.
Mỗi nhóm KN bao gồm nhiều KN khác nhau. Chúng liên quan với
nhau thành một hệ thống, nếu người GVMG trong quá trình học ở trường
SP cũng như làm việc tại các trường MG nhận thức được sự cần thiết của
chúng và rèn luyện chúng cho hoàn thiện thì sẽ có tay nghề cao.
1.2. Để đạt được hiệu quả cao trong việc TCHĐ dạy trẻ mẫu giáo,
đòi hỏi người giáo viên phải có và sử dụng tốt các KNTCHĐ dạy; đặc biệt
trong TCHĐ học có chủ đích cho trẻ.
Vì vậy việc nghiên cứu KNTCHĐ dạy của GVMG là cần thiết.
1.3. Kết quả nghiên cứu thực trạng KNTCHĐ dạy của GVMG
▪ Về mặt nhận thức: đa số GVMG đã nhận thức đúng sự cần thiết
của từng KN trong 4 nhóm KN thành phần.
▪ Về mặt thái độ: đa số GVMG đã có thái độ tích cực trong q
trình TCHĐ dạy, đặc biệt TCHĐ học có chủ đích cho trẻ MG.
▪ Về mặt hành động: GVMG đã sử dụng tốt các KNTCHĐ dạy
trong quá trình xây dựng kế hoạch, cũng như TC thực hiện kế hoạch, nhằm
hình thành cho trẻ những kiến thức, KN, thái độ cơ bản để trẻ có đủ “hành
trang”cần thiết bước vào học lớp 1.
1.4. Thông qua đánh giá một số chỉ số của tay nghề cao, khẳng định
kết quả nghiên cứu thực trạng KNTCHĐ dạy của GVMG là hoàn toàn
đúng.
1.5. Kết quả thực nghiệm sư phạm thông qua sử dụng các KNTCHĐ
dạy vào việc thiết kế và TCHĐ học qua 2 môn học: GDÂN và LQMTXQ
một lần nữa khẳng định sự thống nhất cao giữa nhận thức, thái độ và hành
động của GVMG về KNTCHĐ dạy cho trẻ MG.

1.6. KNTCHĐ dạy của GVMG chịu ảnh hưởng nhiều các yếu tố
như: trình độ đào tạo, danh hiệu và thâm niên công tác của GVMG.
Đối chiếu với giả thuyết khoa học thì kết quả nghiên cứu về thực
trạng KNTCHĐ dạy của GVMG là phù hợp.
2. KIẾN NGHỊ
2.1. Đối với Nhà nước và Bộ Giáo dục và Đào tạo
- Cần có chế độ chính sách đãi ngộ về thời gian làm việc, về chế độ
tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế... cho GVMG hợp lý hơn, đặc
biệt là GVMG dân lập và tư thục cần được bình đẳng như GVMG cơng lập
và GV các bậc học khác.
- Cần có các chương trình mục tiêu riêng cho GDMN như: đầu tư về
CSVC, mua sắm trang thiết bị, bồi dưỡng chun mơn nghiệp vụ...
Vì có như vậy GVMN nói chung và GVMG nói riêng có thể n
tâm, nhiệt tình trong cơng tác chăm sóc-giáo dục trẻ.
2.2. Đối với Cán bộ quản lý trường Mầm non
23


- Khuyến khích GVMG áp dụng các hình thức, phương pháp tổ chức
các hoạt động khác nhau một cách sáng tạo; cho phép GVMG chủ động,
linh hoạt trong việc xác định lựa chọn và tổ chức hoạt động cho trẻ phong
phú phù hợp với nhu cầu và khả năng của trẻ, giúp trẻ hứng thú tìm hiểu
khám phá theo nhiều cách khác nhau.
- Tạo điều kiện về vật chất và tinh thần để GVMG có cơ hội tham gia
các buổi tập huấn chuyên môn, các cuộc tọa đàm, trao đổi kinh nghiệm
thường xuyên với các GVMG trong và ngoài trường để GVMG mở rộng
vốn tri thức chuyên ngành, để cập nhật tri thức khoa học mới, bồi dưỡng
chuyên môn thường xuyên cho GVMG.
2.3. Đối với giáo viên mẫu giáo
- GVMG phải được đào tạo đúng chuẩn; tự học hỏi trao dồi tri thức

chuyên môn thường xuyên, liên tục để theo kịp sự phát triển của KH-KT nói
chung và khoa học GDMN nói riêng nhằm hồn thiện và nâng cao tay nghề
của mình.
- Trong quá trình TCHĐ dạy, GVMG cần nắm vững nội dung,
phương pháp đổi mới hiện nay- phương pháp dạy học tích cực nhằm phát
huy tối đa khả năng sáng tạo của trẻ trong từng lĩnh vực sao cho phù hợp
với sở thích và năng khiếu của trẻ...

24



×