Tải bản đầy đủ (.pdf) (102 trang)

Quyền của những người bị tước tự do -lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.38 MB, 102 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT






TẠ THỊ NHÀN






QUYỀN CỦA NHỮNG NGƯỜI BỊ TƯỚC TỰ DO -
LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN


Chuyên ngành: Pháp luật về quyền con người
Mã số: Chuyên ngành đào tạo thí điểm




LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC






Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS. TS. NGUYỄN NGỌC CHÍ







HÀ NỘI - 2013

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công
trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo
tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn
học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của
Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi
có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!


NGƯỜI CAM ĐOAN



Tạ Thị Nhàn


MỤC LỤC

Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục các bảng

MỞ ĐẦU 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN CỦA NHỮNG
NGƯỜI BỊ TƯỚC TỰ DO 11
1.1. Khái niệm quyền của người bị tước tự do 11
1.1.1. Người bị tước tự do 11
1.1.2. Quyền của người bị tước tự do 14
1.2. Ý nghĩa việc bảo đảm quyền của người bị tước tự do 21
1.2.1. Góp phần bảo đảm quyền con người 21
1.2.2. Là một trong các tiêu chí xác định Nhà nước pháp quyền 22
1.2.3. Góp phần phát triển văn minh của nhân loại 23
1.3. Nội dung quyền của người bị tước tự do theo luật nhân quyền quốc tế 25
1.3.1. Quyền sống 27
1.3.2. Quyền được bảo vệ không bị tra tấn, đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo,
vô nhân đạo hoặc hạ nhục 29
1.3.3. Quyền được bảo vệ để khỏi bị bắt, giam giữ tùy tiện 30
1.3.4. Quyền được đối xử nhân đạo và tôn trọng nhân phẩm của những
người bị tước tự do 30
1.3.5. Quyền được hưởng tố tụng riêng cho người chưa thành niên 31
1.4. Cơ chế bảo đảm quyền của người bị tước tự do theo luật nhân
quyền quốc tế 32
1.4.1. Cơ chế quốc tế 32
1.4.2. Cơ chế khu vực 38

1.4.3. Cơ chế quốc gia 41
Chương 2: VIỆT NAM VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA NGƯỜI BỊ
TƯỚC TỰ DO 43
2.1. Sự phát triển các quyền của người bị tước tự do trong pháp luật
Việt Nam 44
2.1.1. Từ năm 1945 đến năm 1974 44
2.1.2. Từ năm 1975 đến nay 46
2.2. Nội dung các quyền của người bị tước tự do theo pháp luật Việt Nam 49
2.2.1. Quyền của người bị tước tự do theo pháp luật Việt Nam 49
2.2.2. Tước tự do trong lĩnh vực hành chính theo pháp luật Việt Nam so
sánh với các tiêu chuẩn quốc tế có liên quan 58
2.3. Thực tiễn việc bảo đảm quyền của người bị tước tự do ở Việt Nam 62
2.3.1. Hạn chế 68
2.4. Hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả bảo đảm quyền của
người bị tước tự do ở Việt Nam 73
2.4.1. Một số phương hướng hoàn thiện 73
2.4.2. Hoàn thiện pháp luật 76
2.4.3. Nâng cao hiệu quả bảo đảm quyền của người bị tước tự do 83

KẾT LUẬN 87
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 88
PHỤ LỤC



DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

- ACHPR: Hiến chương châu Phi về quyền con người và quyền các dân tộc, 1981
(African Charter on Human and Peoples’ Rights);
- ACHR: Công ước châu Mỹ về quyền con người, 1969 (American convention

on Human rights);
- CAT: Công ước chống tra tấn và các hình thức trừng phạt và đối xử tàn bạo,
vô nhân đạo hay hạ nhục khác, 1984 (Convention against Torture and
Other Cruel, Inhuman or Degrading Treatment or Punishment);
- CEDAW: Công ước về xóa bỏ tất cả các hình thức phân biệt dối xử với phụ nữ,
1979 (Convention on the Elimination of All Forms of Discrimination
against Women);
- CRC: Công ước quốc tế về quyền trẻ em 1989 (Convention on the Rights of
the Child);
- ECHR: Công ước châu Âu về bảo vệ quyền con người và tự do cơ bản, 1950
(The European Convention for the Protection of Human Rights and
Fundamental Freedoms);
- ECOSOC: Hội đồng Kinh tế-Xã hội của Liên hợp quốc (The United Nations
Economic and Social Council);
- ICCPR: Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị, 1966 (International
Covenant on Civil and Political Rights);
- ICJ: Tòa án công lý quốc tế, (Internatinonal Court of Justice);
- ICESCR: Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa, 1966
(International Covenant on Economic, Social and Cultural Rights;
- NGOs: Các tổ chức phi chính phủ (non-governmental organizations);
- NHRIs: Các cơ quan quốc gia về bảo vệ và thúc đẩy nhân quyền (National
Institution on the Protection and Promotion of Human Rights);
- UDHR: Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền, 1948 ((Universal Declaration of
Human Rights);
- UNCHR: Ủy ban quyền con người Liên hợp quốc (The United Nations
Commission on Human Rights);
- UNHRC: Hội đồng quyền con người Liên hợp quốc (The United Nations Human
Rights Council);
- UPR: Cơ chế Đánh giá Định kỳ toàn thể (Universal Periodic Review);
- WGAD: Nhóm công tác về giam giữ tùy tiện của Liên hợp quốc (Working

Group on Arbitrary Detetion);
- BLDS: Bộ luật dân sự;
- BLHS: Bộ luật hình sự;
- TAND: Tòa án nhân dân;
- THAHS: Thi hành án hình sự;
- TTHS: Tố tụng hình sự;
- VKSND: Viện kiểm sát nhân dân;
- XLVPHC: Xử lý vi phạm hành chính
DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 1.1. Các quyền tiêu biểu của người bị tước tự do theo các tiêu chuẩn
quốc tế về nhân quyền 25
Bảng 1.2. Điểm khác biệt giữa hai cơ chế quốc tế về bảo đảm quyền của
người bị tước tự do 37
Bảng 2.1. Các nhóm đối tượng bị tước tự do ở Việt Nam hiện nay căn cứ
theo tiêu chuẩn nhân quyền quốc tế 49
Bảng 2.2. So sánh các quy định về quyền của người bị tước tự do trong pháp
luật Việt Nam với các tiêu chuẩn quốc tế có liên quan 50
Bảng 2.3. Quy mô giam giữ của 11 nhà tạm giữ trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn. 64






1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Vào thời kỳ cổ đại, người ta tin rằng có những người sinh ra để làm nô lệ và

thân phận nô lệ là thích hợp và chính đáng cho họ. Đối với những người này việc có
một người chủ tốt là may mắn và tốt đẹp. Đến thời phong kiến tầng lớp nô lệ đã
không còn tồn tại trong xã hội. Tuy nhiên vẫn còn những tầng lớp, giai cấp khác cho
mình quyền áp bức, bóc lột các giai tầng còn lại. Trải qua bao năm đấu tranh với bao
mất mát, khổ đau, cho đến thời điểm hiện nay, nhân loại toàn thế giới đã công nhận:
“Tất cả mọi người sinh ra đều được tự do và bình đẳng về nhân phẩm và quyền. Mọi
con người đều được tạo hóa ban cho lý trí và lương tâm và cần phải đối xử với nhau
trong tình bằng hữu” (trích Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền 1948). Trong
thời đại ngày nay, nhân quyền trở thành vấn đề mang tính quốc tế, giá trị quyền con
người đã được nhìn nhận ở tất cả các quốc gia, khu vực, vùng lãnh thổ. Bất kỳ ai trên
thế giới này không phân biệt màu da, sắc tộc, tôn giáo, giới tính…đều được hưởng
những quyền cơ bản của con người được ghi nhận trong luật quốc tế về nhân quyền.
Tuy vậy, cuộc đấu tranh cho nhân quyền vẫn tiếp diễn đầy cam go, quyết liệt. Vẫn
còn những kẻ lợi dụng nhân quyền để vi phạm nhân quyền. Vẫn còn đó tình trạng
người bóc lột người, phân biệt chủng tộc, kỳ thị dân tộc, tôn giáo… Hơn nữa vẫn còn
nhiều người không biết mình có những quyền gì và làm thế nào để thực hiện các
quyền đó, làm thế nào để bảo vệ các quyền đó khi bị vi phạm?
Lịch sử dân tộc Việt Nam là lịch sử bốn nghìn năm dựng nước và giữ nước,
với biết bao cuộc đấu tranh chống quân xâm lược. Vì vậy chúng ta hiểu rõ hơn ai
hết giá trị của độc lập, tự do, quyền sống và mưu cầu hạnh phúc. Tư tưởng nhân
quyền ở Việt Nam đã có từ rất lâu và được thể hiện trước hết qua những ý niệm và
hành động khoan dung, nhân đạo. Trong Bình Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trãi với
tinh thần “Đem đại nghĩa để thắng hung tàn, lấy chí nhân để thay cường bạo” đã thể
hiện rõ tư tưởng nhân đạo, nhân quyền của Việt Nam. Trong những năm qua Đảng
và Nhà nước ta đã rất nỗ lực trong việc bảo vệ và thúc đẩy nhân quyền trong phạm

2
vi quốc gia cũng như đã tham gia tích cực vào cuộc đấu tranh vì nhân quyền của
nhân loại. Thể hiện ở việc Nhà nước ta đã hình thành một hệ thống các văn bản
pháp luật tương đối đầy đủ và khá tương thích với luật pháp quốc tế về nhân quyền.

Đồng thời cũng đã có một cơ chế bảo đảm quyền con người nói chung, quyền của
người bị tước tự do nói riêng.
Tuy nhiên cũng như các nước khác trên thế giới, hiện nay Việt Nam cũng
đang phải đối mặt với những thách thức về quyền con người, trong đó nổi bật lên
vấn đề về quyền của các nhóm người dễ bị tổn thương. Nhóm người dễ bị tổn
thương là những nhóm, cộng đồng có vị thế về chính trị, xã hội hoặc kinh tế thấp
hơn, từ đó khiến họ có nguy cơ cao hơn bị bỏ quên hay bị vi phạm các quyền con
người. Bởi vậy cần chú ý bảo vệ đặc biệt so với các nhóm khác. Những người bị
tước tự do là một trong số nhóm người dễ bị tổn thương, họ là tất cả những người bị
giới hạn, ở bất cứ mức độ và dưới bất kỳ hình thức nào, các tự do chính trị, dân sự
của mình so với những công dân bình thường. Theo Luật nhân quyền quốc tế, người
bị tước tự do là một khái niệm rất rộng bao gồm tù nhân, những người bị bắt, tạm
giữ, tạm giam, quản chế, cấm cư trú… Mục đích của các biện pháp như bắt, tạm
giữ, tạm giam…là để đảm bảo cho các cơ quan tư pháp, hành chính thực hiện được
tốt chức năng, nhiệm vụ của mình trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm,
đảm bảo trật tự pháp luật. Các biện pháp này cũng nhằm bảo vệ các quyền con
người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Tuy nhiên những biện pháp này khi
áp dụng sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến các quyền cơ bản của con người. Đặc biệt là
trong hoạt động của các cơ quan tư pháp và người có thẩm quyền thực hiện trong
các cơ quan nếu không cẩn thận sẽ rất dễ dẫn đến vi phạm nhân quyền. Những điều
đó xảy ra là do chưa có quy định cụ thể để hạn chế sự lạm quyền của cán bộ công
chức nhà nước, các cơ quan công quyền, và việc quy định như hiện tại có nhiều kẽ
hở dễ bị lách luật; cán bộ công chức nhà nước chưa được đào tạo cơ bản về tôn
trọng, bảo vệ quyền con người Bên cạnh đó, cơ chế thực thi quyền của nhóm
người bị tước tự do vẫn còn chưa hoàn thiện cũng như cơ chế kiểm soát việc thực
thi còn nhiều hạn chế. Do đó, để góp một phần bảo đảm hơn nữa về quyền con

3
người nói chung, quyền của người bị tước tự do nói riêng, tác giả chọn đề tài :
“Quyền của những người bị tước tự do – lý luận và thực tiễn” làm đề tài luận văn .

Trên cơ sở nghiên cứu, đánh giá toàn diện các quy định, văn kiện quốc tế về bảo vệ
quyền của người bị tước tự do cũng như việc nội luật hóa và áp dụng chúng vào
thực tiễn Việt Nam. Tác giả đưa ra một số phương hướng đề hoàn thiện pháp luật về
quyền của nhóm người bị tước tự do và giải pháp để thực thi một cách hiệu quả các
quyền ấy trong thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Bởi tầm quan trọng của vấn đề, hiện nay trên thế giới cũng như Việt Nam đã
có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này. Có thể kể đến như:
“Luật quốc tế về quyền của các nhóm người dễ bị tổn thương” do trung tâm
nghiên cứu quyền con người và quyền công dân trực thuộc khoa Luật - Đại học
quốc gia Hà Nội đã đề cập tới quyền của người bị tước tự do theo luật quốc tế về
nhân quyền. Cuốn sách đã làm rõ một số nội dung như quyền của nhóm là gì? Tầm
quan trọng của việc thừa nhận và bảo đảm các quyền của nhóm. Cuốn sách cũng
đưa ra định nghĩa nhóm người dễ bị tổn thương; xác định các nhóm xã hội dễ bị tổn
thương được quy định trong luật nhân quyền quốc tế, trong đó có nhóm người bị
tước tự do. Đặc biệt cuốn sách đã phân tích cơ chế quốc tế giám sát thực thi quyền
của một số nhóm người dễ bị tổn thương.
“Bảo vệ các nhóm dễ bị tổn thương trong tố tụng hình sự”: do trung tâm
nghiên cứu quyền con người – quyền công dân và trung tâm nghiên cứu tội phạm
học và tư pháp hình sự trực thuộc khoa Luật – Đại học quốc gia Hà Nội phát hành.
Tố tụng hình sự là hoạt động trực tiếp nhất liên quan đến một bộ phận quan trọng
của nhóm người bị tước tự do. Đó là những người bị bắt, tạm giữ, tạm giam hay bị
bỏ tù. Tài liệu đã khái quát những tiêu chuẩn pháp lý về quyền con người trong các
hoạt động tố tụng hình sự. Từ đó nhằm hướng dẫn, cung cấp những công cụ hữu
hiệu cho việc bào chữa tại các tòa án hình sự địa phương. Đặc biệt, nó được viết ra
để hỗ trợ cho các luật sư hoặc thành viên của nhóm luật sư biện hộ các vụ án hình
sự, nâng cao kiến thức và hiểu biết nhằm áp dụng hiệu quả luật quốc tế tại các tòa

4
án địa phương. Từ góc độ đó, cuốn sách đề cập đến những khả năng áp dụng luật

quốc tế như là một lập luận riêng biệt, và nếu có thể, như là một ý bổ sung nhằm
củng cố sức thuyết phục của các lập luận. Quyền bào chữa là một trong số các
quyền quan trọng của những người bị tước tự do. Bởi lẽ nó đảm bảo cho các vụ án
được xét xử công bằng và quyền của người bị tước tự do sẽ được đảm bảo tốt nhất.
Vì vậy cuốn sách đã góp một phần quan trọng trong những nỗ lực nhằm đảm bảo tốt
hơn quyền của nhóm người bị tước tự do trong lĩnh vực tư pháp hình sự;
“Luật tố tụng hình sự Việt Nam với việc bảo vệ quyền con người” – đề tài
nghiên cứu khoa học, chủ trì Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Chí – Khoa Luật, Đại học quốc
gia Hà Nội; Hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự ở Việt Nam những
năm qua đạt được những kết quả khả quan. Tuy vậy vẫn còn nhiều bất cập và hạn
chế. Vì vậy, đề tài nghiên cứu khoa học này đã nghiên cứu, tiếp thu những quan
điểm và nhất là các tiêu chí về quyền con người trong các văn bản pháp luật quốc tế
mà Việt Nam đã tham gia. Trên cơ sở đó nhằm hoàn thiện pháp luật bảo vệ quyền
con người trong tố tung hình sự. Đề tài này đã làm rõ những quan điểm khoa học về
quyền con người trong tố tụng hình sự và những tiêu chí quốc tế về nhân quyền;
Đánh giá thực trạng hệ thống pháp luật về việc bảo vệ quyền con người trong tố
tụng hình sự đồng thời chỉ ra những ưu điểm và hạn chế của nó đối với việc bảo vệ
quyền con người trong quá trình giải quyết vụ án; Đề tài cũng đưa ra các giải pháp
nâng cao hiệu quả bảo vệ quyền con người bằng pháp luật tố tụng hình sự. Khía
cạnh mà đề tài này đề cập đến là các quyền con người nói chung trong hoạt động tố
tụng hình sự. Tuy nhiên, trong hoạt động tố tụng hình sự, các quyền con người được
đề cập đến phần lớn là các quyền của những người bị tước tự do trong lĩnh vực tư
pháp hình sự. Bên cạnh những người bị tước tự do, đề tài này cũng phản ánh đến
quyền của những người tham gia tố tụng hình sự mà không bị tước tự do như là các
bị can, bị cáo (trong nhiều trường hợp họ không bị tước tự do).
Đảm bảo quyền con người trong việc thi hành án phạt tù – một số vấn đề lý
luận và thực tiễn ở Việt Nam – bài viết của Hoàng Thị Hương, khoa Luật – Đại học
quốc gia Hà Nội. Bài viết đã đưa ra khái niệm “đảm bảo” có nghĩa là “làm cho chắc

5

chắn thực hiện được, giữ gìn được hoặc có đầy đủ thực hiện được, giữ gìn được
hoặc có đầy đủ những gì cần thiết; sự đảm bảo hoặc giữ gìn được. Từ đó tác giả
phân tích việc đảm bảo quyền con người trong thi hành án phạt tù bao gồm các đảm
bảo về chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục và pháp lý. Trong đó đảm bảo pháp lý có
vai trò quyết định. Bài viết phân tích việc đảm bảo quyền con người trong việc thi
hành án phạt tù, thực chất là phân tích việc bảo đảm quyền con người của một bộ
phận người bị tước tự do, đó chính là các tù nhân.
Một số vấn đề về bảo vệ quyền của những người bị tước tự do trong pháp
luật và thực tiễn – khóa luận tốt nghiệp của sinh viên Lưu Mỹ Hằng K53B – QHL
2008, khoa Luật – ĐHQG Hà Nội năm 2012. Khóa luận đã giải quyết một cách
khoa học về khái niệm, quy định cơ bản về một số vấn đề bảo vệ quyền của người
bị tước tự do theo pháp luật quốc tế và Việt Nam. Khóa luận cũng đã phân tích tình
hình bảo vệ quyền của người bị tước tự do qua thực tiễn ở Việt Nam hiện nay, từ đó
đưa ra quan điểm và phương hướng nâng cao vai trò của pháp luật trong việc quy
định và bảo đảm quyền người bị tước tự do.
Ngoài ra còn một số bài viết, cuốn sách của các học giả khác có đề cập đến
vấn đề này. Các công trình nghiên cứu trên cho thấy, việc nghiên cứu về quyền của
người bị tước tự do ở Việt Nam trong những năm qua đã được quan tâm và đạt
được những thành tựu nhất định. Tuy nhiên cần có một cái nhìn tổng quát hơn về
người bị tước tự do, đặc biệt là dưới góc độ của luật nhân quyền quốc tế. Điều đó
càng có ý nghĩa hơn khi mà nhân quyền hiện đang là vấn đề mà cả nhân loại hướng
tới. Luận văn này có thể bổ sung những nghiên cứu về vấn đề người bị tước tự do,
từ đó nâng cao ý thức trước hết là của các chủ thể có nghĩa vụ tôn trọng, bảo vệ và
thực thi các quyền của người bị tước tự do. Đồng thời nâng cao nhận thức của các
chủ thể người bị tước tự do trong việc thụ hưởng các quyền của mình.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
• Nghiên cứu tổng quan về người bị tước tự do và quyền của người bị tước tự
do; các biện pháp cũng như hoạt động của các cơ quan, người có thẩm quyền thực


6
hiện các biện pháp tước tự do của con người. Những biện pháp lý để bảo đảm quyền
cho nhóm người này.
• Làm rõ tầm quan trọng, tất yếu của việc bảo đảm quyền cho nhóm người bị
tước tự do đối với sự phát triển của văn minh nhân loại nói chung cũng như sự phát
triển của nhân quyền trên thế giới.
• Từ đó kiến nghị những giải pháp nâng cao hiệu quả bảo đảm của pháp luật
cũng như nâng cao nhận thức của cả cộng đồng nói chung, nhất là bộ phận cán bộ
công chức trong việc nỗ lực thực hiện các biện pháp nhằm đảm bảo quyền cho
nhóm xã hội này.
3.2. Nhiệm vụ nghiêm cứu
• Nghiên cứu, làm rõ những vấn đề lý luận chung về nhóm người bị tước tự
do và quyền của họ;
• Nghiên cứu quy định pháp luật của Việt Nam trên cơ sở so sánh, đối chiếu
với pháp luật quốc tế về đảm bảo quyền của những người bị tước tự do;
• Đánh giá thực trạng việc thực thi pháp luật về bảo đảm quyền của người bị
tước tự do ở Việt Nam: những thành tựu đạt được cũng như những hạn chế tồn tại;
• Trên cơ sở đó đưa ra những khuyến nghị nhằm cải thiện tính bất cập của
pháp luật Việt Nam cũng như những giải pháp khác nhằm đảm bảo quyền của người
bị tước tự do.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng
Luận văn tập trung nghiên cứu về quyền của nhóm người bị tước tự do dưới
góc độ là quyền của nhóm người dễ bị tổn thương. Luật nhân quyền quốc tế xác
định một số nhóm người được coi là dễ bị tổn thương, trong đó bao gồm cả những
người bị tước tự do. Người bị tước tự do ở đây bao gồm cả nhóm người bị tước tự
do trong lĩnh vực tư pháp hình sự và nhóm người bị tước tự do trong lĩnh vực hành
chính. Trong lĩnh vực tư pháp hình sự những người bị tước tự do bao gồm: tù nhân
(phạm nhân đang chấp hành án hình phạt tù); người bị tạm giữ, tạm giam; người bị
xử phạt với hình thức quản chế; người bị xử phạt với hình thức cấm cư trú. Trong


7
lĩnh vực hành chính, những người bị tước tự do bao gồm: người bị tạm giữ hành
chính; người bị đưa vào trường giáo dưỡng; người bị đưa vào cơ sở giáo dục bắt
buộc; người bị đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Những người này đều bị giới hạn
các quyền tự do so với những công dân bình thường. Chẳng hạn như quyền tự do đi
lại, tự do cư trú. Đối với những người bị xử phạt với hình thức quản chế, thì đây là
hình phạt bổ sung đi kèm với hình phạt chính là hình phạt tù. Đối với những người
này, ngoài việc bị giới hạn quyền tự do đi lại, tự do cư trú thì còn bị hạn chế một số
quyền công dân, tức là bị tước một số quyền tự do khác trong một thời hạn nhất
định, như quyền tự do về việc làm, quyền ứng cử, quyền bầu cử đại biểu cơ quan
quyền lực nhà nước. Nguyên nhân tại sao quyền của nhóm người này lại dễ bị tổn
thương. Những chuẩn mực quốc tế về quyền của nhóm người này trong luật nhân
quyền quốc tế là gì? Cơ chế bảo đảm các quyền đó cả trên phạm vi quốc tế, khu vực
và quốc gia? Phân tích về việc bảo vệ nhóm người này ở Việt Nam trong những
năm qua như thế nào? Những quyền nào dễ bị vi phạm? Lý do vi phạm? Từ đó đưa
ra những giải pháp thực tế để bảo vệ và thúc đẩy quyền của nhóm người này.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu quyền của người bị tước tự do dưới góc độ quy định
pháp lý và thực tiễn trên phạm vi quốc tế và tình hình cụ thể ở Việt Nam. Trong
phạm vi luận văn này, các tiêu chuẩn, quốc tế về nhân quyền được coi là mặt lý
luận, là tiêu chí và chuẩn mực mà các quốc gia, vùng lãnh thổ hướng tới. Đó được
coi như những giá trị thiêng liêng, phổ quát mà phải mất bao xương máu nhân loại
toàn thế giới mới giành được. Đó còn là mơ ước, khát vọng về một thế giới bình
đẳng, về những nhân quyền thiêng liêng tạo hoá đã ban cho mà không ai có thể bị
tước đoạt. Với ý nghĩa trên, khía cạnh thực tế mà luận văn đề cập chính là việc đưa
các chuẩn mực đó vào thực tế như thế nào? Việc tham gia, ký kết, gia nhập và nội
luật hoá là một phần của ý nghĩa đó. Bên cạnh đó các nhà nước cụ thể là Việt Nam
đã làm gì để đảm bảo cho các quyền của người bị tước tự do được thực hiện trên
thực tế? Với cách tiếp cận trên, tác giả đi vào nghiên cứu cụ thể như sau:

Về mặt lý luận: Khảo sát những quy định của pháp luật quốc tế và pháp luật

8
quốc gia quy định về quyền của người bị tước tự do. Các quy định pháp lý trước hết
xuất phát từ các tiêu chuẩn quốc tế về nhân quyền nói chung, quyền của người bị
tước tự do nói riêng cũng như các cơ chế để bảo đảm các quyền đó. Đối chiếu, so
sánh với các quy định của pháp luật quốc gia với các chuẩn mực quốc tế. Việc hình
thành các chuẩn mực quốc tế có sự đóng góp của pháp luật quốc gia. Các quy định
quốc tế có thể kể đến như: Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền - UDHR; Công
ước quốc tế về các quyền dân sự chính trị 1996 - ICCPR; Công ước về quyền kinh
tế, xã hội và văn hóa 1996 - ICESCR; Những nguyên tắc cơ bản về đối xử với tù
nhân 1990; Tập hợp các nguyên tắc về bảo vệ tất cả những người bị giam hay bị
cầm tù dưới bất kỳ hình thức nào 1988;… Các quy định pháp luật quốc gia phải kể
đến như Hiến pháp 1992 (sửa đổi 2001); Bộ luật hình sự 1999, sửa đổi, bổ sung
năm 2009; Bộ luật tố tụng hình sự 2003; Luật xử lý vi phạm hành chính 2012; Luật
thi hành án hình sự 2010 …và các văn bản pháp lý liên quan.
Khía cạnh thực tiễn mà luận văn đề cập chính là việc Việt Nam tham gia
những công ước quốc tế nào về lĩnh vực này và đã nội luật hóa các chuẩn mực trong
các văn kiện quốc tế mà Việt Nam đã tham gia như thế nào? Từ đó đánh giá tính
đúng đắn, mức độ phù hợp của các quy định pháp luật Việt Nam với các tiêu chuẩn
pháp lý về nhân quyền. Đánh giá việc bảo đảm quyền cho nhóm người bị tước tự do
trên thực tế. Vấn đề thực hiện các nghĩa vụ nộp các báo cáo định kỳ theo quy định
của các công ước mà Việt Nam tham gia? Việc hợp tác quốc tế trong lĩnh vực bảo
đảm quyền của người bị tước tự do được thực hiện như thế nào?…Từ đó, phân tích
tổng quan và rút ra những yếu tố tác động tới việc thực thi pháp luật về đảm bảo
quyền của người bị tước tự do.
5. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa
duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mac-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và
pháp luật nói chung, khái niệm và bảo đảm nhân quyền nói riêng. Các nguyên tắc

nền tảng của Luật nhân quyền quốc tế.
Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu

9
cụ thể như: phương pháp phân tích, khái quát hóa; phương pháp tổng hợp; thống kê,
so sánh; phương pháp quy nạp; phương pháp diễn giải…
6. Kết quả và ý nghĩa nghiên cứu
Luận văn đã đạt được một số kết quả:
- Đưa ra cái nhìn tổng quan về người bị tước tự do dưới góc độ là những
người dễ bị tổn thương trong mối liên hệ giữa luật nhân quyền quốc tế và pháp luật
quốc gia của Việt Nam. Đặc biệt là với cách tiếp cận dựa trên quyền, luận văn
khẳng định các quyền của người bị tước tự do là tự nhiên, bẩm sinh và nhà nước chỉ
có thể ghi nhận, bảo đảm chứ không có quyền ban phát các quyền đó. Các quyền
của người bị tước tự do được bảo đảm không chỉ bằng việc các quyên đó được ghi
nhận trong pháp luật. Mà quan trọng còn ở cơ chế bảo đảm các quyền đó.
- Đánh giá tầm quan trọng, ý nghĩa của việc bảo đảm các quyền của người bị
tước tự do. Những người bị tước tự do được hưởng các quyền cơ bản trên cương vị
bình đẳng như bất kỳ chủ thể nào. Bên cạnh đó họ được hưởng những quyền đặc
thù khác. Và việc được hưởng các quyền đó là tất yếu. Đảm bảo cho các quyền đó
được thực thi cũng chính là bảo đảm quyền con người và là thước đo trình độ văn
minh của nhân loại.
- Góp phần thay đổi cái nhìn của xã hội nói chung, trong đó có bộ phận cán
bộ công quyền trong vấn đề tước tự do hành chính; Các biện pháp xử lý hành chính
của Việt Nam dưới góc độ của luật nhân quyền quốc tế thực chất là các biện pháp
tước tự do của con người. Do đó cần phải hết sức thận trọng và phải đảm bảo các
quyền cho người bị tước tự do một cách đầy đủ nhất.
- Luận văn cũng đã nêu bật được một số thành tựu trong việc bảo đảm các
quyền cho người bị tước tự do ở Việt Nam, đặc biệt là trong việc đảm bảo các điều
kiện ăn, mặc, ở; quyền không bị tra tấn; không bị bắt, giam một cách tùy tiện; về
quyền được đối xử nhân đạo; quyền được xét xử công bằng…

- Phân tích một số hạn chế, đặc biệt là về mặt pháp luật trong việc bảo đảm các
quyền của người bị tước tự do. Từ đó đưa ra một số biện pháp nhằm hoàn thiện pháp
luật và nâng cao hiệu quả đảm bảo các quyền cho người bị tước tự do ở Việt Nam.

10
Ý nghĩa của luận văn:
Một mặt luận văn góp phần thay đổi thái độ, hành vi trong việc đối xử với
những người bị tước tự do, đặc biệt là của một bộ phận cán bộ công chức thực thi
pháp luật. Khẳng định rõ ràng rằng, những quyền mà người bị tước tự do được
hưởng là chính đáng và nhà nước phải có nghĩa vụ bảo đảm cho các quyền đó được
thực thi. Các quyền đó không phải do nhà nước ban cho họ mà xuất phát từ chính
nhân phẩm và giá trị của họ.
Mặt khác giúp người bị tước tự do nâng cao kiến thức và hiểu biết về các
quyền của họ và các công cụ pháp lý để bảo đảm các quyền đó. Từ đó có thể giúp
họ sử dụng có hiệu quả các công cụ đó để hưởng thụ và bảo vệ các quyền của mình
khi bị vi phạm.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, phần phụ lục và danh mục tài liệu tham
khảo, luận văn được chia làm hai chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và tiêu chuẩn quốc tế về quyền của người
bị tước tự do.
Chương 2: Việt Nam với việc bảo đảm quyền của người bị tước tự do.














11
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ
QUYỀN CỦA NHỮNG NGƯỜI BỊ TƯỚC TỰ DO

1.1. Khái niệm quyền của người bị tước tự do
1.1.1. Người bị tước tự do
Tự do là một trong những vấn đề quan trọng của con người và đã được
nghiên cứu, luận giải từ lâu, dưới nhiều góc độ triết học, chính trị, pháp lý, xã
hội học… Thời kỳ khai sáng, rất nhiều học giả đã bàn luận về tự do. Thomas
Hobbes cho rằng:
“Tự do được hiểu là, theo định nghĩa chính xác của từ này, sự vắng mặt của
những trở ngại bên ngoài; những trở ngại đó thường tước đi một phần sức mạnh của
con người để làm điều ta muốn làm, nhưng không thể ngăn cản ta sử dụng sức
mạnh còn lại của mình theo sự sai khiến của lý trí và sự suy xét của chính bản thân
mình”. [20, tr.127-128].
Montesquieu thì khẳng định: “Tự do là quyền được làm tất cả những điều mà
luật pháp cho phép” [20, tr. 161].
Qua hai khái niệm của hai học giả nói trên có thể thấy, khái niệm của
Montesquieu mang tính pháp lý cao và tiếp cận gần với khái niệm tự do trong xã
hội hiện đại ngày nay đồng thời cũng gần với tư tưởng về nhà nước pháp quyền.
Còn khái niệm của Thomas Hobbes đã chỉ ra hai thành tố quan trọng của tự do, đó
là tự do nhân thức và tư do hành động.
Ngày nay, tự do có thể được hiểu là tình trạng một cá nhân có thể và có khả
năng hành động theo ý chí, nguyện vọng của mình phù hợp với các quy phạm pháp

lý và đạo đức trong một xã hội dân chủ mà không bị cản trở bởi bất cứ chủ thể hay
yếu tố nào. Tự do có thể được phân thành tự do chủ động và tự do thụ động. Tự do
chủ động là tự do của cá nhân nhằm đạt được mục tiêu cụ thể nào đó (ví dụ như tự
do ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội họp ). Tự do thụ động là tự do của cá nhân
khỏi bị các chủ thể khác xâm phạm đến (như tự do thân thể ). Trong một số trường

12
hợp, tự do bị hạn chế. Ví dụ như quyền tự do đi lại có thể bị hạn chế trong hoàn
cảnh dịch bệnh hay khủng bố… Tuy nhiên việc hạn chế quyền tự do trong những
trường hợp này phải tuân theo những quy tắc nghiêm ngặt và tuyệt đối không được
mang tính chất phân biệt, đối xử về chủng tộc, màu da, tôn giáo, giới tính, ngôn ngữ
hoặc nguồn gốc xã hội.
Tự do là một thuộc tính tự nhiên của con người. Đã là con người thì phải có
tự do. Đó là quyền mà tạo hóa ban cho và không ai có thể chối cãi được, xuất phát
từ chính nhân phẩm của mỗi con người. Sống trong xã hội tất cả các quyền tự do
của con người phải được bảo đảm, trong đó quan trọng nhất là bảo đảm bằng pháp
luật. Các văn kiện quốc tế về nhân quyền đề cập đến cả hai khái niệm: các "quyền"
và "tự do" cơ bản của con người. Tuy nhiên trong thực tế hầu như không có sự phân
biệt và khác biệt trong việc vận dụng các tiêu chuẩn quốc tế về quyền và tự do cơ
bản của con người, bởi lẽ các tự do cơ bản thường được diễn đạt như là các quyền
(ví dụ "tự do ngôn luận" cũng thường được gọi là "quyền tự do ngôn luận"). Con
người có rất nhiều quyền tự do. Như quyền tự do đi lại, tự do cư trú; quyền tự do
ngôn luận và biểu đạt; quyền tự do tư tưởng, tín ngưỡng và tôn giáo; quyền tự do
lập hội, hội họp hòa bình;
Tước tự do nghĩa là bất kỳ hình thức giam giữ hoặc cầm tù nào, hay đưa một
người vào nơi giam giữ chung hoặc riêng, mà người đó không được tự ý rời bỏ nơi
giam giữ, trừ khi có quyết định của cơ quan tư pháp, hành chính hoặc cơ quan công
quyền khác. [16, tr.709-710]. Khái niệm “tước tự do” theo luật nhân quyền quốc tế
được hiểu theo nghĩa rất rộng, bao gồm không chỉ việc bỏ tù hay tạm giam, mà còn
là những việc hạn chế một phần hay toàn bộ tự do của một người, dưới nhiều hình

thức và tên gọi khác, cụ thể như: bắt, tạm giữ; quản chế; đưa vào trường giáo
dưỡng; đưa vào các trung tâm cải tạo, giáo dục… Tức là bên cạnh các trường hợp
giam giữ theo thủ tục hình sự thì tước tự do còn bao gồm cả giam giữ theo thủ tục
hành chính. Nhiều quốc gia trên thế giới có luật về bắt, giam giữ hành chính, song
chủ yếu đề cập đến các tình huống: giam giữ những người nhập cư lậu để chờ giải
quyết thủ tục liên quan, ví dụ như ở Australia có các trung tâm tạm giữ ngoài khơi

13
cho người nhập cư và tị nạn đến Australia bằng đường biển; hay là giam giữ những
nghi can khủng bố (Luật yêu nước của Hoa Kỳ sau ngày 11/9/2001…); hoặc giam
giữ trong những tình huống liên quan đến an ninh quốc gia (biểu tình, tình trạng
khẩn cấp của quốc gia…). Chỉ có số ít nước quy định về bắt, giam giữ hành chính
với những đối tượng như trẻ em có hành vi trái pháp luật, người mại dâm, người
nghiện ma túy, người có hành động nguy hại cho chính quyền…
Cơ sở của việc tước tự do là khi một người có hành vi xâm hại tự do của
người khác và xâm hại đến lợi ích cộng đồng. Hoặc người đó có nguy cơ ảnh hưởng
đến cộng đồng, ví dụ trong tình trạng dịch bệnh… Việc tước tự do phải được điều
chỉnh bằng nhiều quy phạm pháp luật, đặc biệt là trong lĩnh vực hành chính và tư
pháp hình sự. Các biện pháp tước tự do là cần thiết trong những điều kiện và hoàn
cảnh cụ thể. Tuy nhiên cần hết sức thận trọng, bởi lẽ những biện pháp này khi áp
dụng sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến các quyền cơ bản của con người. Nhân loại văn
minh toàn thế giới đã thừa nhận rằng tự do là một yếu tố nền tảng của nhân phẩm.
Việc tước đoạt tự do trong nhiều trường hợp làm tổn hại nghiêm trọng đến nhân
phẩm. Khi một người bị bắt, tạm giữ, tạm giam hay bị cầm tù đều có một tình trạng
chung đó là bị hạn chế tự do thân thể, tự do đi lại, cư trú trong một khoảng thời
gian nhất định. Vì thế, quyền và lợi ích hợp pháp của họ dễ bị ảnh hưởng, xâm
phạm. Từ đó dẫn đến yêu cầu cần thiết phải bảo đảm quyền cho nhóm người này.
Tước tự do phải theo thủ tục được pháp luật quy định và phù hợp với luật nhân
quyền quốc tế. Tước tự do hợp pháp và chính đáng thông thường phải qua trình tự
tư pháp và bởi tòa án, song trong một số trường hợp hạn chế, cơ quan hành pháp

cũng có thể quyết định và thực hiện tước tự do một người, ví dụ: với những người
tâm thần, trong hoàn cảnh khẩn cấp của quốc gia…
Theo luật nhân quyền quốc tế, người bị tước tự do là một khái niệm rất rộng,
bao gồm tù nhân, những người bị tạm giữ, tạm giam,, quản chế, cải tạo… tức là tất
cả những người bị giới hạn, ở bất cứ mức độ và dưới bất cứ hình thức nào, các tự do
chính trị, dân sự của mình so với những công dân bình thường.
Con người có rất nhiều tự do, ví dụ như tự do đi lại, tự do cư trú, tự do học

14
tập, tự do tôn giáo, tự do việc làm… Khái niệm "người bị tước tự do" dùng để chỉ
những người bị giới hạn một số quyền nhất định vì các lý do an ninh hay trật tự xã
hội, chứ không phải tước bỏ toàn bộ các tự do của con người. Tù nhân bị tước
quyền tự do đi lại, tự do cư trú, nhưng họ vẫn được hưởng các quyền tự do khác
như tự do ngôn luận, tự do tư tưởng, tín ngưỡng và tôn giáo. Một người bị tạm
giam, tạm giữ vẫn có quyền theo hay không theo tôn giáo nào Các quyền đó phải
được pháp luật tôn trọng và bảo đảm bằng việc quy định người có hành vi xâm hại
tới các quyền đó thì bị xử lý về mặt hành chính hoặc hình sự tùy theo mức độ.
Tóm lại người bị tước tự do theo luật nhân quyền quốc tế được hiểu là tất cả
những người bị giới hạn, ở bất cứ mức độ và dưới bất kỳ hình thức nào, các tự do
chính trị, dân sự của mình so với những công dân bình thường.
1.1.2. Quyền của người bị tước tự do
Hiện chưa có một văn kiện nào đưa ra khái niệm quyền của người bị tước tự
do. Tuy nhiên như đã phân tích, nhóm người bị tước tự do là một trong những chủ
thể quan trọng của luật nhân quyền quốc tế. Họ được hưởng những quyền lợi chính
đáng, phù hợp với địa vị của họ. Quyền của người bị tước tự do có các đặc điểm:
Thứ nhất: quyền của người bị tước tự do là quyền của người thuộc các nhóm
người dễ bị tổn thương
Hiện nay có nhiều định nghĩa khác nhau về quyền con người, trong đó định
nghĩa của Văn phòng cao ủy Liên Hợp Quốc thường được trích dẫn bởi các nhà
nghiên cứu: “Quyền con người là những bảo đảm pháp lý toàn cầu có tác dụng bảo

vệ các cá nhân và nhóm chống lại những hành động hoặc sự bỏ mặc làm tổn hại đến
nhân phẩm, những sự được phép và tự do cơ bản của con người.” [17, tr.22].
Như vậy, quyền con người được hiểu là những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn
có và khách quan của con người được thừa nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia
và các thỏa thuận pháp lý quốc tế. Các quyền con người có thể gây cản trở lẫn nhau,
chúng bị giới hạn bởi các quyền và tự do của người khác hay bởi các yêu cầu về đạo
đức, trật tự công cộng và phúc lợi chung trong một xã hội dân chủ [21, tr.656].
Bên cạnh các cá nhân, chủ thể của quyền con người còn là các nhóm xã hội

15
nhất định, trong đó có các nhóm dễ bị tổn thương, ví dụ như phụ nữ, trẻ em, những
người bị tước tự do Quyền cá nhân được hiểu là "các quyền thuộc về mỗi cá nhân,
bất kể họ có hay không là thành viên của bất kỳ một nhóm xã hội nào, và việc
hưởng thụ các quyền này là tùy thuộc ý chí của mỗi cá nhân" [15, tr.14]. Chẳng hạn
như quyền sống, quyền tự do đi lại, tự do cư trú… Còn quyền của nhóm được hiểu
là “những quyền đặc thù, chung của một tập thể hay một nhóm xã hội nhất định, mà
để được hưởng thụ các quyền này cần phải là thành viên của nhóm, và đôi khi cần
phải thực hiện cùng với các thành viên khác của nhóm” [15, tr.14]. Ví dụ như quyền
tự do lập hội, tự do hội họp…
Việc thừa nhận và bảo đảm các quyền của nhóm là hết sức cần thiết và quan
trọng. Việc coi nhẹ, phủ nhận các quyền của bất cứ nhóm nào đều có thể dẫn đến
mất ổn định trong xã hội. Bởi lẽ ở mỗi quốc gia, khu vực do các nguyên nhân xã
hội, lịch sử luôn tồn tại những nhóm người có trình độ phát triển, vị thế và năng
lực khác nhau. Việc quy định quyền của nhóm không phải là phủ nhận tính phổ quát
của quyền con người. Đồng thời cũng không đi ngược lại với nguyên tắc cơ bản của
luật quốc tế về quyền con người là nguyên tắc tất cả các quyền con người được áp
dụng một cách bình đẳng với tất cả mọi người. Bởi lẽ bình đẳng không có nghĩa là
cào bằng mức độ hưởng thụ, điều này thực chất lại là bất bình đẳng. Bình đẳng ở
đây phải được hiểu là bình đẳng về tư cách chủ thể và cơ hội thụ hưởng các quyền
con người. Điều đó có nghĩa là mọi thành viên trong cộng đồng nhân loại đều có cơ

hội được hưởng các quyền như nhau trong những điều kiện, hoàn cảnh, năng lực
sẵn có như nhau.
Nhóm người dễ bị tổn thương chiếm phần lớn trong nội dung về quyền của
nhóm và cấu thành một bộ phận quan trọng của luật quốc tế về quyền con người.
Hiện chưa có một định nghĩa chính thức về nhóm người dễ bị tổn thương, tuy cụm
từ này được sử dụng thường xuyên trong các tài liệu, đặc biệt là các nghiên cứu về
luật nhân quyền quốc tế. Từ những tài liệu đó có thể hiểu khái niệm nhóm người dễ
bị tổn thương chỉ những nhóm, cộng đồng có vị thế về chính trị, xã hội hoặc kinh tế
thấp hơn, từ đó khiến họ có nguy cơ cao hơn bị bỏ quên hay bị vi phạm các quyền

16
con người, và bởi vậy, họ cần được chú ý bảo vệ đặc biệt so với những nhóm, cộng
đồng người khác. Luật nhân quyền quốc tế xác định những nhóm người dễ bị tổn
thương, gồm: Phụ nữ; Trẻ em; Người khuyết tật (thể chất, tâm thần); Người thiểu
số/bản địa; Người nước ngoài/người không quốc tịch; Người tị nạn/tìm kiếm quy
chế tị nạn; Người lao động di trú; Người bị tước tự do; Tù binh chiến tranh, dân
thường trong vùng chiến sự hoặc vùng bị lực lượng quân sự nước ngoài chiếm
đóng; Người già; Người sống chung với HIV Danh sách trên cho thấy, người bị
tước tự do thuộc nhóm người dễ bị tổn thương và cần phải được quan tâm, bảo vệ.
Lý do người bị tước tự do thuộc nhóm người dễ bị tổn thương là vì:
Do địa vị pháp lý là người bị giới hạn một số quyền so với các công dân bình
thường. Vì vậy họ bị giảm đi cơ hội hưởng thụ các quyền như những người bình
thường khác. Chẳng hạn như quyền tự do đi lại, tự do cư trú, tự do hành nghề…
Khi một người bị tước tự do thì quyền trên sẽ bị hạn chế.
Bên cạnh đó là lý do xã hội. Do nhận thức và quan niệm chưa được đầy đủ
của một số người trong xã hội, cho nên những người bị tước tự do bị khinh miệt, bị
xa lánh và kỳ thị. Cũng vì đó mà các quyền chính đáng của họ bị xâm phạm. Việc bị
giới hạn quyền tư do là đã bị tước đi một số quyền quan trọng của con người, đó là
quyền tự do đi lại, tự do cư trú… Nhưng cũng chính từ địa vị đó càng khiến cho
những người bị tước tự do dễ bị tổn thương hơn. Đó là nguy cơ cao bị tra tấn, bị

đánh đập, bị bức cung… Điều đó xuất phát từ chính một bộ phận những người thi
hành công vụ, những người cầm quyền. Một số người dân cũng có cái nhìn không
mấy thiện cảm với những người bị tước tự do. Bị kỳ thị là nguyên nhân khiến họ bị
tổn thương về mặt tinh thần.
Thứ hai: Đó là những quyền cơ bản và đặc thù của con người cho dù họ có
bị tước hoặc hạn chế một số quyền tự do.
Quyền là cái mà pháp luật, xã hội, phong tục hay lẽ phải cho phép hưởng thụ,
vận dụng, thi hành Và khi thiếu được yêu cầu để có, nếu bị tước đoạt có thể đòi hỏi
để giành lại. Quyền của người bị tước tự do là một bộ phận cấu thành của quyền con
người. Quyền con người xuất phát từ chính phẩm giá của mỗi con người, không phân

17
biệt giới tính, dân tộc, màu da, ngôn ngữ hay bất kỳ địa vị nào. Người bị tước tự do
cũng có những phẩm chất và giá trị con người. Không phải vì bị tước tự do mà các
giá trị con người của họ bị mất hết và không còn là con người. Vì vậy họ cũng phải
có các quyền con người cơ bản – những quyền mà tạo hóa ban cho và không ai có thể
tước đoạt. Nhân phẩm là những phẩm chất, giá trị chỉ con người mới có và tạo nên tư
cách, vị thế, sự khác biệt của con người trong thế giới động vật. Phẩm giá là như nhau
và tồn tại bên trong đời sống của mỗi người. Trong bản thân khái niệm phẩm giá có
chứa tư tưởng về giá trị của mỗi con người, về tính độc nhất vô nhị và bản sắc của
mỗi cá nhân mà đươc mọi người, mọi thiết chế và toàn xã hội tôn trọng. Điểm bắt đầu
của khái niệm về quyền con người là khái niệm về phẩm giá vốn có của tất cả các
thành viên trong gia đình nhân loại như được ghi nhận trong UDHR và hai công ước
ICCPR, ICESCR. Ngay trong lời nói đầu của UDHR đã đề cập đến “phẩm giá vốn
có” [21, tr.44] của con người và khẳng định mọi người đều tự do và bình đẳng về
“phẩm giá và các quyền” (trong Điều 1) [21, tr.59]. Còn trong hai công ước ICCPR,
ICESCR đều khẳng định quyền con người “bắt nguồn từ phẩm giá vốn có của con
người” (lời nói đầu) [16, tr.77; tr.55]. Việc ghi nhận và bảo vệ các quyền con người
nói chung, quyền của người bị tước tự do nói riêng, do đó là nhằm đáp ứng những đòi
hỏi tất yếu về bảo vệ phẩm giá con người.

Người bị tước tự do cũng được hưởng các quyền con người cơ bản trên
cương vị bình đẳng như bất cứ cá nhân nào khác. Bên cạnh đó, họ còn được hưởng
những quyền đặc thù, mà bản chất là những ưu tiên hoặc cơ chế bảo vệ đặc biệt
dành cho nhóm người này dựa trên những đặc điểm, tính chất và hoàn cảnh của họ.
Đó là các quyền như quyền không bị tra tấn, quyền được đối xử nhân đạo, các
quyền thuộc nhóm quyền xét xử công bằng, quyền của nhóm người chưa thành
niên… Việc quy định những ưu tiên này không phải bởi vì các quyền được ưu tiên
thự hiện có giá trị cao hơn, mà bởi vì các quyền đó trong thực tế có nguy có bị đe
dọa hoặc bị vi phạm nhiều hơn các quyền khác.
Như vậy là nói đến quyền của người bị tước tự do bên cạnh các quyền cơ bản
của con người còn bao gồm các quyền đặc thù của nhóm.

18
Thứ ba: các quyền của người bị tước tự do được pháp luật thừa nhận và bảo vệ.
Hiện có hai trường phái (học thuyết) về nguồn gốc của nhân quyền:
Thuyết quyền tự nhiên cho rằng, quyền con người, bao gồm cả quyền của
người bị tước tự do là những gì bẩm sinh, vốn có thuộc về con người mà ai cũng
được hưởng, đơn giản bởi họ là thành viên của đại gia đình nhân loại. Tuyên ngôn
độc lập của Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ năm 1776 đã khẳng định: "Tất cả mọi người
sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể chối
cãi được. Trong những quyền ấy có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu
hạnh phúc". Về mặt xã hội, thuyết quyền tự nhiên mang ý nghĩa phản kháng. Nó là tư
tưởng của các lực lượng tiến bộ chống lại trật tự xã hội bất công, bất bình đẳng (xã
hội chiếm hữu nô lệ và xã hội phong kiến sau này). Vì thế, không chỉ trong quá khứ,
mà cả ngày nay thuyết này vẫn có ý nghĩa nhất định. Học thuyết này có điểm tích cực
là đề cao con người với tư cách là sản phẩm cao nhất, tinh tuý nhất của sự phát triển
tự nhiên. Nhưng nhược điểm là ở chỗ đã che lấp nguồn gốc xã hội của quyền con
người và do đó, không thấy tính lịch sử, tính giai cấp, sự phát triển. Bên cạnh học
thuyết về quyền tự nhiên, một trường phái khác cho rằng quyền con người nói chung,
quyền của người bị tước tự do nói riêng mang tính pháp lý. Có nghĩa là các quyền

con người phải được quy định trong pháp luật. Như vậy, quyền con người vẫn là
những đặc quyền tự nhiên, vốn có ngay từ khi sinh ra. Nhưng khi chưa được Nhà
nước, pháp luật ghi nhận thì các quyền tự nhiên chưa trở thành quyền.
Việc phủ nhận hoàn toàn bất cứ học thuyết nào đều không phù hợp. Bởi vì,
trong UDHR và một số văn kiện khác thì nhân quyền được khẳng định rõ ràng là
các quyền tự nhiên. Cụ thể trong đoạn 1, lời nói đầu UDHR nêu rằng: “thừa nhận
phẩm giá vốn có và các quyền bình đẳng và không thể tách rời của mọi thành viên
trong gia đình nhân loại” [21, tr.44]. Ngược lại về hình thức, hầu hết các văn kiện
pháp luật của các quốc gia đều thể hiện quyền con người là các quyền pháp lý. Hai
học thuyết quyền tự nhiên và quyền pháp lý bổ sung cho nhau chứ không loại trừ
nhau. Mâu thuẫn, đối lập chỉ do cách hiểu và vận dụng không đúng đắn. Bởi vì
thuyết về quyền tự nhiên muốn nói đến nguồn gốc, bản chất, không nói đến cách

19
thức ghi nhận, thực hiện quyền và không phủ nhận việc các quyền tự nhiên cần phải
được ghi nhận và bảo vệ bằng pháp luật. Còn thuyết về quyền pháp lý nhấn mạnh
cách thức ghi nhận, thực hiện quyền chứ không phủ nhận nguồn gốc của quyền là tự
nhiên, vốn có. Quyền pháp lý là tập hợp chọn lọc và đã được cụ thể hóa của các
quyền tự nhiên. Tập hợp này có thể chưa bao gồm hết các quyền tự nhiên, nhưng
không tuyên bố phủ nhận những gì chưa được pháp điển hóa. Như vậy có nghĩa là
quyền con người vẫn là những gì bẩm sinh, vốn có mà pháp luật chỉ có thể thừa
nhận và bảo đảm.
Một lập luận khác chứng minh cho nhận định trên, đó là khi xét đến bản chất
của con người dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mac-Lênin: Triết học Mac-Lênin đã chỉ
ra rằng con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh vật với mặt xã hội; trong
tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội; con
người là chủ thể và là sản phẩm của lịch sử. Như vậy là ở con người vừa có tính tự
nhiên (sinh vật) vừa có tính xã hội. Do đó, quyền con người một mặt mang tính tự
nhiên, là những gì bẩm sinh, vốn có của mỗi con người. Mặt khác, quyền con người
cũng mang tính lịch sử và xã hội. Có nghĩa là quyền con người là kết quả và phụ

thuộc vào sự vận động của các quan hệ xã hội trong lịch sử. Thực tế cho thấy, trong
mỗi giai đoạn lịch sử, xã hội loài người tồn tại những quy phạm và cơ chế khác
nhau để thực hiện, giám sát và bảo vệ các quyền, tự do và nghĩa vụ đó.
Pháp luật là công cụ hữu hiệu của Nhà nước trong việc thực hiện, bảo vệ
quyền của người bị tước tự do. Những nhu cầu vốn có, tự nhiên của con người
không thể được đảm bảo đầy đủ nếu không được pháp luật thừa nhận và bảo vệ.
Thông qua pháp luật, nghĩa vụ tôn trọng và thực thi các quyền trở thành những quy
tắc cư xử chung, có hiệu lực bắt buộc và thống nhất cho tất cả mọi chủ thể trong xã
hội, chứ không phải chỉ tồn tại dưới dạng những quy tắc đạo đức. Vai trò của pháp
luật đối với việc thúc đẩy các quyền của người bị tước tự do thể hiện rõ ở hai khía
cạnh là thừa nhận và bảo đảm các quyền cho nhóm người trên. Trước hết, pháp luật
là phương tiện chính thức hóa, pháp lý hóa giá trị xã hội của các quyền tự nhiên.
Ngay cả khi được thừa nhận, các quyền tự nhiên của người bị tước tự do cũng

×