Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

SỰ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA KINH TẾ HÀNG HOÁ VIỆT NAM ( THẾ KỈ XVI-XVIII )

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (113.78 KB, 10 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
Sự ra đời Và phát triển của kinh tế hàng hoá Việt nam
( Thế kỉ XVI-XVIII )
*********
Trong giai đoạn từ thế kỉ XVI-XVIII, nền kinh tế hàng hoá Việt Nam
không chỉ bị tác động bởi những biến động kinh tế ở trong nớc mà còn chịu ảnh
hởng không nhỏ của tình hình quốc tế. Thế kỉ XV, t bản thế giới phát triển kéo
theo đó là sự phát triển của nền kinh tế t bản chủ nghĩa. Vấn đề quan trọng đợc
đặt ra lúc bấy giờ là thị trờng để trao đổi buôn bán, thị trờng mà ở đó có thể tìm
thấy những nguyên liệu mới mà Phơng Tây không có. Chính do nhu cầu mở
rộng hoạt động thơng mại và nhờ vào những tiến bộ kĩ thuật của ngành hàng hải,
từ cuối thế kỉ XV, ở Phơng Tây đã diễn ra nhiều cuộc phát kiến địa lý sang Ph-
ơng Đông với hi vọng sẽ kiếm đợc nhiều vàng bạc và của cải. Có thể kể đến 3
cuộc phát kiến địa lý lớn đó là cuộc hành trình của Vaxcô đơ Gama, Crixtôp
Côlông và Vêxpuxơ Amêrigô, của Magienlan
Sau các cuộc phát kiến đó đã diễn ra nhiều cuộc di chuyển c dân trên qui
mô lớn, thơng nhân vội vã giành giật thị trờng và các nguồn nguyên liệu ở các
địa bàn mới vì thế ngời Phơng Tây ngày càng hiểu rõ hơn về về Phơng Đông và
muốn mở rộng quan hệ buôn bán với Phơng Đông trong đó có Việt Nam. Thêm
vào đó là hoạt động thơng thuyền Châu á đặc biệt là Trung Quốc và Nhật Bản
ngày càng nhộn nhịp đã tạo nên một thời kì đợc gọi là thơng mại Biển Đông .
Việt Nam cũng tham gia vào hoạt động trao đổi buôn bán này và đã thúc đẩy sự
phát triển của nền kinh tế hàng hoá Việt Nam phát triển.
Trong bối cảnh khu vực hết sức thuận lợi cùng với những thành tích trong
kinh tế nông nghiệp, thủ công nghiệp, khai mỏ, nội thơng đã khiến cho nền
kinh tế hàng hoá Việt Nam ra đời và đạt đợc nhiều thành tựu.
* Sản xuất thủ công nghiệp
1
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Cả chính quyền Lê-Trịnh ở Đàng Ngoài và Nguyễn ở Đàng Trong đều
cho lập ra các quan xởng. Đàng Ngoài, ở Thăng Long, chúa Trịnh lập ra nhiều


xởng lớn chuyên sản xuất vũ khí cho quân đội, làm đồ trang sức cho cung đình,
may trang phục cho vua chúa. Từ năm 1760, Nhà nớc cho phép các chấn mở x-
ởng đúc tiền. Đàng Trong, chúa Nguyễn đặc biệt chú ý các công xởng đúc súng
và đóng thuyền. Nhng do lực lợng lao động trong các quan xởng đều là những
thợ thủ công giỏi đợc trng tập từ các địa phơng theo chế độ công tợng nên sản
phẩm làm ra chỉ phục vụ nhu cầu rất hạn chế của chính quyền nên ít có tác động
đến sự phát triển kinh tế trong kì nớc. Bộ phận chủ yếu làm nên diện mạo hng
khởi của kinh tế hàng hoá thời này là các nghề thủ công trong dân gian
- Nghề làm gốm:
Nhiều làng chuyên làm gốm đã đợc hình thành từ những thế kỉ trớc và
cho đến thời kì này nhiều làng gốm nh Bát Tràng, Chu Đậu, Thổ Hà... ở Đàng
Ngoài và Mý Thiện, Lộc Thiện ở Đàng Trong đã trở thành những trung tâm sản
xuất lớn. Sản phẩm làm ra chẳng những đợc lu thông trên cả nớc mà với chất l-
ợng khá cao còn là một mặt hàng xuất khẩu đợc nớc ngoài a chuộng.
- Nghề kéo tơ, dệt lụa:
Đàng Ngoài, Yên Thái, Nghi Tàm, Bởi, Trúc Bạch và các làng phụ cận
nh Thiên Mỗ, ỷ La, Hạ Hội là những nơi nổi tiếng về mặt hàng này. Tơ lụa trở
thành một mặt hàng xuất khẩu quan trọng. Từ năm 1637, ngời Hà Lan đã mua tơ
ở Đàng Ngoài với số lợng lớn:
Năm 1644: 645 tạ
Năm 1645: 920 tạ ( 800 tạ đem bán ở Nhật và 120 tạ trở về Châu Âu.
Ngời Bồ Đào Nha hàng năm cũng đặt hàng vạn lạng bạc cho chúa Trịnh
để mua tơ.
2
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Đàng Trong, nghề kéo tơ dệt lụa phát triển cả về số lợng và chất lợng. Th-
ơng nhân Paovorơ đánh giá rất cao về mặt hàng này: Tơ của họ rất đẹp ... họ
có thể cung cấp nhiều hơn nữa nếu Đàng Trong có thị trờng tiêu thụ..
Tơ lụa khi ấy là một mặt hàng xuất khẩu có giá trị nên ở Đàng Ngoài
chính quyền và quan lại cũng tham gia vào công việc buôn bán. Tuy nhiên, hàng

của chúa không đẹp nhng lại buộc thơng nhân mua đắt với giá cao gấp 2 lần...
Phơng thức mua bán này chính là một trong những nguyên nhân làm cho ngoại
thơng Đàng Ngoài sớm lụi tàn.
- Trồng mía làm đờng:
Là một nghề truyền thống có từ thời Bắc Thuộc, nghề này phát triển rộng
rãi trong thế kỉ XVII-XVIII, đặc biệt là ở vùng Quảng Nam, Quảng Ngãi. Đờng
cũng là một mặt hàng xuất khẩu quan trọng lúc bấy giờ, theo Paovrơ: trớc kia,
họ chỉ làm đủ dùng trong xứ, nhng vì các lái buôn Trung Quốc đem lại cho họ
nguồn tiêu thụ nên họ đã tăng các lò nấu đờng nên đến mức có thể đủ hàng cho
80 chiếc thuyền.
Năm 1637, tàu Hà Lan đã cập cảng Hội An mua gần 2.000 cân đờng chở
về Batavia. Các nghề thủ công khác nh làm giấy, rèn sắt, đúc đồng, dệt chiếu,
làm nón, chạm khắc mỹ nghệ đều có những b ớc phát triển. Một số nghề mới
cũng xuất hiện trong thời kì này. Đàng Ngoài hai làng Liễu Tràng và Hồng Lục
( Hải Dơng ) đã phát triển thành trung tâm khắc ván in và bia đá nổi tiếng. Đàng
Trong xuất hiện một số nghề du từ Phơng Tây. Một ngời tên là Nguyễn Văn Tú
ở Đăng Xơng Thừa Thiên sau khi du học 2 năm ở Hà Lan đã học đợc nghề
chế tạo đồng hồ. Tuy nhiên, sản phẩm chỉ dừng lại ở mức phục vụ cho nhu cầu
của giới quí tộc.
- Nghề khai mỏ:
Trong các thế kỉ XVII-XVIII, nghề khai khoáng phát triển khá rầm rộ.
Các mỏ vàng, bạc, đồng, kẽm đều hình thành các công trờng khai thác nhng
3
Website: Email : Tel : 0918.775.368
phát triển mạnh nhất là ở các vùng mỏ có đồng. Phan Huy Chú từng có nhận xét
về tình hình khai mỏ ở Đàng ngoài nh sau: lợi về hầm mỏ phần nhiều ở các Tứ
Xuyên, Hng, Thái, Lạng, Vàng, bạc, đồng, thiếc thật là vô tận. Chi dụng trong
nớc sở dĩ đợc đầy đủ là do thuế của các mỏ không thiếu Từ thời Lê Trung H -
ng, khi nghề khai mỏ phát triển mạnh mẽ, chúa Trịnh đã cho các chủ thầu Trung
Quốc tổ chức khai thác, nhân công chủ yếu là ngời Trung Quốc. Một số quan lại

ngời Việt cũng xin Nhà nớc cho phép bỏ vốn ra bao thầu khai thác. Khoáng sản
khai thác đợc đem ra bán trên thị trờng trong nớc và xuất khẩu.
Đàng Trong không có nhiều khoáng sản nên nghề này kém phát triển.
Đến thế kỉ XVIII mới hình thành một số công trờng khai thác vàng và quặng
sắt, chủ yếu là ở Quảng Nam. Đến cuối thế kỉ XVIII xuất hịên một số công tr-
ờng khai thác lớn. Giang Huyền một ngời giàu có đã bỏ tiền ra mua cả một quả
núi ở Thu Bồn. Hàng năm, số vàng đào đợc chở đến Hội An bán cho tàu nớc
ngoài lên đến gần 1.000 thoi.
Nghề khai khoáng trong thế kỉ XVII-XVIII trở thành một bộ phận quan
trọng của nền kinh tế, đã xuất hiện nhiều công trờng thủ công.
* Tình hình nội thơng
Thế kỉ XVI-XVIII là giai đoạn bùng phát của hệ thống các chợ, bên cạnh
các chợ làng đã xuất hiện các chợ tổng, chợ huyện họp theo phiên. Có những
làng nghề có chợ riêng chuyên bán sản phẩm làm ra: chợ Đại Bái bán đồ đồng,
chợ Thổ Hà Bát Tràng chuyên bán đồ sành sứ, chợ Vân Chàng, Nho Lâm
chuyên bán đồ rèn sắt. Cùng với các chợ địa phơng đã có những chợ lớn Nhà n-
ớc đứng ra thu thuế.
Sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế hàng hoá trong thời kì này đã làm hng
khởi bộ mặt của các đô thị. Đàng Ngoài, hai đô thị đợc coi là lớn và hoạt động
thơng mại sầm uất là Thăng Long và Phố Hiến. Thăng Long khi ấy còn có tên
gọi là Kẻ Chợ - từ 36 phố phờng thời Lê đã trở thành trung tâm chính trị và th-
4
Website: Email : Tel : 0918.775.368
ơng mại quan trọng. Theo giáo sĩ Marini, ở Thăng Long vào năm 1666: có 62
khu phố mà mỗi khu rộng bằng một thành phố nhỏ của nớc ý .Các phố đều đầy
thợ thủ công và thơng nhân ... Cuối thế kỉ XVII, Baroon nhận xét : thành phố
Kẻ Chợ có thể so sánh với các thành phố ở Châu á nhng lại đông hơn .các
con đờng rộng bấy giờ đều trở thành chật chội đến nỗi chen qua đám đông ngời
độ 100 bớc trong khoảng nửa tiếng đồng hồ là một điều sung sớng. Năm 1736,
một sứ thần Trung Quốc khi đi chơi phố đã hứng khởi làm thơ :

Ngày dài thuyền chở, xe dong
Bán buôn lũ lợt, trập trùng chen đua
Thành phố đứng thứ 2 ở đàng ngoài khi đó là Phố Hiến. Nhờ có vị trí giao
thông thuận lợi, vùng đất này đã phát triển thành một trung tâm trung chuyển th-
ơng mại lớn trong các thế kỉ XVI-XVII. Phố Hiến có 12 phờng trong đó có 8 ph-
ờng sản xuất các mặt hàng thủ công nghiệp. Phố Hiến cũng là nơi ngời nớc
ngoài đến làm ăn sinh sống nhiều nhất đặc biệt là ngời Trung Quốc. Ngời Hà
Lan, Anh, Pháp cũng đã từng xin phép đợc lập điếm tại đây. Với vai trò trung
chuyển thơng mại, sự hng thịnh của Phố Hiến phụ thuộc rất nhiều vào sự phát
triển thơng mại từ các nơi khác trong nớc và tình hình ngoại thơng.
Ngoài những trung tâm thơng mại lớn còn cần phải kể đến hiện tợng
những tụ điểm buôn bán mang dáng dấp đô thị đợc mọc lên ở rất nhiều nơi nh
Kì Lừa, Đồng Đăng ( Lạng Sơn ), Vân Đồn, Vạn Nịnh (Quảng Ninh)
Đàng Trong, bên cạnh mạng lới chợ nhỏ dày đặc, mỗi phủ thờng có 4-5
chợ lớn. Đặc biệt ở Nam Trung Bộ và Nam Bộ đã xuất hiện những tụ điểm công-
nông-thơng-tín ở những vị trí giao thông thuận lợi vừa buôn bán vừa dịch vụ gọi
là Thị Tứ đã góp phần đáng kể vào việc phát triển hàng hoá ở nông thôn. Đô thị
sầm uất nhất là thơng cảng Hội An ( vốn là một hải cảng quan trọng của
Champa) từ lâu đã trở thành nơi giao lu buôn bán mang tính quốc tế. Đến thế kỉ
XVI, khi hoạt động thơng mại trên biển Đông trở nên nhộn nhịp, nhiều tầu buôn
5

×