Tải bản đầy đủ (.doc) (36 trang)

Địa hình cacxtơ của miền Bắc và Đông Bắc Bắc Bộ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (201.4 KB, 36 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1.1 Lý do chọn đề tài
Nước ta đồi núi chiếm tới 3/4 diện tích lãnh thổ, đồng bằng chỉ chiếm 1/4 diện
tích. Địa hình nước ta được vận động Tân kiến tạo làm trẻ lại và có tính phân
bậc rõ rệt. Địa hình thấp dần từ tây bắc xuống đông nam và cấu trúc địa hình có
hai hướng chính là tây bắc – đông nam và hướng vòng cung. Ở nước ta có nhiều
kiểu địa hình khác nhau, một trong số đó nổi bật là kiểu địa hình cacxtơ. Miền
Bắc và Đông Bắc Bắc Bộ là nơi có quá trình hình thành và phát triển địa hình
cacxtơ lớn nhất nước ta. Trên cơ sở đó, là một sinh viên theo học ngành Địa lý
(định hướng quản lý tài nguyên môi trường) tôi được học các môn học có liên
quan đến địa hình cacxtơ như “Địa chất đại cương”, “Địa lý tự nhiên Việt
Nam”…cùng với nhiều tài liệu khác. Với mong muốn là vận dụng những kiến
thức mà tôi đã được học để nâng cao sự hiểu biết của mình về một vấn đề cụ thể
nên, tôi đã quyết định chọn đề tài “Tìm hiểu địa hình cacxtơ của miền Bắc và
Đông Bắc Bắc Bộ” nghiên cứu.
1.2 Mục đích nghiên cứu
Thông qua việc “Tìm hiểu về địa hình cacxtơ của miền Bắc và Đông Bắc Bắc
Bộ” nhằm hiểu được lịch sử hình thành và phát triển, và đề xuất một số giải
pháp phát triển bền vững địa hình cacxtơ của miền. Từ đó giúp tôi nâng cao hiểu
biết về địa hình cacxtơ của nước ta nói chung và miền Bắc và Đông Bắc Bắc Bộ
nói riêng.
1.3 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là địa hình cacxtơ của miền Bắc và Đông Bắc
Bắc Bộ.
1.4 Nhiệm vụ nghiên cứu
Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài là thông qua lịch sử hình thành, các yếu tố ảnh
hưởng đến quá trình cacxtơ… để làm rõ những đặc điểm nổi bật của địa hình
cacxtơ của miền Bắc và Đông Bắc Bắc Bộ. Trên cơ sở đó thấy được giá trị của
địa hình cacxtơ đối với tự nhiên và sự phát triển kinh tế - xã hội của miền mà có
những biện pháp khai thác và bảo vệ cho phù hợp.
1.5 Giới hạn đề tài


Do khả năng và nguồn tài liệu có hạn nên phạm vi nghiên cứu của đề tài “Tìm
hiểu địa hình cacxtơ của miền Bắc và Đông Bắc Bắc Bộ” chỉ giới hạn trong các
vấn đề cơ bản của địa hình cacxtơ của miền như: Các yếu tố ảnh hưởng đến quá
1
trình hình thành và phát triển địa hình cacxtơ, sự phân bố địa hình cacxtơ của
miền Bắc và Đông Bắc Bắc Bộ.
1.6 Quan điểm nghiêm cứu và phương pháp nghiên cứu
1.6.1 Quan điểm nghiên cứu
1.6.1.1 Quan điểm lãnh thổ
Quan điểm lãnh thổ là quan điểm đặc thù của địa lý. Trong thực tế mỗi sự vật,
hiện tượng địa lý luôn có sự phân hóa trong không gian làm cho chúng có sự
khác nhau giữa nơi này với nơi khác. Quán triệt quan điểm này, khi “Tìm hiểu
địa hình cacxtơ của miền Bắc và Đông Bắc Bắc Bộ”, đây là tiêu biểu cho địa
hình cacxtơ nhiệt đới.
1.6.1.2 Quan điểm tổng hợp
Quan điểm này đòi hỏi người nghiên cứu phải xem xét các sự vật, hiện tượng
trong mối quan hệ tác động qua lại giữa chúng tránh tách rời và xem xét chúng
một cách riêng rẽ. Địa hình cacxtơ là một thành phần của hệ thống tự nhiên, khi
một thành phần thay đổi sẽ dẫn đến các thành phần khác thay đổi theo. Vì vậy,
phải nghiên cứu địa hình cacxtơ trong một hệ thống gồm các yếu tố như yếu tố
nham thạch, địa chất, địa hình, khí hậu, thủy văn, lớp phủ thổ nhưỡng – sinh vật
nên không thể nghiên cứu một cách độc lập.
1.6.1.3 Quan điểm lịch sử và viễn cảnh
Bất kỳ một sự vật, hiện tượng đều có tính chất lịch sử, tức là chúng có sự vận
động và phát triển theo thời gian. Do vậy, địa hình cacxtơ của miền Bắc và
Đông Bắc Bắc Bộ cũng đã trải qua tiến trình phát triển lâu dài và hiện nay vẫn
đang còn tiếp tục phát triển. Nên khi nghiên cứu vấn đề này cần phải quán triệt
quan điểm “lịch sử” để giải thích được nguyên nhân hình thành và phát triển, xác
định xu hướng phát triển của địa hình cacxtơ của miền Bắc và Đông Bắc Bắc Bộ
nói riêng và nước ta nói chung. Khi biết được lịch sử phát triển và xu hướng phát

triển đó, chúng ta sẽ quán triệt quan điểm “viễn cảnh” để đưa ra những xu hướng
phát triển của địa hình cacxtơ của miền Bắc và Đông Bắc Bắc Bộ.
1.6.1.4 Quan điểm sinh thái
Quán triệt quan điểm “sinh thái” đòi hỏi người nghiên cứu phải xem xét đối tượng
nghiên cứu có tác động như thế nào đến các yếu tố xung quanh. Khi “Tìm hiểu
địa hình cacxtơ của miền Bắc và Đông Bắc Bắc Bộ”, đòi hỏi chúng ta phải
xem xét địa hình cacxtơ phát triển thì nó có ảnh hưởng như thế nào đến cảnh
quan ở vùng đó và nó sẽ có những ý nghĩa như thế nào? Biết được ý nghĩa của
2
nó, chúng ta sẽ có biện pháp khai thác và bảo vệ cho phù hợp để không làm thay
đổi quá mức cảnh quan cũng như môi trường sinh thái ở vùng đó.
1.6.2 Phương pháp nghiên cứu
1.6.2.1 Phương pháp thu thập tài liệu
Khi nghiên cứu địa hình cacxtơ của miền Bắc và Đông Bắc Bắc Bộ tiến hành thu
thập tài liệu nhằm mục tiêu chọn lựa những lý thuyết để làm cơ sở lý luận cho
đề tài. Nguồn tài liệu nghiên cứu được tham khảo trong đề tài rất đa dạng: Sách
báo, giáo trình, khóa luận tốt nghiệp, thông tin qua các phương tiện thông tin đại
chúng.
1.6.2.2 Phương pháp phân tích và tổng hợp tài liệu
Từ những tài liệu đã thu thập được liên quan đến đề tài, bằng cách phân tích
chúng thành từng bộ phận, từng mặt theo lịch sử thời gian để hiểu chúng một
cách đầy đủ, toàn diện. Phương pháp tổng hợp lý thuyết là phương pháp liên kết
từng mặt, từng bộ phận thông tin từ các lý thuyết đã thu thập được.
Phân tích và tổng hợp là hai phương pháp có chiều hướng đối lập nhau song lại
thống nhất biện chứng với nhau. Nghiên cứu lý thuyết thường bắt đầu bằng việc
phân tích tài liệu, sau đó tổng hợp lại để xây dựng thành hệ thống khái niệm.
Khi nghiên cứu, vận dụng hai phương pháp trên nhằm xây dựng hệ thống cơ sở lý
luận và thực tiễn cho đề tài.
1.6.2.3 Phương pháp phân loại, hệ thống hóa lý thuyết
Phân loại là phương pháp sắp xếp các tài liệu khoa học thành môt hệ thống lôgic

chặt chẽ theo từng mặt, từng vấn đề khoa học có cùng dấu hiệu bản chất. Khi
“Tìm hiểu địa hình cacxtơ của miền Bắc và Đông Bắc Bắc Bộ”, sử dụng
phương pháp phân loại để phân loại vấn đề nghiên cứu, từ đó dễ dàng nhận biết
và phát hiện quy luật phát triển của khách thể.
Phương pháp hệ thống hóa lý thuyết là phương pháp sắp xếp các tri thức khoa học
thành hệ thống, trên cơ sở một mô hình lý thuyết làm cho sự hiểu biết về đối
tượng đầy đủ và sâu sắc.
Phân loại và hệ thống hóa lý thuyết là hai phương pháp gắn liền với nhau, trong
phân loại có hệ thống và hệ thống phải dựa vào trên phân loại.


3
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: CỞ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU
ĐỊA HÌNH CACXTƠ CỦA MIỀN BẮC VÀ ĐÔNG BẮC BẮC BỘ
1.1 Khái niệm cacxtơ
Cacxtơ là một dạng địa hình đặc biệt, có sự liên quan đến sự lưu thông của nước
trong các đá dễ hòa tan. Thuật ngữ cacxtơ xuất phát từ tên gọi một cao nguyên
đá vôi ở Tây Bắc Liên Bang Nam Tư nay thuộc Cộng Hòa Slovenia, nơi nghiên
4
cứu loại địa hình này đầu tiên. Địa hình cacxtơ không chỉ phổ biến ở nước ta mà
còn cả trên thế giới.
1.2 Các quá trình và điều kiện hình thành địa hình cacxtơ
1.2.1Các quá trình hình thành địa hình cacxtơ:
Sự hình thành và phát triển địa hình cacxtơ phụ thuộc vào ba quá trình chính: Ăn
mòn, xâm thực và phong hóa sinh hóa học, trong đó ăn mòn là quá trình quan
trọng nhất.
Ăn mòn là sự hòa tan do nước và bioxit cacbon có trong nước. Theo tác giả
Alfred Biogli, quá trình ăn mòn gồm 4 giai đoạn:
Giai đoạn 1: Hòa tan trực tiếp trên bề mặt vật lý, chưa có sự tham gia của CO

2
.
Giai đoạn 2: Ở 4
0
C, hòa tan chỉ có 0.7% tồn tại dưới dạng axit cacbonic (H
2
CO
3
)
Giai đoạn 3: Hòa tan lý học chuyển thành H
2
CO
3
phân ly thành ion. Theo nhiều
tác giả ở các miền cận cưc và khí hậu cận Anpi, tốc độ hòa tan đá vôi gấp 4 lần
so với miền nhiệt đới.
Giai đoạn 4: CO
2
của không khí lúc đầu không cân bằng với CO
2
trong nước, dần
dần khuếch tán và thẩm thấu vào nước. Đá vôi chỉ có thể hòa tan cho đến khi
CO
2
vẫn còn khuếch tán vào nước.
Xâm thực là sự phá hủy bằng con đường cơ học của nước.
Phong hóa sinh hóa học là sự phá hủy đá bằng những axít hữu cơ, liên quan với
các hoạt động sinh sống của sinh vật.
1.2.2 Điều kiện hình thành địa hình cacxtơ
Để hình thành địa hình cacxtơ, gồm có:

Sự có mặt của đá dễ hòa tan như đá vôi, đá muối, đá đôlômit. Ngoài ra còn có một
số điều kiện thúc đẩy quá trình: Độ dày, thế nằm của đá, đặc điểm địa hình, ảnh
hưởng của khí hậu.
Sự có mặt của nước ở thể lưu động. Trong mỗi khối cacxtơ, theo chiều thẳng
đứng được phân biệt thành các đới: Đới lưu thông nước theo chiều thẳng đứng,
đới no nước theo chu kỳ, đới no nước thường xuyên.
1.3 Các yếu tố ảnh hưởng đến tốc độ phát triển và đặc điểm của địa hình
cacxtơ
5
1.3.1 Yếu tố nham thạch
Các điều kiện nham thạch và cấu trúc, các điều kiện này bao gồm sự có mặt của
các đá dễ hòa tan như đá vôi, đôlômit, đá phấn, thạch cao, muối mỏ,… hay các
đá có xi măng là vôi như đá kết vôi, sét vôi,…; độ tinh khiết, chiều dày và số
lượng các khe nứt trong đá, cấu trúc, sự có mặt hay vắng mặt của một số tầng đá
không hòa tan phủ trên đá vôi.
Loại đá có tính đồng nhất và độ tinh khiết cao, cấu trúc hạt nhỏ, chiều dày
không quá lớn sẽ thúc đẩy quá trình cacxtơ diễn ra mạnh mẽ và tạo thành
những dạng địa hình cacxtơ sắc sảo với những đỉnh núi sắc nhọn, những sườn
núi dốc đứng, các dạng địa hình ngầm phát triển mạnh… Như vậy, tính chất
của những loại đá nói trên sẽ tạo ra tính chất hiểm trở của địa hình. Ngược
lại, các loại đá không đồng nhất chứa nhiều tạp chất sẽ làm cho quá trình
cacxtơ kém phát triển hơn, địa hình sắc sảo, địa hình ngầm phát triển yếu, các
hang động thường không lớn, trong khi có ít thạch nhũ và thường có lắng
đọng nhiều vật liệu vụn bở.
1.3.2 Yếu tố cấu trúc địa chất
Các yếu tố cấu trúc địa chất như: Nền và địa máng, nếp vồng và nếp võng, đứt
gãy sẽ có ảnh hưởng khác nhau đến quá trình hình thành và phát triển địa hình
cacxtơ. Đối với các vùng có cấu trúc nền, quá trình cacxtơ phát triển mạnh mẽ
với địa hình phổ biến cacxtơ sót. Còn ở cấu trúc địa máng, thì quá trình cacxtơ
diễn ra yếu với địa hình cacxtơ tương đối trẻ.

Trong phạm vi các miền nền cũng như các miền địa máng đều có tồn tại các nếp
vồng và nếp võng với quy mô và hình thái khác nhau. Ở nhân của các nếp vồng
và nếp võng thường có địa hình cacxtơ sót và cánh của chúng thường có địa
hình cacxtơ trẻ. Sở dĩ như vậy là do ở nhân của các nếp vồng đá cacxtơ bị uốn
cong lên nên thường có độ nứt nẻ lớn, còn ở nhân của các nếp võng thường hình
thành những con sông tiêu nước, đó là những điều kiện quan trọng làm cho quá
trình cacxtơ ở nơi đó phát triển mạnh. Trong khi đó vừa có độ nứt nẻ kém, vửa
có diện thu nước nhỏ cho nên ở đây quá trình cacxtơ không có điều kiện phát
triển mạnh mẽ. Như vậy trong phạm vi mỗi nếp vồng và nếp võng quá trình
cacxtơ ở nhân mạnh hơn ở cánh.
Ngoài ra, cấu trúc đứt gãy cũng có ảnh hưởng lớn đến quá trình cacxtơ. Các sông,
suối, dòng ngầm lớn thường hình thành dọc theo các đường nứt gãy lớn.
1.3.3 Các yếu tố địa hình và thủy văn
6
Các điều kiện thủy địa chất đó là các nguồn cung cấp nước, CO
2
và các axít. Tác
động qua lại giữa đá và nước đã làm canxit (CaCO
3
) trong đá vôi chuyển thành
canxi cacbonat (Ca(CO
3
H)
2
) hòa tan trong nước và không ổn định về phương
diện hóa học. Về sau canxi cacbonat lại chuyển thành canxít hay aragonit. Nước
ở các miền khí hậu lạnh có chứa nhiều CO
2
hơn nước ở miền khí hậu ấm và
nóng, nhưng quá trình cacxtơ ở khu vực ấm và nóng lại có cường độ lớn hơn vì

ở đấy có chưa nhiều loại axít đem lại từ sự phân hủy các chất hữu cơ, và do
nhiệt độ cao của nước thúc đẩy các phản ứng hóa học.
Các điều kiện hình thái có thể đẩy mạnh hay kéo dài quá trình hình thành địa hình
cacxtơ thông qua độ dốc của sườn, mật độ chia cắt, độ cao tương đối, hướng
sườn…
Ngoài ra, yếu tố thủy văn còn ảnh hưởng đến quá trình cacxtơ thông qua yếu tố
địa hình: Ví dụ như độ cao tương đối của miền cacxtơ lớn hơn so với mức cơ sở
xâm thực địa phương tạo điều kiện cho sự lưu thông của nước và sự tiêu nước
dễ dàng. Trường hợp ngược lại dẫn đến chỗ bão hòa vật chất hòa tan bị ứ đọng
lại và do đó khả năng gặm mòn của nước bị giảm sút.
Địa hình ngoại vi miền cacxtơ cũng có ảnh hưởng đến quá trình cacxtơ. Nếu một
miền phi cacxtơ ở ngoại vi, mà có độ cao lớn hơn miền cacxtơ thì nó trở thành
miền cung cấp nước cho miền cacxtơ làm cho quá trình cacxtơ được tăng cường.
Còn miền phi cacxtơ ở ngoại vi mà lại ở vị trí thấp hơn miền cacxtơ sẽ trở thành
miền tiêu nước cho miền cacxtơ.
Cuối cùng, địa hình nằm ở bên dưới tầng bị cacxtơ hóa cũng có ảnh hưởng đến
quá trình cacxtơ. Địa hình ngầm ở các miền uốn nếp không thấm nước tạo điều
kiện cho nước lưu thông dễ dàng do đó quá trình cacxtơ phát triển mạnh. Còn ở
những miền không uốn nếp nước ngầm bị tù hãm do đó quá trình cacxtơ phát
triển yếu.
1.3.4 Yếu tố khí hậu
Các điều kiện khí hậu cũng có ảnh hưởng rất lớn đến quá trình hình thành và phát
triển địa hình cacxtơ. Khí hậu ảnh hưởng trực tiếp qua nhiệt độ, lượng mưa, chế
độ mưa và lượng CO
2
cũng như gián tiếp thông qua sự phát triển của thực vật.
1.3.5 Yếu tố lớp phủ thổ nhưỡng – sinh vật
Lớp phủ thổ nhưỡng và sinh vật ảnh hưởng đến quá trình cacxtơ ở hai mặt khác
nhau. Một mặt, lớp phủ này có tác dụng giữ lại sản phẩm phong hóa ở trên bề
mặt đá cacxtơ và làm cho dòng chảy trở thành tính chất điều hòa hơn. Tất cả

7
những điều đó đã làm trở ngại cho các dạng địa hình trên mặt và cả dưới sâu do
các khe nứt và các hang động bị vùi lấp bởi các vật liệu khe tích.
Mặt khác, nước thấm qua đất tới bề mặt đá cacxtơ có mang theo nhiều loại axít do
sự phân hủy của sinh vật. Chính các loại axít này làm cho quá trình cacxtơ ở
nhiệt đới mạnh mẽ hơn quá trình cacxtơ ở các đới khí hậu khác. Đồng thời tác
dụng lý – hóa của mùn và rễ cây làm tăng thêm cường độ hòa tan đá vôi của
nước chảy trên mặt.
1.4 Các dạng địa hình cacxtơ
1.4.1 Các dạng địa hình âm
Các dạng địa hình âm gồm có: Lạc thủy động, caren, lũng cacxtơ, máng cacxtơ,
cánh đồng cacxtơ, giếng cacxtơ, hố sâu tự nhiên.
Lạc thủy động: Nơi dòng nước chảy vào một cái hồ rồi biến mất vào trong khối
đá, khối nước này có thể xuất hiện ở nơi khác.
Caren còn gọi là đá tai mèo. Chúng có kích to nhỏ khác nhau, phân cách với nhau
bởi các rãnh sâu từ một vài centimet đến vài mét.
Lũng cacxtơ là những dạng lòng chảo gần tròn hay bầu dục, đường kính từ vài
mét đến vài chục mét, sâu vài mét đến 50m.
Máng cacxtơ là những chỗ trũng với nhiều hình dạng khác nhau: Tròn, bầu dục
hay hình lá cắt. Chúng có đường kính khoảng 500 mét đến1000 mét và sâu
khoảng 100m.
Cánh đồng cacxtơ là dạng địa hình âm lớn nhất, rộng từ 7 – 10km, dài tới 30km.
Cánh đồng cacxto có nhiều dạng khác nhau : Tròn, dài không đều đặn.
Giếng cacxtơ là các khoảng rỗng hình trụ thẳng đứng, sâu không quá 30 mét.
Đường kính của giếng nhỏ hơn độ sâu.
Hố sâu tự nhiên có độ sâu từ 20 mét đến hàng trăm mét.
1.4.2Các dạng cacxtơ tàn tích
Là những địa hình dương còn sót lại sau quá trình mở rộng và nối liền các dạng địa
hình âm nói trên. Cacxtơ tàn tích đặc trưng cho giai đoạn già của địa hình cacxtơ.
Cacxtơ tàn tích gồm có: Tháp cacxtơ, nón cacxtơ, vòm cacxtơ, hàm ếch.

1.4.2.1 Các dạng địa hình cacxtơ ngầm (hang động)
8
Hang động là những khoang rỗng kéo dài được hình thành ở mọi độ sâu khác
nhau của khối đá, thông qua mặt đất bằng một hay nhiều cửa. Nguồn gốc chủ
yếu của chúng là do quá trình hòa tan đá do nước tạo thành.
Dựa vào sự có mặt của nước có thể phân thành hang khô và hang ướt:
Hang khô xuất hiện khi nước từ bỏ con đường thông thường của nó để chảy ở
mực thấp hơn khi có hiện tượng nâng lên của khu vực hoặc chảy theo đường
khác khi đường cũ bị tắc ở một nơi nào đó.
Hang ướt là hang có dòng nước chảy qua.
1.4.2.2 Các dạng địa hình trong hang động
Phân loại theo nguồn gốc phát sinh gồm có nhóm ăn mòn, xâm thực; nhóm lắng
đọng, bồi tụ cơ học.
Nhóm lắng đọng, xâm thực gồm có:
Cột xâm thực là dấu tích còn lại của tường ngăn cách giữa hai suối ngầm cạnh
nhau sau khi chúng mở rộng nhờ xâm thực và ăn mòn.
Nồi ở đáy, hình thành do xoáy nước.
Thềm đá là sàn của những hàm ếch khá rộng thường gặp bên bờ bên lõm của sông
ngầm do nước xoáy.
Nhóm lắng đọng hóa học, bồi tụ cơ học:
Thạch nhũ là nhiều nhất, tùy theo vị trí trong hang mà thạch nhũ có đặc điểm
riêng:
Chuông đá, ban đầu thạch nhũ là các ống nhỏ có đường kính 0,5 - 10 cm và dài từ
15 – 20cm. Theo thời gian chúng lớn và dài dần thành chuông đá.
Măng đá cũng có nguồn gốc kết tủa từ canxit do các chuông đá rơi xuống. Vì thế,
măng đá có hướng ngược với chuông đá.
Cột đá được hình thành khi chuông đá và măng đá nối liền nhau.
Đăng ten đá là dạng tích tụ canxit phát triển ngay sát tường hang động thành
những dãy riêng rẽ hoặc nối liền nhau.
1.4.2.3 Quá trình phát triển của cảnh quan cacxtơ

9
Qua khảo sát, nghiên cứu nhiều khối cacxtơ thuộc các đới khí hậu khác nhau trên
Trái Đất người ta đưa ra mô hình về quá trình phát triển của cảnh quan cacxtơ
gồm bốn giai đoạn:
Giai đoạn 1: Khối đá lộ ra, trên đó phát triển các rãnh caren
Giai đoạn 1: Là giai đoạn phát triển mạnh mẽ các dạng cacxtơ ngầm, đồng thời
ngoài mặt cũng xuất hiện các lung cacxtơ.
Giai đoạn 3: Sụt trần hang động, xuất hiện các lũng hình máng, các cánh đồng
cacxtơ, các cầu tự nhiên.
Giai đoạn 4: Các cánh đồng cacxtơ chiếm ưu thế, trên đó rải rác có các núi sót.
1.4.2.4 Các kiểu cacxtơ
Dựa vào vị trí của lớp đá hòa tan chia ra làm năm kiểu:
Cacxtơ hở: Khi lớp đá vôi nằm ngay bên ngoài. Kiểu này thường hình thành ở
những khu vực có lượng mưa lớn và cường độ mưa lớn, làm trôi đi các vật liệu
vừa được hình thành phía trên.
Cacxtơ tự phủ: Lớp đá hòa tan bị phủ bởi chính các vật liệu, sản phẩm phong hóa
đá đó tạo ra. Các núi cacxtơ kiểu này có hình thái bên ngoài giống như các núi
cấu tạo bằng đá phiến có đỉnh tròn, sườn thoải. Điều kiện thuận lợi để xuất hiện
cacxtơ tự phủ như lượng mưa nhỏ hay đá vôi có nhiều tạp chất.
Cacxtơ nửa tự phủ là kiểu trung gian của hai kiểu trên.
Cacxtơ bị phủ: Lớp đá vôi nằm dưới những trầm tích vụn bở không có liên quan
gì đến phương diện phát sinh với quá trình cacxtơ. Nước thấm qua lớp phủ rồi
tiến hành ăn mòn mở rộng dần khe nứt.
Cacxtơ bị vùi (cacxtơ hóa thạch): Bị lấp kín bởi các trầm tích trẻ hơn, người ta chỉ
biết đến nhờ các mũi khoan thăm dò…
10
Chương 2: QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN ĐỊA HÌNH
CACXTƠ CỦA MIỀN BẮC VÀ ĐÔNG BẮC BẮC BỘ
2.1 Khái quát chung về địa hình cacxtơ của nước ta
Kiểu địa hình cacxtơ ở nước ta là kiểu địa hình vùng núi đá vôi được hình thành

do quá trình xâm thực chủ yếu của nước đối với các loại đá cacbonnat có đặc
tính thấm nước và hòa tan. Địa hình núi đá vôi ở nước ta có diện tích rất rộng
lớn, tới 50000 km
2
và tập trung chủ yếu ở miền Bắc, từ biên giới phía bắc tới
Quảng Bình, còn ở miền Nam chỉ có một ít ở Hà Tiên (Kiên Giang).
Địa hình cacxtơ ở Việt Nam phản ánh rất rõ các điều kiện khí hậu và địa chất kiến
tạo. Về cơ bản địa hình cacxtơ Việt Nam cũng là một địa hình cacx tơ nhiệt đới
ẩm già được vận động nâng lên tân kiến tạo làm trẻ lại ở những mức độ khác
nhau. Tính chất nhiệt đới ẩm thể hiện ở cường độ cacxtơ hóa mạnh, nhiều hang
động. Quá trình cacxtơ nhiều khi phát triển ở giai đoạn chót làm lộ ra các nền đá
không hòa tan ở dưới, trên đó rải rác các tảng đá vôi sót. Đó là kết quả hoạt
động của lượng nước mưa phong phú, nhất là nước mưa có chưa nhiều CO
2
cvà
axit hữu cơ. Ngoài quá trình hóa tan là chủ yếu, còn có nhiều quá trình khác kết
hợp như xâm thực, sụp đổ. Tính chất nhiệt đới ẩm còn thể hiện ở lớp phủ thực
vật rậm rạp, che khuất cả các nét sắc sảo của địa hình. Còn tính chất già của địa
hình cacxtơ ở nước ta được thể hiện qua số lượng và diện tích khá rộng của các
thung lũng cacxtơ và cánh đồng cacxtơ. Hầu như ở mọi nơi độ cao tương đối
giữa bề mặt các thung lũng cacxtơ và cánh đồng cacxtơ, đồi núi đá vôi bao
quanh đều xấp xỉ nhau (50 – 100m ở các khu vực cacxtơ sót và 300 – 500m tại
các khối cacxtơ lớn). Như thế trước khi có vận động nâng lên tân kiến tạo, các
vùng cacxtơ đã ở cùng một giai đoạn phát triển. Về sau này tùy theo cường độ
nâng lên của các địa phương mà các vùng cacxtơ nằm ở độ cao tuyệt đối khác
nhau và trẻ lại ở mức độ khác nhau. Tính chất trẻ được thể hiện ở việc ăn ngầm
xuống sâu của nước, đang tiến hành một quá trình đục khoét mới trong tầng lớp
đá vôi dày đã được nâng, bỏ lại trên mặt những di tích của giai đoạn cacxtơ gia
cũ.
Địa hình cacxtơ ở nước ta gồm có phân chia ra các kiểu địa hình cacxtơ ngập nước,

địa hình cacxtơ nằm xen kẽ ở vùng đồng bằng và địa hình cacxtơ tập trung:
Kiểu địa hình cacxtơ ngập nước tập trung ở vùng biển Đông Bắc trên vịnh Hạ
Long và vịnh Bái Tử Long với hang nghìn hòn đảo đá vôi.
Kiểu địa hình cacxtơ nằm xen kẽ ở vùng đồng bằng là các núi đá vôi còn sót lại
nằm rải rác và xen kẽ giữa các cánh đồng như ớ Hà Tây, Hà Nam, Ninh Bình có
dáng dấp như một vịnh Hạ Long trên cạn.
11
Kiểu địa hình cacxtơ tập trung thành các khối núi, dãy núi và các cao nguyên rất
phổ biến ở các vùng núi đá vôi Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn, Lai Châu, Sơn
La, Hòa Bình, Thanh Hóa, Quảng Bình.
Địa hình cacxtơ ở nước ta rất hiểm trở, bề mặt lởm chởm, sắc nhọn, thành vách
núi dựng đứng, có nhiều khe nứt, phễu, giếng sâu, hang động. Địa hình cacxto
tạo nên nhiều phong cảnh đẹp vì núi non hùng vĩ và nhiều dáng hình, đặc biệt là
các hang động và sông suối ngầm kì ảo là đối tượng du lịch rất hấp dẫn.
2.2 Các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình hình thành và phát triển địa hình
cacxtơ của miền Bắc Và Đông Bắc Bắc Bộ
2.2.1 Yếu tố nham thạch
Ở nước ta, địa hình cacxtơ được cấu tạo chủ yếu là đá vôi: Có các loại đá vôi
Cambri, Ocđôvic – Silua, Cacbon – Pecmi, Triat và một số ít đá vôi đã bị đá hoa
hóa có tuổi Tiền Cambri hoặc có thể trẻ hơn. Trong đó, các loại đá vôi Đêvon,
Cacbon – Pecmi và Triat chiếm phần lớn diện tích.
Các loại đá vôi đã bị đá hoa hóa đến quá trình cacxtơ do đá hoa cũng có diện tích
phân bố khá rộng ở nước ta, ví dụ như những nơi mà đá vôi chịu ảnh hưởng của
hoạt động macma như ở hồ Ba Bể (Bắc Cạn), hoặc ở những khối nâng với đá
hoa Tiền Cambri như ở vùng sông Lô, Sa Pa,…Trên những khối đá hoa này,
cũng thấy có biểu hiện của quá trình cacxtơ, đó là sự có mặt của hang Pông ở
vùng Ba Bể,…
2.2.2 Địa chất
Miền Bắc và Đông Bắc Bắc Bộ có cấu trúc địa chất là miền nền khác hẳn so với
miền địa máng Đông Dương với những khu vực uốn nếp điển hình có hướng cấu

trúc sơn văn chính theo hướng tấy bắc – đông nam.
Miền Bắc và Đông Bắc Bắc Bộ có lịch sử phát triển rất lâu dài từ đại Nguyên sinh
cách đây hơn 2 tỷ năm cho đến hiện nay. Miền có 8 đới kiến trúc nham tướng là
các đới sông Hồng, sông Lô, sông Hiến, Hạ Lạng, An Châu, Duyên Hải, Cô Tô
và vùng trũng Hà Nội kế tiếp nhau theo hướng từ tây sang đông, từ thời tiền tiền
Cambri cho đến Đệ Tứ.
Những dấu vết của đại Nguyên sinh của miền chỉ tập trung ở khu vực núi cao
thuộc đới sông Lô, sông Lô, phổ biến là đá phiến mica, đá phiến thạch anh mica
quaczit, đá hoa là những đá biến chất rất rắn chắc và đá granit tập trung ở khối
núi dạng vòm thượng nguồn sông Chảy.
12
Các vận động cổ kiến tạo xảy ra vào đại Cổ sinh và Trung sinh với sự kế tiếp của
các pha uốn nếp và trầm tích đã được thể hiện trên bản đồ địa chất hiện đại của
miền với các loại đá trầm tích phân bố rộng khắp như đá vôi tuổi Cambri ở Bắc
Hà, Mường Khương (Lào Cai ), Thanh Thủy (Hà Giang); đá cát kết, đá phiến
biến chất ở đới Duyên hải; đá vôi tuổi Đeevon phân bố rộng rãi ở các đới, trầm
tích lục nguyên chứa bôxit tuổi Triat ở vùng trũng Lạng Sơn, đới An Châu, sông
Hiến, trầm tích lục nguyên chứa than tuổi Triat, Jura, Kreeta phổ biến ở đới An
Châu và phủ chồng lên đới Duyên hải.
Các vận động tân kiến tạo xảy ra vào đại Tân sinh diễn ra ở đây không mạnh mẽ
bằng ở Tây Bắc và cũng không đồng đều với cường độ nâng mạnh ở khu vực
phía bắc (tới 1000m) và yếu dần về phía đông (độ nâng chỉ diễn ra trong phạm
vi 500 – 200m).
Đặc biệt vào Đệ Tứ, các lớp trầm tích là những vật liệu bở rời đã san lấp và phủ
đầy cả một vùng trũng rộng lớn chồng gối lên miền nền gốc, tạo nên đồng bằng
châu thỏ sông Hồng lớn thứ hai trong cả nước sau đồng bằng châu thổ sông Cửu
Long.
Như vậy, cũng giống như sự ảnh hưởng chung của yếu tố cấu trúc địa chất đối với
quá trình cacxtơ trên thế giới, ở nước ta quá trình cacxtơ ở cấu trúc nền phát
triển mạnh mẽ hơn cấu trúc địa máng. Đồng thời trong phạm mỗi nếp vòng và

nếp võng ở các miền nền cũng như miền địa máng, quá trình cacxtơ ở nhân
mạnh hơn ở cánh.
2.2.3 Địa hình
Địa hình của miền Bắc và Đông Bắc Bắc Bộ là địa hình của miền đồi núi thấp,
với độ cao trung bình khoảng 600 mét. Diện tích đồng bằng và đối núi thấp
chiếm đa số, tới hơn 90% diện tích của miền, các vùng núi trung bình và các
đỉnh núi cao chiếm dưới 10%.
Địa hình của miền có hướng thấp dần theo hướng tây bắc – đông nam được nhận
biết rất rõ theo hướng chảy của mạng lưới sông ngòi và sự thấp dần của các bề
mặt san bằng cổ với các bâc 1300 – 1600m, 900 – 1000m, 300 – 500m, tới vùng
trung du với các bán bình nguyên có độ cao dưới 100m và vùng đồng bằng châu
thổ có độ cao từ 0 – 25m.
Nét đặc sắc nhất của cấu trúc địa hình miền Bắc và Đông Bắc Bắc Bộ là có dạng
rẽ quạt mở rộng về phía đông bắc, quy tụ về phía nam ở dãy núi Tam Đảo.
Các vùng núi trung bình và các đỉnh núi cao trên 2000m tạo địa hình chắn thuận
lợi đã trở thành các trung tâm mưa lớn.
13
Đặc điểm địa hình của miền Bắc và Đông Bắc Bắc Bộ là sự tiếp nối của vùng núi
phía nam Trung Quốc từ cao nguyên Vân Quý và vùng núi thấp Hoa Nam theo
xu thế thấp về phía đông nam và phía nam. Hướng cấu trúc địa hình và địa thế
đặc sắc của miền đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự xâm nhập của các khối không
khí cực đới lạnh khô theo gió mùa đông bắc cũng như của các khối khí nhiệt đới
nóng ẩm theo gió mùa mùa hạ có hướng đông nam từ vịnh Bắc Bộ thổi vào dễ
dàng tiến sâu và lãnh thổ nước ta.
Vì vậy, các quá trình cacxtơ của miền có điều kiện thuận lợi để phát triển mạnh
mẽ.
2.2.4 Khí hậu
Liên quan đến vị trí địa lý, đặc diểm địa hình và đặc biệt là chịu ảnh hưởng mạnh
mẽ và trực tiếp nhất của chế độ gió mùa đông bắc vào thời kỳ mùa đông. Nét
đặc sắc nhất của khí hậu miền Bắc và Đông Bắc Bắc Bộ là có nền nhiệt độ thấp

so với các địa phương khác trong cả nước. Điều này dễ dàng nhận biết thông
qua tần suất frông lạnh do gió mùa đông bắc lạnh và khô gây nên khi tràn qua
lãnh thổ miền bắc nước ta. Nét đặc sắc thứ hai trong đặc điểm khí hậu của miền
là có sự phân hóa rõ rệt trong chế độ mưa, ẩm cả trong không gian giữa các khu
vực khác nhau và trong thời gian giữa hai mùa trong năm.
Nhìn chung, ở miền Bắc và Đông Bắc Bắc Bộ mùa mưa kéo dài 6 tháng, thường
bắt đầu vào tháng 5 và kết thúc vào tháng 10. Ở những nơi có lượng mưa lớn,
mùa mưa thường kéo dài tới 7 - 8 tháng, còn những nơi có lượng mưa thấp mùa
mưa chỉ khoảng 5 tháng. Chế độ mưa như vậy đã làm cho tàn tích trên mặt đá
cacxtơ dễ dàng bị rửa trôi xuống các khe, các lũng, nhất là khi lớp phủ thực vật
đã bị phá hủy do hoạt động của con người. Đây chính là một trong những
nguyên nhân làm cho cacxtơ trụi khá phổ biến. Mưa tập trung với lượng mưa
lớn sẽ cung cấp nguồn nước trên mặt dồi dào tạo điều kiện cho hoạt động ăn
mòn và xâm thực của quá trình cacxtơ diễn ra mạnh mẽ.
2.2.5 Thủy văn
Miền Bắc và Đông Bắc Bắc Bộ có 4 hệ thống sông chính là hệ thống sống Hồng,
hệ thống song Thái Bình, hệ thống sông Kỳ Cùng – Bằng Giang và hệ thống
sông ven biển Quảng Ninh.
Các sông ở miền Bắc và Đông Bắc Bắc Bộ có lưu lượng khá lớn do khả năng tập
trung nước tại các khu vực rất cao, môđun dòng chảy trung bình hàng năm đạt
20 – 30 l/s/km2. Cao nhất là môđun dòng chảy tại khu vực thượng nguồn sông
14
Chảy, sông Lô ở Hà Giang và khu vực vên biển Quảng Ninh, thường lên tới 40
– 50 l/s/km
2
.
Chế độ dòng chảy trên các con sông trong năm chia ra hai mùa rõ rệt. Mùa lũ
thường kéo dài 6 tháng từ tháng 5 đến tháng 10, trong đó có ba tháng lũ cao nhất
là tháng 6, 7 và 8. Mùa cạn trên các lưu vực sông ở đây diễn ra từ tháng 11 đến
tháng 4, trong đó tháng 2, tháng 3 thường đạt chỉ số thấp nhất.

Với chế độ thủy văn như trên đã tạo điều kiện cho quá trình hình thành và phát
triển địa hình cacxtơ của miền Bắc và Đông Bắc Bộ.
2.2.6 Lớp phú thổ nhưỡng – sinh vật
Các điều kiện tự nhiên, đặc biệt là địa hình và khí hậu đã khiến cho lớp phủ thổ
nhưỡng - sinh vật của miền Bắc và Đông Bắc Bắc Bộ rất đa dạng. Có thể nhận
biết sự biến đổi khá rõ nét của lớp phủ thổ nhưỡng - sinh vật của miền khi đi từ
bắc xuống nam. Từ vùng núi cao ở biên giới phía bắc và các vùng núi thấp có độ
cao trên 600m đã thấy rõ sắc thái của đai rừng á nhiệt đới trên núi phát triển chủ
yếu trên các loại đất feralit đỏ vàng, feralit có mùn và một số ít đất mùn alit.
Các hệ sinh thái điển hình ở đây bao gồm:
Hệ sinh thái rừng thường xanh với các loài thực vật họ Dẻ, Re chiếm ưu thế và
một số loài động vật như khỉ, gấu…
Hệ sinh thái vùng núi đá vôi với các cây lá kim như Vân sam, Hoàng đàn, các loài
chim, sơn dương
Hệ sinh thái rừng rêu, đất mùn alit trên các đỉnh núi cao từ trên 1600m, khí hậu
lạnh với các loài cây lá kim nhiều ưu thế như Sam, Thông tre…
Nói chung, thảm thực vật và các hệ sinh thái nguyên sinh ở miền Bắc và Đông
Bắc Bắc Bộ còn lại rất ít, hiện chỉ còn được bảo tồn ở một số vườn quốc gia như
Ba Bể, Tam Đảo, Cát Bà, Bái Tử Long, Xuân Thủy. Việc khôi phục vốn rừng và
các hệ sinh thái tự nhiên, việc bảo vệ và sử dụng hợp lý là rất cấp bách và thiết
thực đối với việc bảo vệ và cải thiện môi trường sống ở đây.
Lớp phủ thổ nhưỡng – sinh vật vừa có tác dụng thúc đẩy vừa có tác dụng cản trở
quá trình cacxtơ diễn ra. Các miền cacxtơ trụi, lớp phủ thổ nhưỡng và sinh vật
đã làm cho quá trình cacxtơ trở nên mạnh mẽ. Còn các miền cacxtơ phủ thì ảnh
hưởng của lớp phủ này thực tế làm cho quá trình cacxtơ yếu đi so với quá trình
cacxtơ ở miền cacxtơ trụi.
2.3 Sự phân bố địa hình cacxtơ của miền Bắc và Đông Bắc Bắc Bộ
15
2.3.1 Miền cacxtơ ở vùng trũng Đông Bắc
Ranh giới của miền cacxtơ này ở phía đông và phía bắc trùng với ranh giới giữa

nước ta và Trung Quốc. Còn về phía tây và phía tây nam ranh giới của miền là
đường kéo dài từ Yên Ninh qua Nguyên Bình, Bắc Cạn, Thái Nguyên, Kinh
Môn, Hải Phòng, vịnh Hạ Long cho đến Móng Cái. Trong phạm vi của miền,
diện tích đá bị cacxto hóa chiếm tới 1/3 diện tích. Riêng tỉnh Cao Bằng và Hà
Giang cũ, diện tích đá bị cacxtơ hóa chiếm tới 1/2 diện tích.
Về phương diện địa chất, miền cacxtơ này nằm trong vùng trũng Đông Bắc được
hình thành trong giai đoạn kiến tạo Calêđôni. Vùng trũng này được giới hạn bởi
ba khối nâng: Khối nâng Việt Bắc, khối nâng Hoa Nam và khối nâng Katazia.
Như vậy, sự hình thành đá cacxtơ ở trong miền có liên quan chặt chẽ với các
chuyển động kiến tạo trong vùng trũng.
Đá cacxtơ ở trong miền gồm các tầng đá vôi Givet (Đêvôn giữa), đá vôi Fraxni
(Đêvôn muộn), đá vôi Cacbon sớm, đá vôi Cacbon –Pecmi và đá vôi
Pecmi.Ngoài ra cũng có một số tầng đá vôi Triat mỏng nằm xen kẽ với các loại
đá phi cacxtơ, nhưng các tầng này chỉ chiếm một phạm vi không đáng kể. Miền
cacxtơ này bao gồm những vùng cacxtơ sau đây:
2.3.1.1 Vùng cacxtơ Kinh Môn – Hạ Long
Vùng cacxtơ này gồm hai bộ phận: Một bộ phận ở trên lục địa là khu vực cacxtơ
Kinh Môn kéo dài sang cả địa phận Uông Bí (Quảng Ninh) và ngoại vi thành
phố Hải Phòng. Bộ phận thứ hai là các đảo bao quanh hai vịnh Hạ Long và Bái
Tử Long, nhưng ở một số đảo đã dính vào đất liền như đảo Hòn Gai, Đèo Bụt,
Cảm Phả. Tuy nhiên hai bộ phận nói trên có liên hệ mật thiết với nhau vì bộ
phận cacxto ở lục địa hiện nay chính là những hòn đảo trước kia mới được phù
sa Đệ Tứ gắn vào lục địa cách đây chưa lâu. Cho nên vùng cacxtơ này có hình
cánh cung rõ rệt và đá vôi từ phía trong cánh cung ra phía ngoài cánh cung có
tuổi ngày càng trẻ dần.
Cacxtơ ở đây đều là cacxtơ sót: Có những chỏm núi hoặc chỏm núi đá vôi ở cách
nhau khá xa. Chỉ có đảo Cát Bà được hình thành từ một khối đá vôi khá lớn và ở
đó có phong cảnh cacxtơ già. Phong cảnh cacxtơ sót ở đây thật là đặc sắc với
những chỏm núi hoặc chỏm núi đá vôi nhấp nhô trên mặt nước biển ở độ cao 20
– 150m bao quanh những vịnh lớn nhỏ tương đối kín. Trong nhiều công trình

nghiên cứu của nhiều tác giả khác nhau, đã nói đến nguồn gốc hình thành khung
cảnh cacxtơ đặc biệt này. Đa số các tác giả đó đều thống nhất ý kiến cho rằng
cacxtơ ở đây được hình thành trong chế độ lục địa rồi sau đó biển mới tiến vào.
Nguyên nhân chủ yếu của biển tiến là do hiện tượng sụt lút.
16
Do cơ sở xâm thực cũ đã bị chìm xuống sâu cho nên tầng hang ở đới lưu thông
theo chiều ngang cũng đã bị chìm xuống. Vì vậy ở vùng cacxtơ này thường chỉ
thấy hai loại hang động. Một đới hang động được hình thành ở đới lưu thông
thẳng đứng nhưng loại hang chiếm vị trí chủ yếu ở đây là hang được hình thành
do hoạt động bào mòn của sóng biển hiện nay. Các hang thuộc loại này đã làm
tăng thêm vẻ đẹp và tính hấp dẫn của vịnh Hạ Long. Một số hang nổi tiếng như
hang Đầu Gỗ, hang Bồ Nâu, hang Con Gái, hang Luồn…
Như vậy, quá trình cacxtơ ở đây hiện nay chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của sóng biển
hơn là của nước ngầm. Nhiều núi đá vôi sót đã bị đổ sụp và bị thủ tiêu do hoạt
động bào mòn ở dưới chân sóng biển. Tiêu biểu cho hiện tượng này là cacxtơ sót
ở bến phà từ Cửa Ông sang Cẩm Phả (đảo Cái Bầu).
Về mặt giá trị kinh tế, tất cả những điều nói trên đã làm cho vịnh Hạ Long đã và
sẽ là một điểm du lịch ngày càng nổi tiếng ở trong nước và trên thế giới, là nơi
có những đường biển ít sóng gió, nơi có nghề cá phát triển, đồng thời là nới có
thể tiến hành thăm dò dầu mỏ ở những hệ thống hang động và dòng ngầm bị
chìm xuống.
Ngoài ra ở vùng cacxtơ này còn có nhiều tài nguyên thiên nhiên đáng chú ý. Phía
trước một số đảo đá vôi có những bãi cát trắng rộng lớn có thể dung trong công
nghiệp thủy tinh. Nhiều dãy rừng sú vẹt rộng lớn cũng được hình thành ở phía
trước một số đảo đá vôi, như dãy rừng sú vẹt ở phía tây nam đảo Cát Bà có giá
trị rất lớn trong việc sản xuất thuốc nhuộm và một số hóa chất khác. Trên các
đảo đá vôi, rừng mặc dù đã bị phá hủy nhiều những vẫn còn tồn tại một số khu
vực với các loại gỗ quý. Bên cạnh đó còn có một số động vật có giá trị như sơn
dương, khỉ vàng, vẹt đầu bạc. Đặc biệt là khỉ đầu vàng có giá trị xuất khẩu để
làm dược liệu nên cần phải có biện pháp bảo vệ và phát triển loại động vật này.

Đáy vùng biển ở đây thường không sâu quá 20m và nước biển lại trong suốt nên
có nhiều bãi san hô đẹp rất có giá trị…
2.3.1.2 Vùng cacxtơ Bắc Sơn
Vùng cacxtơ này gồm ba khối cacxtơ được phân bố sát nhau, đó là Bản Cai, La
Hên và Bắc Sơn. Trong ba khối cacxtơ này, khối cacxtơ rộng lớn và có tính
hiểm trở hơn cả là khối cacxtơ Bắc Sơn. Vùng cacxtơ này chiếm một địa bàn
rộng lớn giữa trung lưu sông Cầu và trung lưu sông Thương. Vùng này được cấu
tạo bằng đá vôi Cacbon – Pecmi có độ dày 800 – 1000m, bị uốn nếp dưới dạng
phức nếp và đã phát triển trong chế độ lục địa cách đây khoảng 200 triệu năm.
17
Do biên độ nâng lên ở phía tây bắc mạnh mẽ hơn ở phái đông nam cho nên những
đỉnh núi cao nhất, trong đó có đỉnh Pắc Hà (779m) là đỉnh núi cao nhất trong
vùng cacxtơ này, đều nằm ở phía tây bắc trong khi độ cao trung bình của vùng
núi này chỉ là 400 – 500m và những đỉnh núi ở phía đông nam thường chỉ có độ
cao là 300m.
Về mặt sông ngòi tiêu nước chủ yếu cho vùng cacxtơ này là sông Thương và các
nhánh của nó như suối Mai Sao, suối Ba Nàng, sông Trung… Nhìn chung vùng
cacxtơ này có độ cao khá lớn so với mức cơ sở xâm thực, ví dụ như sông
Thương ở Đồng Mỏ chảy trên độ cao 50m, nhưng độ cao trung bình của vùng
núi cacxtơ này là 400 – 500m. Vì vậy, vùng cacxtơ này ở vào tình trạng khan
hiếm nước trên mặt. Các sông suối chảy trong vùng cacxtơ như: Suối Ba Nàng,
sông Trung, ở nhiều khu vực còn chảy dưới trạng thái ngầm.
Loại đá vôi ở vùng cacxtơ này là loại đá vôi có độ tinh khiết cao vào bậc nhất ở
nước ta, đồng thời lại có độ chặt lớn và ở một số nơi đến mức biến thành đá hoa
cho nên loại cacxtơ ở đây ở đây là cacxtơ trụi điển hình và trong vùng cacxtơ
này có những hang động lớn vào bậc nhất nước ta như hang Na Ché, Bình Long,
Võ Mường, Bọ Kỷ, Làng Cúc, Cò Kho, Hang Óc, Minh Lê, Đơn Sa… Qua
nhiều di chỉ khảo cổ cho thấy những hang động ở đây từng là nới sinh sống của
người Tiền Sử, góp phần hình thành “nền văn hóa Bắc Sơn” nổi tiếng. Trong
giai đoạn kháng chiến chống pháp, với địa hình hiểm trở của vùng cacxtơ này là

một trong những điều kiện làm cho phong trào du kích Bắc Sơn tồn tại trong
suốt 5 năm để góp phần tích cực vào cuộc tổng khởi nghĩa đưa cuộc Cách mạng
Tháng Tám năm 1945 đến sự thắng lợi.
Về giá trị kinh tế, đá vôi tinh khiết của vùng này đã được khai thác tích cực để sử
dụng vào việc rải đường, nung vôi, chế tạo ra các đồ dung gia đình… Vùng này
còn có nhiều mỏ diêm tiêu trong các hang động, mỏ phôtphorit ở Vĩnh Thịnh (Hữu
Lũng), mỏ sắt và mỏ bôxit ở Bằng Mạc… Thực vật trong vùng tuy đã bị khai thác
nhiều nhất là ven các thị trấn, nhưng ở nhiều khu hẻo lánh vẫn còn khá sầm uất
dưới hình thức những rừng gỗ quý như trai, nghiến, đinh, lim, hoàng đàn, lát hoa…
Ngoài ra, vùng cacxtơ này còn nằm ở một vị trí thuận lợi về phương tiện giao
thông. Nó nằm gần đường sắt Hữu Nghị - Hà Nội - Mục Nam Quan, quốc lộ số 1A
và 1B. Vì vậy, vùng cacxtơ này gặp nhiều khó khăn trong vấn đề nước nhưng vẫn
là một miền cacxtơ được khai thác khá mạnh.
2.3.1.3 Vùng cacxtơ Cốc Xô và Kim Hỉ
Vùng cacxtơ này cũng được cấu tạo bằng đá vôi Cacbon – Pecmi và cũng tồn tại
dưới dạng đảo vào thời kỳ biển tiến Triat. Nhưng vận động tân kiến tạo đã nâng
18
vùng cacxtơ này lên độ cao lớn hơn nhiều. Đỉnh cao nhất trong vùng cacxtơ này
nằm ở núi Cốc Xô với độ cao là 1131m. Quá trình cacxtơ ở đây còn ở trình độ
phát triển thấp bởi vì vùng cacxtơ này ở vào khu vực phân thủy giữa lưu vực các
sông chảy về sông Tây Giang như sông Bắc Giang cùng hệ thống sông nhánh
của nó và lưu vực các sông chảy về đồng bằng Bắc Bộ như sông Cầu cùng hệ
thống sông nhánh của nó. Các đỉnh núi đá ở đây còn dày đặc và sắc nhọn. Các
lũng nhỏ và có rừng rậm bao phủ cho nên việc xâm nhập vào vùng cacxtơ này
rất khó khăn. Thượng nguồn nhiều con sông nhánh của sông Bắc Giang và sông
Cầu là những dòng ngầm từ vùng cacxtơ này chảy ra. Do địa hình hiểm trở, điều
kiện khai thác gỗ khó khăn nên trong vùng cacxtơ này lớp phủ thực vật còn
phong phú. Hiện nay chỉ có một số ít ở rải rác phía ngoại vi cho nên vùng cacxtơ
này là địa bàn tốt để nghiên cứu quá trình cacxtơ ở nhiệt đới khi chưa có sự khai
thác của con người.

2.3.1.4 Vùng cacxtơ ở khu vực biển tiến vào kỷ Triat
Vùng cacxtơ này bao gồm các khối đá vôi Cacbon - Pecmi nhỏ nổi lên như những
hòn đảo giữa miền đồi núi đá phiến Triat hoặc đá phun trào riôlit rộng mênh
mông. Những khối đá như vậy chúng ta có thể gặp ở Lạng Sơn, Đồng Đăng,
Lũng Vài, ngoại vi thị trấn Thất Khê…
Theo tác giả Đào Trọng Năng, thì rất có thể trước thời kỳ biển tiến vào kỷ Triat
các khối đá vôi này dính liền với các khối đá vôi Cacbon – Pecmi ở vùng cacxto
Kinh Môn - Hạ Long, Bắc Sơn và Cốc Xô – Kim Hỉ. Nhưng đến kỷ Triat, chế
độ địa máng chưa kết thúc ở vùng trũng Đông Bắc nên một bộ phận của đá vôi
Cacbon – Pecmi đã bị sụt võng xuống và bị trầm tích lục địa Triat phủ lên trên.
Sau chuyển động kiến tạo Inđôsini trầm tích lục địa Triat bị uốn nếp. Ở những
nơi mà trầm tích này mỏng hoặc bị nâng lên cao, thường là ở nhân các nếp lồi và
ở các cánh đứt gãy được nâng lên, nó sẽ bị hoạt động xâm thực bóc đi mạnh mẽ
làm cho đá vôi Cacbon – Pecmi nằm dưới lộ ra. Như vậy ở khu vực biển tiến
vào kỷ Triat thuộc vùng trũng Đông Bắc có tất cả ba kiểu cacxtơ: Kiểu cacxtơ
cổ bị chôn vùi, kiểu cacxtơ cổ còn lại ở những nơi đá vôi mới bóc lộ ra, và kiểu
cacxtơ hiện đại ở những nơi đá vôi bị bóc mòn lộ ra đã lâu và quá trình cacxtơ
hiện đại đã làm thay đổi căn bản hình thái cacxtơ cổ.
Ở Đồng Đăng một nơi đá vôi Cacbon - Pecmi lộ ra thấy trên mặt của nó có một
khối lượng quặng bôxit lớn. Các cuộc thăm dò địa chất cho biết ở nhiều nơi trên
bề mặt của kiểu cacxtơ cổ bị chôn vùi này có quặng bôxit. Như vậy, triển vọng
về trữ lượng quặng ở vùng cacxtơ bị biển tiến vào kỷ Triat này là rất lớn. Phạm
vi phân bố quặng này có thể bao gồm toàn bộ vùng trũng An Châu và vùng
trũng sông Hiến nghĩa là kéo dài từ Kinh Môn (Hải Dương) qua các tỉnh Bắc
19
Ninh, Bắc Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn lên tới Yên Minh (Hà Giang). Ngoài ra,
ở vùng cacxtơ cổ bị chôn vùi này còn có khả năng về một khoáng sản có ích đó
là dầu mỏ.
Những nơi mà cacxtơ cổ bị bóc mòn lộ ra nói đều có địa hình cacxtơ sót. Do diện
tích nhỏ nên các khối cacxtơ nhỏ này đều ít nhiều chịu ảnh hưởng của quá trình

xâm thực do hoạt động của nước chảy trên mặt bởi vì hoạt động xâm thực
thường là tiền đề cho địa hình cacxtơ cổ này lộ ra. Nhưng mặt khác, do đá vôi
dày đặc ở dưới sâu cho nên cũng thấy những dấu hiệu, biểu hiện sự hoạt động
của qúa trình cacxtơ và giếng phun Kỳ Lừa (Lạng Sơn) là một chứng minh cụ
thể. Những khối cacxtơ nhỏ này có giá trị trước hết là cung cấp vôi cho nhu cầu
địa phương ở xa các khối cacxtơ lớn. Thêm vào đó, sự xuất hiện của các núi
cacxtơ sót đã tô điểm thêm cho phong cảnh vốn đơn điệu của miền đồi núi đá
phiến và đá phún xuất. Một số sản phẩm của quá trình cacxtơ nổi tiếng của vùng
như: Nàng Tô Thị, Chùa Tiên, các động Tam Thanh, Nhị Thanh, đã và đang thu
hút khách du lịch đến tham quan xứ Lạng, nơi mà một trong những khối cacxtơ
nhỏ thuộc kiểu cacxtơ cổ được bóc lộ ra.
2.3.1.5 Vùng cacxtơ Đông Cao Bằng
Vùng cacxtơ này được giới hạn về phía bắc và phía đông bởi đường biên giới giữa
nước ta và Trung Quốc, về phía tây là từ đèo Mã Phục lên Trà Lĩnh, về phía nam
từ đèo Mã Phục xuống các khối đá vôi Yên Lạc, Na Rì, quay về Lũng Phày,
Đông Khê rồi nhập vào đường biên giới giữa nước ta và Trung Quốc.
Đây là vùng cacxtơ được cấu tạo bằng đá vôi Đêvôn trong đó đá vôi Givet (Đêvôn
giữa) chiếm phạm vi rộng lớn hơn đá vôi Franxi (Đêvôn muộn); vùng cacxtơ
này đã ở vào giai đoạn phát triển cao. Ở nhân các nếp lối, đá vôi đã bị ăn mòn
đến tận gốc làm cho đá phiến Đêvôn sớm và Đêvôn giữa lộ ra trên những dải
rộng. Chúng ta có thể bắt gặp các dải đá phiến này ở phía đông nam Trà Lĩnh, ở
nhiều nơi trên đường Trùng Khánh đi Quảng Uyên, trên đường Phục Hòa đi
Đông Khê và tiếp theo đường này về phía tây nam. Điều này làm cho những dải
hẹp có cấu tạo bằng đá phiến xen lẫn vào vùng cacxtơ rộng lớn này. Ở cánh các
nếp lồi và nhân các nếp lõm tuy nền không thấm nước nằm dưới chưa lộ ra
nhưng địa hình cacxtơ cũng đã ở vào giai đoạn già nua. Các lũng cacxtơ và các
cánh đồng cacxtơ rộng lớn đã ăn thông với nhau bằng những cái đèo mở rộng
cho nên việc xây dựng các đường giao thông ở vùng cacxtơ này cũng tương đối
dễ dàng. Như vậy, các thành đá cacxtơ bao quanh các lũng và cánh đồng cacxtơ
đã bị phân cắt thành những núi hay những nhóm núi đảo nhấp nhô, trong đó

Lũng Đỉnh là đỉnh cao nhất của vùng cacxtơ này. Bề mặt các lũng và cánh đồng
cacxtơ nằm ở độ cao từ 500 – 600m.
20
Mạng lưới sông ngòi chảy trên mặt ở vùng cacxtơ này đã khá phát triển. Sông lớn
nhất là Bằng Giang cắt qua vùng cacxtơ này tạo thành một vết xẻ sâu. Vế phía tả
ngạn của nó nhận nước của sông Trà Lĩnh, sông Ba Vòng, sông Nậm Tạ và sông
Quây Sơn về phía hữu ngạn là con sông Na Ri. Mạng lưới dòng chảy trên mặt
khá phát triển đã tạo điều kiện cho vùng cacxtơ này có một diện tích trồng lúa
khá lớn. Tuy nhiện, do nằm ở độ cao khá lớn cho nên nạn thiếu nước vẫn trầm
trọng. Ngoài ra, còn có giá trị lớn về mặt thủy điện và du lịch. Đập thủy điện
Suối Củn đã được xây dựng ở đây trên cơ sở sử dụng nguồn nước cacxtơ. Đập
này đã giải quyết được nước tưới và đem lại nguồn ánh sang góp phần phát triển
kinh té và đời sống cho cả một khu vực rộng lớn. Bên cạnh đó, thác Bản Giốc
trên sông Quây Sơn hiện đang là một thắng cảnh nổi tiếng của Cao Bằng có giá
trị thu hút khách du lịch và chứa đựng một tiềm năng thủy điện rất lớn.
Trong vùng cacxtơ này còn có nhiều loại khoáng sản có giá trị như bôxit, sắt,
mangan. Còn ở những khu vực hẻo lánh có những cánh rừng rộng có nhiều gỗ
quý cung cấp nguyên liệu cho các lâm trường. Nhìn chung, trong vùng cacxtơ
này, các lũng và các cánh đồng cacxtơ lại chiếm diện tích lớn hơn các núi cacxtơ
sót, đây là một điều kiện thuận lợi cho phát triển nông nghiệp. Vùng này cũng
có nhiều đồng cỏ, nên có thể phát triển mạnh nghề chăn nuôi gia súc.
2.3.1.6 Vùng cacxtơ Tây Cao Bằng
Vùng cacxtơ này bao gồm hai khối đá vôi có trình độ phát triển hơi khác nhau:
Khối đá vôi Đồng Mu và khối đá vôi Lục Khu. Hai khối này bị phân cách nhau
bởi hố thụt Nêôgen Cao Bằng, cùng một bộ phận của đá phiến sông Hiến và chỉ
gặp nhau ở Sóc Giang, nơi đầu nguồn của sông Bằng Giang.
Khối cacxtơ Đồng Mu bị vận động tân kiến tạo nâng lên mạnh mẽ nên có độ cao
lên tới 1000 – 1200m. Do khối cacxtơ này ở vào khu vực phân thủy giữa sông
Năng và sông Bằng Giang nên nó bị chia cắt yếu. Ở nhiều nơi trong khối cacxtơ
này còn tồn tại những bề mặt cao nguyên vì vậy có thời gian khối cacxtơ này có

tên gọi là cao nguyên Bình Lạng (theo Bourret vào 1922). Còn gọi tên Đồng Mu
là tên của một cánh đồng cacxtơ quan trọng của khối cacxto này với chiều dài
3km, rộng 1km, và nằm ở độ cao 893m. Tuy nhiên, ở ngoài rìa khối cacxtơ nhất
là những nơi có dòng nước ở phía núi Phia Uăc chảy xuống, quá trình cacxtơ có
điều kiện phát triển mạnh hơn. Một trường hợp điển hình là sông Nguyên Bình
đã trở thành một dòng chảy trên mặt chảy qua lòng chảo Tĩnh Túc. Đó là điều
kiện thuận lợi làm cho sông này dễ lắng đọng những vật liệu bóc mòn mang từ
núi Phia Uăc xuống trong đó có sa khoáng hỗn hợp thiếc, vônfram và vàng.
Sông Nguyên Bình vừa là một vết xẻ sâu vừa có tính bậc thang. Ở những bậc
thang đó đã hình thành những thác nước có giá trị về thủy điện khá lớn. Nhà
21
máy thủy điện Tà Sa đã được xây dựng ở một thác cao 65m để cung cấp điện
cho khu vực mỏ thiếc Tĩnh Túc.
Khối cacxtơ Lục Khu có độ cao dao động từ 800m ở phía đông lên 1000m ở phía
tây. Điều này đã chứng tỏ sự phân dị của vận động tân kiến tạo ở khối cacxtơ
này so với khối cacxtơ Đồng Mu và của bộ phận phía tây so với bộ phận phía
đông của khối cacxtơ này. Theo tác giả Đào Trọng Năng, thì sự phân dị đó chắc
hẳn có liên quan tới vị trí của hai khối cacxtơ này ở vào hai cánh khác nhau của
đường đứt gãy sông Bằng Giang và vị trí của bộ phận phía tây xa trung tâm sụt
lún hơn bộ phận phía đông.
Địa hình cacxtơ ở đây ở vào trình độ phát triển cao hơn địa hình cacxtơ ở khối đá
vôi Đồng Mu, nhưng lại thấp hơn địa hình cacxtơ ở vùng Đông Cao Bằng.
Trong vùng cacxtơ này còn phổ biến các lũng nhỏ và các dòng ngầm tạo thành
những nguồn nước đổ ra sông Bằng Giang, sông Trà Lĩnh và Suối Củn. Do nước
nằm dưới sâu nên vùng cacxtơ này hiếm nước. Sông Trà Lĩnh khi gặp phải một
nhánh núi của khối cacxtơ này cũng biến thành dòng ngầm. Ở đây hiện tượng
sụt trần của các hang ngầm diễn ra khá phổ biến. Có lẽ đó là nguyên nhân hình
thành nên chuỗi hồ Thang Hen nổi tiếng gồm 7 hồ chạy theo hướng bắc nam
trên chiều dài 3km ở cách đèo Mã Phục 4km về phía tây bắc là một thắng cảnh
nổi tiếng của tỉnh Cao Bằng.

Ngoài chuỗi hồ Thang Hen nổi tiếng, vùng cacxtơ này còn có di tích lịch sử nổi
tiếng là khu vực Pắc Bó. Sau nhiều năm bôn ba hải ngoại tìm đường cứu nước,
Bác Hồ đã chọn hang Pắc Bó làm trụ sở để lãnh đạo công cuộc cách mạng.
Trong thời gian hoạt động ở đây Người đã đặt tên một núi cacxtơ sót là, núi Cac
Mac và một dòng suối ở chân núi đó là suối Lê Nin.
Trong toàn vùng cacxtơ này ngoài mỏ thiếc đang khai thác, còn có mỏ sắt tuy có
trữ lượng không lớn nhưng cũng có thể khai thác được. Nhìn chung, việc khai
thác vùng cacxtơ này gặp nhiều khó khăn hơn vùng cacxtơ Đông Cao Bằng,
nhưng vùng cacxtơ này có điều kiện khí hậu thuận lợi hơn về chuyên canh thuốc
lá cùng các loại cây ôn đới và cận nhiệt đới.
2.3.1.7 Vùng cacxtơ Đồng Văn
Đây là vùng cacxtơ nằm ở vĩ độ cao nhất nước ta. Đá vôi Cacbon – Pecmi cấu tạo
nên vùng cacxtơ này cũng là loại đá vôi có bề dày nhất nước ta (1500m). Vùng
cacxto này kéo dài từ tây sang đông là 40km, từ bắc xuống nam là 25km. Do
chịu ảnh hưởng nâng lên mạnh mẽ của vận động tân kiến tạo nên độ cao trung
bình của các núi đá vôi ở đây lên tới 1500m. Trong vùng này, vận động tân kiến
tạo nâng lên diễn ra thành nhiều đợt xen kẽ với những thời kỳ yên tĩnh để hình
22
thành những bề mặt san bằng sót lại tồn tại dưới dạng những cánh đồng cacxtơ
và đồng bằng ngoại vi cacxtơ với các núi cacxtơ sót được nâng lên các độ cao
100m và 1200m. Các bề mặt san bằng sót lại đã làm cho vùng cacxtơ này có
dạng cao nguyên. Chính vì vậy, mà vùng cacxtơ này được gọi là cao nguyên
Đồng Văn. Thị trấn Đồng Văn nằm trên một bề mặt san bằng ở phía tây bắc cao
nguyên. Con sông Nho Quế chảy ở phía đông bắc vùng cacxtơ này tạo thành
một hẻm vực sâu 800 – 1000m, trên một chiều dài 20km.
Trong vùng cacxtơ này, quá trình cacxtơ đang diễn ra một cách mạnh mẽ làm cho
địa hình ở đây về cơ bản là địa hình cacxto trẻ. Bề mặt san bằng ở đây đã bị cắt
xẻ cho nên có những đỉnh núi ở độ cao khác nhau. Trên các bề mặt san bằng sót
lại nước mưa dồn xuống đó rồi lại chảy vào trong lòng các khối đá vôi. Nước
ngầm nằm khá sâu nên nạn thiếu nước ở vùng cacxtơ này khá nghiêm trọng.

Nhưng dọc theo thung lũng sông Nho Quế thì các nguồn nước ào ào chảy thoát
ra suốt ngày đêm. Chúng ta thấy ở đây có hai hiện tượng trái ngược nhau đó là
sự thiếu nước ở các thung lũng ở các thung lũng cao và sự thừa nước ở hẻm
sông Nho Quế.
Mặc dù thiếu nước, nhưng vùng cacxtơ này ở độ cao lớn có khí hậu mát vào mùa
hạ vẫn có thể trồng được các loài cây chịu hạn như ngô, đỗ, cao lương, lúa mì và
các rau quả ôn đới như xu hào, bắp cải, đào, lê , mận… Do địa hình hiểm trở
nên ở đây vẫn có một diện tích rừng rộng lớn với các loại cây gỗ quý như Dẻ,
ngát…Về khoáng sản có giá trị thì có quặng bôxit. Cũng do yếu tố địa hình hiểm
trở tạo cho vùng này có nhiều phong cảnh đẹp. Đặc biệt là những cái đèo khi
vượt qua nó ta sẽ thấy được cảnh quan của bề mặt san bằng sót lại thật mênh
mông đã được mệnh danh là những “cổng trời” và những “cảnh tiên”. Những
dạng địa hình này kết hợp với khí hậu mát mẻ, là điều kiện để hình thành những
điểm du lịch rất hấp dẫn.
2.3.2 Miền cacxtơ ở khối nâng Việt Bắc
Khối nâng này bao gồm các khối Phanxipăng, sông Hồng, sông Chảy, sông Lô và
sông Gâm. Phần lớn diện tích của khối có các thành tạo Prôtêrôzôi nhô trực tiếp
lên mặt và chỉ ở một ít nơi các thành tạo này mới bị các trầm tích trẻ hơn phủ
trên. Vì vậy, trong khối này có nhiều đá hoa Prôtêrôzôi nhô trực tiếp lên trên bề
mặt. Song phần lớn đá hoa này chỉ là những lớp xen kẽ với đá phiến mica và có
độ dày nhỏ. Chỉ ở trung lưu sông Lô, Chiêm Hóa, Na Hang, Sa Pa mới có được
một lớp đá hoa khá dày này, quá trình cacxtơ cũng có những đặc điểm khác hẳn
với quá trình cacxtơ đã nói trên. Sự có mặt của các hang động và dòng ngầm,
cũng như sự tồn tại của núi đá vôi bao quanh những cánh đồng…đã chứng tỏ
quá trình cacxtơ vẫn đang hoạt động ở đây. Nhưng ở đấy, sự cắt xẻ của các dòng
23
chảy trên mặt có một ý nghĩa thành tạo địa hình lớn và hầu như làm giảm vai trò
hình thành địa hình do quá trình cacxtơ. Tất cả những điều đó nói lên rằng quá
trình cacxtơ ở đây phát triển chậm chạp. Khối nâng Việt Bắc có thể chia thành
những vùng cacxtơ sau.

2.3.2.1 Vùng cacxtơ Quản Bạ - Lang Ca Phu
Đây là một vùng cacxtơ rộng lớn kéo dài từ biên giới Trung Quốc qua thung lũng
sông Miên (một nhánh của sông Lô) và thung lũng sông Gâm. Nó phân cách với
các khối đá vôi Đồng Văn và Đồng Mu bởi một dải đá phiến sông Hiến. Đồng
thời nó bị sông Miên và sông Gâm cắt xẻ thành những hẻm vực sâu. Hẻm nổi
tiếng mà sông Gâm cắt qua khu vực này là Na Pông. Hẻm sông Miên phân cách
khối đá vôi Quản Bạ với khối đá vôi Lang Ca Phu.
Vùng cacxtơ này cũng bị vận động tân kiến tạo nâng lên mạnh mẽ cho nên đường
dải đá phiến từ Hà Giang phải vượt qua đèo Păc Xum cao khoảng 1000m. Ở đèo
này một dải đá phiến Prôtêrôzôi lộ ra phân cách vùng cacxtơ này với vùng
cacxtơThanh Thủy - Hà Giang. Dải đá phiến này cũng là ranh giới phân cách
vùng cao (trong đó có vùng cacxto này) với vùng thấp của hai tỉnh Hà Giang và
Tuyên Quang. Nhiều sông nhánh của sông Lô, sông Miên và sông Gâm chia cắt
mạnh mẽ vùng cacxto này. Tuy nhiên ở các vùng phân thủy giữa sông Lô và
sông Miên cũng như giữa sông Miên và sông Gâm, hoạt động xâm thực chưa
chia cắt được nhiều. Vì vậy ở đây còn tồn tại các bề mặt san bằng sót lại nằm ở
độ cao lớn và có bề mặt tương đối bằng phẳng. Sự tồn tại của các bề mặt san
bằng sót lại này làm cho các khối đá vôi nói trên được gọi là cao nguyên Quản
Bạ và cao nguyên Lang Ca Phu. Độ cao trung bình của các núi đá vôi ở đây
khoảng 1200m. Ở khu vực phân thủy giữa sông Miên và sông Gâm là khối đá
Pu Ta Ca có những đỉnh núi sắc nhọn cao trên 2200m. Ở đây có cả những bề
mặt san bằng sót lại ở độ cao 1500m và 2000m. Những bề mặt san bằng như thế
đã bị các sông nhánh của sông Miên và sông Gâm chia cắt chia cắt thành những
bề mặt đỉnh núi thấp dần từ trung tâm ra các phía. Sự tồn tại của các nền đá
phiến Prôtêrôzôi vững chắc và của nhiều sông suối từ hai cao nguyên này đổ
xuống tạo cho vùng này có tiềm năng về thủy điện tương đối khá lớn.
Do được cấu tạo bằng đá vôi Givet (Đêvôn giữa) có chứa nhiều tạp chất cho nên
địa hình của các núi đá vôi này mềm mại hơn cao nguyên Đồng Văn. Phần lớn
diện tích trên bề mặt đá vôi còn tồn tại một lớp vỏ phong hóa Tera rossa bao
phủ. Đây là điều kiện thuận lợi cho sự tồn tại những dải rừng nguyên sinh có giá

trị lâm nghiệp, du lịch, sinh thái… rất lớn.
24
Vùng cacxtơ này nằm ở độ cao lớn nên ở đây cũng có tình trạng khan hiếm nước.
Tuy nhiên, ở nhiều nơi đá vôi đã bị ăn đến tận gốc làm nền cho Prôtêrôzôi lộ ra,
do đó trên bề mặt đá phiến thường có những nguồn nước ở các núi đá vôi chảy
ra góp phần làm cho nạn thiếu nước ở đây không trầm trọng như ở cao nguyên
Đồng Văn. Với những điều kiện đó và cũng giống như những cao nguyên biên
giới khác, vùng cacxtơ này thuận lợi cho việc trồng các loại cây ôn đới và cận
nhiệt đới, đặc biệt ở đây có cây chè nổi tiếng. Vùng cacxtơ này cũng có nhiều
thuận lợi hơn đối với nghề rừng.
2.3.2.2 Vùng cacxtơ Thanh Thủy – Hà Giang
Vùng cacxtơ này cấu tạo bằng ba loại đá vôi khác nhau: Đá vôi Cambri sớm, đá
vôi Cambri muộn và đá vôi Givet (Đêvôn giữa). Đá vôi Cambri sớm được phân
bố ở khu vực trong đó có thành phố Hà Giang, đá vôi Cambri muộn có ở các
khu vực Thanh Thủy, Làng Đán, bờ trái suối Pắc Xum và đá vôi Givet chiếm
phần còn lại của vùng cacxtơ này. Cả ba loại đá vôi này đều có màu sẫm và có
chứa nhiều tạp chất.
Trình độ phát triển của địa hình cacxtơ ở đây đã bước vào giai đoạn già nua. Các
lũng và cánh đồng cacxtơ đã bị các dòng chảy trên mặt cắt xẻ và làm thay đổi
sâu sắc. Hệ thống sông nhánh của sông Gâm và sông Miên đã cắt xẻ khối đá vôi
này thành những dải đá vôi nhỏ. Nhiều nơi có hiện tượng bên trên là sườn dốc
của đá vôi và bên dưới là sườn thoải của đá phiến Prôtêrôzôi. Ở vùng cacxtơ này
không có tình trạng khan hiếm nước nhưng vấn đề xây dựng các công trình thủy
lợi lớn để phục vụ cho sản xuất nông nghiệp cũng gặp nhiều khó khăn do địa
hình cacxtơ gây ra.
Đá vôi có chứa nhiều tạp chất nên ở rất nhiều nơi bề mặt đá vôi vẫn còn lớp phủ
Tera rossa trên đó có nhiều rừng rậm rạp. Ngoài khả năng lâm nghiệp, vùng
cacxtơ này còn có nhiều khả năng phát triển ngành trồng trọt và chăn nuôi do ở
đây có nhiều bề mặt bằng phẳng, có độ ẩm lớn và có đất Tera rossa màu mỡ. Do
ở vị trí gần cao nguyên, vùng cacxtơ này có nguồn trữ năng thủy điện cũng

tương đối khá lớn.
2.3.2.3 Vùng cacxtơ Chợ Rã – Ba Bể và Chợ Đồn – Chợ Điền
Vùng cacxtơ này bao gồm khối cacxtơ Chợ Rã – Ba Bể và khối Chợ Đồn – Chợ
Điền. Hai khối cacxtơ này nằm ở phía nam sông Năng và phía đông sông Gâm,
được cấu tạo bằng đá Givet (Đêvôn giữa) nằm trên đá phiến Prôtêrôzôi. Do hai
khối cacxtơ này nằm ngay bên cạnh khối Granit Phia Boo cho nên hoạt động
xâm thực này đã làm cho đá vôi ở đây biến thành đá hoa. Điều này phần nào giải
25

×