Tải bản đầy đủ (.pdf) (18 trang)

skkn ứng dụng cntt vào dạy học môn gdcd lớp 9 ở trường thcs sơn thuỷ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (286.15 KB, 18 trang )










SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

ỨNG DỤNG CNTT VÀO DẠY HỌC MÔN
GDCD LỚP 9 Ở TRƯỜNG THCS SƠN THUỶ




I. ĐặT VấN Đề.
1.Cơ sở lý luận :
Vấn đề đổi mới phương pháp dạy học trong nhà trường phổ thông ở nước ta đã
được xã hội quan tâm ngay từ những năm 1970. Đến đầu thập kỉ 90 vấn đề phương
pháp dạy học và đổi mới phương pháp dạy học được đặt ra và phát động nhiều lần
trong ngành Giáo dục, nhưng trên thực tiễn giáo dục ở nhà trường vẫn chưa đạt
hiệu quả cao. Đến những năm 1995-1996, 2000-2001 Bộ giáo dục và đào tạo đã
phát động phong trào đổi mới phương pháp dạy học được thể hiện trong chỉ thị
nhiệm vụ năm học hàng năm: Chỉ thị số 29/2001/ CT/ BGD-ĐT ngày 30/07/2001
của bộ trưởng BGD-ĐT về tăng cường giảng dạy, đào tạo và ứng dụng Công nghệ
thông tin (CNTT) Công nghệ thông tin trong ngành giáo dục giai đoạn 2001-2005
đã chỉ rõ: Các bộ môn không chuyên về CNTT cần đổi mới nội dung chương
trình giảng dạy, phương pháp giảng dạy và nghiên cứu khoa học theo hướng tăng
cường áp dụng CNTT. Các ngành khoa học, các ngành công nghệ, cần tăng cường


dạy lập trình để có thể tạo ra các phần mềm chuyên ngành.
- Đổi mới nội dung chương trình và phương pháp dạy học tin học theo hướng
đảm bảo các kiến thức cơ bản, tính cập nhật của chương trình nhằm hỗ trợ cho dạy
và học các môn học khác trong nhà trường.
- Đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong Giáo dục - Đào tạo (GD-ĐT) ở tất cả các
cấp học, bậc học, ngành học theo hướng sử dung CNTT như một phương tiện hỗ
trợ đắc lực nhất cho đổi mới phương pháp dạy học, học tập ở tất cả các môn học
Thực hiện chỉ thị trên, hầu hết các bộ môn trong nhà trường ở các cấp học, bậc
học, ngành học, đều chú trọng ứng dụng CNTT vào đổi mới phương pháp dạy học.
Phải nói rằng, hiện nay với sự phát triển như vũ bảo về lĩnh vực CNTT, nước ta đã
từng bước tiếp cận và ứng dụng những thành tựu trong lĩnh vực còn khá mới mẽ
này. Tuy vậy, việc ứng dụng CNTT vào việc dạy học ở nước ta vẫn còn hạn chế so
với các quốc gia trên thế giới. Vì vậy việc đổi mới phương pháp dạy học là việc
làm cần thiết và quan trọng của ngành giáo dục trong giai đoạn hiện nay.



Với đặc trưng của môn học là một môn khoa học, vấn đề đặt ra là làm thế nào
để nâng cao chất lượng hiệu quả dạy học của thầy và trò đó là vấn đề hết sức quan
trọng. Là một giáo viên trực tiếp đứng lớp giảng dạy bộ môn GDCD, bản thân tôi
luôn suy nghĩ, trăn trở để tìm ra những phương pháp dạy học nhằm gây hứng thú
cho học sinh khi học bộ môn của mình để đạt kết quả cao. Đó cũng là vấn đề được
giáo dục quan tâm đặc biệt hiện nay.
2.Cơ sở thực tiễn.
Năm học 2008-2009 là năm thứ 6 thực hiện chương trình thay sách giáo khoa
mới và đổi mới phương pháp dạy học do Bộ GD-ĐT ban hành. Năm thực hiện
nhiệm vụ của ngành giáo dục, tiếp tục đổi mới phương pháp dạy - học. Đặc biệt sẽ
tập trung đổi mới phương pháp giảng dạy các môn xã hội - những môn mà chúng
ta thấy bấy lâu nay xã hội chưa yên tâm, sẽ tổ chức những hội thảo từ cơ sở đến
cấp quốc gia về đổi mới ở cả 03 khâu: Cách dạy, cách kiểm tra và gắn dạy học với

thực tiễn. Năm học 2008 - 2009 sẽ đột phá tăng cường ứng dụng CNTT. Làm thế
nào để ở tất cả các trường đều có giáo viên nồng cốt có thể sử dụng thiết bị, ứng
dụng các bài giảng điện tử, hình thành kho dữ liệu các môn học. Trường nào cũng
có giáo viên sử dụng được bài giảng điện tử. Phấn đấu đến cuối năm, tất cả các
trường phổ thông đều kết nối Internet. Vì thế nhiệm vụ đặt ra cho mỗi giáo viên là
phải đổi mới phương pháp dạy học, sử dụng linh hoạt các phương pháp dạy học để
nhằm phát huy tính tích cực, tự giác chủ động sáng tạo của học sinh trong quá
trình học tập nhằm chiếm lĩnh kiến thức một cách độc lập với từng môn học. Với
đặc trưng môn học GDCD là một môn học xã hội mang tính chất khô khan, cứng
nhắc, nên thực tế đã cho thấy rằng đại đa số học sinh có những khuynh hướng sai
lầm là: Coi môn học GDCD là môn học đạo đức chính trị thuần tuý trong nhà
trường, các em không hiểu những tri thức khoa học của bộ môn GDCD, trong đó
nỗi bật tri thức khoa học về thế giới quan, nhân sinh quan, phương pháp nhận thức
khoa học và hoạt động thực tiễn là những nhân tố cơ bản mà mỗi con người cần
phải tự trang bị cho bản thân để hoàn thiện nhân cách chính mình. Các em cho
rằng môn học GDCD là môn học phụ, nên các em chưa thực sự chú ý đến việc học



tập của bộ môn này. Trong các nhà trường vẫn còn tồn tại ý thức coi môn GDCD
là môn học bổ trợ. Chính vì quan niệm đó nên một số trường vẫn còn bố trí cho
giáo viên dạy kiêm nhiệm, trái ngạch và đã dẫn đến tình trạng giáo viên không đầu
tư nhiều cho tiết dạy, trong quá trình giảng dạy giáo viên còn sử dụng phương
pháp truyền thống như thuyết trình, đọc chép. Học sinh chỉ tập trung trả lời các
câu hỏi có sẵn trong sách giáo khoa nên đã tạo cho tiết học trở nên khô khan, đơn
điệu, nghèo nàn về phương pháp. Học sinh luôn thụ động nên đã tạo cho học sinh
sự nặng nề, uể oải…
Cơ sở vật chất, tài liệu, phương tiện dạy học còn thiếu, số liệu thông tin, hình
ảnh chưa cập nhật kịp thời và thiếu sự đa dạng. Việc tập huấn, bồi dưỡng, hội thảo
chuyên đề bộ môn còn ít. Vì thế đã làm cho giáo viên không có cơ hội để bồi

dưỡng, học hỏi bạn bè đồng nghiệp nhằm nâng cao chuyên môn nghiệp vụ bộ
môn.
- Thế kỷ XXI - thế kỷ của khoa học và công nghệ, chúng ta đang từng bước
tiếp cận với những thành tựu mới của khoa học – kỉ thuật. Vì thế, sự chuẩn bị
nguồn lực cho đất nước bước vào thời kì đổi mới là một trong những nhiệm vụ cấp
thiết của toàn xã hội và ngành giáo dục đào tạo nói riêng. Muốn theo kịp các nước
tiên tiến và đón đầu sự phát triển đòi hỏi phải đổi mới giáo dục một cách đồng bộ
là tất yếu.
- Đổi mới phương pháp dạy học đòi hỏi giáo viên phải dành nhiều thời gian
đầu tư vào mỗi bài dạy. Từng bước áp dụng các phương tiện hiện đại như: máy
chiếu đa năng, máy chiếu đa vật thể, projector v.v. băng hình, tranh ảnh vào trong
giảng dạy bộ môn GDCD là con đường hữu hiệu có tác dụng tăng hiệu quả tiết học
lên gấp bội. Mặt khác nếu ứng dụng thành công CNTT vào dạy học bộ môn
GDCD, đưa ra các kinh nghiệm khả thi thì chắc chắn rằng chất lượng học tập bộ
môn sẽ được nâng cao và chắc chắn rằng học sinh sẽ rất hứng thú học môn học này
cũng như bao môn học khác trong chương trình phổ thông.
II. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu.
1. Nhiệm vụ của đề tài:



Đề tài nghiên cứu những vấn đề lý luận, thực tiễn về việc ứng dụng CNTT vào
môn GDCD ở Trường THCS Sơn Thuỷ để giảng dạy một số bài trong chương
trình giáo dục công dân, nhằm phát huy tính tích cực của học sinh.
2.Phương pháp nghiên cứu:
Các phương pháp cụ thể là:
- Phương pháp điều tra.
- Phương pháp quan sát.
- Phương pháp nghiên cứu phân tích tổng hợp.
- Phương pháp thống kê.

3. Đối tượng nghiên cứu:
Đề tài được nghiên cứu trên đối tượng là học sinh lớp 9 ở Trường THCS Sơn
Thuỷ.
4. Thời gian thực hiện :
Từ năm học 2007-2008 đến năm học 2008-2009.

III. Giải quyết vấn đề.
1. Thực trạng:
- Tình trạng phổ biến trong các tiết học môn GDCD chưa thực sự sinh động
vì thiếu hụt về phương tiện cũng như về thông tin. Trong giờ học, học sinh ít hoạt
động nếu có thì chỉ tập trung trả lời một số câu hỏi do giáo viên đưa ra. ít có
những giờ học được tiến hành bằng các phương tiện hiện đại, vì thế, việc giải
thích, minh hoạ có sử dụng phương pháp trực quan và dùng hình ảnh thực tiễn còn
có nhiều hạn chế. Chính vì vậy học sinh chưa thực sự tự lực phát hiện và giải
quyết vấn đề, ít có cơ hội để thể hiện thái độ, lập trường của mình, giáo viên còn
gặp khó khăn trong việc gây hứng thú học tập cho học sinh, học sinh chưa thực sự
hứng thú học tập. Do đó chất lượng bộ môn chưa được cao.




Qua điều tra về mức độ hứng thú học tập của học sinh và thống kê kết quả
của học kì I năm 2007- 2008 khi chưa ứng dụng CNTT vào trong giảng dạy
như sau:
* Bảng điều tra mức độ hứng thú học tập bộ môn GDCD của học sinh học
kì I năm học 2007-2008. Khi giáo viên chưa ứng dụng CNTT vào trong giảng
dạy bộ môn GDCD 9.

Lớp


Số học
sinh
H
ứng thú học bộ môn
GDCD

Không hứng thú học bộ
môn GDCD

SL TL% SL TL%
9A 42 15 35.7 27 64.3
9B 42 13 30.9 29 69.1
9C 42 12 28.6 30 71.4
9D 44 17 38.6 27 61.4

*Bảng kết quả chất lượng học kì I năm học 2007-2008 khi giáo viên chưa
ứng dụng CNTT vào trong giảng dạy bộ môn GDCD 9.

Lớp

Số học
sinh
Giỏi Khá TB Yếu
SL % SL % SL % SL %
9A 42 4 9.5 10 23.8 20 47.6

8 19.0
9B 42 3 7.1 19 45.2 15 35.7

5 11.9

9C 42 3 7.1 13 30.9 20 47.6

6 14.3
9D 44 2 4.5 9 20.5 26 59.1

7 16.6

Đến những năm 2007 - 2008; 2008 - 2009, cùng với xu hướng đổi mới phương
pháp dạy học trên toàn quốc. Trường THCS Sơn Thuỷ đã không ngừng đổi mới
phương pháp dạy học và đã đạt được những kết quả nhất định. Cùng với phong
trào đổi mới phương pháp dạy học trong nhà trường, bộ môn GDCD mặc dù là một



bộ môn khoa học xã hội với đặc trưng đa dạng, phong phú về nội dung, thiên về lí
luận, nội dung kiến thức mang tính trừu tượng cao. Song cán bộ giáo viên chúng
tôi đã không ngừng cố gắng đổi mới phương pháp dạy học. Từ vận dụng các
phương pháp dạy học mới như đàm thoại, nêu gương, nêu vấn đề, phương pháp
làm việc theo nhóm Một số giáo viên cũng đã ứng dụng CNTT vào dạy học làm
cho tiết dạy sinh động, có hiệu quả cao thu hút được sự tham gia tích cực của học
sinh. Học sinh thức sự say mê, thích thú và làm việc có hiệu quả.
a. Những thuận lợi trong việc ứng dụng CNTT vào việc dạy học môn GDCD
Lớp 9 ở Trường THCS Sơn Thuỷ.
- Được sự quan tâm của ngành Giáo dục - đào tạo tỉnh nhà.
- Ban giám hiệu nhà trường có quyết tâm cao và tập trung chỉ đạo, đẩy mạnh
đổi mới phương pháp dạy học.
+ Nhà trường đã trang bị khá đầy đủ cơ sở vật chất, trang thiết bị, máy móc
phục vụ cho đổi mới phương pháp dạy học: các phòng học bộ môn, thư viện,
phòng máy.
+ Tổ chức các lớp học vi tính cho giáo viên: Tin học căn bản, tin học nâng

cao.
+ Tổ chức phong trào thao giảng đổi mới phương pháp dạy học và được
đông đảo cán bộ giáo viên nhiệt tình tham gia.
- Trường có một số giáo viên đã sử dụng thành thạo các phần mềm vi tính,
thuận lợi cho việc trao đổi kinh nghiệm ứng dụng CNTT vào dạy học. Hiện nay
toàn trường đã có 23/ 31 giáo viên soạn bài bằng máy vi tính ( đạt tỷ lệ trên 70% )
- Việc sử dụng bài giảng điện tử sẽ chuyển tải được lượng thông tin lớn đến
với học sinh, việc trao đổi tin nhanh hơn và hiệu quả hơn.
- Được sự ủng hộ tích cực của học sinh, đa số học sinh rất mong muốn được
học những giờ học ứng dụng công nghệ thông tin.
b. Những hạn chế trong việc ứng dụng công nghệ thông tin vào việc dạy và học
môn GDCD :
* Về phía giáo viên:



Hiện nay việc ứng dụng CNTT trong dạy và học môn GDCD vẫn còn hạn chế,
đa số giáo viên giảng dạy môn GDCD trong các trường đều chưa có tiết dạy ứng
dụng công nghệ thông tin. Những hạn chế này xuất phát từ nhiều nguyên nhân, có
cả nguyên nhân chủ quan và khách quan, cả trong nhận thức lẫn hành động, cả
trong khả năng và sự nhiệt tình của giáo viên:
- Một số giáo viên vẫn còn quen với cách dạy cũ .
- Nhiều giáo viên ngại sử dụng CNTT do tốn thời gian, công sức.
- Nhiều giáo viên không muốn trang bị máy tính phục vụ dạy học khi đời sống
gia đình còn nhiều khó khăn.
- Một số giáo viên khác chưa thực sự cố gắng tự học, tự nâng cao khả năng
ứng dụng CNTT, chưa dám nghĩ dám làm.
- Hầu hết giáo viên chưa sử dụng thành thạo một số phần mềm vi tính. Do vậy
nhiều giáo viên rất ngại làm chủ kĩ thuật phức tạp của máy tính.
- Một số giáo viên đã cố gắng ứng dụng CNTT vào dạy học, tuy nhiên trong

quá trình giảng dạy vẫn còn nặng về hình thức, còn mang nặng tính chất trình diễn.
Nhiều giáo viên còn ôm đồm kiến thức làm mất thời gian mà hiệu quả giờ dạy
chưa cao.
- Trong tiến trình lên lớp với bài giảng điện tử, một số giáo viên thao tác hơi
nhanh nên dẫn đến việc tiếp thu, lĩnh hội kiến thức và mức độ hiểu bài của học
sinh chưa được cao.
*Về phía học sinh:
Trên thực tế, hầu hết học sinh đều say mê, thích thú được học những giờ có
ứng dụng CNTT. Nhưng vẫn còn tồn tại một số vấn đề sau:
- Một số học sinh chưa thật thích nghi với phương pháp học hiện đại này, chỉ
thụ động ngồi nghe, xem phim, ảnh và sôi nổi bình luận hoặc say sưa nghe
thầy(cô) giáo giảng quên cả việc ghi bài.
- Một số học sinh gặp khó khăn trong việc ghi chép: không biết lựa chọn
thông tin, nội dung chính để ghi vào bài học, ghi chậm hoặc không đầy đủ.



Căn cứ vào những thực trạng trên bản thân tôi xin mạnh dạn đưa ra một số
kinh nghiệm ứng dụng CNTT vào dạy học bộ môn GDCD như sau:.

2. Giải pháp.
Một là: Xây dựng thư viện tư liệu.
Để phục vụ cho công tác giảng dạy, đối với môn GDCD kho tư liệu là điều kiện
cần thiết và đặc biệt quan trọng vì đặc trưng của bộ môn GDCD là bộ môn trang bị
cho học sinh hệ thống những tri thức đa dạng, phong phú: Triết học, đạo đức,
chính trị, pháp luật. Những bài dạy về đạo đức, chính trị, pháp luật đòi hỏi có tính
thực tiễn cao. Do vậy giáo viên dạy GDCD phải chú trọng cập nhật những sự kiện
thông tin, số liệu mới phục vụ cho quá trình giảng dạy có hiệu quả.
- Trước đây giáo viên xây dựng kho tư liệu bằng cách đọc, tham khảo tài liệu,
sách báo và chép lại những thông tin cần thiết vào sổ tư liệu. Hiện nay việc ứng

dụng CNTT giúp giáo viên xây dựng thư viện tư liệu thuận lợi, phong phú, khoa
học hơn và không mất nhiều thời gian như trước, việc khai thác tư liệu có thể lấy
từ các nguồn:
+ Khai thác thông tin tranh ảnh từ mạng Internet.
Ví dụ: Khi dạy bài “ Ngoại khoá về TTATGT”, chúng ta có thể lấy các thông tin
hình ảnh như: biển báo về ATGT trong đó có tất cả các loại biển báo mà chúng ta
cần tìm như “ biễn báo hiệu lệnh, biễn báo cấm, biễn báo nguy hiểm, biển báo chỉ
dẫn và một số biển báo phụ khác ” mà trong quá trình giảng dạy chúng ta có thể
khai thác hình ảnh các biển báo từ mạng Internet để cung cấp cho học sinh, hoặc
hình ảnh về các vụ tai nạn do công dân khi tham gia giao thông thiếu ý thức thiếu
hiểu biết, để học sinh quan sát bằng trực quan, gây hứng thú học tập cho học sinh,
cũng như nâng cao ý thức chấp hành luật lệ ATGT cho học sinhh. Những tư liệu
đó có ở trên mạng Internet. Chúng ta có thể vào địa chỉ www.Google.com.vn.
+ Khai thác tranh ảnh từ sách, báo, tài liệu, báo chí, tạp chí…Trong quá trình
tham khảo sách, báo, tài liệu gặp những tranh ảnh đặc biệt cần thiết, có thể dùng



máy scan quét ảnh và lưu vào USB, cuối cùng cập nhật vào kho tư liệu của mình
để phục vụ cho quá trình giảng dạy.
+ Khai thác từ băng hình, phim, video, các phần mềm tranh ảnh, bản đồ, hình
vẽ thông qua chức năng cung cấp thông tin của máy tính.
Ví dụ: Khai thác đoạn phim hoặc các nhân vật có liên quan đến bài giảng như
hình ảnh một số anh hùng tuổi trẻ trong thời kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ
như: Võ Thị Sáu, Nguyễn Thị Minh Khai, Lý Tự Trọng, La Văn Cầu, Nguyễn Viết
Xuân trong “Bài 10: Lí tưởng sống của thanh niên”, hoặc bài giảng ngoại khoá
về “ Trật tự ATGT” cần thực hiện thao tác: mở các băng hình, các đĩa CD- Rom,
lựa chọn các đoạn phim có thể làm tư liệu giảng dạy, sử dụng phần mềm như:
HeroSuperPlayer 3000 hoặc Herosoft 2001 hay Camtasia studio…, cắt các đoạn
phim rồi lưu vào máy tính thành các file dữ liệu trong thư viện tư liệu để phục vụ

giảng dạy.
+ Khai thác các hình ảnh tĩnh, động, các phần mềm trên các đĩa CD- ROM,
VCD Chỉ cần kích chuột vào Insert/Picture/promfile vào ổ đĩa CD-ROM lựa
chọn tranh, ảnh, hình vẽ cần tìm rồi đưa vào bài giảng.
Với bộ môn GDCD tôi chỉ khai thác những nội dung cần thiết ở các đĩa VCD
hoặc khai thác vận dụng các đĩa CD-ROM của các phân môn khác như CD-ROM
vật lý, Địa lý….khi gặp những nội dung cần thiết, vì hiện nay vẫn chưa có phần
mềm nào dành cho môn GDCD.
Từ các nguồn khai thác trên giáo viên sẽ lưu trữ cho mình một thư viện tư liệu
phong phú, đa dạng để phục vụ cho công tác giảng dạy. Tuy nhiên cần lưu trữ
thành trong file dữ liệu để dễ dàng tìm kiếm khi sử dụng. Hiện nay đối với bản
thân tôi đã lưu trữ được một số file dữ liệu để phục vụ cho quá trình giảng dạy bộ
môn GDCD như: các dữ liệu về hình ảnh Bác Hồ, hình ảnh một số anh hùng tuổi
trẻ tiêu biễu trong thời kháng chiến, về môi trường, về vấn đề ATGT, về các tệ nạn
xã hội, về các hoạt động đền ơn đáp nghĩa, về các thắng cảnh của quê hương đất
nước, và một số di tích lịch sử của địa phương và của đất nước…
Hai là: Xây dựng bài giảng điện tử:



Chúng ta có thể sử dụng giáo án điện tử để dạy các bài có tính chất thuyết trình,
kiến thức trừu tượng, đặc biệt là những bài học mà có thể khai thác các tư liệu,
hình ảnh, video, phần mềm…
Bộ môn GDCD chưa có bài giảng điện tử sẵn có trên các đĩa CD-ROM bán trên
thị trường. Do vậy giáo viên phải tự soạn bài giảng điện tử dựa vào các phần mềm
ứng dụng sẵn có như PowerPoint, đây là phần mềm thiết kế bài giảng điện tử
tương đối đơn giản, phù hợp với giáo viên giảng dạy các bộ môn không chuyên
như môn GDCD. Chương trình này dễ sử dụng, bằng cách đọc sách hướng dẫn
hoặc học hỏi bạn bè, đồng nghiệp thì có thể soạn được bài giảng. Trên thị trường
hiện nay có bán phần mềm hướng dẫn học MicrosortPowerPoint, giáo viên có thể

mua về để tự học.
* Quy trình thiết kế một bài giảng điện tử:
- Xác định rõ mục tiêu bài dạy.
- Xác định kiến thức cơ bản, nội dung trọng tâm.
- Lựa chọn tư liệu tranh, ảnh, phim, thông tin cần thiết phục vụ bài dạy.
- Lựa chọn các phần mềm, trình diễn, hiệu ứng… để xây dựng tiến trình dạy
học thông qua hoạt động cụ thể.
- Chạy thử, sửa chữa và hoàn thiện bài giảng.
Trong quá trình dạy học giáo viên phải nghiên cứu kỹ nội dung của từng bài
giảng. Phải đảm bảo đựợc tính kế thừa và phát triển kết quả và dạy học của bài
trước với bài sau. Nội dung giáo dục phải đảm bảo tính chính xác, khoa học, phù
hợp với thực tiễn. Để làm tốt điều này đòi hỏi giáo viên phải có sự sáng tạo để sử
dụng linh hoạt các phương pháp dạy học phù hợp với nội dung, điều kiện dạy học
và đặc điểm từng học sinh cụ thể của mình. Giáo viên phải nắm vững nội dung cơ
bản của bài học với nội dung có liên quan để có thể chủ động trong quá trình
hướng dẫn cho học sinh khai thác, lĩnh hội được điểm mấu chốt của bài.
Cụ thể như:
- Để dạy tốt một bài đạo đức thì cần phải đảm bảo những nội sau:



+ Nội dung của chuẩn mực đạo đức trong bài là gì? biểu hiện như thế nào?
cho học sinh xem những tấm gương đạo đức chính diện và phản diện.
+ ý nghĩa tác dụng và phương hướng rèn luyện, cách ứng xử theo yêu cầu của
chuẩn mực đạo đức.
- Để dạy tốt một bài pháp luật thì cần bảo đảm những yêu cầu sau:
+ Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong lĩnh vực mà bài học đề cập
tới, cụ thể: Công dân được làm gì? không được làm gì?.
+ Trách nhiệm của công dân và bản thân của học sinh trong việc thực hiện qui
định của pháp luật.

Ví dụ: Khi thiết kế bài giảng “Trách nhiệm của thanh niên trong sự nghiệp Công
nghiệp hóa – Hiện đại hóa (CNH-HĐH) đất nước”. Đây là bài học nhằm cung cấp
cho học sinh những hiểu biết về trách nhiệm của mình trong sự nghiệp CNH-HĐH
đất nước.
Vì vậy chúng ta phải lựa chọn những tư liệu, tranh, ảnh về sự nghiệp CNH-
HĐH đất nước, cho học sinh xem một số hình ảnh về những thành tựu mà nền
CNH - HĐH đất nước đã đem lại. Tìm những tấm gương thanh niên đã có nhiều
đóng góp cho sự nghiệp CNH-HĐH, mặt khác đưa ra một số hình ảnh phản diện
của một số thanh niên sống buông thả, sa vào các tệ nạn xã hội, thiếu trách nhiệm,
thiếu ý thức đối với bản thân, gia đình và xã hội., như hình ảnh của một số thanh
niên tiêm chích ma tuý, đua xe máy từ những hình ảnh trực quan đó học sinh
quan sát, nhận xét và có phản ứng trước những hành động trên giúp các em khắc
sâu được kiến thức một cách nhanh chống.
Lưu ý: Trong bài giảng điện tử đối với môn GDCD, giáo viên cần đưa những tư
liệu, thông tin, tranh, ảnh hay đoạn phim có tính thực tiễn cao, nhưng những thông
tin, số liệu đó phải mang tính thời sự, phải chuyển tải được nội dung bài giảng thì
bài dạy mới có hiệu quả cao.
Ba là : Đa dạng hoá các phương pháp dạy học:
Bên cạnh ứng dụng CNTT được coi là phương pháp hiện đại, tối ưu góp phần
tích cực cho đổi mới phương pháp dạy học, giáo viên cần chú ý đa dạng hoá các



hình thức dạy học, phải biết kết hợp các phương pháp dạy học khác như: nêu vấn
đề, phương pháp đàm thoại, thuyết trình, làm việc theo nhóm, hướng dẫn học sinh
tự học, tự nghiên cứu…Tuỳ theo đặc điểm của từng bài, tuỳ theo đối tượng học
sinh để sử dụng các phương pháp giảng dạy thích hợp mới có thể đạt được hiệu
quả cao trong dạy và học.
Bốn là: Hướng dẫn học sinh ứng dụng CNTT phục vụ cho việc học tập bộ
môn GDCD.

Phương pháp tự học, tự nghiên cứu, phương pháp giải quyết vấn đề, phương
pháp làm việc theo nhóm được xem là những phương pháp học mới so với
phương pháp học thuộc lòng truyền thống trước đây. Những năm gần đây, việc
ứng dụng CNTT rộng rãi trên tất cả các lĩnh vực đã tác động rất lớn đến khả năng
ứng dụng CNTT của học sinh. Nhiều em học sinh tiếp cận rất nhanh, sử dụng
thành thạo nhiều phần mềm vi tính. Đặc điểm nổi bật ở các em học sinh hiện nay là
tính năng động sáng tạo và yêu thích cái mới. Do vậy việc hướng dẫn học sinh ứng
dụng CNTT phục vụ cho phương pháp học tập là điều nên làm và cũng là xu
hướng chung trong giáo dục thời đại hiện nay.
+ Giáo viên có thể cung cấp cho học sinh địa chỉ một số trang web và yêu cầu
các em tìm kiếm thông tin ở mạng Internet để phục vụ công việc học tập theo
những chủ đề nhất định hoặc tìm nhanh ở địa chỉ: www.Google.com ở trên mạng
Internet về các vấn đề các em muốn tìm hiểu nhanh.
+ Giáo viên có thể ứng dụng phương pháp dạy học theo dự án của IntelTeach
to the Future (Chương trình dạy học cho tương lai của Intel), phương pháp này đòi
hỏi học sinh vừa làm việc theo nhóm vừa ứng dụng CNTT trong quá trình học tập
để thiết kế ba bài tập: bài trình diễn PowerPoint, trang web và ấn phẩm ( tờ rơi ) để
thực hiện ý tưởng dự án của mình. Tuy nhiên, để thực hiện phương pháp này đòi
hỏi giáo viên phải được tập huấn các nội dung của chương trình dạy học cho tương
lai của Intel và hướng dẫn cho học sinh ứng dụng CNTT để thực hiện các yêu cầu
của chương trình phục vụ cho quá trình học tập…
3. Kết quả đạt được :



Qua thực tế giảng dạy cho thấy, mỗi khi giáo viên sử dụng, ứng dụng CNTT
vào bài giảng thì học sinh cảm thấy thích thú học tập, các em có điều kiện học hỏi
lẫn nhau, biễu lộ rõ trình độ hiểu biết của mình về vấn đề mà nội dung bài học đặt
ra. Bởi thế, một khi giáo viên và học sinh xác định đúng nội dung công việc của
mình thì tiết học sẽ diễn ra một cách thoải mái, thành công và có hiệu quả.

- Kết quả thu được thông qua các tiết dạy:
+ Công việc của người giáo viên nhẹ nhàng hơn rất nhiều.
+ Học sinh tự làm chủ kiến thức bài học một cách độc lập, mỗi cá nhân học
sinh đều biết làm việc và hiểu bài ngay tại lớp.
+ Qua mỗi tiết học, các em cảm thấy mình có ích và có trách nhiệm hơn với
bản thân, với nhóm và với tập thể.
+ 100% giờ dạy đảm bảo thời gian, ý thức học tập, xây dựng bài của mỗi học
sinh được phát huy hết khả năng dẫn đến chất lượng giáo dục có hiệu quả cao hơn.
Học sinh hứng thú với bài giảng có ứng dụng CNTT.
Từ khi áp dụng phương pháp dạy học ứng dụng CNTT trên bản thân tôi đã thu
được những kết quả như sau:
* Bảng điều tra về mức độ hứng thú học tập bộ môn GDCD học kì I năm
học 2008-2009 khi giáo viên ứng dụng CNTT vào trong giảng dạy bộ môn
GDCD lớp 9.

Lớp

Số học sinh
Hứng thú học bộ
môn GDCD
Không hứng thú học bộ
môn GDCD

SL TL% SL TL%
9A 39 29 74,4 10 25,6
9B 40 31 77,5 9 22,5
9C 37 28 75,6 9 24,4
9D 38 31 81,5 7 18,5
Cộng


154 119 77.3 35 22.7




*Kết quả chất lượng học kì I năm học 2008-2009 khi giáo viên ứng dụng
CNTT vào trong giảng dạy bộ môn GDCD lớp 9
Lớp

Số
học
sinh
Giỏi Khá TB Yếu
SL % SL % SL % SL %
9A 39 10 25,6 13 33,3 15 38,5

1 2,5
9B 40 7 17,5 17 42,5 14 35 2 5
9C 37 4 10,8 21 56,7 10 27 2 5,4
9D 38 5 13.2 15 39.5 16 42.1

2 5.3


*Kết quả chất lượng học kì II năm học 2008-2009 khi giáo viên ứng dụng CNTT
vào trong giảng dạy bộ môn GDCD lớp 9
Lớp

Số
học

sinh
Giỏi Khá TB Yếu
SL % SL % SL % SL %
9A 39 12 30,8 15 38,5 12 30,8

0 o
9B 40 10 25,0 20 50,0 10 25,0

0 0
9C 37 8 21,6 20 54,1 8 21,6

2 5,4
9D 38 7 18,4 18 47,4 11 28,9

2 5.3

Có được kết quả trên chính là nhờ sự nổ lực và quyết tâm cao của bản thân tích
cực ứng dụng CNTT vào trong quá trình dạy học và sự tích lũy chuyên môn, học
hỏi đồng nghiệp về vấn đề ứng dụng CNTT, được sự quan tâm của ban lãnh đạo
nhà trường và đặc biệt là sự ủng hộ nhịêt tình của học sinh trong quá trình học tập.
4. Bài học kinh nghiệm.
Qua quá trình giảng dạy ở trường, với các tiết dạy ứng dụng CNTT, áp dụng
các biện pháp đã thực hiện như được trình bày ở trên tôi mạnh dạn đưa ra một số
kinh nghiệm như sau:




*Thứ nhất: Điều cần lưu ý trong quá trình giảng dạy là: Giáo viên là người
hướng dẫn học sinh học tập chứ không dơn giản chỉ là người phát động, cung cấp

thông tin. Do vậy, giáo viên phải biết đánh giá lựa chọn thông tin, hình ảnh, đoạn
phim phục vụ bài dạy.
*Thứ hai: Soạn giáo án điện tử, giáo viên cần lưu ý khi dùng hiệu ứng, âm
thanh, tiếng động, phải phù hợp không lạm dụng.
*Thứ ba: Trong quá trình giảng dạy, giáo viên cần lưu ý đến khả năng tiếp thu,
lĩnh hội kiến thức, khả năng ghi chép bài học của học sinh để có hướng điều chỉnh
kịp thời.
*Thứ tư: Giáo án điện tử cần phải được thiết kế một cách khoa học, để qua
từng slile chi tiết, học sinh phải nhận biết được nội dung nào là nội dung cần ghi
chép, nội dung nào là phần diễn giải của giáo viên…
*Thứ năm: Trong giáo án điện tử việc dùng màu chữ, phong chữ, cỡ chữ và
màu phong nền là điều cần lưu ý. Màu chữ, phong nền phải phù hợp, không lạm
dụng các màu sắc, cỡ chữ không quá to, không quá nhỏ (Cỡ chữ 28-30 là vừa).
Nếu dùng không đúng, không chuẩn, sẽ không đảm bảo được tính thẫm mỹ và khó
có thể chuyển tải được nội dung bài học.
*Thứ sáu: Một điều đáng lưu ý là cần hiểu đúng CNTT chỉ là một phương tiện
hỗ trợ đắc lực cho đổi mới phương pháp dạy học, bởi vì quá trình giáo dục con
người không thể “Công nghệ hoá” hoàn toàn được, có nhiều mặt giáo dục không
thể quy trình hoá được như giáo dục nhân văn, giáo dục đạo đức, giáo dục thẫm
mỹ…Xác định điều này, trong quá trình giảng dạy giáo viên tránh lạm dụng
CNTT, xem CNTT là độc tôn, là duy nhất.
*Thứ bảy: Để ứng dụng CNTT góp phần đổi mới phương pháp dạy học có
hiệu quả cao, giáo viên phải thường xuyên không ngừng tự học tự nâng cao trình
độ chuyên môn mà còn phải nâng cao khả năng sử dụng CNTT.
*Thứ tám: Để nâng cao khả năng sử dụng CNTT, ngoài việc học thêm ở các
lớp tin học, giáo viên có thể tự học (Ví dụ: Giáo viên có thể tự học cách soạn giáo
án điện tử thông qua phần mềm hướng dẫn tự học Microsoft Powerpoint hoặc có




thể tự học ở bạn bè, đồng nghiệp, những giáo viên có kinh nghiệm, có chuyên môn
liên quan đến ứng dụng CNTT…). Điều quan trọng là giáo viên phải đóng vai trò
là người học thường xuyên để có thể thực hiện được cuộc cách mạng giáo dục nói
chung, về phương pháp dạy và học nói riêng, đang được đặt ra hiện nay và xu thế
là sử dụng CNTT như là một công cụ dạy học có hiệu quả cao.
IV. Kết luận chung
Môn học GDCD ở trường THCS là một môn học có chức năng cực kỳ quan
trọng, là môn học trực tiếp hình thành các phẩm chất và các kỹ năng theo các
chuẩn mực đạo đức, pháp luật. Hình thành niềm tin có cơ sở khoa học về lý tưởng
cao đẹp mà con người luôn luôn vươn tới sự tất thắng của Chân - Thiện - Mỹ.
Bước đầu bồi dưỡng cho học sinh những phương pháp tư duy biện chứng, tích cực
đấu tranh chống những cái sai, cái cũ, cái lỗi thời, cái tiêu cực và lạc hậu. Biết kế
thừa những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, trong bước hình thành ở học sinh
thói quen và kỹ năng vận dụng những tri thức đã học vào cuộc sống, học tập, lao
động và sinh hoạt. giúp học sinh định hướng đúng đắn về các giá trị đạo đức, pháp
luật, các tư tưởng chính trị trong hoạt động xã hội, trong cuộc sống hiện tại và sau
này.
Chúng ta đang sống trong những năm đầu của thế kỷ XXI - thế kỷ của khoa học
và công nghệ. Sự chuẩn bị nguồn nhân lực cho thời kỳ mới của đất nước là một
trong những nhiệm vụ trọng đại của toàn xã hội và ngành giáo dục nói riêng.
Muốn theo kịp các nước tiên tiến, đón đầu sự pháp triển đòi hỏi phải đổi mới giáo
dục một cách đồng bộ: Chương trình, sách giáo khoa, kiểm tra đánh giá và đặc
biệt cơ sở vật chất, thiết bị, phương tiện dạy học hiện đại.
Sự ra đời của phương pháp mới bao giờ cũng gặp những khó khăn, đòi hỏi phải
có ý thức và quyết tâm tìm tòi, thử nghiệm với những bước đi vững chắc mới có
thể đạt được hiệu quả cao và CNTT là một thách thức đòi hỏi cả giáo viên lẫn học
sinh cần phải biết học hỏi, khai thác, ứng dụng để biến nó trở thành công cụ đắc
lực góp phần đổi mới phương pháp dạy – học có hiệu quả.
V. Những kiến nghị, đề xuất.




1. Đối với phụ huynh:
- Cần quan tâm đến việc học hành của con em mình, đầu tư nhiều về cơ sở vật
chất, nhất là các trang thiết bị tin học tạo điều kiện cho con em học tập tốt.
- Phối hợp chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường và xã hội để giáo dục đạo đức
cho con em của mình thông qua học tập bộ môn GDCD ở trường.
2. Đối với nhà trường:
- Mua sắm thêm tài liệu tham khảo, đầu tư cơ sở vật chất và đồ dùng dạy học
nhất là các tài liệu và các thiết bị tin học phục vụ cho việc ứng dụng CNTT trong
thời đại mới.
- Đẩy mạnh hơn nữa việc ứng dụng CNTT vào dạy học của giáo viên và học tập
của học sinh một cách đồng bộ và thường xuyên.
- Tổ chức thảo luận các chuyên đề ứng dụng CNTT cho tất cả các giáo viên
thường xuyên trong từng đợt, từng năm để ngày một nâng cao chất lượng dạy học,
nắm bắt kịp thời với sự phát triển của CNTT trong thời đại mới.
3. Đối với địa phương:
- Quản lý chặt chẽ các điểm kinh doanh Internet và các điểm dịch vụ không
lành mạnh làm ảnh hưởng đến chất lượng học tập của học sinh cũng như đạo đức
của học sinh trong thời đại thông tin phát triển mà một số đối tượng học sinh
không biết chọn lọc và tiếp thu những mặt tích cực mà CNTT đem lại cho các em.
- Đầu tư cơ sở vật chất trường lớp kịp thời trong việc dạy và học.


ý kiến của HĐKH trường Sơn thuỷ, ngày 20 tháng 5 năm 2009
Người viết


Hồ Thị Phương Nga



×