Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

SKKN Một vài biện pháp “Rèn chữ, giữ vở” cho học sinh lớp 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (176.15 KB, 21 trang )


Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

* *
*
ĐỀ TÀI
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
NĂM HỌC 2013 – 2014
I. SƠ YẾU LÍ LỊCH
Họ và tên: NGYỄN THỊ HOẠT
Ngày tháng năm sinh: 03 – 07 – 1971
Chức vụ: Giáo viên giảng dạy lớp 1B
Năm vào ngành: 1992
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Đỗ Động – Thanh Oai –
Hà Nội
Trình độ chuyên môn: Đại học
Chuyên ngành: Tiểu học
Khen thưởng: Lao động tien tiến
GV:
Nguyễn Thị Hoạt
1

A. ĐẶT VẤN ĐỀ
Tên đề tài: Một vài biện pháp “Rèn chữ, giữ vở” cho học sinh
lớp 1.
I. Lý do chọn đề tài.
Chữ viết là mục tiêu ban đầu, có tầm quan trọng đặc biệt ở bậc Tiểu học.
Nhất là đối với học sinh lớp 1. Tập đọc, học vần giúp học sinh đọc thông. Tập
viết giúp các em viết thạo. Đọc thông và viết thạo có quan hệ mật thiết với nhau.
Chính vì vậy chữ viết đẹp của học sinh được mọi người trong và ngoài ngành


giáo dục đều quan tâm, lo lắng. Vì thế người Việt Nam thường nói.
“ Nét chữ thể hiện nết người”
“Dạy chữ rèn nết người
Việc không bao giờ cũ
Trồng cây với trồng người
Một tình yêu muôn thuở”
Nguyễn Thị Trâm
Đúng như vậy nét chữ thể hiện tính cách con người. Thông qua rèn luyện
chữ viết mà giáo dục nhân cách con người. Chữ viết đẹp thể hiện sự cẩn thận,
gọn gàng, ngăn nắp. Vì vậy phong trào thi đua “Rèn chữ, giữ vở” vừa là mục
đích vừa là phương tiện trong quá trình rèn luyện học sinh. Viết đúng dẫn tới
việc viết đẹp cho học sinh, nó góp phần vào việc giáo dục toàn diện cho học sinh
ngay từ lớp 1. Chữ viết còn là cách giao tiếp không thể thiếu được trong cuộc
sống hàng ngày. Chính vì vậy việc rèn chữ trong nhà trường vô cùng quan trọng.
Bởi ở cấp tiếu học nhất là ở lớp 1 các em mới bắt đầu làm quen với chữ viết nên
việc rèn chữ cho các em là rất cần thiết.
Hiện nay trong các nhà trường việc “Rèn chữ, giữ vở" cho học sinh rất được
GV:
Nguyễn Thị Hoạt
2

Mọi người quan tâm. Xong một số học sinh khi mới vào lớp 1 còn đặt vở ngược,
vở nhàu, quăn mép, mất bìa, chữ viết sai, tẩy xoá nhiều. Xong với việc giữ gìn
sách vở cẩu thả là việc không bảo quản đồ dùng học tập.
Nhìn thấy được vấn đề như vậy tôi luôn băn khoăn lo lắng. Điều đó thúc
dục tôi tìm cách giải quyết sao cho việc “Rèn chữ, giữ vở” đạt kết quả cao.
Chính vì vậy tôi đã chọn đề tài: Một vài biện pháp “Rèn chữ, giữ vở” cho học
sinh lớp 1 trong trường tiểu học Đỗ Động làm đề tài nghiên cứu.
1. Cơ sở lý luận.
Như chúng ta đã biết văn hoá là chìa khoá mở đầu cho việc phát triển tri

thức. Văn hoá ảnh hưởng lớn đến đời sống kinh tế, chính trị, xã hội. Để hoà nhập
với thời đại mới học sinh ngày một nâng cao. Vậy mỗi giáo viên phải có một
trình độ nhất định, nên việc giáo dục học sinh cũng như việc “Rèn chữ, giữ vở”
cho học sinh trong nhà trường đang là vấn đề cấp bách mà chúng ta cần phải
quan tâm. Tuy nhiên việc “Rèn chữ, giữ vở” cho học sinh không những chỉ ở
trên lớp, giữa thầy và trò mà còn kết hợp chặt chẽ với gia đình. Để thúc đẩy
mạnh mẽ sự phát triển tư duy của các em. Là tiền đề cho việc học tốt các môn
học khác như: nghe, nói, đọc, viết….
2. Cơ sở thực tiễn.
Đối với học sinh lớp 1 ngày đầu tiên đi học. Việc các em tiếp cận với chi
thức tiểu học quả thật là khó. Các em còn bỡ ngỡ chưa biết đọc, chưa biết viết,
chưa ý thức được mình sẽ làm gì trong các tiết học. Để làm quen với chữ viết
đối với các em thật khó. Bởi đôi tay còn vụng về non nớt, lóng ngóng. Là giáo
viên dạy lớp 1 nhiều năm. Tôi luôn trăn trở suy nghĩ một câu hỏi. Ở lớp 1 có nên
tiến hành dạy các em viết đẹp ngay không? Sau nhiều năm đúc rút qua việc
giảng dạy môn tập viết. Tôi nhận thấy rằng đối với học sinh lớp 1, nếu cùng một
lúc đòi hỏi các em viết đúng viết đẹp ngay là một điều không thực tế, khó có thể
thực hiện được. Do vậy đối với từng lớp giáo viên cần lựa chọn mục tiêu trọng
GV:
Nguyễn Thị Hoạt
3

tâm của môn học phù hợp với lứa tuổi để học sinh tiếp thu bài một cách vững
chắc. Nên tôi đã xác định. Muốn viết chữ đẹp thì việc đầu tiên cần làm ở lớp 1
là rèn cho trẻ có nề nếp kĩ thuật viết chữ đúng. Từ việc viết đúng đó mới có cơ
sở viết chữ đẹp. Đây là yêu cầu có tính quyết định trong việc ‘Rèn chữ, giữ vở”
cho học sinh trong suốt quá trình học tập của các em khi học ở lớp 1.
3. Mục đích của sáng kiến kinh nghiệm
Nhằm nâng cao công tác giảng dạy phân môn Tập viết, chính tả và việc
“Rèn chữ, giữ vở” cho học sinh lớp 1 trong trường Tiểu học Đỗ Động nói chung

và lớp 1B nói riêng. Là giúp các em viết đúng cỡ chữ, độ cao thấp, khoảng cách.
Từ đó dẫn đến việc viết sạch đẹp, trình bày bài được tốt. Các em có khả năng
nhận thức và nhớ được quy tắc viết chính tả. Đó chính là mục đích để tôi cố gắng
hoàn thiện sáng kiến kinh nghiệm này.
4. Đối tượng nghiên cứu
Học sinh lớp 1B trường Tiểu học Đỗ Động: Gồm 25 em .
5. Phạm vi nghiên cứu
Thời gian nghiên cứu đề tài từ đầu tháng 9/2013 đến hết tháng 3/2014.
6. Kế hoạch nghiên cứu
Góp phần nâng cao chất lượng dạy và “Rèn chữ, giữ vở” cho học sinh lớp 1
Nghiên cứu những vấn đề lí luận và phương pháp
Tìm phương pháp nâng cao việc “Rèn chữ giữ vở” cho học sinh lớp 1.
Tìm hiểu việc “Rèn chữ giữ, vở” để rút ra những ưu điểm nhược điểm từ
đó phát huy được ưu điểm.
Có những biện pháp khắc phục những hạn chế nhằm nâng cao chất lượng
dạy và học
B. NỘI DUNG
I. Tình hình thực tế:
Ngay sau khi được phân công chủ nhiêm lớp 1B. Tôi tiến hành tìm hiểu và
thấy rằng
GV:
Nguyễn Thị Hoạt
4

Lớp 1B gồm 25 em trong đó có 15 em nam và 10 em nữ. Các em thuộc hai
thôn: 21 em ở thôn Cự Thần và 4 em ở thôn Trình Xá. Mỗi em có một hoàn cảnh
khác nhau. Trong lớp có 5 em hoàn cảnh vô cùng khó khăn. Em thì bố ốm, một
mình mẹ phải nuôi đàn con nhỏ. Có em thì bố mất sớm, mẹ lại phải đi làm xa
kiếm tiền nuôi em ăn học. Nên em phải ở nhà với bà ngoại già nua. Em thì lại
sinh ra trong gia đình đông con nên hoàn cảnh vô cùng khó khăn. Ngày ngày em

phải làm thêm để phụ cho mẹ …Nhiều gia đình chưa quan tâm thực sự đến việc
học hành của con em mình.
a) Số liệu điều tra qua giáo viên mầm non
Sau khi khai giảng xong tôi điều tra qua cô giáo mầm non dạy lớp 5 tuổi
được cô cho biết:
- Số học sinh viết được một số chữ cái là khoảng 8 em
- Số học sinh không viết được khoảng 17 em
Vì ở lứa tuổi này các em học trước quên sau
b) Số liệu khảo sát đầu năm
- Tôi tiến hành khảo sát thực tế của lớp 1B trường Tiểu học Đỗ Động. Số
liệu cụ thể như sau
II. Công tác tổ chức lớp

Từ tình trạng thực tế trên bắt đầu vào năm học tôi đã tiến hành ổn định tổ chức
lớp.
Trong lớp việc sắp xếp chỗ ngồi có tác động rất lớn đến việc tiếp thu bài
của các em. Đặc biệt đối với học sinh lớp 1B tôi phụ trách. Mỗi em có một hoàn
GV:
Nguyễn Thị Hoạt
Líp Sè häc sinh
Sè häc sinh viÕt ®-
îc mét sè ch÷ c¸i
Sè häc sinh kh«ng
viÕt ®îc
1B 25 em 7 em 18 em
5

cảnh khác nhau, một sức học khác nhau. Vì vậy tôi bố trí các em ở các xóm gần
nhau vào cùng một tổ để các em tiện giúp nhau trong học tập. Mỗi tổ, sao được
mang tên một con vật ngộ nghĩnh. Cụ thể là.

Tổ 1: Gồm các em ở Trình Xá và xóm 1, 2 với tên sao là sao Chim non.
Tổ 2: Gồm các em ở xóm 3, 4,5 với tên sao là sao Thỏ Trắng
Tổ 3: Gồm các em ở xóm 6, 7, 8 với tên sao là sao Hoạ Mi
- Khi sắp xếp chỗ ngồi xong. Tôi kết hợp với đồng chí Hường tổng phụ
trách. Nêu rõ tiêu chuẩn của người sao trưởng. Để các em tự bầu ra những cán
bộ uy tín cho tổ mình và trùng với dự kiến của giáo viên chủ nhiệm.
Cụ thể
Sao chim non: em Phương Linh làm sao trưởng
Sao Thỏ trắng: em Phương Mai làm sao trưởng
Sao Hoạ mi: em Yến Nhi làm sao trưởng
Quản ca là em Hà Vi
Lớp trưởng là em Phương Nam
Sau khi chọn cán sự lớp xong. Tôi giao nhiệm vụ cụ thể cho từng em. Quản
lí các bạn trong sao của mình, đồng thời giúp đỡ các bạn còn kém, còn yếu hay
rụt rè. Quan tâm đặc biệt đến những bạn có hoàn cảnh khó khăn trong sao của
mình. Việc xếp chỗ ngồi như trên sẽ tiện lợi cho các em học nhóm. Cũng như
các em có thể tự quản trong các buổi thảo luận.
III. Các biện pháp cụ thể
1. Biện pháp thứ nhất: Sử dụng đồ dùng dạy - học
Với đặc trưng của môn học tập viết là phân môn có tính chất thực hành. Để
dạy tập viết đạt hiệu quả cao. Việc đầu tiên giáo viên cần làm là: Chú trọng việc
chuẩn bị tốt trang thiết bị đồ dùng dạy - học.
GV:
Nguyễn Thị Hoạt
6

Ngay sau khi khảo sát thực tế chất lượng đầu năm. Tôi đã tiến hành họp phụ
huynh học sinh của lớp để cùng kết hợp việc chuẩn bị trang thiết bị đồ dùng học
tập cho các em.
+ Cơ sở vật chất:

Nhà trường đã trang bị phòng học đúng quy cách: đủ ánh sáng, có quạt mát
về mùa hè. Bảng lớp có dòng kẻ treo ở độ cao phù hợp, bàn ghế đôi phù hợp với
học sinh lớp 1.
+ Đồ dùng giảng dạy của giáo viên:
Có bảng mẫu chữ cái viết thường và viết hoa, mẫu chữ cái viết trên khung
giấy có kẻ ô, bảng hệ thống các quy tắc viết chính tả, bảng phụ, phấn màu, vở tập
viết như học sinh và một số đồ dùng tự làm của giáo viên để phù hợp với bài
học.
+ Đồ dùng của học sinh:
Thống nhất với phụ huynh học sinh trang bị cho các em đầy đủ: Vở tập viết,
bảng con, bút mực, phấn, giẻ lau bảng. hộp đựng phấn có ngăn để giẻ lau để đảm
bảo vệ sinh trong giờ học. Tuyệt đối học sinh không sử dụng bút bi.
+ Gia đình:
Luôn giành thời gian quan tâm tạo điều kiện tốt cho học sinh học tập. Các
em ở lứa tuổi còn nhỏ thường hiếu động, thiếu kiên trì, khó thực hện các động
tác đòi hỏi sự khéo léo, cẩn thận. Vì vậy gia đình cần động viên, nhắc nhở các
em kịp thời. Cần kèm cặp các em tận tình chu đáo. Đây là một trong những yếu
tố quan trọng của gia đình ở nhà để kết hợp với giáo viên ở lớp. Có như vậy mới
đảm bảo sự thành công của việc “Rèn chữ, giữ vở” cho các em
2. Biện pháp thứ hai: Biện pháp tác động theo cách làm cũ và mới
* Cách làm cũ: ví dụ viết chữ Q hoa ( giai đoạn viết cỡ chữ nhỡ)
- Giới thiệu bài tô chữ hoa Q
- Cho học sinh quan sát chữ Q hoa
GV:
Nguyễn Thị Hoạt
7

- Giáo viên hỏi chữ Q hoa gồm mấy nét ( gồm 2 nét)
- Kiểu nét ( nét cong kín)
- Độ cao ? ( 5 đơn vị)

- Giáo viên hướng dẫn tô sau học sinh lên bảng lấy que chỉ nét đặt bút và
đưa bút
- Giáo viên hướng dẫn cách viết( học sinh viết bảng con)
- Giáo viên nhận xét sửa sai
- Cho học sinh viết vào vở
Cách làm này cho thấy hiệu quả chưa cao lắm tôi chuyển sang cách làm
mới theo trình tự sau:
* Cách làm mới:
- Điều kiện tư thế ngồi viết
Ngay buổi đầu tiên vào lớp 1 tôi đã hướng dẫn rất kĩ về tư thế ngồi viết
một cách thoải mái, không gò bó cho các em. Hai tay phải đặt đúng điểm tựa quy
định với điều khiển cây bút theo sự chỉ huy của não được. Nếu ngồi quá cao thì
đầu phải cúi gằm xuống còn ngồi quá thấp đầu phải nhìn lên ( dễ gây tê mỏi).
Tuyệt đối không quỳ nằm viết tùy tiện. Khoảng cách từ mắt tới mặt bàn khoảng
25 cm. Cột sống lưng luôn ở tư thế thẳng đứng, vuông góc với mặt ghế ngồi.
Không ngồi vặn vẹo quá lâu dần thành tật. Chân ngồi thoải mái không được co
chân. Tay trái để xuôi theo chiều ngồi giữ mép giấy.
- Hướng dẫn cách cầm bút
Cầm bút bằng ba ngón tay là ngón cái, ngón trỏ còn ngón giữa làm điểm
tựa bên dưới. Lúc viết, điều khiển cây bút bằng các cơ cổ tay và các ngón tay,
không thể ngửa tay tạo lên trọng lượng tì xuống lưng bàn tay, ngón tay sẽ áp sát
cả bốn ngón tay. Ở giai đoạn viết chì cần chuẩn bị chu đáo cho đầu nét chì hơi
nhọn đúng tầm. Nếu quá nhọn dẫn đến nét chữ mảnh. Đầu nét chì quá tù nét chữ
quá to thì chữ viết sẽ xấu. Cầm bút xuôi theo chiều ngồi góc độ cách mặt giấy

GV:
Nguyễn Thị Hoạt
8

54 độ. Tuyệt đối không cầm bút dựng đứng 90 độ, đưa bút từ trái qua phải, từ

trên xuống dưới đưa nhẹ bút vào giấy.
- Từ cách chuẩn bị này, khi viết, tô chữ hoa uốn có bụng. Trong những
cách viết trên đây tôi còn cung cấp một số bài mẫu viết đẹp của năm trước để
cho các em tham khảo học tập. Sau nhiều năm dạy ở lớp 1 tôi nhận thấy phần
dạy học sinh làm quen với việc tô chữ còn có sự mâu thuẫn. Nên tôi đã hướng
dẫn theo các cách làm như trên. Tôi chỉ cải đổi một chút ít cho từng giai đoạn
viết trên.
Ví dụ: Tô chữ Q hoa tôi cũng thực hiện các bước như: Tôi dùng phấn màu
tô trên bảng lớp. Vừa tô vừa hướng dẫn từng bước. Sau đó tôi chưa sửa sai vội ở
mục này cho các em mà tôi cho các em tô vào vở. Cuối cùng tôi mới cho các em
viết vào bảng con. Bằng cách thay đổi này học sinh bớt căng thẳng và phấn khởi
khi đã được tô chữ trước khi tập viết chữ hoa. Tôi nhận thấy lớp học sinh lớp 1B
trường Tiểu học Đỗ Động có nhiều tiến bộ.
3. Biện pháp thứ ba: Rèn chữ viết đúng với các nhóm chữ cụ thể
Nhóm 1: 16 con chữ có chiều cao 1 đơn vị: a, ă, â o, ô, ơ, e, ê, i, u, ư, c, n, m,
x, v.
Nhóm 2: 4 con chữ có chiều cao 2 đơn vị: d, đ, p, q.
Nhóm 3: 1 con chữ có chiều cao 1,5 đơn vị: t
Nhóm 4: 2 con chữ cao 1,2 đơn vị: r, s
Nhóm 5: 6 con chữ cao 2,5 đơn vị: b, h, k, l, g, y.
Tôi đặt ra kế hoạch rèn chữ theo từng nhóm chữ ở hàng tuần, hàng tháng
một cách cụ thể. Mỗi tuần tôi rèn một nhóm chữ nhất định, rèn đúng loại chữ này
thì mới chuyển sang rèn loại chữ khác. Loại chữ này viết đúng kĩ thuật rồi mới
chuyển sang loại chữ khác. Rồi tiến tới rèn viết đẹp nên học sinh rất say mê,
phấn khởi, không căng thẳng lo lắng khi viết. Sau mỗi bài viết cần nhận xét “ nét
nào được, nét nào còn xấu” Tôi cố gắng để tìm nguyên nhân vì sao lại xấu. Tại
GV:
Nguyễn Thị Hoạt
9


cách cầm bút, tư thế ngồi không đúng quy định hay tay đặt bút không có điểm
tựa, chưa chuyển dịch bút đúng tầm tay đưa bút, do vướng vấp cạnh bàn sẽ bị
nhăn vở, mực xuống không đều … Chắc có nhiều nguyên nhân dẫn đến chữ xấu
trong khi viết. Sau khi phát hiện ra nguyên nhân chỗ viết xấu, cần giúp trẻ rút
kinh nghiệm, tránh được sai sót. Tôi còn nhận xét sau khi kiểm tra bài và cần gặp
phụ huynh để trao đổi về việc tự rèn viết ở nhà, tránh căng thẳng ở lớp và cũng
như ở nhà. Không nên quá gò bó mặc dù ở hình thức nào cũng cần tạo cho các
em không khí vui tươi. Để giờ học có hiệu quả cao hơn. Ngoài những biện pháp
trên thì thầy cô giáo phải coi trọng việc trình bày trên bảng. Vì nó là trang viết
mẫu mực của mình cho học sinh noi theo. Do vậy việc “Rèn chữ, giữ vở” cho
học sinh viết đúng viết đẹp. Viết rõ ràng và ngay ngắn là tiêu chí của mọi giáo
viên. Tất cả giáo viên phải đặt ra và thực hiện bằng được trong từng giờ học,
từng cách trình bày bảng sao cho khoa học đẹp mắt, có khen, có động
viên Khen bài học sinh viết đúng, viết đẹp “ Bài con viết đúng. Nét chữ mềm
mại - đáng khen” . Đối với học sinh viết chưa đúng mà có tiến bộ “ Chữ viết con
đã tiến bộ cô rất vui. Con hãy cố gắng hơn nữa”. Hình thức phạt giáo viên có thể
nhẹ nhàng nhắc nhở. Chữ nào viết chưa được giáo viên cho em đó viết lại chữ
viết sai 2 đến 3 dòng bằng cách viết mẫu.
Biện pháp tiếp theo để tác động là thường xuyên tổ chức tốt các phong trào
thi đua “Rèn chữ, giữ vở” theo chủ điểm. Mặt khác tôi luôn chú ý bồi dưỡng qua
các đợt thi rồi kết hợp với cha mẹ học sinh khen thưởng kịp thời. Mỗi tuần sinh
hoạt tôi thường tổng kết đánh giá việc rèn chữ giữ vở của học sinh để phát
thưởng. Ngoài việc phát động phong trào thi đua “ Rèn chữ giữ vở” trong học
sinh. Tôi còn giới thiệu các bài viết đẹp ở các buổi họp phụ huynh. Để các bậc
phụ huynh cùng thi đua rèn luyện cho con em mình.
- Vị trí đặt vở:
Vở viết cần đặt nghiêng so với mép bàn một góc khoảng 30
o
nghiêng về bên
phải. Vì khi viết chữ Tiếng Việt ta vận động từ trái qua phải.

GV:
Nguyễn Thị Hoạt
10

- Bảng con cũng là phương tiện hữu hiệu để học sinh luyện kĩ năng viết.
Giáo viên cần rèn cho học sinh cách giơ bảng, lau bảng, cách cầm phấn.
- Mọi hoạt động của thầy và trò được thống nhất theo 1 quy ước chung: kí
hiệu ghi trên góc bảng bên trái.
Ví dụ: B -> bảng
S -> sách
V -> vở
- Cách xác định đường kẻ trên vở tập viết:
Đây cũng là 1 yếu tố giúp học sinh nắm bắt được cách viết các nét chữ. Vì
vậy học sinh cần nắm được một số quy ước về cách gọi:
Ví dụ: 5 li, 6 đường kẻ ngang
Đường kẻ 1 là đường kẻ ngang tính từ dưới lên (dòng kẻ đậm)
Đường kẻ từ trên xuống là đường kẻ dọc
Đường kẻ dọc
+ Quy trình dạy các thao tác viết chữ phải theo một trình tự nhất định từ dễ
đến khó, từ đơn giản đến phức tạp. Ở giai đoạn 1 các em đã bắt đầu áp dụng các
nét cơ bản đã học ở lớp 1 để vận dụng vào bài viết. Ở giai đoạn này giáo viên
cần giúp cho các em nắm chắc tên các nét cơ bản, viết một cách thuần thục,
GV:
Nguyễn Thị Hoạt
11

chính xác đúng quy trình.
Ví dụ:
Khi viết nét cong hở phải: học sinh cần phải biết điểm đặt bút xuất phát từ
dưới đường kẻ ngang trên(đường kẻ thứ 2) kéo thẳng xuống gần đường kẻ ngang

dưới (Tức là đường kẻ thứ nhất) thì lượn cong nét bút chạm đường kẻ ngang
dưới rồi đưa lên điểm dừng bút cao hơn đường kẻ ngang dưới một chút.
1- Điểm đặt bút.
2- Điểm uốn lượn
3- Điểm kết thúc.
Để việc tổ chức giảng dạy có hiệu quả hơn, giáo viên cần giới thiệu cho
học
sinh biết thêm một số thuật ngữ có liên quan. Có nắm chắc được các thuật ngữ
này thì khi viết các em mới viết đúng cỡ chữ dược:
- Điểm đặt bút là điểm bắt đầu khi viết một nét trong 1 chữ cái.
- Điểm dừng bút là vị trí kết thúc của nét chữ trong một chữ cái, vị trí của
điểm đặt bút hoặc dừng bút, kĩ thuật viết liền mạch, lia bút, rê bút vv
Khi học sinh viết các chữ cái, tiếng, từ viết các câu ứng dụng. Giáo viên
cần chú ý:
• Khi dạy viết chữ cái
- Để học sinh viết được đúng hình dạng, cấu tạo, quy trình viết, thì các em
phải phân tích hình dạng, cấu tạo, độ cao của chữ cái. Giáo viên có thể gợi ý:
chữ gồm mấy nét ?. Là những nét gì ?. các nét đó như thế nào ?. Độ cao của chữ
là bao nhiêu (mấy li)?. Điểm đặt bút của chữ ở vị trí nào trên dòng kẻ ?.
Ví dụ:
* Khi viết chữ h (cỡ vừa) học sinh cần biết:
+ Cấu tạo: chữ h cỡ vừa cao 5 li 6 đường kẻ, gồm 2 nét : Nét 1 là nét
khuyết trên. Nét 2 là nét móc hai đầu.
GV:
Nguyễn Thị Hoạt
c
12

+ Cách viết :
Nét 1: đặt bút trên đường kẻ thứ 2, viết nét khuyết trên dừng bút trên đường

kẻ 1.
Nét 2: Đặt bút trên đường kẻ 1 lia bút viết nét móc hai đầu, dừng bút ở
đường kẻ 2.
* Khi tập viết tiếng, từ, câu ứng dụng học sinh cần biết:
- Học sinh Cần phân tích tiếng, từ
- Độ cao các chữ cái trong câu ứng dụng.
- Cách đặt dấu thanh ở các chữ .
- Khoảng cách giữa các chữ ghi tiếng.
Ví dụ:
- Khi viết từ ứng dụng: phong cảnh cỡ chữ nhỏ. Học sinh phải thấy được:
- Các chữ h , g cao 2,5 li. Các chữ p cao 2 li. Các chữ còn lại cao 1 li.
- Dâú hỏi đặt trên chữ cái a.
- Khoảng cách giữa các chữ ghi tiếng bằng khoảng cách viết chữ o.
Sau mỗi phần giáo viên viết mẫu kết hợp giảng giải điểm đặt bút, điểm
dừng bút của chữ cái viết hoa cỡ vừa và từ cỡ nhỏ. Đồng thời chú ý hướng dẫn
học sinh viết liền mạch để liên kết các chữ cái , dấu phụ , dấu thanh .
Đây là việc làm quan trọng trong khi viết. Vì viết liền mạch không chỉ làm
cho tốc độ viết của các em được nâng lên mà còn đảm bảo tính cân đối, yêu cầu
thẩm mĩ của chữ viết .
Trên cơ sở quan sát chữ mẫu, giáo viên cần giúp học sinh phân tích xem
trong từ có bao nhiêu chữ cái, khoảng cách giữa các giữa các chữ cái như thế nào
? Trong từ có bao nhiêu điểm nối các chữ cái, điểm dừng bút, đặt bút để viết cho
đúng. Ở giai đoạn này giáo viên cần phải chú ý cho học sinh khi viết dấu phụ,
dấu thanh.Viết từ trái sang phải, dấu trên viết trước, dấu dưới viết sau. Dấu thanh
phải được đặt ở trên hay ở dưới phụ âm chính của vần. Khi học sinh thực hành
GV:
Nguyễn Thị Hoạt
13

viết các đoạn văn, đoạn thơ bằng cách nhìn trên bảng để chép lại theo cỡ chữ

nhỏ, kết hợp nghe giáo viên đọc từng tiếng. Ở giai đoạn này giáo viên cần chú
trọng cho học sinh cách viết dấu câu như dấu chấm (.), dấu phẩy (,)
Ví dụ:
Dấu chấm: viết đúng đường kẻ ngang đậm( 1 ) khi kết thúc câu. Dấu chấm
ghi như dấu nặng nhưng đậm hơn. Dấu phẩy đặt bút ở dòng kẻ ngang đậm kéo
nhẹ xuống một chút
Bên cạnh đó cần cho học sinh thuộc những quy tắc chính tả để khỏi nhầm
khi viết.
Âm k chỉ ghép với e, ê, i.
Âm ngh chỉ ghép với e, ê, i
Âm gh chỉ ghép với e, ê, i
Hai âm g - gh cách phát âm giống nhau ga: gồm g + a.
ghi: gồm gh + i.
Với học sinh lớp 1 các em chóng nhớ, chóng quên. Trẻ thường hiếu động,
thiếu kiên trì để đạt được thành công. Trong công việc rèn luyện kĩ năng viết cho
học sinh thì ở từng giai đoạn giáo viên luôn theo sát từng hoạt động của mỗi cá
nhân học sinh, để phát hiện xem các em sai sót ở khâu nào để tiến hành sửa chữa
kịp thời. Khi học sinh tập viết chữ giáo viên cần luôn luôn chú ý uốn nắn để các
em cầm bút đúng và ngồi đúng tư thế. Bài viết đẹp phải đi kèm với tư thế đúng.
4. Biện pháp thứ tư: Kết hợp nhiều phương pháp trong việc rèn chữ
Trong quá trình rèn luyện kỹ năng viết chữ cho học sinh tôi đã sử dụng một
số phương pháp đặc trưng của môn tập viết và chính tả như sau:
+ Phương pháp trực quan giúp cho các em chủ động phân tích hình dạng
cấu tạo theo chữ mẫu giúp các em viết đúng.
+ Phương pháp đàm thoại gợi mở.
+ Phương pháp luyện tập.
GV:
Nguyễn Thị Hoạt
14


Ngoài ra để tạo cho học sinh có hứng thú học tập trong giờ dạy tập viết . Tôi
đã xây dựng một số trò chơi học tập như: Trò chơi “Thi viết đẹp , viết đúng,viết
nhanh”
Đối với học sinh lớp 1 việc đánh giá bài viết của các em cũng rất quan
trọng. Vì nó có tác dụng kích thích hứng thú học tập cho các em. Do vậy tôi đã
thường xuyên theo sát các em trong các giờ tập viết, giờ chính tả. Để kịp thời
động viên, khen thưởng các em có chữ viết đẹp sáng tạo. Tôi lấy những bài viết
đẹp đó làm bài viết mẫu cho cả lớp tham khảo.
5. Biện pháp thứ năm: Rèn chữ viết trong tất cả các môn học.
Để rèn luyện kỹ năng chữ viết cho học sinh đạt hiệu quả thì việc rèn chữ
không chỉ trong phân môn tập viết, chính tả mà còn phải tạo thói quen cho các
em có ý thức rèn chữ ở tất cả các môn học khác.
Phối hợp giữa giáo viên với phụ huynh ở nhà, để rèn luyện kỹ năng viết chữ
ở lớp cũng như ở nhà của từng học sinh. Nhờ trực tiếp các bậc phụ huynh kiểm
tra đôn đốc các em học ở nhà. Hôm sau tôi kiểm tra nhận xét nêu ra các nhược
điểm chung để học sinh thấy được sự sai sót của mình để chỉnh sửa. Ngoài ra tôi
phân công các em khá, giỏi kèm các em yếu, như giờ ra chơi em khá đọc cho em
yếu viết, nhắc nhở khi bạn viết xấu, sai. Không chỉ rèn chữ ở tiết tập viết mà tôi
rèn chữ cho các em ở tất cả các môn học khác. Ví dụ ở môn toán em nào đúng,
trình bày đẹp thì được tuyên dương, em nào làm đúng nhưng viết chưa đep thì
khuyến khích động viên.
Cùng với việc rèn chữ là việc giữ vở cũng được tiến hành xong xong. Với
tất cả các loại sách, vở giáo khoa, vở ô li Tôi đều yêu cầu các em về nhờ bố mẹ
đóng bìa, bọc báo cẩn thận. HS nào cũng có quyển nháp riêng, không có hiện
tượng nháp bừa bãi hoặc vẽ bậy vào sách, vở, không để quăn mép Cứ sau hai
tuần hoặc cuối tháng lớp lại tổ chức bình bầu cá nhân, tổ viết chữ đẹp nhất và có
sách, vở đẹp nhất sẽ được cô giáo và cả lớp tuyên dương, khen ngơi cùng một
GV:
Nguyễn Thị Hoạt
15


phần quà nho nhỏ( ví dụ như quyển vở, cái bút hoặc cục tẩy). Vì vậy phong trào
" Rèn chữ, giữ vở" của lớp tôi rất sôi nổi. Cá nhân thi đua, các tổ thi đua. Chính
nhờ phong trào thi đua này mà các em tiến bộ trông thấy về mọi mặt.
IV-Kết quả thực hiện (có so sánh đối chứng )
* Kết quả trước khi thực hiện đề tài.
Khảo sát chất lượng vở sạch chữ đẹp
Số HS Số HS: A % Số HS :B % Số HS: C %
25 em 7 em 28 % 11 em 44 % 7 em 28 %
* Kết quả sau khi thực hiện đề tài.
Sáng kiến kinh nghiệm của tôi được triển khai và thực hiện trong tổ. Kết
quả viết chữ đẹp của tổ 1 nói chung và của lớp 1B nói riêng đã thành công mĩ
mãn. Kết quả cụ thể của lớp 1B như sau.
* Kết quả thi viết chữ đẹp :
- 5 em đạt học sinh giỏi viết chữ đẹp cấp trường.
GV:
Nguyễn Thị Hoạt
tháng Số HS: A % Số HS: B % Số HS: C %
Tháng10 10 em 40 % 14 em 56 % 1 em 4 %
Tháng 11 14 em 56 % 11 em 44 % 0
Tháng 12 17 em 68 % 8 em 32 % 0
Tháng 1 20 em 80 % 5 em 20 % 0

Tháng 2 21 em 84 % 4 em 16 % 0
Tháng 3 22 em 88 % 3 em 12 % 0
16

- 2 em thi học sinh giỏi viết chữ đẹp cấp huyện: Cả 2 em đạt học sinh giỏi
viết chữ đẹp cấp huyện là em: Nguyễn Phương Linh và em Lê Phương Nam
Bên cạnh đó các em luôn có ý thức viết chữ đẹp, trình bày bài sạch sẽ ở tất

cả các môn học. Chất lượng môn mĩ thuật, Toán… được nâng cao. Các em biết
yêu cái đẹp và thích làm đẹp cho mình, cho người khác.
Nhìn vào bảng kết quả đánh giá ta thấy kết quả khả quan. Cùng với các đợt
kiểm tra hàng tháng của trường. Số học sinh viết chữ đẹp và giữ vở sạch tăng lên
đáng kể. Có được thành quả này khiến cô trò tôi rất phấn khởi tin tưởng vào việc
làm của mình hơn.
C. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
1.Những kết luận và đánh giá cơ bản nhất về sáng kiến kinh nghiệm.
- N ội dung:
Từ những kết quả trên tôi nhận thấy việc rèn chữ, giữ vở cho học sinh lớp 1
là một việc làm rất cần thiết và quan trọng. Qua năm học 2013- 2014 tôi đã có
được một số kinh nghiệm sau:
Rèn luyện cho học sinh viết đúng, viết đẹp là quá trình không thể một sớm
một chiểu mà làm được. Vì vậy người giáo viên thực sự phải yêu nghề mến trẻ,
phải tâm huyết với nghề. Phải thường xuyên gần gũi giúp đỡ học sinh vượt qua
khó khăn. Học hỏi đồng nghiệp để nâng cao nghiệp vụ, gây hứng thú học cho
học sinh. Để nâng cao chất lượng học tôi mạnh dạn đưa ra vài biện pháp để
mong có được sự góp ý chân thành của bạn bè, đồng nghiệp cũng như ban lãnh
đạo chuyên môn nhà trường để công tác dạy học của tôi đạt kết quả cao hơn.
- Ý nghĩa:
Việc “Rèn chữ, giữ vở “cho học sinh lớp 1 giúp các em ngay từ đầu đã có
Thói quen kiên trì và tự giác
GV:
Nguyễn Thị Hoạt
17

Rèn viết chữ ở lớp đầu cấp giúp các em viết đúng, viết đẹp, viết không mất
nét, gãy nét, giúp các em vững vàng học tốt môn học khác.
Hiệu quả:
Sau khi thực hiện đề tài sáng kiến kinh nghiệm này thì kết quả học tập của

các em đạt được tốt hơn cả kế hoạch ban đầu .
2. Khuyến nghị
Hàng năm có cuộc thi viết chính tả, chữ đẹp cho học sinh cấp trường, cấp
huyện, cấp thành phố. Bộ vở rèn chữ giữ vở cho học sinh, quán triệt giáo viên
viết vở hay viết bảng tự rèn để trau dồi chữ viết. Không được tuỳ tiện theo thói
quen của mình. Và cung cấp mẫu chữ chuẩn để cho tôi tham khảo và học hỏi để
đề tài viết của tôi viết được hoàn hảo hơn.
Xin chân thành cảm ơn!

XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ Hà Nội, ngày 25 tháng 3 năm
2014
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
Mình viết, không sao chép nội dung
Của người khác.
NGƯỜI VIẾT

Nguyễn Thị Hoạt

GV:
Nguyễn Thị Hoạt
18

Ý kiến đánh giá và xếp loại của hội đồng khoa học cơ sở.













Chủ tịch hội đồng.
( Kí tên đóng dấu)

GV:
Nguyễn Thị Hoạt
19

Ý kiến đánh giá và xếp loại của hội đồng khoa học cấp trên.












Chủ tịch hội đồng.
( Kí tên đóng dấu)

GV:
Nguyễn Thị Hoạt

20

GV:
Nguyễn Thị Hoạt
21

×