Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

Thực trạng xuất khẩu cà phê của việt nam và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (453.4 KB, 25 trang )

HỌC VIỆN NGÂN HÀNG
BỘ MÔN KINH TẾ PHÁT TRIỂN
--------

BÀI THẢO LUẬN NHÓM
ĐỀ TÀI
THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU CÀ PHÊ Ở
VIỆT

NAM

GIAI

ĐOẠN

2005



9/2013

VÀ NHỮNG PHƯƠNG HƯỚNG GIẢI PHÁP
PHÁT TRIỂN NGÀNH XUẤT KHẨU CÀ PHÊ
VIỆT NAM

GIẢNG VIÊN:
Phạm Thu Hằng
NHĨM THỰC HIỆN
NHĨM 6 (Nhóm mơn học 06)
1.
2.


3.
4.
5.
6.

Bùi Hồng Hạnh (NT)
Lê Thị Nga
Nguyễn Thị Kiều Oanh
Nguyễn Thành Nam
Hoàng Ngọc Huy
Nguyễn Hồng Phượng

Hà Nội, ngày 5 tháng 11 năm 2013


1.Đặt vấn đề
1.1 Lời mở đầu
Việt Nam có khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa, mưa nhiều. Đó là điều kiện lí tưởng cho một số cây
trồng phát triển, đem lại nhiều lợi ích cho nền kinh tế quốc dân. Một trong những loại cây trồng
đó, chúng ta khơng thể khơng nói đến cây cà phê, một loại cây quen thuộc với người dân Việt
Nam, nhất là ở các tỉnh Tây Nguyên. Cây cà phê có lịch sử phát triển ở Việt Nam khá lâu đời, và
trong những năm gần đây đã đem lại giá trị kinh tế không hề nhỏ, đặc biệt là giá trị xuất khẩu.
Có điều kiện tự nhiên thuận lợi như vậy nhưng giá cà phê xuất khẩu của Việt Nam vẫn còn thấp
so với các nước khác. Giá cả cà phê biến động thất thường khiến ngành cà phê thường xuyên rơi
vào thế bị động, đặc biệt trong những năm gần đây, tuy kim ngạch xuất khẩu đạt được một số
thành tựu nhất định nhưng lại không ổn định.
Để giúp mọi người nắm rõ hơn vấn đề về sự phát triển của ngành xuất khẩu cà phê Việt Nam,
nhóm 6 đã quyết định chọn đề tài thảo luận:
“Thực trạng xuất khẩu cà phê ở Việt Nam giai đoạn 2005 - 9/2013 và những phương hướng
giải pháp phát triển ngành xuất khẩu cà phê của Việt Nam”.

Trong đề tài thảo luận này, nhóm 6 đi sâu tìm hiểu những vấn đề sau:
- Tình hình xuất khẩu cà phê của Việt Nam giai đoạn 2005- 9/2013.
- Những tồn tại trong ngành xuất khẩu cà phê của Việt Nam trong giai đoạn trên.
- Những phương hướng giải quyết cho ngành xuất khẩu cà phê của Việt Nam phù hợp nhất với
điều kiện nền kinh tế, bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta hiện nay.


1.2 Một số khái niệm và mơ hình có liên quan
1.2.1 Thương mại quốc tế và vai trò của thương mại quốc tế trong nền kinh tế thị trường
Thương mại quốc tế (TMQT) là việc trao đổi hàng hóa và dịch vụ (hàng hóa hữu hình và hàng
hóa vơ hình) giữa các quốc gia, tuân theo nguyên tắc trao đổi ngang giá nhằm đưa lại lợi ích cho
các bên.
Adam Smith là người đầu tiên giải thích hoạt động thương mại giữa các quốc gia thơng qua lí
thuyết lợi thế tuyệt đối (LTTĐ). Theo đó, một quốc gia được cho là có LTTĐ so với quốc gia
khác trong việc sản xuất một hàng hóa nào đó nếu như với cùng một đơn vị nguồn lực, quốc gia
(QG) đó có thể sản xuất ra nhiều hàng hóa hơn, nghĩa là có năng suất lao động cao hơn (chi phí
sản xuất thấp hơn). Giả sử có hai QG mà mỗi QG có một LTTĐ so với QG kia trong việc sản
xuất một hàng hóa thì cả 2 QG sẽ đều có lợi hơn nếu đi vào chun mơn hóa sản xuất và xuất
khẩu hàng hóa mà nó có LTTĐ và nhập khẩu hàng hóa mà nó khơng có LTTĐ. Lý thuyết LTTĐ
chỉ ra rằng TMQT xuất hiện là do sự chênh lệch về chi phí sản xuất giữa các QG. Nhưng trong
thực tế, sự trao đổi hàng hóa giữa các nước khơng phải chỉ do sự chênh lệch về chi phí sản xuất,
các QG có cùng trình độ sản xuất và có chi phí sản xuất ra các hàng hóa như nhau nhưng vẫn
trao đổi hàng hóa được với nhau. Lý thuyết LTTĐ chưa thể giải thích một cách đầy đủ cơ sở của
các quan hệ TMQT giữa các nước.
Các nhà kinh tế học hiện đại ngày nay cho rằng, quan hệ TMQT của các nước đều dựa trên lợi
thế so sánh (LTSS). Lý thuyết về LTSS lần đầu tiên được các nhà kinh tế Cổ điển đưa ra và được
tiếp tục bổ sung bởi các nhà kinh tế Tân cổ điển và các nhà kinh tế hiện đại. Theo đó, một QG sẽ
có LTSS so với một QG khác trong sản xuất một hàng hóa khi nó sản xuất hàng hóa đó với chi
phí tương đối là thấp hơn QG kia. Các QG sẽ đều có lợi hơn khi đi vào chuyên mơn hóa sản xuất
và xuất khẩu mặt hàng mà họ có LTSS và nhập khẩu những mặt hàng mà họ khơng có LTSS.

TMQT có những vai trị lớn trong q trình tăng trưởng và phát triển kinh tế. Thứ nhất, sự tăng
trưởng kinh tế được thể hiện ở việc mở rộng khả năng tiêu dùng của 1 nước, khả năng tiêu dùng
vượt quá khả năng sản xuất trong nước hay nói cách khác là đạt điểm tiêu dung nằm ngồi
đường giới hạn khả năng sản xuất. Thứ hai, TMQT thúc đẩy sự phân chia thu nhập công bằng
hơn từ việc sở hữu các yếu tố sản xuất và sử dụng có hiệu quả hơn các nguồn lực đó. Thương


mại thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, khuyến khích các khu vực kinh tế phát huy lợi thế so
sánh của mình.
Ví dụ: Khi khơng có thương mại, đường giới hạn khả năng sản xuất và cũng là tiêu dùng
của Mỹ và Anh như sau. Mỹ sản xuất tại điểm A, Anh sản xuất tại điểm A’. (Qc: vải, Qw:
lúa mì)

Sau khi có thương mại, Mỹ chuyển đến tiêu dùng tại điểm E và Anh tiêu dùng tại E’ nằm
ngoài đường giới hạn sản xuất - tiêu dùng lúc đầu.

1.2.2 Chiến lược xuất khẩu sản phẩm thô
Xuất khẩu sản phẩm thô là một trong các chiến lược khuyến khích xuất khẩu, thực hiện chủ yếu
ở các nước phát triển, các nước này tiến hành xuất khẩu sản phẩm của những ngành nông nghiệp
và công nghiệp khai thác sang các nước cơng nghiệp phát triển. Ví dụ: gạo, cà phê, than đá, hạt
điều, v.v…Với đặc thù của các nước đang phát triển là trình độ kỹ thuật lạc hậu để phát triển các


ngành công nghiệp chế biến, thiếu vốn và thừa lao động, rất phù hợp với chiến lược xuất khẩu
sản phẩm thô, như Việt Nam, …
Hoạt động xuất khẩu sản phẩm thơ đã đem lại những lợi ích khơng hề nhỏ cho nền kinh tế. Đầu
tiên phải kể đến đó là nguồn thu ngoại tệ chủ yếu cho các nước đang phát triển, 60-70% thu nhập
ngoại tệ của các nước đang phát triển là từ xuất khẩu nguyên liệu thô. Bên cạnh đó, xuất khẩu
sản phẩm thơ góp phần phát triển kinh tế theo chiều rộng: để có được các sản phẩm thơ địi hỏi
phải thu hút các yếu tố nguồn lực cần thiết như vốn đầu tư trong nước và nước ngồi, lao động

có tay nghề, tăng quy mơ khai thác và sử dụng nguồn tài nguyên trong nước…tức là tăng các yếu
tố đầu vào, từ đó góp phần vào sự tăng trưởng kinh tế. Chiến lược xuất khẩu sản phẩm thơ góp
phần thúc đẩy q trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế thông qua sự mở rộng các mối liên hệ xuôi,
mối liên hệ ngược và mối liên hệ gián tiếp. Ngồi ra, xuất khẩu sản phẩm thơ tạo ra nguồn tích
lũy ban đầu để tiến hành cơng nghiệp hóa. Doanh thu từ xuất khẩu sản phẩm thơ là một nguồn
vốn ngoại tệ hết sức quan trọng đối với các nước đang phát triển, để nhập khẩu công nghệ, kỹ
thuật, nguyên liệu, nhiên liệu cho sản xuất công nghiệp trong nước. Mặt khác, chiến lược khuyến
khích xuất khẩu sản phẩm thô là động lực mạnh mẽ thu hút vốn đầu tư nước ngoài để phát triển
kinh tế trong nước.
Tuy nhiên, xuất khẩu sản phẩm thô vẫn không thể coi là một chiến lược dài hạn cho các nước
đang phát triển vì chiến lược này có rất nhiều hạn chế và trở ngại.
Thứ nhất là trở ngại từ phía cung cầu khơng ổn định. Thời tiết, khí hậu thất thường, sự biến đổi
khí hậu tồn cầu, tốc độ gia tăng dân số cao, xu hướng tăng dự trữ quốc gia về lương thực làm
nhu cầu trong nước tăng lên ở các nước đang phát triển cùng với sự phát triển của khoa học kỹ
thuật đã làm xuất hiện các sản phẩm tổng hợp thay thế các loại nguyên liệu có nguồn gốc tự
nhiên.
Điều này cũng dẫn đến trở ngại do thu nhập biến động. Thực tế chỉ ra rằng thu nhập của các đang
phát triển biến động nhiều nhất khi nước đó quá tập trung vào xuất khẩu một hay một vài mặt
hàng vào một số thị trường nhất định. Cầu đối với các sản phẩm thơ là rất ít co giãn, tương đối
ổn định trong khi cung lại khá co giãn. Những đặc điểm này ảnh hưởng rất lớn đến thu nhập từ
xuất khẩu của các nước đang phát triển.


Tiếp đó là trở ngại do điều kiện trao đổi bất lợi. Các nước xuất khẩu sản phẩm thô phải đối mặt
với sự bảo hộ sản xuất nông nghiệp ngày càng gia tăng ở các nước phát triển dưới dạng thuế
quan, quota và các hàng rào phi thuế quan khác…nhằm bảo hộ sản xuất nơng nghiệp trong nước
để đối phó với sự cạnh tranh của hàng hóa nhập khẩu với giá rẻ từ các nước đang phát triển. Bên
cạnh đó, các nước đang phát triển hiện nay xuất khẩu chủ yếu các sản phẩm thô, trong khi lại
phải nhập khẩu hàng công nghệ từ các nước phát triển mà giá cả các sản phẩm thơ có xu hướng
giảm liên tục so với giá hàng cơng nghiệp, điều đó có nghĩa là các nước này ln phải gánh chịu

những thiệt thịi trong quan hệ thương mại.
Để so sánh giá cả tương quan giữa giá cả hàng xuất khẩu và nhập khẩu, người ta dùng “Hệ số
trao
nhập

đổi hàng hóa” (In), một hệ số phản ánh sức mua hàng
Hệ số trao đổi hàng hóa:

khẩu khi xuất khẩu một đơn vị hàng hóa.

In= .100%

Px: chỉ số giá bình quân hàng xuất khẩu; Pm: chỉ số giá bình quân hàng nhập khẩu
Tuy nhiên, hệ số In không cho ta biết nhiều sự thay đổi của thu nhập khi mà các nước đang
phát triển tham gia vào trao đổi quốc tế, nó chỉ cho thấy sự thay đổi trong giá cả, sức mua vì khi
giá giảm ít mà sản lượng lại tăng nhiều thì thu nhập lại có thể tăng.
Một hệ số khác sẽ cho ta thấy sự thay đổi về thu nhập của các nước xuất khẩu sản phẩm thô,
“hệ số trao đổi thu nhập” (Ii), cũng là một hệ số tính sức mua hàng xuất khẩu nhưng được tính
bằng cách so sánh chỉ số thu nhập xuất khẩu với chỉ số giá nhập khẩu.
Hệ số trao đổi thu nhập
Ii= . Qx= In.Qx
Qx: khối lượng hàng xuất khẩu


Để khắc phục những trở ngại trên, ngành xuất khẩu sản phẩm thơ có những giải pháp như
giải pháp kí kết các hiệp định hàng hóa, kí kết các hiệp định hàng hóa khơng chỉ giữa các nước
xuất khẩu với nhau mà còn giữa các nước xuất khẩu với các nước nhập khẩu, nhằm đảm bảo một
lượng cung ổn định trên thị trường quốc tế và tạo điều kiện tăng thu nhập cho các nước
xuất khẩu. Ví dụ: Tổ chức Cà phê thế giới (ICO), Tổ chức Các nước xuất khẩu dầu mỏ
(OPEC),...Hay giải pháp “kho đệm dự trữ quốc tế” là việc thành lập một quỹ chung dựa trên sự

thỏa thuận của hai bên xuất khẩu và nhập khẩu, để mua hàng hóa dự trữ hoặc bán hàng dự trữ ra
thị trường nhằm ổn định lượng cung các sản phẩm thơ trên thị trường.
2. Vị trí của ngành xuất khẩu cà phê Việt Nam trong nền kinh tế
2.1. Lợi thế so sánh trong sản xuất, xuất khẩu cà phê ở Việt Nam
Điều kiện khí hậu, địa lý và đất đai của Việt Nam rất thích hợp cho việc phát triển cây cà phê.
Miền khí hậu phía nam thuộc khí hậu nhiệt đới nóng ẩm thích hợp với cà phê Robusta, phía bắc
có mùa đơng lạnh và có mưa phùn thích hợp với cà phê Arabica. Đất đỏ bazan phân bổ khắp
lãnh thổ trong đó tập trung ở hai vùng Tây Ngun và Đơng Nam Bộ, với diện tích hàng triệu ha.
Những thuận lợi về tự nhiên này giúp Việt Nam có năng suất sản xuất cà phê khá cao và tạo ra cà
phê có hương vị thơm ngon.
Bên cạnh đó, Việt Nam cũng có lợi thế về nhân cơng Việt Nam với đội ngũ lao động khá dồi dào
trong khi q trình sản xuất cà phê xuất khẩu địi hỏi lực lượng lao động khá lớn. Đặc biệt ở
Việt Nam thì việc ứng dụng máy móc vào việc, sản xuất chế biến cà phê chưa nhiều vì thế lợi thế
về nhân cơng có thể giúp nước ta giảm rất nhiều chi phí cho sản xuất cà phê xuất khẩu từ đó có
thể hạ giá thành giúp cho Việt Nam có thể cạnh tranh được về giá so với các nước trên thế giới.
Ngoài ra, chiến lược của nhà nước khuyến khích phát triển và xuất khẩu cà phê cũng đóng vai trị
quan trọng. Trong những năm 2003- 2010 nhà nước đã xây dựng hoàn thiện các chiến lược mặt
hàng nông sản xuất khẩu chủ lực của Việt Nam trong đó cà phê được xem xét là mặt hàng chủ
lực số một. Nghị quyết 09/2000/ NQ/ CP của chính phủ xác định quy hoạch và định hướng phát
triển cây cà phê nước ta đến năm 2010. Vì thế từ năm 2003, sản xuất cà phê nhất thiết theo quy
hoạch, kế hoạch của nhà nước cả về diện tích, giống, sản lượng, chất lượng


Do những điều kiện nói trên, chi phí sản xuất cà phê xuất khẩu của Việt Nam thấp hơn so với các
nước trồng cà phê xuất khẩu khác, tạo ra lợi thế cạnh tranh đáng kể cho mặt hàng cà phê của Việt
Nam trên thị trường thế giới. Chi phí bình quân của Việt Nam là 650- 700 USD/ tấn cà phê nhân.
Nếu tính cả chi phí chế biến thì giá thành cho một tấn cà phê xuất khẩu là 750- 800 USD. Trong
khi đó chi phí sản xuất của Ấn Độ là 1412 triệu USD/ tấn cà phê chè, 926.9 USD/ tấn đối với cà
phê vối.
2.2 Vai trò của xuất khẩu cà phê trong nền kinh tế

Cà phê là một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực ở nước ta. Hàng năm ngành cà phê đã
đóng góp một kim ngạch khá lớn cho ngân sách nhà nước. Kim ngạch thu được từ hoạt động
xuất khẩu cà phê những năm gần đây đều trên 2 tỷ USD, tạo nguồn vốn cho cơng cuộc cơng
nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước.

Tỷ trọng xuất khẩu mặt hàng nông sản của Việt Nam năm 2011
(nguồn: Tổng cục Hải quan)
Bên cạnh đó, xuất khẩu cà phê góp phần vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế thúc đẩy sản xuất
phát triển. Sản xuất cà phê xuất khẩu sẽ giúp phát triển các ngành cơng nghiệp chế biến, cơng
nghiệp chế tạo máy móc, các ngành dịch vụ. Điều này góp phần làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nước ta theo hướng xuất khẩu. Xuất khẩu cà phê cũng đòi hỏi các doanh nghiệp phải ln đổi
mới và hồn thiện cơng nghệ sản xuất kinh doanh thúc đẩy sản xuất và mở rộng thị trường để
thâm nhập trường thế giới.
Xuất khẩu cũng có tác động tích cực đến việc giải quyết cơng ăn việc làm và cải thiện đời sống
nhân dân, làm giảm gánh nặng về thất nghiệp cho đất nước.


Ngoài ra, xuất khẩu cà phê là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại của
nước ta. Hiện nay Việt Nam đã xuất khẩu cà phê vào 53 quốc gia trên thế giới, tạo điều kiện
quan trọng để Việt Nam có được các quan hệ hợp tác đa phương và song phương.
3. Thực trạng xuất khẩu cà phê Việt Nam giai đoạn 2005 – 9/ 2013

Nhìn chung, kể từ năm 2005 đến hết tháng 9/2013, xuất khẩu cà phê tăng mạnh cả về lượng
và giá trị.
Trước hết, thời kì 2005-2008 có thể coi là một giai đoạn thành công của ngành xuất khẩu cà phê
Việt Nam, tuy lượng xuất khẩu tăng không đều nhưng giá trị xuất khẩu lại tăng mạnh và ổn định.
Từ năm 2005 đến năm 2006, sản lượng xuất khẩu cà phê khơng có chênh lệch nhiều, tuy nhiên
giá trị xuất khẩu lại tăng lên đáng kể. Trong năm 2005, bình quân giá cà phê xuất khẩu khá thấp
(bình quân tháng 10 chỉ đạt 813.32 USD/tấn, tháng 11 đạt 832.89 USD/tấn, tháng 12 đạt 909.06
USD/tấn). Năm 2005 Việt Nam cũng đã ban hành Tiêu chuẩn cà phê xuất khẩu TCVN

4193:2005, áp dụng phân loại theo cách tính lỗi để phù hợp với cách phân loại của Hội đồng Cà
phê Thế giới. Mặc dù vậy, do đây là tiêu chuẩn có tính chất tự nguyện, nên tất yếu dẫn đến tình
trạng chất lượng cà phê chưa đồng đều. Năm 2006, kim ngạch xuất khẩu tăng 186,32 tấn tương
ứng với 2.31% về khối lượng xuất khẩu và 53.21% về giá trị. Nguyên nhân là trong năm 2006,
giá cà phê xuất khẩu liên tục tăng cao từ 1169 USD/tấn trong những tháng đầu năm và đạt mức
bình quân 1183.7 USD/tấn trong cả năm. Chất lượng cà phê đã được cả thiện, cà phê Arabica tuy
chưa nhiều nhưng đã thể hiện ưu thế và chất lượng so với cà phê robusta.
Năm 2007 là năm thành công đối với ngành cà phê của nước ta với lượng cà phê xuất khẩu tăng
252,410 tấn tương ứng với 30.69% về khối lượng xuất khẩu và 0.667 tỉ USD tương ứng 68.34%
về giá trị so với năm 2006. Có sự tăng lên này là vì chính sách sử dụng đất của chính phủ làm
tăng diện tích sản xuất cà phê và người nông dân nhận thấy được nguồn lợi lớn từ cây cà phê.


Năm 2008, xuất khẩu cà phê giảm 18.6% về lượng, nhưng lại tăng 7.2% về trị giá do những
thuận lợi về giá cà phê thế giới. Giá cà phê thế giới tăng từ 1,463 USD/tấn trong năm 2007 lên
1,937USD/tấn. Đặc biệt, giá cà phê thế giới (tại sàn London) lên cao đến mức lý tưởng (trên
2800 USD/tấn). Với vị thế là nước xuất khẩu cà phê lớn thứ 2 trên thế giới (sau Bra-xin), kim
ngạch xuất khẩu cà phê của Việt Nam đã đạt mức kỷ lục với 2.1 tỷ USD, gấp 23.3 lần so với
năm 1990; đánh dấu 3 vụ liên tiếp thắng lợi lớn với kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD. Thị
trường nhập khẩu cà phê nhân sống của Việt Nam được mở rộng sang 75 quốc gia và vùng lãnh
thổ; trong đó, các nước mua nhiều cà phê Việt Nam là Đức, Hoa Kỳ, Italia, Tây Ban Nha, Bỉ,
Nhật Bản, Hàn Quốc, Pháp, Anh. Tuy nhiên, Việt Nam ít xuất khẩu mặt hàng cà phê chế biến (cà
phê hòa tan, cà phê rang xay, cà phê 3 trong 1) mà chủ yếu vẫn tiêu thụ nội địa. Cà phê chế biến
được đưa sang thị trường Canada, Đức, Hoa Kỳ, Australia, Hàn Quốc.
Giai đoạn 2009-2010, lượng xuất khẩu cà phê có sự gia tăng tương đối, nhưng giá trị xuất khẩu
lại giảm mạnh.
Theo thống kê của Tổng cục Hải quan, năm 2009 Việt Nam đã xuất khẩu tổng cộng khoảng
1,163 triệu tấn cà phê (chủ yếu là cà phê robusta) sang 97 quốc gia, đạt kim ngạch 1.705 tỉ Đô-la
Mỹ, tăng 2.6% về lượng nhưng lại giảm tới 21.3% về giá trị so với cùng kỳ năm 2008. Trong đó,
xuất khẩu cà phê tới 10 thị trường lớn nhất (trừ Bỉ và Hà Lan) đều có mức sụt giảm kim ngạch

khá mạnh (từ 5-45%) so với cùng kỳ năm 2008.
Nguyên nhân chủ yếu là do khủng hoảng kinh tế thế giới khiến giá cà phê robusta trên thị trường
thế giới liên tục xuống thấp, tình trạng này kéo dài hết năm 2009 tới những tháng đầu năm 2010.
Giá cà phê trong 3 tháng đầu năm 2009 giá đã sụt giảm mạnh, chỉ còn dao động trên dưới 1500
USD/tấn. Tại Tây Nguyên, giá cà phê nhân xô cũng tuột dốc, từ 34.000 – 35.000 đồng/kg xuống
còn 25.000 đồng, thậm chí có thời điểm xuống 22.000 đồng/kg. Mức giá này khiến nơng dân
thua lỗ vì phải đối mặt với giá vật tư đầu vào tăng cao. Mặc dù trong năm 2009, Chính phủ đã
đưa ra nhiều chính sách mới nhằm thúc đẩy việc tái cơ cấu lại cây cà phê, nhưng phần lớn người
nơng dân vẫn cịn đầu tư và mở rộng diện tích sản xuất cây trồng hiện có.
Đầu năm 2010, bất chấp những dự báo khá lạc quan về kinh tế tồn cầu cũng như tình hình tiêu
thụ và dự trữ cà phê thế giới, viễn cảnh về một năm khởi sắc trở lại của cà phê Việt Nam dường


như vẫn không mấy sáng sủa. Thống kê của Tổng cục Hải quan cho thấy quí 1-2010, cả nước
mới xuất khẩu được khoảng 345,000 tấn cà phê với kim ngạch khoảng 483 triệu USD, giảm tới
22.3% về lượng và giảm 27.8% về kim ngạch so với cùng kỳ năm 2009. Trong đó, phần giảm do
số lượng giảm là 147 triệu đô la và phần giảm do giá giảm là 39 triệu đơ la. Đơn giá xuất khẩu
bình qn cũng giảm 7.4%, xuống chỉ còn 1398 USD/tấn, đưa cà phê trở thành mặt hàng duy
nhất trong các nhóm hàng nơng sản xuất khẩu chủ yếu có đơn giá xuất khẩu bình quân giảm so
với cùng kỳ năm 2009. Sở dĩ giá cà phê robusta trong q 1-2010 giảm mạnh khơng phải do nhu
cầu giảm mà do đây là thời điểm thu hoạch chính vụ của cà phê robusta. Nguồn cung ra thị
trường quá lớn trong một thời gian ngắn đã tạo cơ hội cho các nhà đầu cơ ép giá xuống . Bên
cạnh yếu tố cung - cầu, vấn đề tỷ giá cũng sẽ gây ảnh hưởng lớn tới thị trường cà phê thế giới.
Cuối tháng 3-2010, cuộc khủng hoảng nợ công tại các nước thuộc khu vực đồng euro đã khiến
đồng đô la Mỹ tăng giá mạnh so với euro. Hậu quả là các nhà đầu cơ đã ồ ạt bán tháo, đẩy giá cà
phê xuống mức thấp nhất trong nhiều năm tính đến thời điểm đó.
Cùng với giá cả thì chất lượng cà phê thấp cũng là nguyên nhân dẫn đến việc xuất khẩu gặp khó.
Thời tiết bất thường, mưa nhiều trong năm qua đã khiến việc phơi và bảo quản không đảm bảo,
dẫn đến chất lượng cà phê bị giảm sút, nên các công ty xuất khẩu tốn nhiều thời gian xử lý trước
khi xuất.

Có thể thấy trong giai đoạn này ngành cà phê trong nước phải đối mặt với những biến động quá
lớn, diễn biến phức tạp, khó lường, hoạt động xuất khẩu cà phê ln bị các nhà đầu cơ quốc tế
thao túng. Mà theo đánh giá của các chuyên gia là do họ biết các doanh nghiệp Việt Nam cịn
nhiều lơ hàng “bán trừ lùi” chưa chốt giá (do chờ giá sẽ lên), nên họ đã cố tình ép giá xuống.
Nhiều doanh nghiệp xuất khẩu cà phê theo phương thức trừ lùi bị thua lỗ rất nặng, vì có những
doanh nghiệp ký hợp đồng trừ lùi lên đến 90-100 USD/tấn, thậm chí 120 USD/tấn lúc đầu vụ.
Trước tình hình đó, ngày 13/4/2010, Chính phủ ra Quyết định 481/QĐ-TTg ngày 13/4/2010 về
việc mua tạm trữ 200.000 tấn cà phê cho nông dân nhằm chặn đà giảm giá và giúp nông dân
không bán tháo hàng khi niên vụ thu hoạch 2010 kết thúc.
Đại diện các doanh nghiệp cà phê đều khẳng định việc thực hiện hỗ trợ thu mua tạm trữ càphê
niên vụ 2009-2010 theo quyết định 48/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ đã thực sự mang lại
hiệu quả, chính sách thu mua tạm trữ cà phê đã giúp cho nơng dân và doanh nghiệp đều có lợi.


Theo báo cáo của Cục Chế biến thương mại Nông lâm thủy sản và nghề muối (Bộ Nông nghiệp
và Phát triển Nông thôn), việc thu mua tạm trữ cà phê theo quyết định của Chính phủ đã có tác
động tích cực đối với thị trường và người nông dân.
Việc thu mua tạm trữ càphê đã giúp nông dân tiêu thụ được cà phê với giá cao, ổn định sản xuất,
đồng thời tạo áp lực trên thị trường để nâng giá càphê robusta, tăng kim ngạch xuất khẩu cho cà
phê Việt Nam cũng như giúp ngành cà phê Việt Nam phát huy được thế mạnh của mình và phát
triển bền vững.Tính đến cuối tháng 7-2010, các công ty sản xuất, kinh doanh cà phê đã thu mua
tạm trữ được hơn 55000 tấn cà phê với giá bình quân từ 25.000-26.000 đồng/kg, tổng giá trị trên
1400 tỷ đồng.
Trước đó, thơng tin về quyết định này của chính phủ cũng đã khiến cà phê tăng giá. Từ ngày
16/3 đến 20/3, chỉ trong vòng 5 ngày, giá cà phê thế giới tại thị trường London đã tăng từ 1201
USD/tấn nhân lên 1267USD/tấn. Ngay sau đó, hai nước xuất khẩu cà phê hàng đầu và thứ ba thế
giới là Brazil, Indonesia cũng có kế hoạch can thiệp vào thị trường giống như cách mà Việt Nam
làm. Hiệp hội Cà phê hai nước này đã có những tiếp xúc với Hiệp hội Cà phê – Ca cao Việt Nam
và quan điểm chung của họ là “ủng hộ việc cắt giảm nguồn cung cà phê để kéo giá lên”.
Bước sang giai đoạn 2011-2012, ngành xuất khẩu cà phê của Việt Nam đã vượt qua giai đoạn

khó khăn và bắt đầu khởi sắc.
Năm 2011, với 1.2 triệu tấn cà phê, tuyệt đại bộ phận là loại robusta , trị giá đạt 2.7 tỷ USD,
tăng 3.2% về lượng và tăng 48.7% về trị giá so với năm 2010, nước ta trở thành nước xuất khẩu
cà phê robusta lớn nhất thế giới. Giá xuất khẩu bình quân năm 2011 cũng ở mức cao kỷ lục với
2200 đô la/tấn dù giá bán xuất khẩu loại 2 dưới hình thức chốt giá sau (trừ lùi) có khi trừ 160 đơ
la/tấn ở thời kỳ đầu năm. Giá xuất khẩu dưới dạng trừ lùi này có lúc bung lên ở mức cao nhất
trong lịch sử mấy trăm năm mua bán cà phê của thế giới, có khi cộng tới cả 300 đơ la/tấn trên giá
niêm yết thị trường kỳ hạn Liffe NYSE, London. Thị trường tiêu thụ cà phê lớn nhất của nước ta
trong năm 2011 bao gồm EU: 490 nghìn tấn, tăng 1.8% và chiếm 39% tổng lượng xuất khẩu
nhóm hàng này của Việt Nam; tiếp theo là Hoa Kỳ: 138.5 nghìn tấn, giảm 9.5%; Nhật
Bản: 50.7 nghìn tấn, giảm 4.4%... so với năm 2010.


Năm 2012 là năm đặc biệt thành công của ngành xuất khẩu cà phê của Việt Nam với mức kỷ lục
cả về lượng và kim ngạch, đạt tới trên 1.7 triệu tấn với kim ngạch 3.67 tỷ USD, tăng trên 30% cả
về lượng và kim ngạch so với năm 2011. Tuy giá xuất khẩu bình qn khơng cao bằng năm 2011
nhưng vẫn là cao so với các năm trước đó. Trong suốt cả 12 tháng, giá giao dịch ở sàn giao dịch
Robusta Liffe NYSE thường ở mức 1800-2100 USD/tấn.
Người dân trồng cà phê đã có đóng góp đáng kể cho sự thành công này. Điều kiện tự nhiên phù
hợp với cây cà phê cộng với triển vọng xuất khẩu của cà phê đã có sức hấp dẫn đối với người
dân mở rộng diện tích, chuyển dịch cơ cấu giống cà phê có giá trị cao, tích cực chăm sóc để có
năng suất, chất lượng sản phẩm. Bên cạnh đó, họ cũng đã chủ động tham gia điều tiết thị trường,
không cịn tình trạng khi thu hoạch rộ thì ồ ạt bán ra làm cho giá cả bị xuống thấp; khi giá xuống
thấp thì lại càng bán ra vì sợ giá xuống thấp nữa. Đồng thời, sự cạnh tranh thu mua cà phê giữa
các công ty trong nước và doanh nghiệp nước ngồi bước đầu đã tạo ra thị trường có lợi cho
người trồng cà phê. Doanh nghiệp trong nước đã tạo được áp lực khá mạnh, sự yếu thế của các
doanh nghiệp FDI một phần là do sai lầm trong chính sách thu mua.
Trái ngược với những kì vọng như trong giai đoạn 2011-2012, bước sang năm 2013, ngành xuất
khẩu cà phê Việt Nam rơi vào khủng hoảng trầm trọng và có nguy cơ phá sản. Đây là năm khó
khăn nhất của ngành kể từ năm 2009.

Biểu đồ: Tình hình xuất khẩu cà phê Việt Nam 9 tháng đầu năm 2013

Nguồn: Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
Theo Reuters, ngành cà phê Việt Nam “đang trong cơn khủng hoảng, gặp khó khăn do trốn thuế,
quản lý yếu kém, thiếu khả năng thanh toán, lãi suất ngân hàng cao và tín dụng bị thắt chặt.”
Theo số liệu của Bộ Nơng nghiệp và Phát triển nông thôn, trong 9 tháng đầu năm 2013, Việt
Nam xuất khẩu được 1031 nghìn tấn cà phê, có giá trị tương đương 2211triệu USD. Ước tính
lượng xuất khẩu trong tháng 10 sẽ giảm xuống còn 58 nghìn tấn, tương đương 119 triệu USD.
Ước tính tồn niên vụ 2012/2013 (bắt đầu từ tháng 10/2012 đến 9/2013) xuất khẩu được 1.411.42 triệu tấn, kim ngạch gần 3 tỉ USD; giảm 10.5% về lượng và giá trị so với niên vụ 2011-


2012. Thị trường chính của Việt Nam vẫn là Đức và Hoa Kì, với thị phần trên 10% về lượng và
giá trị.

Bảng: Xuất khẩu cà phê của Việt Nam 9 tháng đầu năm 2013
(Đơn vị: Lượng= tấn; Giá trị=nghìn USD) (Nguồn: Bộ NN&PTNT)
Đi kèm với tình hình xuất khẩu giảm sút là giá cà phê trong nước liên tục biến động theo chiều
hướng xấu, từ trên dưới 40.000 đồng/kg hồi năm ngối, nay chuẩn bị vào vụ mới cịn 36.000
đồng.
Trên thế giới, giá cà phê như arabica, robusta đang trong chu kỳ thấp nhất trong vòng từ ba đến
bốn năm trở lại đây, trong khi giá thành sản xuất lại tăng nhanh. Những yếu tố rủi ro khác như
cung vượt cầu, rủi ro thị trường, sâu bệnh cũng đang gây cản trở cho niên vụ cà phê sắp tới.

Biểu đồ: Diễn biến giá đóng cửa sàn kỳ hạn Liffe NYSE trong tháng 8-2013


Tuy nhiên, việc chậm được hoàn thuế VAT đầu vào là trở ngại lớn nhất đối với cộng đồng doanh
nghiệp cà phê. Thông thường, doanh nghiệp xuất khẩu cà phê mua hàng qua khâu trung gian và
phải trả thuế VAT 5% trực tiếp trên giá mua khi xuất hoá đơn và người bán hàng (khâu trung
gian) có trách nhiệm nộp lại khoản thuế này cho cục thuế địa phương. Điều kiện được hoàn thuế

là doanh nghiệp thực hiện xuất khẩu hàng đi nước ngoài. Tuy nhiên, từ nhiều tháng nay hầu hết
đều bị cơ quan thuế “ngâm” hồ sơ khiến họ không thể lấy lại được tiền thuế VAT đã nộp trước
đó. Có doanh nghiệp đã gần nửa năm nay khơng được hồn lại hàng chục tỷ đồng thuế VAT nên
khả năng phải ngưng xuất khẩu trong niên vụ tới là rất lớn.
Nợ xấu cũng là một thách thức lớn đối với ngành cà phê hiện nay. Trải qua thời kỳ vay lãi suất
cao, khoảng 17%, ước tính tổng nợ xấu và nguy cơ nợ xấu của ngành cà phê khoảng 8000 tỷ
đồng (chiếm khoảng 60% tổng dư nợ của ngành cà phê). Hầu hết các ngân hàng đều quay lưng
lại với ngành cà phê, vì vậy các doanh nghiệp này đang đứng bên bờ vực phá sản. Các ngân hàng
cho biết họ khơng có lệnh cấm cho các doanh nghiệp xuất khẩu cà phê vay thêm tiền, (lãi suất
khoảng 10 – 16.5 %/năm), nhưng thừa nhận họ không muốn cho đối tượng này vay.
Trước những khó khăn này, bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã kiến nghị với bộ Tài
chính hỗ trợ các mặt hàng nơng sản xuất khẩu. Cụ thể, với mặt hàng cà phê, điều đã qua chế biến
được gia hạn thời gian vay vốn tối đa từ 12 tháng lên 36 tháng với các khoản vay tín dụng từ nhà
nước. Các doanh nghiệp kinh doanh cà phê được tái cơ cấu các khoản nợ vay trước đây lên thời
hạn vay 5 năm. Mặc dù vậy, dự kiến niên vụ cà phê 2013/2014 sản lượng cà phê sẽ giảm khoảng
15% do tác động của các yếu tố trên.
Tóm lại, trong giai đoạn 2005-9/2013, kim ngạch và giá trị xuất khẩu cà phê Việt Nam có xu
hướng tăng nhưng không ổn định, phụ thuộc nhiều vào sự biến động của giá cả thế giới. Trong
những giai đoạn ngành cà phê gặp khó khăn, chính phủ đều đưa ra những giải pháp hỗ trợ người
nông dân và các doanh nghiệp xuất khẩu cà phê nói chung.
4. Những vấn đề còn tồn tại của ngành cà phê Việt Nam
Thơng qua việc phân tích thực trạng ngành xuất khẩu cà phê của Việt Nam, có thể thấy những
nguyên nhân khiến cho ngành cà phê vẫn chưa có được sự tăng trưởng vững chắc là do một số
bất cập như sau.


4.1 Vấn đề trong sản xuất
Trước hết, quy mô, quy trình sản xuất của ngành phát triển chưa đồng đều. Theo Bộ Nông
nghiệp và phát triển nông thôn (NN&PTNT), diện tích trồng cà phê năm 2012 đạt 614.5 nghìn
ha, sản lượng đạt trên 1.27 triệu tấn. So với quy hoạch phát triển cà phê đến 2020, diện tích trồng

cà phê của Việt Nam đã vượt trên 140 nghìn ha, sản lượng vượt 260 nghìn tấn. Việc này có thể
gây một số hệ lụy như sản lượng tăng quá nhanh dẫn đến cạnh tranh không lành mạnh, giá giảm
thấp. Cũng theo Bộ NN&PTNT, tỷ lệ cây cà phê già cỗi cao là một vấn đề của ngành cà phê
Việt Nam. Số cây trên 20 năm trên 86 nghìn ha chiếm 17.3% tổng diện tích cà phê. 40 nghìn ha
cà phê dưới 20 tuổi nhưng đã có biểu hiện già cỗi sinh trưởng kém, năng suất và chất lượng
quá thấp.
Trong khi đó, chi phí sản xuất cà phê ngày càng tăng. Các chi phí như phân bón, nơng dược đang
tăng lên nhanh chóng. Tuy chưa có con số điều tra chính thức nhưng hiện nay chi phí sản xuất 1
kg cà phê của người nông dân khoảng 3.000 đồng, trong khi giá bán ra khoảng 3.800 đồng. Chi
phí đầu vào sản xuất cà phê đang tăng lên tạo ra áp lực về giá bán ra gây khó khăn cho ngành sản
xuất cà phê. Bên cạnh đó, cà phê Việt Nam kém cạnh tranh do thiếu sản phẩm chế biến sâu.
Năng suất cao nhưng chất lượng thấp, không đồng đều nên giá thấp hơn giá thế giới. Theo số
liệu từ ngành nông nghiệp, chỉ có 10% các hộ trồng hái cà phê đã chín, 90% cịn lại hái tuốt cà
phê quả xanh lẫn quả chín, khiến chất lượng cà phê Việt Nam thấp. Đây cũng là một trong những
nguyên nhân khiến giá cà phê Việt Nam thấp hơn giá cà phê thế giới từ 30-40 USD/tấn. Lượng
cà phê có xuất xứ Việt Nam bị loại do không đạt tiêu chuẩn của sàn giao dịch Liffe tại London
còn cao. Niên vụ cà phê 2011-2012, Việt Nam chiếm gần 30% khối lượng cà phê giao dịch
nhưng kim ngạch chỉ chiếm 10% trong tổng số giá trị thương mại toàn cầu. Nguyên nhân là do
chế biến sâu để nâng cao giá trị gia tăng cho sản phẩm cà phê của ta còn hạn chế. Cà phê hòa tan,
cà phê rang xay chiếm chưa đến 10% sản lượng.
4.2 Thiếu tính chủ động trước những diễn biến của thị trường
Sản xuất cà phê Việt Nam thiếu yếu tố ổn định về giá kể cả trong nước cũng như thị trường nước
ngồi. Mặt hàng nơng sản nói chung và đặc biệt là mặt hàng cà phê chịu tác động rất nhiều của
giá cả quốc tế, đặc biệt phụ thuộc vào thị trường London và thị trường NewYork. Lúc ở mức giá
cao nhưng có khi giá lại xuống thấp có năm xuống cả vài trăm USD. Điều này đã tạo điều kiện


cho một số kẻ đầu cơ với khả năng tài chính lớn khống chế thị trường để thu lợi. Tài chính eo
hẹp, cơng cụ kinh doanh hiện đại khơng với tới, các doanh nghiệp cà phê của nước ta phải chịu
những ảnh hưởng nặng nề.

4.3 Thiếu chuyên nghiệp trong quảng bá sản phẩm
Mặt khác, doanh nghiệp Việt Nam hiện vẫn thiếu kinh nghiệm trong giao dịch cà phê quốc tế,
trình độ tiếp thị quảng cáo thấp, ít thương hiệu có uy tín do vậy vẫn phải xuất khẩu qua thị
trường trung gian nên giá xuất khẩu thấp. Theo ông Nguyễn Thanh Tùng, Phó Tổng Giám đốc
CTCP Vinacafé Biên Hịa, hiện Việt Nam chỉ có 4 thương hiệu cà phê hịa tan và 20 thương hiệu
cà phê rang xay, Brazil có đến khoảng 20 thương hiệu cà phê hòa tan và
3.000 thương hiệu cà phê rang xay.
5. Phương hướng và giải pháp đẩy mạnh sản xuất, xuất khẩu cà phê ở Việt Nam.
Ngành cà phê Việt Nam hiện nay đang thực hiện điều chỉnh phương hướng chiến lược nhằm vào
những nội dung chủ yếu sau đây:
- Tăng cường đầu tư, tìm giải pháp huy động vốn hiệu quả.
- Chuyển dịch cơ cấu cây trồng, xác định mục tiêu chiến lược cho ngành.
- Sản xuất hàng hóa chất lượng cao, phù hợp yêu cầu của thị trường, áp dụng tiêu chuẩn chất
lượng sản phẩm Nhà nước phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế, hạ giá thành sản phẩm.
- Đổi mới công nghệ, đa dạng hóa sản phẩm, mẫu mã, tăng cường các hoạt động tiếp thị.
- Đổi mới quan hệ mua bán, mở rộng thị trường cho cà phê Việt Nam, quan tâm đầy đủ hơn đến
thị trường nội địa.
Làm tốt những phương hướng, chiến lược đã đề ra như trên chính là phát triển một ngành cà phê
bền vững ở Việt Nam, sẵn sang cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
Cụ thể như sau:
5.1 Tạo nguồn vốn đầu tư


Với những thực tế đã được dẫn chứng ở trên, có thể khẳng định lại rằng vốn đầu tư có tầm quan
trọng to lớn đến mọi mặt hoạt động của ngành cà phê Việt Nam và chất lượng sản phẩm. Do đó,
tìm và tạo nguồn vốn ln là vấn đề được đặt lên hàng đầu.
Về phía nhà nước, Nhà nước nên giao một phần các nguồn vốn trong đó có vốn xây dựng cơ
bản, vốn định canh, định cư, xoá đói giảm nghèo cho các doanh nghiệp kinh doanh cà phê (một
lực lượng tích cực tham gia vào các chương trình kinh tế xã hội tại các vùng sản xuất cà phê), và
tạo điều kiện cho ngành cà phê được sử dụng một phần nguồn vốn viện trợ phát triển chính thức

(ODA) để xây dựng cơ sở hạ tầng, đầu tư công nghệ chế biến; thực hiện cho vay vật tư sản xuất
như phân bón, thuốc trừ sâu, cây giống.
Nhà nước nên tạo cơ hội hơn trong việc tiếp cận vốn từ các công ty tư nhân, việc làm này sẽ tạo
sự công bằng giữa các doanh nghiệp với nhau. Điển hình ở đây là doanh nghiệp tư nhân và
doanh nghiệp nhà nước. Doanh nghiệp nhà nước thường được ưu ái hơn trong việc tiếp cận vốn
nên gây ra tình trạng không công bằng đối với doanh nghiệp tư nhân. Tiếp tục mở rộng đối tượng
cho vay, giảm bớt thủ tục cho vay, tiếp tục tăng thời hạn sử dụng nguồn vốn vì sản xuất cà phê
cần ổn định và lâu dài. Không chỉ cho vay với lãi suất thấp mà nên cho vay thep phương thức
vay liên tục chứ không cho vay một lúc, đây là phương thức vay nhằm đáp ứng yêu cầu kĩ thuật
của sản xuất cây cà phê…
Về phía các doanh nghiệp: cần tăng cường huy động vốn và vay ngân hàng, nhanh chóng cổ
phần hố các doanh nghiệp cà phê để huy động vốn nhàn rỗi trong các tầng lớp dân cư. Giải
pháp này cần ưu tiên bán cổ phiếu cho người lao động trực tiếp tham gia sản xuất, chế biến cà
phê.
Về phía ngân hàng cần nghiên cứu cho các doanh nghiệp vay vốn với lãi suất ưu đãi để các
doanh nghiệp ổn định được chân hàng xuất khẩu. Ngoài ra, ngân hàng cũng quan tâm giải quyết
cho nông dân vay để mở rộng sản xuất, thành lập hệ thống tín dụng nơng thơn để hỗ trợ vốn kịp
thời cho nông dân bằng cách thành lập các ngân hàng thương mại cổ phần, xây dựng các chi
nhánh ngân hàng nông nghiệp tại các vùng cà phê trọng điểm. Thêm nữa là nên giảm bớt thủ tục
hành chính rườm rà, gây lãng phí thời gian và tiền bạc trong việc giải quyết vay hay hỗ trợ vốn.
Và cuối cùng là việc khuyến khích, thu hút các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư, hỗ trợ vốn là
việc làm cần thiết và mang lại hiệu quả to lớn.


5.2 Chuyển đổi cơ cấu cây trồng.
Ngành cà phê Việt Nam chủ trương đổi mới phương hướng sản xuất theo hai hướng. Thứ nhất là
giảm bớt diện tích cà phê Robusta, chuyển các diện tích cà phê già cỗi, kém phát triển, khơng có
hiệu quả sang các loại cây trồng lâu năm khác như cao su, hạt điều, hồ tiêu...Thứ hai là mở rộng
diện tích cà phê Arabica ở nơi có điều kiện khí hậu, đất đai thật thích hợp. Mục tiêu cuối cùng
trong chiến lược này là giữ tổng diện tích cà phê khơng đổi ở mức hiện nay, hoặc giảm chút ít,

khoảng 520000ha nhưng cơ cấu chủng loại cà phê cần thay đổi. Trong đó cà phê Robusta là
350000 ha đến 400000 ha (giảm 100000-150000 ha). Cà phê Arabica là 100000 ha (tăng 60000
ha so với kế hoạch cũ). Tổng sản lượng cà phê đảm bảo ở mức 1 triệu tấn. Tham khảo từ kinh
nghiệm trong nước và quốc tế cho thấy sự chuyển dịch cơ cấu này là hợp lý đối với nông nghiệp
Việt Nam cũng như với thị trường cà phê quốc tế. Điều kiện đất đai khí hậu ở Việt Nam cho
phép phát triển nhiều loại cây trồng có hiệu quả kinh tế cao như cao su, ca cao, hồ tiêu, hạt điều,
cây ăn quả... giảm bớt đất cà phê để nhường chỗ cho cây trồng khác là cần thiết. Tất nhiên tiến
độ chuyển dịch này nhanh hay chậm cũng còn tuỳ thuộc vào khả năng cung cấp tài chính của
Nhà nước cho nơng dân vì đây cũng là một việc làm tốn kém và đòi hỏi một sự chuyển giao kĩ
thuật đầy đủ, chu đáo.


5.3 Nâng cao năng suất, hạ giá thành sản phẩm.
Nâng cao chất lượng cà phê đóng vai trị vơ cùng quan trọng.
Cần xây dựng các doanh nghiệp cà phê đạt tiêu chuẩn ISO về quản lí chất lượng sản phẩm.
Hệ thống tiêu chuẩn ISO-9000 và ISO-14000 được tổ chức quốc tế BCQI vương quốc Anh đề ra
và trực tiếp kiểm tra. Tiêu chuẩn ISO-9000 là một hệ thống quản lí chất lượng sản phẩm, ISO14000 là một hệ thống quản lí về mơi trường sản xuất. Nó như một tấm vé vào cửa của các mặt
hàng xuất khẩu nói chung và cà phê nói riêng. Vì vậy, việc tiến hành xây dựng các doanh nghiệp
cà phê đạt tiêu chuẩn ISO về quản lí chất lượng sản phẩm là một nhiệm vụ cần phải tiến hành
trong thời gian tới. . Ngoài ra, Việt Nam cũng cần tham gia vào chương trình phối hợp khuyến
khích thương mại của các nước ASEAN (gồm 15 mặt hàng nơng-lâm-thuỷ sản, trong đó có mặt
hàng cà phê) để từ đó xây dựng tiêu chuẩn chất lượng chung phù hợp với tiêu chuẩn chất lượng
của WTO, tham gia luồng hàng cùng loại của các nước ASEAN vào thị trường thế giới.
Việc bố trí giống hợp lí là hết sức cần thiết nhằm tăng năng suất, nâng cao chất lượng và phịng
chống sâu bệnh. Bên cạnh đó cần có chính sách khuyến khích nghiên cứu các giống mới có năng
suất và chất lượng cao, đồng thời nâng việc quản lí cây trồng và quy hoạch. Trong thời gian tới,
công tác giống cần phát triển theo các hướng xây dựng cơ cấu giống phù hợp với điều kiện sinh
thái của từng vùng, từng bước tăng diện tích cà phê chè ở miền Bắc và miền Trung. Cần tạo điều
kiện cho các trung tâm giống về vốn và thiết bị, tạo cơ hội cho cán bộ nghiên cứu tiếp cận với
các trung tâm giống của các nước trong khu vực và thế giới.

Cần tăng cường công tác khuyến nông thông qua Hiệp hội cà phê Việt Nam phối hợp với Tổng
công ty cà phê Việt Nam thực hiện việc đào tạo tập huấn kĩ thuật trồng và chăm sóc cà phê, có sự
phối hợp giúp đỡ của Cục Khuyến nơng và Cục Bảo vệ thực vật Bộ NN và PTNT cũng như các
trung tâm, chi cục của từng địa phương. Công tác bảo vệ thực vật là không thể thiếu trong q
trình gieo trồng, chăm bón cây cà phê. Trước hết các nhà sản xuất cà phê cần hợp tác với trung
tâm bảo vệ thực vật để triển khai chương trình phịng trừ sâu bệnh cho câu trồng. Nhà nước cũng
cần phải có biện pháp tích cực để điều hành cơng tác nhập khẩu phân bón nhanh, đúng chủng
loại, từng bước khuyến khích người dân sử dụng phân bón hữu cơ thay thế phân bón hố học,
tăng hiệu quả cây trồng, giảm ơ nhiễm mơi trường, tiết kiệm chi phí phân bón trong sản xuất.


Ngoài ra, đội ngũ lao động kỹ thuật lành nghề đóng vai trị quan trọng trong nâng cao năng suất
và chất lượng sản phẩm. Các doanh nghiệp cà phê phải có kế hoạch tuyển dụng và thường xuyên
bồi dưỡng, tạo điều kiện để đội ngũ này được phát triển. Đây là một việc làm quan trọng có tính
chiến lược cao. Bởi chỉ có được một đội ngũ cán bộ lao động cao mới biết sử dụng tốt các thiết
bị máy móc, biết tạo ra sản phẩm chất lượng với năng suất cao, giá thành hạ.
5.4 Đổi mới công nghệ, đa dạng hóa sản phẩm, mẫu mã, bao bì, tăng cường các
hoạt động tiếp thị
Đầu tư công nghệ chế biến hiện đại cho ngành cà phê là điều hết sức cần thiết. Để tạo đà cho các
doanh nghiệp cà phê phát triển và ứng phó kịp thời với những thay đổi về chất lượng, giá cả ...
cần tập trung máy móc thiết bị chế biến cà phê thô ngay từ khi mới thu hoạch, nhằm đảm bảo
chất lượng ổn định, đồng đều. Đồng thời phải có dự án lựa chọn thiết bị hiện đại, đồng bộ và có
hiệu quả cao kết hợp việc nghiên cứu áp dụng các thiết bị chế biến nhỏ, gọn ở khu vực cà phê tư
nhân. Khuyến khích các doanh nghiệp kinh doanh cà phê tập trung đầu tư trang thiết bị để
chuyển từ xuất khẩu thô sang xuất khẩu cà phê chế biến. Phải sử dụng thêm nhiều cụm chế biến
công nghiệp bao gồm công nghệ chế biến ướt và khô, hệ thống sấy, xay xát, đánh bóng, sân phơi,
nhà kho... Một việc khơng kém phần cấp bách là Tổng công ty cà phê Việt Nam phải sớm thành
lập doanh nghiệp cơ khí thiết bị chế biến để sản xuất và cung ứng các máy móc thiết bị chuyên
dùng trong công nghiệp cà phê. Đồng thời cần tập trung đầu tư vào xây dựng nhà máy chế biến
cà phê hoà tan tại các vùng sản xuất cà phê lớn, cà phê hồ tan có giá trị xuất khẩu cao, giá cả ổn

định, bảo quản lâu dài.
Đa dạng hóa bao bì, sản phẩm, mẫu mã cũng rất quan trọng. Mẫu mã bao bì cà phê xuất khẩu
cũng là một trong những yếu tố ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh. Như chúng ta biết, cà phê là
một trong những đồ uống cao cấp, do vậy cần thiết cải tiến mẫu mã đa dạng, phong phú cho phù
hợp với nhu cầu thị hiếu của người tiêu dùng. Nhiều khi chất lượng sản phẩm tương đương nhau
nhưng nếu mẫu mã đẹp hơn sẽ có sức thuyết phục hơn với khách hàng. Việc cải tiến mẫu mã sản
phẩm sẽ làm nổi bật lên đặc tính của nó, đưa lại hình ảnh đẹp, một sự ủng hộ thương mại hóa.
Đây là một yếu tố rất quan trọng vì thị trường tiêu thụ cà phê là các nước công nghiệp phát triển
nên yêu cầu rất nghiêm ngặt về kích cỡ, mẫu mã, bao bì sản phẩm. Ngành cà phê Việt Nam cần
đổi mới bao bì nhãn mác, tránh tình trạng khơng có nhãn mác như hiện nay. Do vậy, muốn nâng


cao giá trị sản phẩm và tăng lượng cà phê nhập khẩu của Việt Nam ra thị trường cà phê thế giới
dễ dàng thì đây là một trong những giải pháp cần được quan tâm đúng mức.
Bên cạnh đó, cơng tác tiếp thị quảng cáo, chào bán hàng cần phải tập trung điều tra nghiên cứu
nhu cầu tiêu dùng của thế giới. Nên củng cố thường xuyên và liên tục các thông tin về sản xuất,
tiêu thụ, thị trường, giá cà phê thế giới trong toàn ngành cà phê để tranh thủ thời cơ, lợi nhuận.
Đẩy mạnh tuyên truyền quảng cáo trong và ngồi nước, tích cực tham gia vào hội chợ cà phê
quốc tế cũng như triển lãm thành tựu khoa học kĩ thuật. Khi Việt Nam là thành viên của tổ chức
cà phê quốc tế (ICO) thì ngành cà phê Việt Nam có điều kiện hơn để xúc tiến bán chào hàng và
kí kết các hợp đồng bn bán cà phê với các nước. Vì vậy, Việt Nam cịn phải tăng cường hơn
nữa cơng tác tiếp thị, quảng cáo, bán chào hàng để tăng cường hơn nữa sản lượng cà phê xuất
khẩu. Để thu hút ngoại tệ nhiều hơn cho đất nước, ngành cà phê Việt Nam cũng cần tham gia các
tổ chức quốc tế và quan hệ thương mại với các nước trên thế giới.
5.5. Mở rộng thị trường, tăng cường hợp tác quốc tế
Trên cơ sở đã chiếm lĩnh được thị trường trong nước, mở rộng thị trường tồn cầu, tăng uy tín và
vị thế cà phê Việt Nam là công việc không dễ dàng cần phải thực hiện. Khối lượng cà phê xuất
khẩu ngày một lớn không thể thụ động ngồi chờ ai đến mua thì bán mà cần chủ động tạo thị
trường, mở rộng thị trường. Đây là một trong những quốc sách lớn của Nhà nước và nhiệm vụ
chung của các ngành các cấp. Nhà nước cần tạo nhiều cơ hội cho các doanh nghiệp ngành cà phê

tiếp cận với thị trường nước ngồi thơng qua hệ thống tham tán thương mại, qua hội chợ triển
lãm thương mại quốc tế.
Ngoài ra Bộ Thương mại, cơ quan thường vụ ở các nước cần mở rộng hoạt động xúc tiến thương
mại bằng nhiều hình thức để quảng bá cà phê Việt Nam trên thị trường thế giới, sử dụng các
phương thức thương mại khác như đổi hàng, các Hiệp định Chính phủ… Việt Nam đã gia nhập
ICO, sẽ tham gia ACPC và những tổ chức quốc tế khác có liên quan để tăng cường hợp tác kinh
tế thương mại, khoa học, công nghệ và phát triển nguồn nhân lực. Thêm vào đó, việc xác định và
phân loại thị trường cũng hết sức quan trọng. Ngành cần xác đinh EU là thị trường tiềm năng cho
xuất khẩu mặt hàng cà phê. Với thị trường khó tính này, ngành cà phê Việt Nam cần phải có
những chính sách hợp lý và sự chuẩn bị thật kĩ lưỡng. Bên cạnh đó các thị trường khác cũng cần
được chú trọng, bao gồm:




Thị trường chủ yếu: Mĩ, Singapore, Pháp, Đức, Thụy Sĩ, Nhật, Hà Lan,




Hồng Kong, Nga,…
Thị trường chiến lược: Singapore, Hồng Kong…
Thị trường tiềm năng: Tây Âu, Bắc Âu, Nhật, Mĩ.

6. Kết luận
Qua những phân tích trên chúng ta có thể thấy được hiện trạng của ngành cà phê Việt Nam giai
đoạn 2005-9/2013, bên cạnh những mặt đạt được còn nổi cộm lên nhiều vấn đề cần phải giải
quyết. Cà phê là một mặt hàng có giá trị kinh tế, đem lại nguồn ngoại tệ đáng kể cho đất nước.
Phát triển ngành cà phê góp phần xóa đói, giảm nghèo, tăng thu nhập cho một bộ phận lớn dân
cư, ổn định chính trị, an ninh quốc phịng. Hiện nay, mặc dù vẫn đang phải đối mặt với những

khó khăn, ngành cà phê Việt Nam đang từng bước phát triển và khẳng định chỗ đứng của mình
trên thị trường quốc tế, khơng ngừng vươn lên và có những thành cơng đáng kể. Vấn đề đặt ra là
cần phải có cái nhìn một cách khách quan và chân thực để tháo gỡ những khó khăn, đem lại
thành cơng cho ngành. Trong giai đoạn hiện nay, việc Việt Nam trở thành thành viên chính thức
của WTO đã tạo ra nhiều cơ hội và cũng khơng ít thách thức cho ngành cà phê. Do đó, ngành cà
phê Việt Nam cần phải có phương hướng vững chắc và phù hợp, từ đó tạo ra vị thế vững chắc
cho ngành trên thị trường.


Tài liệu tham khảo
/> /> /> /> /> /> /> /> />


×