Tải bản đầy đủ (.doc) (90 trang)

luận văn Thực trạng kỹ năng dạy học trên lớp của giáo viên Tiểu học Yên Dũng – Bắc Giang theo yêu cầu của chương trình mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (406.09 KB, 90 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
- Về mặt lý luận.
Ngày nay, chóng ta đang sống trong thời kỳ hợp tác, hội nhập và phát
triển với các nước trong khu vực và trên thế giới về mọi phương diện. Để thực
hiện có hiệu quả sự hợp tác, hội nhập đó chúng ta đã và đang tiến hành CNH-
HĐH đất nước, sử dụng nền kinh tế tri thức, xây dựng xã hội văn minh với
những đòi hỏi rất cao về trí tuệ. Phát triển nguồn nhân lực là mục tiêu mà toàn
xã hội đang hướng tới, trong đó vai trò của thế hệ trẻ không chỉ là lực lượng
tiên phong với bản lĩnh, năng lực, tri thức khoa học tiên tiến hiện, đại mà điều
quan trọng hơn là họ còn phải có khả năng độc lập, sáng tạo trong mọi lĩnh
vực của cuộc sống. Đứng trước những yêu cầu cấp bách đó nền giáo dục đang
phải chịu những sức Ðp hết sức nặng nề, đặc biệt là đối với hệ thống giáo dục
phổ thông. Nhiệm vụ cao cả là không ngừng nâng cao chất lượng giảng dạy,
nhanh chóng đào tạo nguồn nhân lực có trình độ cao, đáp ứng yêu cầu của xã
hội và ngành giáo dục.
Để thực hiện mục tiêu giáo dục nói chung và các giải pháp trọng tâm cho
cho hệ thống giáo dục phổ thông nói riêng hiện nay, các nhà giáo dục đang
cùng toàn xã hội không ngừng đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp,
phương tiện dạy học.
Mét trong những cấp học được quan tâm, chú trọng đầu tiên là cấp Tiểu
học và việc nâng cao chất lượng đội ngò giáo viên tiểu học là yếu tố quyết
định đóng vai trò “nền tảng”.
Chiến lược phát triển kinh tế xã hội ở Việt Nam giai đoạn 2001- 2010 đặt
ra mục đích cần có những thay đổi triệt để trong giáo dục. Mục đích này có ý
nghĩa nh mét tầm nhìn chiến lược được áp dụng cho cả hệ thống giáo dục từ
Trung ương đến địa phương.
1
Nhiệm vụ đổi mới giáo dục liên tục được đề ra trong các Nghị quyết của
Đảng và Quốc hội:
- Đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục đào tạo, khắc phục lối truyền


thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo cho người học.
- Nghị quyết số 40/2000/QH X về đổi mới chương trình giáo dục phổ
thông đã khẳng định: Mục tiêu là xây dựng nội dung, chương trình, phương
pháp giảng dạy, sách giáo khoa phổ thông mới nhằm nâng cao chất lượng giáo
dục toàn diện cho thế hệ trẻ, đáp ứng yêu cầu nguồn nhân lực phục vụ CNH-
HĐH đất nước; phù hợp với thực tiễn và truyền thống Việt Nam, tiếp cận
trình độ giáo dục phổ thông ở các nước phát triển trong khu vực và trên thế
giới.
- Báo cáo chính trị của Đại hội Đảng lần thứ IX (4/2001) đề ra nhiệm vụ:
Tiếp tục nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đổi mới nội dung, phương
pháp dạy học.
- Điều 14- Luật giáo dục đã nêu rõ “nhà giáo giữ vai trò quyết định trong
việc đảm bảo chất lượng giáo dục ở tất cả các cấp học trong đó có cấp tiểu
học” [20]
Trên cơ sở đó đề án đổi mới chương trình giáo dục phổ thông đã đưa ra
những định hướng sau cho cấp tiểu học.
+ Chương trình hành động 2.5: Thực hiện cải cách chương trình giảng
dạy mới (2002- 2007).
+ Chương trình hành động 2.9: cải tiến liên tục chương trình tiểu học
(2008 - 2015)
Tạo điều kiện tiếp cận giáo dục tiểu học có chất lượng, phù hợp với điều
kiện kinh tế cho tất cả trẻ em; tập trung vào các kỹ năng cơ bản nh: đọc, viết,
tính toán, nói, nghe.
Vì vậy, việc cần thiết và cấp bách là tiếp tục xây dựng đội ngò giáo viên
Tiểu học có đủ trình độ và những năng lực nhất định để đáp ứng yêu cầu ngày
2
càng cao của giáo dục, trong đó việc rèn luyện các kỹ năng dạy học là cơ bản
nhất.
- Về mặt thực tiễn
Nhiều nghiên cứu trong và ngoài nước đã chỉ ra rằng: Kỹ năng dạy học

của người giáo viên là yếu tố quyết định cho sự thành công của công tác giảng
dạy. Song việc xác định chính xác, đầy đủ, cụ thể các kỹ năng này đòi hỏi
những nhà giáo dục, nhà nghiên cứu giáo dục phải có trình độ chuyên môn và
phải có thời gian, có tâm huyết và đặc biệt để sử dụng thành thạo, linh hoạt,
sáng tạo và có hiệu quả các kỹ năng này lại là một việc khó hơn. Hiện nay
trước bối cảnh nền giáo dục của chúng ta đang có những chuyển biến mạnh
mẽ về quan điểm, đường lối và cách thức thực hiện, cụ thể là đổi mới chương
trình sách giáo khoa cho các cấp học, từ năm học 2002 – 2003 thì việc người
giáo viên tiếp cận, lĩnh hội những thay đổi đú cũn nhiều khó khăn và sẽ không
tránh khỏi những bất cập.
Một mặt do tính chất mới mẻ, hiện đại, đa dạng của chương trình mới;
mặt khác do công tác tập huấn, chuẩn bị chưa đồng bộ, chưa khoa học, trong
thời gian ngắn nên giáo viên chưa tiếp thu lĩnh hội hết tinh thần, nội dung của
chương trình dẫn đến việc chưa đáp ứng yêu cầu.
Thực tế giáo dục cho thấy rằng, trình độ đào tạo và năng lực của đội ngò
giáo viên Tiểu học ở nước ta còn nhiều hạn chế; mặc dù tỉ lệ giáo viên giỏi
hiện nay tăng lên đáng kể so với những năm trước đây song chất lượng chưa
cao và chưa đồng đều, phương pháp dạy học của giáo viên còn lạc hậu, việc
đổi mới phương pháp chưa đi vào chiều sâu, đội ngò giáo viên già hoá.
Nguyên nhân của thực trạng này là do trình độ chuyên môn nghiệp vụ chưa
cao, chưa đồng đều, chưa đi sâu rèn luyện các kỹ năng nghiệp vụ sư phạm cụ
thể trờn lớp.
3
Trước thực tế đó, để cú thờm cơ sở khoa học cho việc đánh giá kết quả
chương trình đổi mới nội dung sách giáo khoa của cấp Tiểu học, đặc biệt là
đánh giá các kỹ năng dạy học trờn lớp của giáo viên Tiểu học tụi đó chọn đề
tài nghiên cứu “Thực trạng kỹ năng dạy học trờn lớp của giáo viên Tiểu học
Yên Dũng – Bắc Giang theo yêu cầu của chương trình mới”.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và khảo sát thực trạng kỹ năng dạy học

trờn lớp của giáo viên Tiểu học Yên Dũng- Bắc Giang chúng tôi đề xuất một
số biện pháp rèn luyện kỹ năng dạy học trờn lớp nhằm góp phần nâng cao chất
lượng đội ngò giáo viên trong các trường Tiểu học đáp ứng yêu cầu thực hiện
đổi mới chương trình, sách giáo khoa Tiểu học hiện nay.
3. Khách thể nghiên cứu và đối tượng nghiên cứu
3. 1. Khách thể nghiên cứu
Năng lực tổ chức hoạt động dạy học của giáo viên Tiểu học.
3. 2. Đối tượng nghiên cứu
Thực trạng kỹ năng dạy học trờn lớp của giáo viên Tiểu học Yên Dũng –
Bắc Giang theo yêu cầu của chương trình mới.
4. Giả thuyết khoa học
Trong năng lực dạy học của người giáo viên Tiểu học thì kỹ năng dạy
trờn lớp là một thành tố quan trọng nhất, kỹ năng này phụ thuộc vào rất nhiều
yếu tố, trong đó có việc rèn luyện nghiệp vụ sư phạm thường xuyên. Hiện nay,
giáo viên Tiểu học chưa vận dụng đầy đủ, thành thạo, linh hoạt, sáng tạo các
kỹ năng trong quá trình dạy trờn lớp, vì vậy chưa đáp ứng được yêu cầu của
chương trình giáo dục Tiểu học mới. Nếu khảo sát thực trạng kỹ năng dạy học
trờn lớp của giáo viên sẽ giúp chúng ta có cái nhìn bao quát, chính xác hơn, từ
đó đề xuất, áp dụng những biện pháp rèn luyện có hiệu quả nhất cho giáo viên
Tiểu học.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
4
5.1. Nghiên cứu một số vấn đề lý luận về kỹ năng dạy học nói chung và
kỹ năng dạy học trờn lớp của giáo viên Tiểu học nói riêng.
5.2. Khảo sát, điều tra, đánh giá thực trạng việc sử dụng các kỹ năng của
giáo viên Tiểu học ở một số trường Tiểu học thuộc địa bàn Yên Dũng – Bắc
Giang và lý giải một số nguyên nhân dẫn đến thực trạng đó.
5. 3. Đề xuất một số biện pháp để góp phần nâng cao chất lượng đội ngò
giáo viên Tiểu học và nêu một số ý kiến về việc sử dụng kỹ năng dạy trờn lớp
cho cấp học này.

6. Phạm vi nghiên cứu
Kỹ năng dạy trờn lớp của giáo viên là một trong những yếu tố quyết định
sự thành công của công tác giảng dạy và giáo dục. Việc hình thành, rèn luyện
các kỹ năng này đòi hỏi người giáo viên phải nắm chắc mục tiêu, nội dung
chương trình, phương pháp của cấp học; phải có sự say mê, nhiệt tình, lòng
yêu nghề, mến trẻ…
Trong đề tài chúng tôi tiến hành nghiên cứu trên 126 giáo viên Tiểu học
của 9 xã và 1 thị trấn thuộc huyện Yên Dũng tỉnh Bắc Giang.
Song do điều kiện và thời gian hạn hẹp đề tài chỉ tiến hành điều tra thực
trạng kỹ năng dạy trờn lớp của giáo viên Tiểu học theo yêu cầu của chương
trình mới.
7. Phương pháp nghiên cứu
7. 1. Phương pháp nghiên cứu lý thuyết
Đọc và nghiên cứu các tài liệu có liên quan, sắp xếp lại thành hệ thống và
phân loại hệ thống các tài liệu đó.
7. 2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
7. 2. 1. Phương pháp quan sát: tiến hành quan sát trực tiếp quá trình tổ
chức dạy học trờn lớp của giáo viên.
7. 2. 2. Phương pháp điều tra.
5
- Thông qua phỏng vấn, trò chuyện trực tiếp với giáo viên, cán bộ quản
lý, phụ trách chuyên môn.
- Phỏng vấn, trò chuyện với học sinh
- Tiến hành điều tra bằng bảng hỏi
7. 2. 3. Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động.
- Thông qua hồ sơ, giáo án giảng dạy, kế hoạch giảng dạy, biên bản dự
giê, thu hoạch cá nhân.
- Thông qua sản phẩm của học sinh.
7. 2. 4. Phương pháp chuyên gia.
Qua trao đổi trực tiếp, hội thảo khoa học để hỏi ý kiến các chuyên gia.

7. 2. 5. Phương pháp thực nghiệm sư phạm.
7. 2. 6. Phương pháp thống kê toán học để xử lý số liệu và tổng kết.
8. Cấu trúc của luận văn.
Luận văn dài 90 trang; ngoài phần mở đầu, kết luận, kiến nghị, danh mục
tài liệu tham khảo, phụ lục; nội dung chủ yếu thể hiện trong 3 chương:
Chương 1. Cơ sở lí luận của đề tài
Chương 2. Thực trạng kỹ năng dạy học trờn lớp của giáo viên Tiểu học
Yên Dũng- Bắc Giang theo yêu cầu của chương trình mới
Chương 3. Các biện pháp rèn luyện kỹ năng dạy học trờn lớp của giáo
viên Tiểu học Yên Dũng- Bắc Giang
6
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
1. 1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
1. 1. 1. Một số kết quả nghiên cứu của các tác giả nước ngoài
Khi nghiên cứu về nhân cách người giáo viên, các nhà giáo dục và hoạt
động xã hội bao giê cũng đề cập đến hai mặt của cấu trúc nhân cách tổng thể,
đó là phẩm chất và năng lực của người thầy giáo.
A. I. Ghecxen đã chỉ ra rằng: không chỉ tri thức mà cả nhân cách của giáo
viên sẽ ảnh hưởng đến trẻ em.
K. D. Usinxki còng cho rằng: trong dạy học và giáo dục, tất cả phải dựa
trờn nhân cách của người thầy, thầy giáo dùng nhân cách của chính mình để
tác động đến học sinh. Nhân cách đó bao gồm: phẩm chất chính trị, sự giác
ngộ lý tưởng đào tạo thế hệ trẻ, lòng yêu nghề mến trẻ, trình độ học vấn, là sự
thành thạo nghề nghiệp, là lối sống, cách xử sự và kỹ năng giao tiếp của người
thầy…
Với ý nghĩa đú ụng khẳng định “chỉ có nhân cách mới có thể tác động
đến sự phát triển nhõn cỏch”.
Theo A. V. Petrovxki: việc đạt trình độ cao trong giảng dạy và giáo dục
phụ thuộc vào phẩm chất nhân cách người giáo viên, chính những phẩm chất
nhân cách đó tạo ra các năng lực sư phạm. Dựa trờn những nghiên cứu về hoạt

động dạy học của giáo viên ụng đó phân chia năng lực sư phạm thành cỏc
nhúm:
- Nhúm các năng lực dạy học
- Nhúm các năng lực thiết kế
- Nhúm các năng lực tri giác
7
- Nhúm các năng lực truyền đạt
- Nhúm các năng lực giao tiếp
- Nhúm các năng lực tổ chức [19, tr . 226- 227]
Ông kết luận rằng: các năng lực đó không chỉ là điều kiện để hoạt động
giáo dục đạt hiệu quả mà nó còn là kết quả của chính hoạt động giáo dục đú.
Cỏc năng lực này sẽ được hình thành, phát triển trong quá trình “hành nghề”
của giáo viên và để có được những năng lực này thì việc đầu tiên mà mỗi giáo
viên cần làm là rèn luyện các kỹ năng cơ bản khác nhau. Sự hình thành các kỹ
năng đó là sự nắm vững cả một hệ thống phức tạp các thao tác, phát hiện và
cải biến thông tin chứa đựng trong các tri thức và tiếp thu được từ đối tượng,
đối chiếu và xác lập quan hệ của thông tin với các hành động. Các kỹ năng
này được hình thành trên cơ sở lĩnh hội các khái niệm về các mặt và các thuộc
tính khác nhau của đối tượng đang được nghiên cứu. Các kỹ năng cơ bản đó
bao gồm: các kỹ năng chung và các kỹ năng này có vai trò quan trọng nhất.
+ Kỹ năng, kỹ xảo thông tin
+ Kỹ năng, kỹ xảo động viên
+ Kỹ năng, kỹ xảo phát triển
+ Kỹ năng, kỹ xảo định hướng [19, Tr. 221- 223]
N. V. Cudơmina cũng nghiên cứu về những biểu hiện của năng lực sư
phạm bằng cách quan sát các hoạt động của người giáo viên và bà đã đi đến
kết luận: các năng lực dạy học và các năng lực khác của con người đều có
liên quan đến nhau và năng lực được hình thành từ các kỹ năng trong hoạt
động sống, nếu người giáo viên biết vận dụng các kỹ năng khác nhau này
trong hoạt động sư phạm thì sẽ mang lại kết quả tốt. Nh vậy, bà khẳng định kỹ

năng dạy học và kỹ năng sống gắn liền với nhau, có mối quan hệ chặt chẽ,
thống nhất do đó để có năng lực dạy học tốt phải có năng lực sống tốt.
Ph. N. Gụnụbụlin cho rằng: những năng lực sư phạm điển hình của người
giáo viên trong giảng dạy và giáo dục là:
8
- Năng lực hiểu học sinh
- Năng lực truyền đạt tài liệu học tập
- Năng lực thu hót học sinh
- Năng lực định hướng
- Năng lực sáng tạo
- Năng lực tổ chức
- Năng lực ứng xử sư phạm
- Năng lực thuyết phục người khác
- Năng lực thấy trước kết quả hoạt động và những khó khăn có thể xảy ra
- Năng lực trí tuệ [8, tr. 7]
Các năng lực này không được sắp xếp theo thứ tự quan trọng khác nhau
mà tác giả cho rằng nó có được sử dụng hiệu quả hay không và sử dụng hiệu
quả nhất cho hoạt động nào phụ thuộc vào người giáo viên, vì vậy người giáo
viên không thể thiếu bất kỳ một năng lực nào.
Khi nói đến cấu trúc các năng lực sư phạm, Gụnụbụlin viết “năng lực gắn
liền với các kỹ năng của người giáo viên và năng lực sư phạm phát triển trong
hoạt động ở nhà trường”.
Ông cho rằng một số năng lực điển hình giúp người giáo viên thành công
đó là: cảm giác nhạy bén về thời gian, óc quan sát, óc tưởng tượng sư phạm,
khả năng ngôn ngữ, tâm trạng của giáo viên, sự đồng cảm với học sinh, tình
yêu thương đối với trẻ. Ông cũng khẳng định việc rèn luyện năng lực của
người giáo viên không chỉ bó hẹp trong bốn bức tường của nhà trường.
Điểm chung của các nghiên cứu nước ngoài là họ đều thừa nhận vai trò
của năng lực sư phạm, năng lực dạy học đối với hoạt động giảng dạy và giáo
dục còng nh đối với sự hình thành, phát triển nhân cách của học sinh. Các

năng lực này được tạo thành bởi các kỹ năng khác nhau và được rèn luyện
trong quá trình thực hiện hoạt động sư phạm.
9
Hầu hết các nghiên cứu mới chỉ đi vào nghiên cứu các kỹ năng với tư
cách là những thao tác kỹ thuật giúp cho giáo viên thực hiện hoạt động dạy
học nói chung đạt hiệu quả mà chưa đi sâu nghiên cứu các khái niệm, năng
lực cụ thể của người giáo viên tiểu học ở các điều kiện kinh tế, chính trị, xã
hội khác nhau.
Hơn thế nữa, việc vận dụng các kỹ năng dạy học khác nhau trờn lớp,
trong từng bài, từng tiết học cụ thể đũi hỏi nhiều phẩm chất và năng lực hơn ở
người giáo viên, đặc biệt là giáo viên Tiểu học.
1. 1. 2. Một số nghiên cứu trong nước.
Khi nghiên cứu về năng lực nói chung và năng lực sư phạm nói riêng, rất
nhiều nhà Tâm lý học- Giáo dục học và những người quan tâm nghiên cứu
đến con người, đến thế hệ trẻ, đến “nguyờn khớ quốc gia” đó cú chung mét
quan điểm “năng lực, khả năng của con người là một trong hai thành tố quan
trọng của nhõn cỏch” cũng như “năng lực của người giáo viên sẽ quyết định
sự thành công của công tác sư phạm.” [8, tr. 6- 19]
* Phạm Minh Hạc cho rằng: sự thành công trong việc dạy học và giáo
dục học sinh đòi hỏi người giáo viên phải có thế giới quan tiên tiến, những
phẩm chất đạo đức cao quý, trình độ tri thức, kỹ năng, kỹ xảo nghề nghiệp
cao, trình độ văn hoá chung và xu hướng sư phạm.
Ông phân biệt năng lực sư phạm và kỹ năng sư phạm. Năng lực là thuộc
tính, là đặc điểm của nhân cách; kỹ năng là những hành động riêng lẻ được
đánh giá về mặt thao tác của hành động sư phạm. Ông viết “tri thức, kỹ năng,
kỹ xảo là chất liệu để tạo thành năng lực tương ứng, không có tri thức, kỹ
năng, kỹ xảo thì không có năng lực, tuy chúng không đồng nhất với nhau.
Năng lực chính là tổ hợp các đặc điểm tâm lý cá nhân tiếp nhận hoặc sử dụng
kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo vào một hoạt động nào đú” [11, tr. 35].
Khi nghiên cứu cấu trúc năng lực sư phạm, ông chia thành 3 nhóm:

10
- Nhóm năng lực thuộc về nhân cách (gắn với thái độ đối với học sinh)
gồm: lòng yêu trẻ; năng lực kiềm chế, tự chủ, điều khiển, điều chỉnh tâm lý,
tâm trạng của mình.
- Nhóm năng lực dạy học (gắn với việc truyền đạt thông tin cho học sinh)
gồm: năng lực giải thích, năng lực khoa học, năng lực ngôn ngữ.
- Nhóm năng lực tổ chức giao tiếp (gắn với giao tiếp, giáo dục học sinh)
gồm: năng lực tổ chức hoạt động giao tiếp, óc quan sát sư phạm, khéo léo ứng
xử sư phạm, óc tưởng tượng, năng lực phân phối chú ý.
Ngoài những năng lực chung thì người giáo viên cũn cú những năng lực
chuyên biệt và ở bậc học tiểu học người giáo viên phải có cả 2 loại năng lực
này và ở mức cao thì mới đáp ứng yêu cầu là dạy tất cả các môn học.
* Theo tác giả Nguyễn Kế Hào, Nguyễn Quang Uẩn: năng lực của người
thầy giáo bao gồm các năng lực chung và các năng lực chuyên biệt.
- Năng lực chung của người giáo viên hay còn gọi là năng lực trí tuệ là
năng lực cần thiết cho nhiều hoạt động khác nhau, nó đảm bảo cho cá nhân
nhanh chóng nắm vững tri thức trong nhiều lĩnh vực (thông minh, tháo vát,
thính tai, tinh mắt…)
- Năng lực chuyên biệt bao gồm:
+ Năng lực dạy học: hiểu đặc điểm tâm sinh lý học sinh, nắm vững môn
khoa học mà mình sẽ dạy, tổ chức hoạt động cho học sinh, xử lý tình huống…
+ Năng lực giáo dục: cụ thể hoá mục tiêu, hình thành nhu cầu cho học
sinh, năng lực giao tiếp sư phạm và cảm hoá học sinh, năng lực huy động các
lực lượng giáo dục khác nhau…
+ Năng lực tổ chức các hoạt động sư phạm [12, tr. 110- 119]
* Theo nhóm tác giả Nguyễn Kế Hào, Nguyễn Hữu Dũng thì năng lực
sư phạm được chia thành 6 nhóm:
11
+ Nhóm năng lực chẩn đoán: là những năng lực phát hiện và nhận biết
đầy đủ, chính xác, kịp thời sự phát triển của mỗi học sinh và những đặc điểm

của sự phát triển đó; những nhu cầu cần được giáo dục với từng em.
+ Nhóm năng lực đáp ứng: bao gồm các năng lực đưa ra nội dung, biện
pháp giáo dục đáp ứng đúng đắn, kịp thời nhu cầu của người học tạo hứng
thó, động lực thúc đẩy sự phát triển của học sinh.
+ Nhóm năng lực đánh giá: là năng lực nhìn nhận sự thay đổi trong nhận
thức, kỹ năng, thái độ, tình cảm của học sinh, từ đó chuẩn đoán, hình thành
năng lực tự đánh giá ở học sinh.
+ Nhóm năng lực thiết lập mối quan hệ tốt với người khác, nhất là với học sinh.
+ Nhóm năng lực triển khai chương trình dạy học: là những năng lực tiến
hành dạy học, giáo dục căn cứ vào mục đích, nội dung của chương trình phù
hợp với đặc điểm của từng đối tượng học sinh.
+ Nhóm năng lực đáp ứng trách nhiệm với xã hội, tạo điều kiện thuận lợi
cho giáo dục trong nhà trường và ngoài xã hội. [8, tr. 10- 11]
* Nhóm tác giả Lê Văn Hồng, Lê Ngọc Lan, Nguyễn Văn Thàng đã chỉ
ra được những đặc điểm lao động của người thầy và cấu trúc nhân cách của họ
“núi đến năng lực là nói đến mặt hiệu quả của tác động vào con người, vào sự
việc như thế nào và đem lại hiệu quả gì? ”. Dùa vào chức năng đặc trưng của
người thầy giáo là dạy học và giáo dục, nhóm nghiên cứu này đã phân chia
năng lực sư phạm thành 3 nhóm:
- Nhóm năng lực dạy học: gồm năng lực hiểu học sinh, năng lực chế biến
tài liệu học tập, tri thức và tầm hiểu biết, năng lực nắm vững kỹ thuật dạy học
và năng lực ngôn ngữ.
- Nhóm năng lực giáo dục: năng lực vạch dự án phát triển nhân cách học
sinh, năng lực giao tiếp sư phạm, năng lực cảm hoá học sinh, năng lực khéo
léo ứng xử sư phạm.
12
- Nhóm năng lực tổ chức các hoạt động sư phạm: thể hiện ở chỗ tổ chức
và cổ vũ học sinh thực hiện các nhiệm vụ khác ở trên líp cũng như ở ngoài
trường, nội khoá cũng như ngoại khoá, cho từng học sinh cũng như cho tập
thể; biết đoàn kết học sinh thành tập thể lành mạnh, thống nhất, có kỷ luật, nề

nếp; tổ chức vận động người dân, cha mẹ học sinh và các tổ chức xã hội tham
gia vào sự nghiệp giáo dục theo mục tiêu nhất định. [13, tr.210- 235]
* Nhóm tác giả Nguyễn Quang Uẩn, Ngô Công Hoàn cho rằng: người
thầy giáo theo yêu cầu của sự nghiệp giáo dục phát triển giáo dục phải có cả
phẩm chất và năng lực, năng lực phải tương ứng với phẩm chất và năng lực
gồm: năng lực giao tiếp và năng lực chuyên môn.
Theo các tác giả này, sự thống nhất giữa những phẩm chất và năng lực
được biểu hiện bằng hệ thống kỹ năng sư phạm, đó là những việc làm cụ thể,
những hành động sư phạm cần thiết để đánh giá giáo viên và sinh viên sư phạm.
Các nghiên cứu trong và ngoài nước cho thấy vai trò của năng lực dạy
học đã được thừa nhận với hệ thống cỏc nhúm năng lực khác nhau, được cụ
thể hoá trong các kỹ năng dạy học, trong hiệu quả giáo dục và hiệu quả dạy
học. Tuy nhiên với những giai đoạn lịch sử xã hội khác nhau thì những yêu
cầu mới về nội dung, chương trình đòi hỏi người giáo viên phải có những kỹ
năng thích ứng, đó là lý do mà đề tài mang tính cấp thiết và tụi đó chọn để
nghiên cứu.
1. 2. Đặc điểm lao động của người giáo viên Tiểu học và những yêu
cầu về phẩm chất, năng lực.
1. 2. 1. Đặc điểm lao động của người giáo viên Tiểu học hiện nay.
Còng nh giáo viên ở các cấp học khác trong hệ thống giáo dục phổ thông,
hoạt động lao động của người giáo viên Tiểu học mang những đặc điểm
chung cơ bản của nghề dạy học. Đây là một loại hình lao động trí óc chuyên
nghiệp mà đối tượng trực tiếp là con người và là một loại lao động nghiêm
13
túc, đòi hỏi tính khoa học, nghệ thuật và tính sáng tạo cao; loại lao động
không được phép có phế phẩm. [13, tr.101- 105]
Ngoài những đặc điểm chung nh trên, lao động của người giáo viên Tiểu
học cũn cú những đặc điểm riêng, đặc trưng cho cấp học và có thể kể đến một
số đặc điểm sau:
- Người giáo viên Tiểu học là người thầy tổng thể- người dạy tất cả các

môn học ở cấp học.
Giáo viên Tiểu học là người tổ chức quá trình phát triển của trẻ em, tức là
tổ chức, hướng dẫn cho mỗi học sinh tự hoạt động để lĩnh hội cái cần học và
cách học. Việc tổ chức cho học sinh tiến hành hoạt động học tập ở từng tiết
học phụ thuộc vào loại tiết học và nội dung cụ thể của từng tiết học đó. Ở cấp
Tiểu học, ngoài các môn học bắt buộc, học sinh cũn cú một số môn tự chọn
như Ngoại ngữ, Tin học. Hầu hết trong các trường Tiểu học, tất cả các môn
học bắt buộc đều do một giáo viên giảng dạy (trừ một số Ýt trường có giáo
viên chuyên dạy Hát- Nhạc, Mỹ thuật, Thể dục), vì vậy người giáo viên Tiểu
học không chỉ phải huy động các năng lực chung như: năng lực tổ chức các
hoạt động sư phạm, năng lực giao tiếp, năng lực học tập… mà còn phải huy
động các năng lực chuyên biệt như: năng lực Toán, năng lực Tiếng Việt, năng
lực Âm nhạc, năng lực Hội hoạ… trong các buổi lờn lớp của mình.
- Lao động của người giáo viên Tiểu học là lao động bận rộn.
Ở các cấp học khác, mỗi tuần giáo viên chỉ lo giảng đủ một số tiết theo
quy định chung, cũn cỏc công tác khác là của giáo viên chủ nhiệm- người
được giảm đi một số tiết trong tuần để làm công việc quản lý học sinh. Ở cấp
Tiểu học, người giáo viên vừa phải dạy tất cả các bộ môn, vừa phải làm công
tác giáo dục trẻ em với tư cách là một giáo viên chủ nhiệm. Vì vậy, họ phải
làm tất cả các công việc, từ việc tìm hiểu học sinh, đọc sách bỏo, cỏc tài liệu
tham khảo, soạn giảng, làm đồ dùng dạy học, tiến hành giảng dạy và tổ chức
các hoạt động thực hành, vui chơi múa hát, thể dục thể thao, chấm bài, phụ
14
đạo học sinh yếu, bồi dưỡng học sinh khá giỏi đến việc xử lý các sự việc, tình
huống sư phạm, quan hệ với cha mẹ học sinh và chính quyền địa phương…
Ngoài ra, để thực hiện phổ cập giáo dục cấp Tiểu học, giáo viên Tiểu học còn
phải tham gia công tác xoá mù chữ, chống tái mù chữ, tham gia một số hoạt
động chuyên môn khác của nhà trường. Đa số giáo viên Tiểu học cho biết họ
phải làm việc ở nhà vào tất cả các buổi tối và vào các ngày nghỉ. Với những
trường đã thực hiện việc học hai buổi một ngày, giáo viên càng bận rộn hơn.

Có thể nói hoạt động lao động của người giáo viên Tiểu học bao gồm rất
nhiều hoạt động sư phạm mà hoạt động nào cũng rất đặc trưng và vất vả, khó
có thể phân biệt được hoạt động nào là quan trọng và vất vả hơn.
- Lao động của người giáo viên Tiểu học được tổ chức trong thời gian và
không gian đặc biệt.
Thời gian lao động của người giáo viên nói chung được chia làm 2 phần:
phần chuẩn bị và phần triển khai các hoạt động trờn lớp. Riờng khoảng thời
gian triển khai các hoạt động sư phạm của người giáo viên Tiểu học cũng có
những đặc điểm khác biệt so với giáo viên các cấp học khác. Ở cấp Tiểu học,
mỗi tiết học học sinh phải đạt được 3 yêu cầu cơ bản về kiến thức, kỹ năng và
thái độ. Yêu cầu về thái độ có thể được giáo viên thực hiện thông qua việc
truyền thụ kiến thức và rèn luyện kỹ năng; song việc truyền thụ kiến thức và
rèn luyện kỹ năng phải được giáo viên cân đối, tính toán về thời lượng sao
cho thật hợp lý. Chẳng hạn, một giê tập đọc thông thường giáo viên phải dành
3 đến 5 phót để kiểm tra bài cũ, 15 đến 20 phót cảm thụ bài đọc, 15 phót dành
cho việc luyện đọc, nếu thời lượng quá chênh lệch, giê dạy coi như không đạt
yêu cầu, đó là chưa kể đến có những tiết Từ ngữ- Ngữ pháp ở cỏc lớp 2, 3
giáo viên phải lo cân đối thời gian đảm bảo 20 phót đầu dạy từ ngữ, 15 phót
sau dạy ngữ pháp, không được lạm dụng quá thời lượng cũng không được cắt
xén thời gian ở bất cứ môn học nào.[8, tr. 14- 16]
1. 2. 2. Một số yêu cầu về phẩm chất và năng lực đối với giáo viên Tiểu học
15
Từ những đặc diểm lao động của người giáo viên nói chung, những đặc
điểm lao động đặc trưng cho người giáo viên Tiểu học nói riêng, một số tác
giả cho rằng, người giáo viên Tiểu học trong giai đoạn hiện nay cần phải đáp
ứng được những yêu cầu cơ bản sau:
- Những yêu cầu về phẩm chất:
+ Phải có lòng yêu nghề: tình yêu này không chỉ là lương tâm đối với
nghề nghiệp, là sự hoàn thành nhiệm vụ được giao, là việc thực hiện đơn
thuần một hợp đồng làm việc mà đó phải là một niềm tin, một nhiệt tình nhất

định, tin vào điều mình làm cho dù kết quả của nó chỉ thể hiện trong tương
lai, phải trung thành với lý tưởng cao đẹp và sẵn sàng đấu tranh vì lý tưởng
đó.
+ Mặt khác, lòng yêu nghề phải được nhân lên gấp bội vì lòng yêu trẻ, vì
tình yêu tuổi thơ, sự âu yếm và cảm tình với lứa tuổi đang phát triển. Đó là 2
yếu tố tạo nên sự tận tâm, tính kiên nhẫn, lòng độ lượng đồng thời với sự
cương quyết cần thiết của bất cứ người giáo viên nào có trách nhiệm.
+ Cú óc tò mò khoa học, ham thích quan sát, có nhu cầu mở rộng vốn tri
thức và nâng cao tầm hiểu biết, có kỹ năng để làm thoả mãn những nhu cầu
đó. Có phương pháp tự học, có ý thức phê phán đối với ý kiến của người
khác, có quan điểm riêng của bản thân một cách rõ ràng, có nhu cầu luôn đổi
mới… Những yếu tố đú giỳp cho người giáo viên dễ hoà nhập với học sinh và
thích ứng với sự thay đổi của nền văn minh nhân loại.
+ Luôn luôn tươi trẻ về tâm hồn, có lòng vị tha, tốt bụng, có uy tín với
học sinh.
Ngược lại những biểu hiện sau sẽ không phù hợp với người giáo viên:
• Sự xơ cứng về trí tuệ biểu hiện trước hết ở sự lười biếng và
thãi quen làm việc theo đường mòn, không sáng tạo.
• Những biểu hiện của sự thay đổi quá mạnh mẽ trong thái
độ, hay mất bình tĩnh.
16
• Những biểu hiện quá rụt rè, yếu đuối hoặc quá rộng lượng
hoặc quá uy quyền, lắm tham vọng, thích thể hiện quyền lực đối với người
khác [8, tr. 16]
- Những yêu cầu về năng lực:
Cùng với các phẩm chất trên, với chức năng là người tổ chức, hướng dẫn
quá trình học tập chủ động, sáng tạo của học sinh và để tiến hành có hiệu quả
các hoạt động sư phạm, người giáo viên Tiểu học cần có những năng lực cần
thiết thuộc cỏc nhúm năng lực sau:
+ Năng lực chẩn đoán

+ Năng lực đáp ứng
+ Năng lực đánh giá
+ Năng lực thiết lập mối quan hệ tốt với người khác, nhất là với học sinh
+ Nhóm năng lực triển khai chương trình dạy học
+ Nhóm năng lực đáp ứng trách nhiệm với xã hội. [8, tr. 17]
Trong công cuộc đổi mới chương trình giáo dục phổ thông nói chung,
giáo dục Tiểu học nói riêng những yêu cầu cơ bản về phẩm chất và năng lực
nghề nghiệp đối với người giáo viên Tiểu học được thể hiện ở các mức độ
khác nhau. Cụ thể là về 3 lĩnh vực:
- Về phẩm chất đạo đức, tư tưởng, chính trị:
+ Yờu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, chấp hành luật pháp nhà nước, quy
định của ngành, thực hiện chức năng, nhiệm vụ của người giáo viên Tiểu học.
+ Yêu nghề, tôn trọng và đối xử công bằng với học sinh.
+ Có tinh thần trách nhiệm trong công tác, có ý thức tổ chức kỷ luật, có
đạo đức, lối sống lành mạnh, có tinh thần hợp tác.
+ Có tinh thần tự học, phấn đấu, nâng cao trình độ chính trị, chuyên môn
nghiệp vụ.
- Về kiến thức:
17
+ Có kiến thức khoa học cơ bản để dạy cỏc mụn trong chương trình Tiểu
học.
+ Có kiến thức cơ bản về tâm lý học sư phạm và trẻ em, giáo dục học và
phương pháp dạy học môn học ở Tiểu học.
+ Có hiểu biết về những chủ trương chính sách lớn của Đảng, Nhà nước
đối với kinh tế, văn hoá, xã hội.
+ Có kiến thức phổ thông về những vấn đề xã hội nh: môi trường, dân số,
an ninh quốc phòng, an toàn giao thông, quyền trẻ em, y tế học đường, phòng
chống tệ nạn ma tuý.
+ Có hiểu biết về tình hình chính trị, kinh tế văn hoá, xã hội của địa
phương nơi trường đóng.

- Về kỹ năng sư phạm:
+ Biết lập kế hoạch bài học.
+ Biết tổ chức hoạt động dạy học theo hướng đổi mới phương pháp đảm
bảo thực hiện được các mục tiêu của bài học.
+ Biết làm công tác chủ nhiệm líp và tổ chức các hoạt động giáo dục nh
sinh hoạt tập thể, hoạt động ngoài giờ lờn lớp, hoạt động của đội thiếu niên và
sao nhi đồng.
+ Biết giao tiếp, ứng xử với học sinh, cha mẹ học sinh, đồng nghiệp và
cộng đồng.
+ Biết lập hồ sơ, lưu giữ hồ sơ và sử dụng hồ sơ vào việc giảng dạy và
giáo dục học sinh. [8, tr. 16- 19].
1. 3. Một số khái niệm cơ bản của đề tài
1. 3. 1. Kỹ năng
- Kỹ năng là vấn đề hết sức phức tạp, các nhà Tâm lý- Giáo dục đó cú
những quan niệm khác nhau về kỹ năng cũng như mối quan hệ giữa kỹ năng,
kỹ xảo với các thành tố tâm lý khác. Tuy nhiên, tất cả những quan niệm này
chỉ có tính chất mở rộng hoặc thu hẹp khái niệm mà thôi.
18
- Quan niệm nghiêng về mặt kỹ thuật, thao tác của hành động với đại
diện là A. G. Cụvaliốp.
Tác giả này cho rằng “con người nắm vững được cách thức hoạt động,
tức có kỹ thuật hành động là có kỹ năng” [19, tr. 14].
Kỹ năng là phương thức thực hiện hành động phù hợp với mục đích và
điều kiện không cần đến kết quả.
Còng theo quan niệm này, tác giả Trần Trọng Thuỷ tán thành: con người
thực hiện hành động theo một cách thức nhất định và sử dụng các thao tác kỹ
thuật khác nhau nhằm đạt được mục đích thì được đánh giá về mặt kỹ năng.
Bản thân khái niệm kỹ năng đã được kỹ thuật hoá thành các thao tác cụ
thể của hành động và việc thực hiện kỹ năng mang tính chất kỹ thuật, rập
khuôn máy móc, vì thế việc hình thành và rèn luyện kỹ năng cũng gần giống

như việc đặt sẵn một chương trình, chỉ cần thời gian và thao tác lại đúng như
hướng dẫn.
Với quan niệm này chúng ta thấy rằng khái niệm “kỹ năng” mới chỉ
được đánh giá ở một khía cạnh (cách thức- kỹ thuật) mà chưa thấy được vai
trò, ý nghĩa và mối quan hệ giữa kỹ năng với các yếu tố khác trong con người
và môi trường sống.
- Quan niệm nghiêng về mặt năng lực của con người, đại diện tiêu biểu
là K. K .Platụnốp và Nguyễn Quang Uẩn.
Theo các tác giả này thì việc thực hiện một công việc nào đó có hiệu quả,
với một chất lượng cần thiết trong mọi điều kiện khác nhau thì được đánh giá
về mặt năng lực. Do đó kỹ năng là khả năng thực hiện đúng hành động và tiến
tới thực hiện thành thạo, linh hoạt, sáng tạo những hành động đó.
K. K. Platụnốp cho rằng: “kỹ năng là khả năng của con người thực hiện
một hành động bất kỳ nào đó hay các hành động trên cơ sở của kinh nghiệm
cũ” [19, tr. 18]
19
Tác giả Nguyễn Quang Uẩn viết: “cựng với năng lực thì tri thức, kỹ
năng, kỹ xảo thích hợp cũng rất cần thiết cho việc thực hiện có kết quả một
hoạt động. Có tri thức, kỹ năng, kỹ xảo trong một lĩnh vực nào đó là điều kiện
cần thiết để có năng lực trong lĩnh vực này. Tri thức, kỹ năng, kỹ xảo và năng
lực không đồng nhất nhưng chỳng cú mối quan hệ thống nhất biện chứng với
nhau” [34, tr. 180]
Cũng nghiêng về mặt năng lực tác giả Hà Văn Chư cho rằng: để có thể
tiến hành một hoạt động có hiệu quả thì cần những năng lực nhất định và
những năng lực này là tổng hợp của hệ thống kiến thức và kỹ năng đa dạng
phức tạp. Nói nh vậy có nghĩa là coi kỹ năng là một bộ phận cấu thành năng
lực. [3, tr. 17]
Tác giả Đặng Thành Hưng lại quan niệm: kỹ năng chung hay kỹ năng cơ
bản là viết về những dạng chuyên biệt của năng lực thực hiện hành động.
Giữa kỹ năng và năng lực là khác nhau nhưng chỳng cú mối quan hệ tác động

biện chứng ở những khía cạnh, dạng thức nhất định. Vì vậy, rất dễ dẫn tới
việc xem xét, nhìn nhận nhầm lẫn giữa hai khái niệm này.
Còng theo tác giả: một năng lực tương ứng với không chỉ kỹ năng mà
còn tương ứng với tri thức và khả năng, kỹ năng là hình thái “kộp” của các
loại năng lực. Kỹ năng có bản chất tâm lý, có hình thức vật chất là hành vi
hoặc hành động nhưng nếu hiểu năng lực thuần tuý theo nghĩa tâm lý học thì chưa
đủ.
+ Năng lực là mức độ được việc có thể có.
+ Kỹ năng là thực sự được việc. [18, tr 45-52]
Các nhà Giáo dục học thì phân chia kỹ năng thành 2 bậc I và II.
- Kỹ năng bậc I là khả năng thực hiện đúng hành động, hành động phù
hợp với những mục tiêu và điều kiện cụ thể khi tiến hành hành động Êy cho
dù là hành động trí tuệ hay hành động kỹ thuật thao tác.
20
- Kỹ năng bậc II là khả năng thực hiện hành động thành thạo, linh hoạt,
sáng tạo vì thế để có kỹ năng bậc II phải có kỹ năng bậc I và kỹ xảo.
Vì vậy người ta cũng thường hay đồng nhất kỹ năng bậc II và kỹ xảo. Để
phân biệt rõ điều này chúng ta phải tách rời 2 loại kỹ năng và đặt chúng trong
những tình huống cụ thể.
Những quan niệm về kỹ năng có thể theo phương diện thao tác kỹ thuật
hoặc thiên về mặt năng lực thì cuối cùng đều khẳng định kỹ năng là một thành
tố quan trọng không thể thiếu trong hoạt động của mỗi cá nhân, nú giỳp cho
hoạt động diễn ra có kết quả.
Đồng thời các quan niệm này chỉ là sự mở rộng hoặc thu hẹp khái niệm.
Trong quá trình nghiên cứu chúng tôi sử dụng khái niệm “kỹ năng” theo quan
niệm của tác giả K. K. Platụnốp “kỹ năng là khả năng của con người thực
hiện một hoạt động bất kỳ nào đó hay các hành động trên cơ sở của kinh
nghiệm cũ” [19, tr. 18].
1. 3. 2. Kỹ năng dạy học
1. 3. 2. 1. Khái niệm.

Theo một số tác giả trong nước như Nguyễn Như An, Trần Anh Tuấn,
Phan Thanh Long… thì kỹ năng dạy học được hiểu là khả năng vận dụng tri
thức về chuyên môn, những cách thức, quá trình cần thiết để thực hiện có hiệu
quả một số thao tác hay một loạt các thao tác phức tạp của hành động giảng
dạy, hay nói cách khác là nhằm võ trang tri thức khoa học, phát triển trí tuệ,
hình thành thế giới quan, hành vi đạo đức cho học sinh.
1. 3. 2. 2. Hệ thống các kỹ năng dạy học.
Khó có thể liệt kê đầy đủ tất cả các kỹ năng dạy học cần có của người
giáo viên. Nhiều công trình nghiên cứu của Cudơmina, Gụnụbụlin, Đặng
Thành Hưng, Nguyễn Như An, Nguyễn Hữu Dũng, Phan Thanh Long,…đó
cho thấy rằng sẽ có tới hàng trăm kỹ năng, hàng chục nhóm kỹ năng, trong
21
mỗi nhóm lại bao gồm nhiều kỹ năng cụ thể. Tựu chung lại có thể đồng ý với
cách phân chia sau:
* Nhóm kỹ năng chẩn đoán:
Nhóm kỹ năng này giúp người giáo viên hiểu đặc điểm tâm sinh lÝ, nhu
cầu, hứng thó, nguyện vọng, xu hướng phát triển nhân cách của học sinh, phát
hiện sớm và có biện pháp thích hợp trong dạy học và giáo dục, đặc biệt là
trong việc phát hiện, bồi dưỡng học sinh có năng khiếu và ngăn chặn sự lệch
lạc trong sự phát triển nhân cách học sinh.
* Nhóm kỹ năng thiết kế kế hoạch dạy học:
Người giáo viên phải biết lùa chọn, sắp xếp, lên kế hoạch cụ thể về nội
dung chương trình, phương pháp kỹ thuật, thời lượng sao cho phù hợp với lứa
tuổi và đặc điểm cấp học.
Việc thiết kế kế hoạch dạy học có thể cho mét giai đoạn, một quá trình
(năm học, kỳ học hoặc một môn học, tiết dạy, bài dạy).
Trong kế hoạch dạy học phải chuẩn bị kĩ lưỡng, chi tiết, tỉ mỉ cho việc
thiết kế từng bài soạn, hệ thống câu hỏi, giải thích, giao tiếp, đàm thoại…
* Nhóm kỹ năng tổ chức thực hiện kế hoạch dạy học:
Đây là kỹ năng biến mục tiêu , nội dung, kế hoạch dự kiến thành các hoạt

động cụ thể, do đó đòi hỏi người giáo viên cần có kỹ năng vận dụng tri thức
chuyên môn, nghiệp vụ vào giao tiếp, quản lí, tổ chức, điều chỉnh các hoạt
động theo đúng kế hoạch đã đặt ra. Cụ thể giáo viên cần có:
+ Kỹ năng ổn định tổ chức líp
+ Kỹ năng vào bài bằng cách lôi cuốn sự chú ý của học sinh
+ Kỹ năng trình bày nội dung bài giảng trên cơ sở vận dụng phương
pháp, phương tiện hợp lí
+ Kỹ năng củng cố bài giảng, khắc sâu vấn đề, kiến thức trọng tâm
+ Kỹ năng đặt câu hỏi và ra bài tập về nhà
22
+ Kỹ năng đánh giá, kiểm tra học sinh
* Nhóm kỹ năng giám sát, kiểm tra, đánh giá kết quả hoạt động dạy học:
Là sự đánh giá cả một quá trình chứ không đơn thuần là sự đánh giá kết
quả của mỗi người. Vì vậy đánh giá còn nhằm đề xuất những ý kiến làm thay
đổi thực trạng, giúp học sinh có kỹ năng tự đánh giá. Đánh giá phải khách
quan, trung thực, phản ánh đúng thực lực và bằng những phương tiện kỹ thuật
hỗ trợ hiện đại.
* Nhóm kỹ năng nghiên cứu khoa học:
Nhóm kỹ năng này bao gồm một số kỹ năng phát hiện vấn đề, phát hiện
những mâu thuẫn trong lí luận và thực tiễn; biết tìm ra những mâu thuẫn nổi
cộm, những vấn đề có tính cấp thiết, từ đó xây dựng giả thuyết khoa học, đề
cương nghiên cứu, phiếu điều tra thực nghiệm sư phạm, xử lý, đánh giá kết
quả nghiên cứu, phân tích rút kinh nghiệm…
* Nhóm kỹ năng tổ chức các hình thức dạy học khác:
Cụ thể, giáo viên cần có kỹ năng hướng dẫn học sinh tự học, thảo luận,
học tập theo nhóm, ngoại khoá, kỹ năng hướng dẫn thực hành, thí nghiệm…
1. 3. 3. Kỹ năng dạy học trờn lớp.
1. 3. 3. 1. Hình thức lờn lớp.
Hình thức lờn lớp là hình thức tổ chức dạy học tập thể theo líp, mỗi lớp
cú một số học sinh nhất định thuộc cùng một lứa tuổi, có trình độ nhận thức

tương đương nhau. Thời gian học tập được quy định một cách chính xác và ở
một địa điểm riêng biệt; giáo viên chỉ đạo hoạt động nhận thức có tính chất
tập thể ổn định, có thành phần không đổi, đồng thời chú ý đến những đặc
điểm của từng học sinh để sử dụng các phương pháp và phương tiện dạy học
nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho học sinh nắm vững tài liệu học tập một cách
trực tiếp cũng như làm phát triển năng lực nhận thức và giáo dục học sinh tại líp.
Trong định nghĩa này cho thấy ba dấu hiệu đặc trưng của hình thức líp
bài là: líp học có thành phần không đổi; giáo viên chỉ đạo hoạt động nhận
23
thức của cả líp, đồng thời chú ý đến những đặc điểm của từng học sinh; học
sinh nắm tài liệu ngay tại líp.
Hoạt động học tập sẽ được tiến hành chung cho tất cả học sinh cùng lứa
tuổi và trình độ, phù hợp với khả năng bao quát của thầy giáo, ở một địa điểm
phòng học xác định. Vì vậy, tính chất của các mối quan hệ qua lại lẫn nhau
giữa mọi người và đặc trưng của bầu không khí tõm lớ tích cực học tập của
tập thể líp sẽ là những nhân tố quan trọng, quy định chất lượng và hiệu quả
học tập của từng em.
Dạy học được tiến hành theo thời khoá biểu. Thời gian dạy học được
phân ra thành tiết học với số lượng tăng dần từ đầu đến cuối cấp. Những quy
định này dùa vào đặc điểm nhận thức, sức tập trung chó ý của học sinh và yêu
cầu của vệ sinh học đường.
Thầy giáo là người trực tiếp tổ chức và điều khiển hoạt động học tập của
học sinh còng nh tất cả hoạt động- quan hệ trong líp và có sự chú ý đến đặc
điểm riêng biệt của từng em.
* Hỡnh thức lờn lớp cú những ưu điểm sau:
- Tạo ra điều kiện thuận lợi cho việc đào tạo hàng loạt học sinh, đáp ứng
được yêu cầu của phổ cập giáo dục còng nh của đào tạo líp công nhân kĩ thuật
và cán bộ khoa học kĩ thuật với quy mô lớn.
- Đảm bảo cho học sinh có thể lĩnh hội được tri thức và rèn luyện kĩ năng,
kĩ xảo một cách có kế hoạch, có hệ thống, phù hợp với những yêu cầu của

tõm lớ học, giáo dục học và vệ sinh học đường.
- Đảm bảo được sự thống nhất trong phạm vi toàn quốc về các mặt kế
hoạch và nội dung dạy học. Tạo ra được điều kiện thuận lợi cho việc bồi
dưỡng tinh thần tập thể còng nh những phẩm chất đạo đức khác cho học sinh.
* Hình thức lờn lớp cũng có những nhược điểm sau:
- Học sinh không có đủ thời gian để nắm vững toàn bộ tri thức, kĩ năng
và kĩ xảo.
24
- Giáo viên không có điều kiện để chú ý đầy đủ đến đặc điểm nhận thức
riêng biệt của từng học sinh.
- Khó có điều kiện để thoả mãn nhu cầu nhận thức rộng rãi và sâu sắc về
những tri thức vượt ra ngoài phạm vi nội dung chương trình của học sinh.
Do vậy cần nhận thức được rằng lờn lớp tuy là hình thức dạy học cơ bản
nhưng vẫn cần có sự hỗ trợ của các hình thức dạy học khác.
1. 3. 3. 2. Việc chuẩn bị lờn lớp.
Tiến hành công tác dạy học cần theo những yêu cầu nhất định, vừa đảm
bảo tính khoa học, nghệ thuật vừa đảm bảo tính linh hoạt, sáng tạo. Để làm
được điều này cần chuẩn bị chu đáo khi lờn lớp và nó không chỉ cần cho
những giáo viên trẻ, mới vào nghề mà cả đối với những giáo viên lâu năm, có
kinh nghiệm.
Việc chuẩn bị lờn lớp là sự chuẩn bị dài hạn cho cả năm học hoặc từng
học kì và từng môn học, tiết học cụ thể.
Trước hết cần tìm hiểu học sinh lớp mỡnh giảng dạy về kết quả học tập-
giáo dục, thái độ, phong trào học tập, tu dưỡng của líp, đặc điểm tõm lớ chung
của líp và những học sinh cá biệt, phong cách sư phạm của những giáo viên
đã và đang dạy lớp đú. Trờn cơ sở đó đề ra những yêu cầu hợp lý đối với học sinh.
Nghiên cứu kĩ chương trình, nội dung tài liệu dạy học, thu thập, lùa chọn
tài liệu cho từng tiết học, phương pháp, phương tiện, hình thức tổ chức dạy
học thích hợp.
Tìm hiểu những phương tiện dạy học hiện có, xây dựng kế hoạch, tạo

nên những phương tiện mới, tài liệu, sách báo mới góp phần đổi mới phương
pháp dạy học.
Việc chuẩn bị trực tiếp lờn lớp cũn bao gồm các nội dung cụ thể hơn:
Phân tích nội dung các bài trong sách giáo khoa về mặt khái niệm, lụgic,
Tõm lớ- Giáo dục và lí luận dạy học. Người giáo viên phải phân tích được cấu
trúc tri thức, xem xét khái niệm cơ bản, những dấu hiệu đặc trưng và những
25

×