Tải bản đầy đủ (.doc) (60 trang)

NGHIÊN CỨU CHIẾN LƯỢC CỦA GIAI ĐOẠN 2015 - 2020 TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN VINACAFE

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.33 MB, 60 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
NGHIÊN CỨU CHIẾN LƯỢC CỦA GIAI
ĐOẠN 2015 - 2020 TẠI CÔNG TY CỔ
PHẦN VINACAFE
Giảng viên hướng dẫn: TS. Hoàng Lâm Tịnh
Nhóm thực hiện: Nhóm 12 – Lớp VB17QT001
Tháng 4/ 2015
MỤC LỤC
CHƯƠNG 1: SƠ LƯỢC VỀ LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT
TRIỂN CÔNG TY CỔ PHẦN VINACAFÉ BIÊN HOÀ 3
1.1 Lịch sử hình thành và phát triển công ty cổ phần Vinacafé Biên Hoà: 3
1.2 Ngành nghề kinh doanh: 6
1.3 Những thành tựu đạt được: 6
1.6 Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý của Vinacafe Biên Hòa: 11
CHƯƠNG 2: PHÂN TÍCH MÔI TRƯỜNG SẢN XUẤT KINH DOANH
CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN VINACAFÉ BIÊN HOÀ 11
3.3 Xác định sứ mệnh và mục tiêu của Vinacafé Biên Hòa giai đoạn 2013-2020 47
3.4 Mục tiêu của Vinacafé Biên Hòa giai đoạn 2013-2020 47
3.5 Phân tích cấu trúc Kinh doanh 48
Lời mở đầu
Trải qua hơn 150 năm, Việt Nam hiện nay đã trở thành nước đứng thứ 2 trên thế
giới về xuất khẩu cà phê, chỉ đứng sau Brazil. Cà phê đã trở thành một mặt hàng
xuất khẩu mũi nhọn, chỉ đứng thứ hai sau gạo về kim ngạch xuất khẩu. Ngành cà
Page 2
phê Việt Nam đã và đang đưa về cho đất nước một khối lượng kim ngạch đáng kể,
giải quyết công ăn việc làm, ổn định đời sống cho hàng trăm ngàn hộ gia đình ở các
khu vực miền núi, đặc biệt là khu vực Tây Nguyên.
Từ một nước chỉ xuất khẩu cà phê thô, Việt Nam đã dần dần cải tiến công nghệ,
mở rộng đầu tư cho lĩnh vực sản xuất cà phê thành phẩm như cà phê rang xay, cà
phê hoà tan. Được sự khuyến khích và hỗ trợ từ Nhà nước, các doanh nghiệp cà phê
non trẻ của Việt Nam đã dần dần lột xác, chuyển đổi công nghệ, nạng cao chất


lượng sản phẩm, tập trung vào các loại cà phê thành phẩm. Thương hiệu cà phê Việt
đã dần dần tạo được chỗ đứng vững chắc trên thị trường nội địa và đang đang có
những bước tiến mạnh mẽ trên thị trường quốc tế, đưa Việt Nam trở thành một điểm
sáng trên bản đồ cà phê thế giới.
CHƯƠNG 1: SƠ LƯỢC VỀ LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT
TRIỂN CÔNG TY CỔ PHẦN VINACAFÉ BIÊN HOÀ
1.1 Lịch sử hình thành và phát triển công ty cổ phần Vinacafé Biên Hoà:
Năm 1968 - Nhà máy cà phê CORONEL
Ông Marcel Coronel, quốc tịch Pháp, cùng vợ là bà Trần Thị Khánh khởi công
xây dựng Nhà máy Cà phê CORONEL tại Khu Kỹ nghệ Biên Hòa (nay là Khu
Công nghiệp Biên Hòa 1), tỉnh Đồng Nai với mục đích giảm thiểu chi phí vận
chuyển cà phê về Pháp. Nhà máy Cà phê CORONEL có công suất thiết kế 80 tấn cà
Page 3
phê hòa tan/năm, với toàn bộ hệ thống máy móc thiết bị được nhập khẩu từ Đức.
Nhà máy Cà phê CORONEL tự hào là nhà máy chế biến cà phê hòa tan đầu tiên
trong toàn khu vực các nước Đông Dương.
Năm 1975 - Nhà máy Cà phê Biên Hòa
Khi Việt Nam thống nhất, gia đình Coronel trở về Pháp. Họ bàn giao Nhà máy
cho Chính phủ Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam. Nhà máy Cà phê Coronel
được đổi tên thành Nhà máy Cà phê Biên Hòa và được giao cho Tổng cục Công
nghệ Thực phẩm quản lý. Tại thời điểm bàn giao, Nhà máy Cà phê Coronel vẫn
chưa chạy thử thành công bởi dù rất đam mê công việc, nhưng vốn là kỹ sư nông
nghiệp, ông Marcel Coronel chưa tìm được cách “thuần phục” được hệ thống dây
chuyền phức tạp gồm rất nhiều máy móc, thiết bị chế biến cà phê hòa tan.

Năm 1977 – Việt Nam sản xuất thành công cà phê hòa tan
Vào đúng dịp kỷ niệm 2 năm ngày Việt Nam thống nhất, mẻ cà phê hòa tan đầu
tiên ra lò trước sự vui mừng của toàn thể cán bộ công nhân viên Nhà máy. Trong
suốt hai năm trước đó, tập thể các kỹ sư, công nhân đã ngày đêm cùng nhau tìm tòi,
nghiên cứu để có thể vận hành thành công nhà máy. Năm 1977 đánh dấu một cột

mốc quan trọng của Nhà máy cà phê Biên Hòa và cũng là của ngành cà phê Việt
Nam: lần đầu tiên, Việt Nam sản xuất thành công cà phê hòa tan.

Năm 1978 – Cà phê Việt Nam xuất ngoại
Theo Nghị định thư Việt Nam ký kết với các nước trong hệ thống XHCN về
hàng đổi hàng, từ 1978, Nhà máy Cà phê Biên Hòa bắt đầu xuất khẩu cà phê hòa
tan đến các nước thuộc Liên Xô cũ và Đông Âu.
Năm 1983 – Thương hiệu Vinacafé ra đời
Trong suốt những năm 1980, Nhà máy Cà phê Biên Hòa vừa nghiên cứu cải tiến
kỹ thuật để xây dựng quy trình sản xuất chuẩn, vừa sản xuất cà phê hòa tan xuất
khẩu theo đơn đặt hàng của nhà nước. Cùng với địa chỉ sản xuất được ghi trên từng
bao bì sản phẩm, tên “Vinacafé” bắt đầu xuất hiện ở thị trường Đông Âu bắt đầu từ
1983, đánh dầu thời điểm ra đời của thương hiệu Vinacafé.

Page 4
Năm 1990 – Vinacafé chính thức trở lại Việt Nam
Vào cuối những năm 1980, các đơn đặt hàng cà phê hòa tan Vinacafé ngày càng
giảm, theo cùng với tốc độ diễn biến bất lợi của hệ thống XHCN ở Liên Xô và
Đông Âu. Năm 1990, Vinacafé chính thức quay trở lại thị trường Việt Nam dù
trước đó một số sản phẩm của Nhà máy Cà phê Biên Hòa đã được tiêu thụ ở thị
trường này.

Năm 1993 – Ra đời cà phê hòa tan 3 trong 1
Khi quay lại Việt Nam, các sản phẩm của Nhà máy cà phê Biên Hòa rất khó tìm
được chỗ đứng, do trước đó thị trường cà phê Việt Nam đã được định hình bởi thói
quen uống cà phê rang xay pha tạp (hệ lụy từ chính sách ngăn sông cấm chợ dẫn
đến thiếu hụt cà phê nguyên liệu, người ta phải độn ngô và nhiều phụ gia khác vào
cà phê). Cùng với những bước chập chững của Vinacafé, người Việt cũng lần đầu
tiên đến với cà phê hòa tan. Cà phê hòa tan 3 trong 1 Vinacafé ra đời đã được thị
trường đón nhận nhanh chóng. Giải pháp đưa đường và bột kem vào cà phê đóng

sẵn từng gói nhỏ đã giúp người Việt Nam lần đầu tiên được thoả mãn thói quen
uống cà phê với sữa mà không phải chờ cà phê nhỏ giọt qua phin. Cà phê hòa tan 3
trong 1 thành công nhanh đến mức thương hiệu Vinacafé ngay lập tức được Nhà
máy Cà phê Biên Hòa đăng ký sở hữu trí tuệ tại Việt Nam và nhiều quốc gia trên
thế giới.
Năm 1998 – Nhà máy thứ hai
Năm 1998 đánh dấu một cột mốc quan trọng về sự lớn mạnh vượt bậc. Nhà máy
chế biến cà phê hòa tan thứ hai được khởi công xây dựng ngay trong khuôn viên
của nhà máy cũ. Nhà máy này có công suất thiết kế 800 tấn cà phê hòa tan/năm, lớn
gấp 10 lần nhà máy cũ. Chỉ sau đó 2 năm, nhà máy mới đã chính thức được đưa vào
vận hành để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của thị trường nội địa và xuất khẩu.

Năm 2004 – Công ty CP Vinacafé Biên Hòa
Ngày 29 tháng 12 năm 2004, Nhà máy cà phê Biên Hòa chuyển đổi loại hình
doanh nghiệp - từ doanh nghiệp nhà nước sang công ty cổ phần. Yêu quý đứa con
tinh thần, cộng với sự nổi tiếng của thương hiệu Vinacafé, các cổ đông sáng lập
(hầu hết là người của Nhà máy Cà phê Biên Hòa) đã đặt tên mới cho công ty là:
Công ty Cổ phần VINACAFÉ BIÊN HÒA (Vinacafé BH). Đây cũng là thời điểm
Page 5
mở ra một chương mới cho lịch sử Công ty khi mà nó hoạch định lại chiến lược
phát triển, viết lại sứ mệnh, tầm nhìn mới và xác định những giá trị cốt lõi của
mình, trong bối cảnh Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế.
Năm 2010 – khởi công nhà máy thứ 3 tại Long Thành, Đồng Nai
Nhà máy thứ 3 có công suất 3,200 tấn cà phê hoà tan nguyên chất/ năm, lớn gấp
4 lần nhà máy thứ hai và gấp 40 lần nhà máy thứ nhất của Vinacafé Biên Hoà và
công nghệ tiên tiến nhất thế giới tính đến năm 2010. Khi nhà máy đi vào hoạt động
mỗi giờ Việt Nam sẽ có thêm nửa tấn cà phê hoà tan đưa vào thị trường quốc tế.
Điều này góp phần đẩy mạnh thương hiệu cà phê Việt nam ra thị truờng quốc tế.
Năm 2011 – Niêm yết tại HoSE
Được sự chấp thuận của Uỷ Ban Chứng khoáng Nhà Nước và Sở Giao Dịch

Chứng khoán TP HCM ( HoSE ) ngày 28/01/2011 Công ty cổ phần Vinacafé Biên
Hoà nhận quyết định niêm yết tại HoSE với mã chứng khoán là VINACAFÉ BIÊN
HÒA. Ngày 28/01/2011 cũng chính là ngày giao dịch chính thức cổ phiếu của
VINACAFÉ BIÊN HÒA tại Sở giao dịch chứng khoán TP HCM.
1.2 Ngành nghề kinh doanh:
Sản xuất, kinh doanh, xuất- nhập khẩu cà phê, chè, thức uống nhanh và các sản
phẩm thực phẩm. Trong đó, Vinacafe sản xuất và kinh doanh 2 sản phẩm chính là
cà phê và ngũ cốc dinh dưỡng, trong đó sản phẩm cà phê mang thương hiệu
Vinacafe là sản phẩm chủ lực của công ty.
1.3 Những thành tựu đạt được:
Vinacafé Biên Hoà đã đạt được nhiều thành tựu, danh hiệu để khẳng định uy tín
và vị thế của mình trong lĩnh vực kinh doanh được người tiêu dùng tin cậy. Tiêu
biểu là các giải thưởng như:
• Các danh hiệu do Nhà nước phong tặng:
Danh hiệu Anh Hùng Lao Động - 2007. Huân Chương Lao động hạng Nhì - 2001.
Huân chương Lao Động hạng Ba – 1997.

Page 6
• Danh hiệu do Người tiêu dùng bình chọn:
Sản phẩm Việt Nam tốt nhất 2010. Hàng Việt Nam Chất Lượng Cao 15 năm liên
tục, từ năm 1997. Top 5 các thương hiệu thuộc ngành hàng Giải khát 2001.

• Danh hiệu do các tổ chức chứng nhận:
Năm 2004: Sao vàng Đất Việt.
Năm 2005: Thương hiệu mạnh VN; Thương hiệu Nổi tiếng do VCCI - Nielsen
điều tra.
Năm 2006: Giải thưởng Quả chuông vàng của HH Quảng cáo VN. Thương hiệu
Mạnh Việt Nam. Doanh nghiệp Xuất Khẩu Uy tín. Giải thưởng quốc tế WIPO của
Tổ chức Sở hữu Trí tuệ Thế giới thuộc LHQ.
Năm 2007: Sao vàng Đất Việt; Doanh nghiệp Xuất khẩu Uy tín; Thương hiệu

Mạnh VN; Sao vàng Đất Việt. Kỷ lục Guinness Thế giới về Ly cà phê lớn nhất thế
giới; Kỷ lục Việt Nam về ly cà phê lớn nhất VN. Thương hiệu Nổi tiếng do VCCI -
Nielsen điều tra.
Năm 2008: Được lựa chọn vào Chương trình Thương hiệu Quốc gia lần 1. Sao
vàng Đất Việt; Thương hiệu Mạnh Việt Nam.
Năm 2009: Thương hiệu Mạnh Việt Nam; DN ứng dụng hiệu quả CNTT; Sao
Vàng Đất Việt.
Thương hiệu Nổi tiếng do VCCI - Nielsen điều tra.
Năm 2010: Được lựa chọn vào Chương trình Thương hiệu Quốc gia lần 2.
Thương hiệu Mạnh Việt Nam; Sao Vàng Đất Việt; Thương hiệu nổi tiếng Quốc
gia.
Năm 2011:Top 100 Sao Vàng Đất Việt. 1 trong 10 thương hiệu uy tín hàng đầu giải
“Cúp vàng Top ten Thương hiệu Việt - Ứng dụng KH & CN năm 2011".Hàng Việt
Nam Chất Lượng Cao.
Top 10 Thương hiệu mạnh
Năm 2012 :Top 50 Công ty kinh doanh hiệu quả nhất Việt Nam 2012. Top 10
Thương hiệu mạnh Việt Nam. Giải Bạc - Giải thưởng Chất lượng Quốc gia . Top 10
Thương hiệu Việt uy tín.
Page 7
Hàng Việt Nam Chất lượng cao. Thương hiệu Quốc gia
Năm 2013: Top 50 Công ty kinh doanh hiệu quả nhất Việt Nam 2013 (xếp hạng thứ
10) do Báo Nhịp cầu Đầu tư tổ chức.Giải bạc chất lượng Quốc gia năm 2013. Tiếp
tục được người tiêu dùng bình chọn là Hàng Việt Nam chất lượng cao năm thứ 18.
Giải thưởng Sao Vàng Đất Việt năm 2013. Giải thưởng xếp hạng tín nhiệm doanh
nghiệp năm 2013.
1.4 Dòng sản phẩm và nhãn hiệu nổi tiếng:
- Cà phê rang xay gồm có: cà phê xay Vinacafé Select, Vinacafé Super, Vinacafé
Natural, Vinacafé Gold.
- Cà phê hoà tan gồm có: Vinacafé Wake - up 3 in 1, Vinacafé Wake – up hương
chồn, Vinacafé hoà tan đen, Vinacafé hoà tan 4 trong 1.

- Ngũ cốc dinh dưỡng gồm có: ngũ cốc dinh dưỡng Vinacafé, ngũ cốc Dế Mèn.

Page 8
Cà phê hòa tan
Cà phê 3 trong 1
Cà phê hòa tan
Wake- up Sài Gòn Wake-up hương chồn Phin uống liền
Cà phê hòa tan Vinacafé phiên bản mới
Các nhãn hàng cà phê rang xay mới
Page 9
Nước tăng lực vị cà phê Wake- up 247
1.5 Hệ thống phân phối:
Hệ thống phân phối của Vinacafé Biên Hoà có mặt ở hầu hết các tỉnh thành
trong cả nước với hàng trăm nhà phân phối, hàng trăm điểm bán lẻ. Vinacafé Biên
Hoà đã đăng kí thương hiệu ở 70 quốc gia và xuất khẩu thường xuyên đến 20 quốc
gia trên thế giới, trong đó có các thị trường khó tính như: Mỹ, Nhật, Châu Âu…
Vinacafé Biên Hoà được công nhận là doanh nghiệp xuất khẩu uy tín trong nhiều
năm, được các đối tác nước ngoài đánh giá cao về tính chuyên nghiệp và chất lượng
sản phẩm.
Page 10
1.6 Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý của Vinacafe Biên Hòa:
Đại Hội đồng cổ đông là cơ quan có quyền quyết định cao nhất của Công ty
Cổ phần Vinacafé Biên Hòa. Đại hội đồng Cổ đông bầu ra Hội đồng Quản trị, cơ
quan quản lý cao nhất. Đại hội đồng Cổ đông cũng bầu ra Ban kiểm soát, giúp Đại
hội đồng cổ đông kiểm soát nội bộ công ty. Hội đồng Quản trị bổ nhiệm Tổng Giám
đốc và ba Phó Tổng Giám đốc(gồm 01 phó Tổng Giám đốc phụ trách tài chính, 01
Phó Tổng Giám đốc phụ trách xây dựng cơ bản và 01 Phó Tổng Giám đốc phụ
trách Hành chính) và Kế toán trưởng để trực tiếp điều hành công ty. Vinacafé Biên
Hòa có cơ cấu khá đầy đủ phòng ban chuyên môn, gồm 01 Giám đốc sản xuất, 14
phòng ban chức năng, 03 chi nhánh đặt tại Thành phố Hà Nội, Hưng Yên và Long

Thành- Đồng Nai và 02 nhà máy sản xuất cà phê hòa tan(nhà máy Biên Hòa và nhà
máy Long Thành) đáp ứng được nhu cầu sản xuất kinh doanh của công ty hiện tại
và tương lai.
Hội đồng quản trị là cơ quan quyết định tất cả những vấn đề quan trọng liên
quan đến Công ty, có trách nhiệm giám sát, chỉ đạo Tổng Giám đốc và các Cán bộ
quản lý khác trong điều hành công việc kinh doanh hàng ngày của Công ty.
CHƯƠNG 2: PHÂN TÍCH MÔI TRƯỜNG SẢN XUẤT KINH DOANH
Page 11
CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN VINACAFÉ BIÊN HOÀ
2.1 Phân tích môi trường vĩ mô
2.1.1 Môi trường kinh tế
Nền kinh tế Việt Nam đang trong giai đoạn phục hồi sau thời kỳ trì trệ và khủng
hoảng.
Theo thông tin được Thủ tướng cập nhật tại Diễn đàn VDPF, quy mô nền kinh
tế trong năm 2013 đã đạt gần 176 tỷ USD, thu nhập bình quân đầu người khoảng
1.960 USD. Dự kiến, GDP năm 2014 tăng khoảng 5,8% và năm 2015 tăng 6%. Mặt
bằng lãi suất huy động và cho vay đã giảm mạnh. Tính theo lãi suất năm, mặt bằng
lãi suất huy động giảm 7 – 10%, lãi suất cho vay giảm 9 – 12%. Đáng chú ý là lãi
suất cho vay đối với các lĩnh vực ưu tiên phổ biến ở mức 7 – 9 %/năm; đối với các
lĩnh vực sản xuất kinh doanh khác là 9 – 11,5%. Thậm chí, một số doanh nghiệp
tình hình tài chính lành mạnh đã được vay với lãi suất 6,5 – 7 %/năm.
Theo Báo cáo tháng 01/2014 của Công ty Chứng khoán Ngân hàng Đầu tư và
phát triển Việt Nam (BSC), các chỉ số vĩ mô tiếp tục ổn định, lạm phát ở mức thấp,
lãi suất và thanh khoản ngân hàng ổn định, tỷ giá được giữ vững. Tình hình sản xuất
trong nước có sự cải thiện tích cực khi PMI Việt Nam tháng 1 lên mức 52,1 điểm,
cao nhất kể từ tháng 4/2011.
- Lạm phát: Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 01/2014 tăng 0,69% so với
tháng trướv và tăng 5,45% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, nhóm đồ
uống và thuốc lá tăng 0,83%; hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,77% (trong
đó lương thực . Giá xăng dầu được điều chỉnh tăng ngày 18/12/2013 với mức

tăng 2,38% đóng góp vào mức tăng CPI chung cả nước khoảng 0,86%.
- Sức cầu trong nước: Tiêu dùng có dấu hiệu cải thiện trong tháng đầu năm
khi tổng hàng hoá bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng 01/2014 ước
tính đạt 237,5 nghìn tỷ đồng, tăng 2,7% so với tháng trước và tăng 13% so
với cùng kỳ năm trước (loại trừ yếu tố giá tăng 7,2%). Tuy nhiên, do là thời
điểm trước Tết nên tổng mức bán lẻ tăng trong tháng 1 chưa đủ thuyết phục
để kết luận về sự cải thiện trong xu hướng chung của sức cầu tiêu dùng.
Page 12
Nhưng với tình hình kinh tế ngày càng khả quan thì sức cầu cũng sẽ được cải
thiện hơn.
- Tỷ giá: Trong tháng 01/2014, tỷ giá tự do ổn định quanh mức 21.150
VND/USD. Tỷ giá trung bình các ngân hàng thương mại ở quanh mức
21.080 VND/USD. Nói chung, xu hướng tỷ giá vẫn được đánh giá là ổn định
khi cung cầu ngoại tệ cân bằng, kiều hối tăng mạnh và FDI giải ngân trong
tháng đầu năm đạt mức tốt.
- Lãi suất: Trên thị trường liên ngân hàng tháng 01/2014, lãi suất qua đêm
trung bình ở mức 4,2%; kỳ hạn 1 – 2 tuần quanh mức 4,6% – 4,8%, kỳ hạn 1
– 3 tháng quanh mức 5% – 5,4%. Lãi suất tiếp tục ổn định so với thời điểm
cuối năm 2013. Lãi suất cho vay phổ biến đối với lĩnh vực nông nghiệp, nông
thôn, xuất khẩu, doanh nghiệp nhỏ và vừa, công nghiệp hỗ trợ, doanh nghiệp
ứng dụng công nghệ cao ở mức thấp 7 – 9 %/năm. Lãi suất cho vay lĩnh vực
sản xuất, kinh doanh khác ở mức 9 – 11,5 %/năm đối với cho vay ngắn hạn;
11,5 – 13 %/năm đối với cho vay trung và dài hạn.
Những tổng kết và đánh giá của các cơ quan điều hành và các nhà phân tích
trong nước cũng như quốc tế về kinh tế vĩ mô năm 2013 cho thấy nền kinh tế
đang đi đúng hướng. Kinh tế vĩ mô tiếp tục cải thiện trong tháng đầu của năm
mới qua số liệu lạm phát, sản xuất và xuất khẩu. Bất chấp những tác động bất
lợi của các thị trường thế giới, thị trường chứng khoán Việt Nam vẫn tăng
trưởng dựa trên nền tảng vĩ mô được cải thiện.
Vĩ mô tiếp tục ổn định, xuất hiện những tín hiệu lạc quan cho tăng trưởng. Số

liệu tổng mức hàng hoá bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng 1 tăng 13%
so với cùng kỳ mang lại cái nhìn khá tích cực về việc tiêu dùng đang phục hồi.
Chỉ số PMI tháng 1/2014 do HSBC công bố lần nữa củng cố niềm tin về sản
xuất đang hồi phục và tăng trưởng. PMI tăng lên mức 52,1 điểm, cao nhất trong
33 tháng nhờ đà tăng sản lượng mạnh nhất từ 4/2011, và sức mua tăng mạnh.
Những thông tin đầu năm đã cho cái nhìn lạc quan hơn về sản xuất và tiêu dùng,
những vấn đề trước đó được xem như những thách thức cho tăng trưởng năm
2014.
Page 13
Dự báo kinh tế thế giới và Việt Nam đến năm 2020
Thương mại thế giới giai đoạn 2011-2020 được dự báo sẽ tăng trưởng nhanh
hơn sản lượng, đạt tốc độ trung bình 7,5%/năm, chiếm 45% GDP thế giới vào năm
2020. Tự do hoá thương mại, chi phí vận tải và viễn thông giảm, các luồng vốn di
chuyển giữa các quốc gia ngày càng dễ dàng hơn là những nguyên nhân chính thúc
đẩy thương mại quốc tế phát triển. Thương mại dịch vụ ngày càng khẳng định vai
trò của mình, trở thành một trong những nhân tố chính thúc đẩy sự phát triển kinh tế
của các quốc gia nói riêng và thế giới nói chung trong giai đoạn 2011-2020
Trên thị trường tiền tệ, tỷ giá giữa các đồng tiền chính không có nhiều biến
động do các nền kinh tế chính trên thế giới đều tăng trưởng khả quan. Đồng USD
tiếp tục là đồng tiền dự trữ chủ yếu, bên cạnh các đồng tiền quan trọng khác như
đồng EUR, JPY, NDT. Có nhiều khả năng sẽ xuất hiện một đồng tiền chung châu Á
có tầm ảnh hưởng quan trọng trên thị trường tiền tệ thế giới do vị thế của các nền
kinh tế trong khu vực này tăng lên trên trường quốc tế. Lãi suất thực tế trên thế giới
trong giai đoạn 2011-2020 tiếp tục giảm và xu hướng này được dự báo sẽ còn tiếp
tục đến năm 2050. Tỷ lệ tiết kiệm và đầu tư ở nhóm các nước dân số già tăng lên
như Nhật Bản, EU… sẽ giảm, trong khi đó, ở các nước có dân số trẻ như các nước
đang phát triển ở khu vực Châu Á, châu Phi và châu Mỹ Latinh, tỷ lệ này sẽ tăng
lên.
GDP đầu người Việt Nam 3.000 USD vào năm 2020?
2.1.2 Môi trường chính trị, chính sách pháp luật

Cà phê là một trong những ngành hàng nông sản xuất khẩu chủ lực của Việt
Nam. Đây cũng là ngành có vị trí quan trọng đối với đời sống kinh tế-xã hội của
đông đảo đồng bào dân tộc Tây Nguyên, gắn với an ninh-quốc phòng của đất nước.
Do đó, ngành cà phê luôn nhận được nhiều chính sách ưu đãi và hỗ trợ phát triển từ
Nhà nước.
Cà phê được nhà nước bảo hộ về quyền lợi và thương hiệu, hỗ trợ giá thành sản
phẩm và tạo điều kiện xuất khẩu ra nước ngoài. Bên cạnh đó, Hiệp hội cà phê cũng
được thành lập để điều hành và phát triển cà phê với mục đích bảo vệ lẫn nhau tránh
Page 14
các hành vi độc quyền, tranh chấp thị trường xâm phạm lợi ích của doanh nghiệp,
bảo vệ quyền lợi cho cà phê Việt Nam trên thị trường.
Ngày 30 tháng 7 năm 2013, theo đề nghị của Cục Trồng trọt, Viện chính sách
và Chiến lược Phát triển Nông nghiệp nông thôn và Vụ tổ chức cán bộ, Bộ trưởng
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã ra quyết định số 1729/QĐ-BNN-TCCB
thành lập Ban Điều phối Ngành hàng cà phê Việt Nam. Ban điều phối đang xây
dựng dự thảo Đề án “Phát triển bền vững ngành cà phê Việt Nam đến năm 2020”.
Mục tiêu xây dựng ngành cà phê đồng bộ, hiện đại và bền vững. Cụ thể, tổng diện
tích trồng cà phê đạt 600 nghìn ha, cho sản lượng 1,6 triệu tấn/năm; giá trị sản
lượng trên mỗi ha trồng cà phê phải đạt 120 triệu đồng/năm; tỷ lệ cà phê nhân được
chế biến quy mô công nghiệp đạt 40% vào năm 2015 và 70% vào năm 2020 trong
tổng sản lượng hàng năm. Một trụ cột quan trọng của đề án là thúc đẩy phát triển
ngành công nghiệp chế biến cà phê. Phấn đấu tổng sản lượng cà phê nhân nguyên
liệu sử dụng cho chế biến sâu đạt 160 nghìn tấn vào năm 2015 và 200 nghìn tấn vào
năm 2020. Từng bước thay thế các dây chuyền thiết bị công nghệ chế biến lạc hậu.
Đầu tư đồng bộ các cơ sở tái chế, phân loại cà phê nhân xuất khẩu bằng hệ thống
dây chuyền hiện đại, tự động hóa sản xuất và giám sát chất lượng sản phẩm. Đến
năm 2015, 100% cơ sở chế biến cà phê nhân xuất khẩu tuân thủ đúng quy chuẩn kỹ
thuật quốc gia.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn sẽ xây dựng chính sách ưu đãi nhằm
khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư thiết bị đồng thời mời gọi đầu tư xây dựng

các nhà máy công nghiệp chế biến cà phê hòa tan công suất lớn với dây chuyền,
thiết bị, công nghệ tiên tiến.
Ban điều phối ngành hàng cà phê Việt Nam cũng đang lên kế hoạch xây dựng
hệ thống tiêu thụ cà phê hiện đại; tiến hành xây dựng Đề án phát triển hệ thống
thương mại cà phê nước ta, đảm bảo thích ứng với quá trình mua, bán, ký gửi. Phấn
đấu đến năm 2015, đầu tư xây dựng 2 sàn giao dịch cà phê tại Tây Nguyên và
Tp.HCM áp dụng phương thức mua bán giao dịch kỳ hạn.
Trong năm 2013, để tháo gỡ khó khăn về tài chính cho các doanh nghiệp kinh
doanh cà phê, Nhà nước đã có những chính sách ưu đãi, hỗ trợ các doanh nghiệp
Page 15
kinh doanh cà phê.
-Về chính sách thuế GTGT, Bộ Tài chính đã trình Chính phủ bổ sung dự thảo Nghị
định quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật thuế GTGT. Cụ
thể, sản phẩm trồng trọt, chăn nuôi, thủy sản nuôi trồng, đánh bắt chưa chế biến
thành các sản phẩm khác hoặc chỉ qua sơ chế thông thường bán cho cơ sở kinh
doanh nộp thuế theo phương pháp khấu trừ trong khâu kinh doanh thương mại
không phải chịu thuế GTGT. Với quy định trên, nếu cơ sở kinh doanh thương mại
nộp thuế theo phương pháp khấu trừ bán nông sản, lâm sản, thủy sản chưa qua chế
biến thành sản phẩm khác hoặc chỉ qua sơ chế thông thường cho cơ sở kinh doanh
khác nộp thuế theo phương pháp khấu trừ thì không phải xuất hóa đơn có thuế
GTGT; còn bán cho hộ, cá nhân hoặc tổ chức khác là người nộp thuế theo phương
pháp tính trực tiếp trên GTGT hoặc không phải là đối tượng nộp thuế thì vẫn phải
tính thuế GTGT.
-Về chính sách tiền thuê đất, Bộ Tài chính cho biết, đối với đất sử dụng vào mục
đích sản xuất nông nghiệp (trong đó có đất trồng cây cà phê) được Nhà nước cho
thuê đất thu tiền thuê đất hàng năm hoặc giao đất có thu tiền sử dụng đất. Quy định
về nộp tiền thuê đất, chính sách ưu đãi về miễn tiền thuê đất với mức ưu đãi (miễn 3
năm, 7 năm, 11 năm, 15 năm, hoặc cả thời gian thuê đất tùy thuộc dự án thuộc lĩnh
vực ưu đãi đầu tư (khuyến khích đầu tư, đặc biệt khuyến khích đầu tư) được đầu tư
tại địa bàn ưu đãi đầu tư (địa bàn kinh tế - xã hội khó khăn, địa bàn kinh tế - xã hội

đặc biệt khó khăn) theo quy định tại chính sách thu tiền thuê đất (Nghị định số
142/2005/NĐ-CP, được sửa đổi, bổ sung tại Nghị định số 121/2010/NĐ-CP của
Chính phủ).
-Về quy định về nộp tiền sử dụng đất, chính sách ưu đãi tiền sử dụng đất với mức
ưu đãi (giảm 20%, giảm 30%, giảm 50%), miễn tiền sử dụng đất tùy thuộc dự án
thuộc lĩnh vực ưu đãi đầu tư (khuyến khích đầu tư, đặc biệt khuyến khích đầu tư)
được đầu tư tại địa bàn ưu đãi đầu tư (địa bàn kinh tế - xã hội khó khăn, địa bàn
kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn) thực hiện theo quy định tại chính sách thu tiền sử
dụng đất (Nghị định số 198/2004/NĐ-CP, Nghị định số 44/2008/NĐ-CP, được sửa
đổi, bổ sung tại Nghị định số 120/2010/NĐ-CP của Chính phủ).
Page 16
-Ngoài ra, Nghị định số 210/2013/NĐ-CP ngày 19-12-2013 của Chính phủ quy định
chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn quy định
ưu đãi miễn, giảm tiền sử dụng đất; miễn, giảm tiền thuê đất tùy theo Dự án thuộc
loại dự án nông nghiệp đặc biệt ưu đãi đầu tư, dự án nông nghiệp ưu đãi đầu tư, dự
án nông nghiệp khuyến khích đầu tư; đồng thời dự án nông nghiệp nếu đáp ứng 1
trong 3 loại dự án nêu trên thì được hưởng chính sách ưu đãi về mức giá thuê đất
thấp nhất theo khung giá thuê đất do UBND cấp tỉnh quy định.
-Về tạm trữ cà phê, Bộ Tài chính đã có công văn số 12545/BTC -TCDN ngày 19-9-
2013 đề nghị Văn phòng Chính phủ trình Thủ tướng Chính phủ cho tạm trữ khi giá
cà phê thị trường xuống dưới giá thành và giao cho Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn phối hợp với Hiệp hội Cà phê quyết định lượng mua, phương thức mua
tạm trữ theo nguyên tắc: doanh nghiệp thu mua cà phê để tạm trữ và chịu trách
nhiệm về kết quả kinh doanh. Vốn mua cà phê tạm trữ được các ngân hàng thương
mại đảm bảo cho vay với lãi suất phù hợp được Ngân hàng nhà nước Việt Nam
hướng dẫn. Ngân sách nhà nước không hỗ trợ kinh phí tạm trữ.
-Để khoanh nợ cho các doanh nghiệp kinh doanh cà phê, Chính phủ cũng đã có
nhiều quy định cụ thể. Theo đó, gia hạn thời gian vay tín dụng xuất khẩu đối với
mặt hàng cà phê theo Nghị quyết số 83/NQ-CP của Chính phủ, Chính phủ đã ban
hành Nghị định số 133/2013/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số Nghị định trước đó về

tín dụng đầu tư, tín dụng xuất khẩu của Nhà nước. Trong đó quy định cụ thể như
sau: “Gia hạn thời gian vay vốn lên tối đa là 36 tháng (tổng thời gian vay vốn tối đa
36 tháng) đối với khoản vay vốn tín dụng xuất khẩu của Nhà nước cho các nhóm
hàng xuất khẩu cà phê, hạt điều đã qua chế biến, rau quả, thủy sản với điều kiện
doanh nghiệp lỗ trong năm 2011 và năm 2012; không cân đối được nguồn vốn để
trả nợ theo đúng hợp đồng tín dụng đã ký với Ngân hàng Phát triển Việt Nam”.
Như vậy, trong thời gian qua, đã có nhiều chính sách nhằm hỗ trợ các doanh
nghiệp kinh doanh mặt hàng cà phê, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đứng vững
trên thị trường với sản phẩm được coi là thế mạnh của Việt Nam hiện nay.
2.1.3. Môi trường tự nhiên và sinh thái
Cà phê có thể trồng trên nhiều loại đất khác nhau, trong đó đất ba-zan là một
Page 17
trong những loại đất lý tưởng để trồng cà phê. Yêu cầu cơ bản của đất trồng cà phê
là có tầng sâu từ 70 cm trở lên, có độ thoát nước tốt. Các loại đất thường thấy ở Việt
Nam ở trên các vùng cao như granit, sa phiến thạch, phù sa cổ, gờ nai, đá vôi, dốc
tụ đều trồng được cà phê. Ở cà phê vườn có khả năng trồng được cả ở nơi có đá lộ
đầu, ở những nơi đất dốc vẫn trồng được cà phê nếu làm tốt công trình chống xói
mòn. Dù trồng ở trên loại đất nào nhưng vai trò của con người có tính quyết định
trong việc duy trì, bảo vệ nâng cao độ phì nhiêu của đất. Ngay cả trên đất ba-zan,
nếu cà phê không được chăm sóc tốt vẫn dẫn tới hiện tượng còi cọc, năng suất thấp.
Ngược lại ở những nơi không phải là đất ba-zan nếu đảm bảo được đủ lượng phân
hữu cơ, vô cơ, giải quyết tốt cây đậu đỗ, phân xanh trồng xen, tủ gốc tốt cùng các
biện pháp thâm canh tổng hợp khác như tưới nước vẫn có khả năng tạo nên các
vườn cà phê có năng suất cao.
Ngoài yếu tố đất đai, cây cà phê còn đòi hỏi một số yêu cầu về nhiệt độ, ẩm độ,
lượng mưa, ánh sáng, gió. Vì vậy, không phải vùng nào cũng trồng được cà phê.
-Nhiệt độ: Cà phê Arabica ưa nơi mát và hơi lạnh. Phạm vi thích hợp từ 18 – 25 °C,
thích hợp nhất là 20 – 22 °C. Do đó, cà phê Arabica thường được trồng ở miền núi
có độ cao từ 600 – 2.500 m (nguyên quán cà phê Arabica là ở Ethiopie, có độ cao
trên dưới 2.000 m). Các nước trồng cà phê Arabica có phẩm vị thơm ngon (như

Kenya, Tanzania, Ethiopie, Colombia) thường được trồng ở nơi có độ cao từ 800 m
trở lên. Ngược lại cà phê Robusta thích ở nơi nóng ẩm. Phạm vi thích hợp từ 22 –
26 °C, song thích hợp nhất là 24 – 26 °C.
-Lượng mưa: Lượng mưa cần thiết đối với Arabica thường là 1.300 – 1.900 mm,
còn đối với Robusta là 1.300 – 2.500 mm. Nhìn chung, ở nước ta lượng mưa phân
bố không đều, tập trung khoảng 70 – 80% vào mùa mưa, gây hiện tượng thừa nước.
Mùa khô thường kéo dài 3 – 5 tháng, nhưng lượng nước mưa chỉ chiếm từ 20 –
30%. Do vậy, nhiều nơi cây cà phê thiếu nước nghiêm trọng, đặc biệt là các tỉnh ở
Tây Nguyên và miền Đông Nam Bộ. Nhưng để khắc phục hiện tượng này, ta chỉ
cần tủ gốc giữ ẩm, đai rừng phòng hộ, cây che bóng và tưới nước.
-Ấm độ: Độ ẩm trên 70% mới thuận lợi cho sự sinh trưởng và phát triển của cây cà
phê.
Page 18
-Ánh sáng: Cà phê Arabica thích ánh sáng tán xạ (nguồn gốc mọc trong rừng thưa
tại châu Phi), ánh sáng trực xạ làm cho cây bị kích thích ra hoa quá độ dẫn tới hiện
tượng khô cành, khô quả, vườn cây xuống dốc nhanh. Cà phê Robusta lại thích ánh
sáng trực xạ yếu (nguyên quán cà phê vối mọc rải rác ven bìa rừng ở châu Phi). Ở
những nơi có ánh sáng trực xạ với cường độ mạnh thì cây cà phê Robusta cần lượng
cây che bóng để điều hòa ánh sáng.
-Gió: Gió lạnh, gió nóng, gió khô đều có hại đến sinh trưởng của cây cà phê. Gió
quá mạnh làm cho lá bị rách, rụng lá, các lá non bị thui đen, gió nóng làm cho lá bị
khô héo. Gió làm tăng nhanh quá trình bốc thoát hơi nước của cây và đất đặc biệt là
trong mùa khô. Vì vậy cần giải quyết trồng tốt hệ đai rừng chắn gió chính và phụ;
cây che bóng để hạn chế tác hại của gió. Đai rừng chắn gió và cây che bóng còn có
tác dụng hạn chế hình thành và tác hại của sương muối, ở những vùng có gió nóng,
đai rừng còn có tác dụng điều hòa nhiệt độ trong lô trồng.
Tại Việt Nam, có 3 vùng có thổ nhưỡng và khí hậu thích hợp với cây cà phê là
Tây Nguyên, Đông Nam Bộ và Bắc Trung Bộ. Buôn Ma Thuột, Đak Lak và vùng
Cao Nguyên Trung Bộ là những vùng sản xuất cà phê nổi tiếng ở Việt Nam. Ða số
cà phê trong nước được sản suất bởi những hộ gia đình với diện tích gieo trồng

khoảng 2-5 hecta/hộ. Các công ty Nhà nước chiếm khoảng 15% và cà phê được
trồng trong những nông trại lớn hơn.
Robusta là loại cà phê được gieo trồng chủ yếu tại Việt Nam. Chính phủ cũng
đang lên kế họach thay thế việc gieo trồng Robusta bằng Arabica ở những vùng
thích hợp. Tuy dòng cà phê Arabica cho sản lượng thấp hơn nhưng nếu tính cùng số
lượng thì lợi nhuận thu được gấp đôi so với Robusta.
Tuy nhiên, việc trồng cà phê hiện nay còn tồn tại nhiều bất cập, không bền
vững:
-Xâm hại nghiêm trọng tới diện tích rừng, lấy đất rừng để trồng cà phê, hủy hoại
môi trường tự nhiên.
-Đất trồng cà phê không đủ tiêu chuẩn, đất nghèo dinh dưỡng, tầng mỏng, đất
dốc. Các quy trình kỹ thuật trồng và chăm sóc cà phê không được tuân thủ ngjiêm
Page 19
ngặt từ khai hoang làm đất, cây trồng xen che phủ, bảo vệ và cải tạo đất, cây che
bóng, đai rừng, công trình chống xói mòn và rửa trôi đều đã bị bỏ qua. Cà phê Việt
Nam thường bị đánh chất lượng kém hơn, bị mua với giá thấp so với giá sàn ở
London (thường kém từ 30 – 100 USD/tấn).
-Không có hoặc thiếu nguồn nước tưới. Trong khi 90% trong số 10 triệu ha cà
phê ở 75 quốc gia không hề phải tưới nước, cây sống được hàng trăm năm nhưng ở
Việt Nam, hơn 95% diện tích cà phê phải chăm bón kỹ, tưới đều mới ra trái tốt.
-Cơ sở hạ tầng không đủ (đường giao thông, công trình thủy lợi, sân phơi, máy
móc thiết bị, kho tàng phục vụ cho chế biến và bảo quản sản phẩm). Hơn nữa, 3
năm qua, ngành cà phê Việt Nam gặp nhiều khó khăn vì sản xuất thiếu tập trung,
90% các vườn cà phê là hộ cá thể, diện tích từ 2 ha trở xuống nên việc đưa tiến bộ
khoa học kỹ thuật, đầu tư chế biến nâng cao chất lượng từ thu hoạch đến chế biến
chưa làm được.
-Bản đồ cà phê Việt Nam chủ yếu trải dài tại 5 tỉnh Tây Nguyên (Đắk Lắk, Đắk
Nông, Gia Lai, Kontum và Lâm Đồng). Trong đó có đến 20 – 25% trong số 620
ngàn ha cà phê hiện có là những gốc già cỗi, cần thay mới. Diện tích cà phê già cỗi
cho năng suất thấp chiếm đến 30% diện tích của cả nước khiến cho sản lượng cà

phê sụt giảm 15%. Sản xuất cà phê bao nhiêu năm nay vẫn ở thế “tận thu” nên diện
tích cà phê già cỗi ngày một lớn. Cụ thể, theo Viện Khoa học kỹ thuật nông lâm
nghiệp Tây Nguyên, khoảng 88% diện tích cà phê bị chết sau khi được nông dân
trồng lại trên nền diện tích cà phê già cỗi sau một đến hai năm vì tuyến trùng gây
chết cây cà phê.
-Môi trường tự nhiên bị suy thoái, nguồn nước ngầm bị cạn kiệt, khí hậu thay
đổi (nhiệt độ, gió, độ ẩm ). Biến đổi khí hậu toàn cầu gây thời tiết bất thường cũng
khiến tình hình dịch bệnh trên các diện tích cà phê diễn biến phức tạp hơn. Theo
thống kê của Cục Trồng trọt (Bộ NNPTNT), tình trạng hạn hán kéo dài năm 2013
khiến khoảng 5.000 ha cà phê bị mất trắng và khoảng 4.000 ha khác bị ảnh hưởng
nghiêm trọng. Do hạn hán kéo dài hồi đầu năm 2013 đã khiến khoảng 5.000 ha cà
phê bị mất trắng và khoảng 40.000 ha cà phê bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Thêm vào
đó, bệnh gỉ sắt phát triển gây ảnh hưởng tại một số huyện của tỉnh Lâm Đồng. Mưa
Page 20
đá xảy ra trong tháng 6 khiến cho quả cà phê non bị rụng, đồng thời cà phê bị gãy
cành, dập lá khiến cây bị yếu đi.
2.1.4 Môi trường văn hoá - xã hội:
Việt Nam đã trở thành nước đứng thứ 2 trên thế giới về xuất khẩu cà phê, sản
xuất từ 800.000 đến 1 triệu tấn cà phê mỗi năm nhưng chỉ tiêu thụ 10% số lượng
này. Số còn lại được xuất khẩu ra thế giới, chủ yếu là các nhà sản xuất cà phê hòa
tan nổi tiếng.
Ngay từ khi xuất hiện ở Việt Nam từ cuối thế kỉ 17, đầu thế kỉ 18, cà phê ngay
lập tức chiếm được tình cảm của người dân bản xứ và phát triển thành nét văn hóa
cà phê phin đặc trưng như ngày nay. Từ Bắc tới Nam, phin cà phê xuất hiện trên
chiếc bàn xinh xắn của người Việt như thức uống mở đầu ngày mới, có khi lại là đồ
uống giải sầu ban đêm cho những ai thức khuya, nhạt miệng. Đặc biệt hình ảnh phin
cà phê trên các quán nước vỉa hè đã làm nên dấu ấn cho một nền văn hóa ẩm thực
đường phố vừa giản dị, gần gũi mà vẫn vô cùng tinh tế. Với hơn 150 năm thừa
hưởng văn hóa cà phê, dân thưởng thức cà phê sành điệu Việt Nam đã và đang đưa
cà phê lên một tầm cao mới, đẳng cấp và tinh tế hơn. Họ ngồi tán gẫu, nhìn những

giọt cà phê đậm đà rơi, sự chọn lựa duy nhất còn lại chỉ là việc thêm đá, sữa đặc,
hay cả hai.
Chính vì những gu cà phê khác biệt, ưa chuộng sự đậm đà nên đa số các sản
phẩm cà phê đến từ phương Tây thường ít được ưa chuộng tại thị trường Việt Nam.
Phong cách thưởng thức cà phê giản dị, rẻ tiền cũng là một rào cản cho những sản
phẩm cà phê cao cấp và sang trọng. Cà phê với giá cả hợp túi tiền của đại bộ phận
người dân trong không gian vỉa hè thú vị thật sự là đối thủ cạnh tranh đáng gờm của
tách cà phê đắt đỏ trong không gian sang trọng của các quán cà phê phong cách Tây
phương. Đây cũng chính là lợi thế cho những cơ sở sản xuất cà phê Việt. Việc am
hiểu gu cà phê của người Việt, sản phẩm lại mang thương hiệu Việt là hai gia tài vô
giá và cũng là chìa khoá thành công của cà phê Việt trước những sự tấn công của
các đại gia đến từ nước ngoài.
2.1.5. Môi trường dân số:
Page 21
Theo số liệu công bố chính thức của Tổng cục Thống kê, vào ngày 1/11/2013
Việt Nam đã đón chào công dân thứ 90 triệu chào đời. Như vậy, theo dự đoán thì
dân số trung bình của năm 2015 sẽ vào khoảng dưới 91,5 triệu người. Hiện nay, dân
số Việt Nam đã cán mốc 90 triệu người, trong đó dân số thành thị chiếm 32,3% và
dân số nam là 49,5% tổng dân số. Với quy mô dân số này, Việt Nam hiện đứng thứ
3 khu vực Đông Nam Á và thứ 14 trên thế giới.
Dân số Việt Nam đang trong giai đoạn “cơ cấu dân số vàng”. Giai đoạn này sẽ
kéo dài trong khoảng 30 – 35 năm. Cơ cấu dân số vàng có nghĩa là ít nhất có 2
người trong tuổi lao động “nuôi” 1 người trong độ tuổi phụ thuộc. Như vậy, với hơn
62 triệu người (chiếm 69% dân số) đang ở độ tuổi lao động thì lực lượng lao động
trong tương lai vẫn còn rất dồi dào, nguồn nhân lực ổn định. Đồng thời, đây cũng là
một thị trường nội địa rộng lớn, đầy tiềm năng và hấp dẫn. Đó là những cơ hội lớn
cho doanh nghiệp nói chung và của ngành cà phê Việt Nam nói riêng trong việc
phát triển và mở rộng sản xuất kinh doanh.
Tuy nhiên, mặc dù đang ở thời kỳ cơ cấu dân số vàng nhưng chất lượng nguồn
nhân lực và chất lượng dân số còn hạn chế. Tốc độ tăng nhanh của dân số trong độ

tuổi lao động sẽ trở thành gánh nặng nếu tỷ lệ thất nghiệp cao và năng suất lao động
thấp. Theo số liệu thu thập năm 2013, trong tổng số 49,5 triệu lao động chỉ có 7,2
triệu người đã qua đào tạo nghề, chiếm 14,6% tổng số lao động từ 15 tuổi trở lên
của cả nước. Tỷ lệ lao động đã qua đào tạo thấp là một trong những khó khăn cho
doanh nghiệp khi tiến hành đổi mới kỹ thuật, công nghệ để nâng cao năng suất và
chất lượng sản phẩm. Nhất là khi yêu cầu đổi mới công nghệ ngày càng gay gắt
trong xu thế hội nhập toàn cầu.
Theo thống kê của Bộ Xây dựng, trong năm 2013 tỷ lệ đô thị hóa khoảng trên
33,47%. Tầng lớp trung lưu có thu nhập khá và cao tăng trưởng nhanh. Đô thị vẫn
là phân khúc thị trường chính của nhóm cà phê đã chế biến. Vì vậy, phát triển đô thị
cũng đồng nghĩa với việc mang khách hàng đến với cà phê chế biến nhiều hơn.
2.1.6. Môi trường công nghệ
Cà phê là một trong những mặt hàng nông sản xuất khẩu có giá trị lớn. Tuy
nhiên, Việt Nam vẫn xuất khẩu cà phê thô là chủ yếu, cà phê thành phẩm vẫn còn
Page 22
hạn chế. Chỉ có một vài doanh nghiệp có khả năng đầu tư và phát triển các thương
hiệu cà phê thành phẩm. Yếu tố công nghệ cũng là một phần của lý do vì sao cà phê
Việt Nam được thừa nhận có hương vị đậm đà, thơm ngon, có chất lượng cảm quan
tốt, nhưng giá bán thấp, thấp nhất so với cà phê cùng loại của các nước trong khu
vực.
Để có một sản phẩm cà phê thành phẩm đạt chất lượng thì đòi hỏi phải có một
quy trình chặt chẽ và đồng nhất từ khâu trồng trọt đến khâu chế biến. Quy trình này
gắn liền và có liên quan với một loạt công nghệ khác nhau.
Muốn cây cà phê cho năng suất cao, chất lượng hạt cà phê được đồng nhất thì
khâu gieo trồng, tưới tiêu, chăm sóc, bón phân, trừ sâu bệnh phải được kiểm soát
chặt chẽ bằng những quy trình và công nghệ tiến tiến. Doanh nghiệp và người nông
dân phải tiếp thu và ứng dụng những công nghệ mới trong các lĩnh vực trồng trọt,
phân bón, sinh học và lai tạo giống. Đến khâu thu hái, sơ chế và bảo quản cũng đòi
hỏi những công nghệ để giữ gìn chất lượng hạt cà phê. Sau khi về đến nhà máy, cà
phê phải trải qua các khâu rang sấy, tẩm ướp hay pha trộn để cho ra thành phẩm.

Tất cả các công đoạn trên đều liên quan đến công nghệ và kỹ thuật.
Trong thời đại bùng nổ của công nghệ, áp lực thay đổi và cải tiến công nghệ
càng ngày càng trở thành một sức ép không nhỏ đến doanh nghiệp và cà phê không
phải là một ngoại lệ. Công nghệ lai tạo giống, canh tác, thu hái và bảo quản đang
ngày càng phát triển. Công nghệ chế biến cà phê sạch và các quy trình quản lý cũng
ngày càng đổi mới. Doanh nghiệp muốn tồn tại, tăng lợi thế cạnh tranh thì bắt buộc
phải thay đổi và áp dụng những công nghệ và kỹ thuật tiên tiến để nâng cao giá trị
sản phẩm và năng lực quản lý. Đây là một điểm yếu của các công ty cà phê Việt
Nam vì công nghệ của nước ta đã lạc hậu rất nhiều so với thế giới. Trước sự tấn
công của các đối thủ mới đến từ những nước tiên tiến thì doanh nghiệp Việt rất khó
trụ vững nếu không nỗ lực đổi mới. Tuy nhiên, đây đều là những công nghệ có tốc
độ thay đổi thấp nên không có áp lực phải chạy theo công nghệ một cách liên tục.
Chi phí đầu tư cho những thay đổi này là một bài toán khó cho tất cả các doanh
nghiệp Việt Nam hiện nay. Bởi vì không phải bất kỳ doanh nghiệp nào cũng có thể
tự xây dựng được một quy trình sàn xuất và chế biến đồng bộ từ khâu nguyên liệu
Page 23
đến khâu thành phẩm. Nhưng nếu muốn tồn tại và phát triển bền vững thì các doanh
nghiệp Việt bắt buộc phải thay đổi triệt để.
2.1.7. Môi trường quốc tế
Giá trị thị trường của ngành cà phê bán lẻ trên thế giới ước tính khoảng 70.68
tỷ đô la (năm 2011) (Euromonitor). So với thị trường cà phê nguyên liệu thì giá trị
cà phê rang xay thành phẩm cao hơn gấp 9 hoặc 10 lần, nâng tổng giá trị giao dịch
cà phê thành phẩm lên tới trên 100 tỷ USD hàng năm. Thị trường này bị thao túng
bởi các đại gia như Nestlé (Thụy Sĩ ), D.E Master Blenders 1753 (tách ra từ Sara
Lee) (Mỹ), Mondelēz International (lúc trước là Kraft food Global) (Mỹ ), J.M
Smucker (Mỹ ) và Tchibo (Đức).
Năm 2012, ba nhóm công ty lớn nhất (Nestlé và Mondelēz International và
D.E Master Blenders 1753) kiểm soát 70% thị trường cà phê bán lẻ ở Anh. Nhóm 5
nhóm công ty đứng đầu kiểm soát hơn 50% thị trường. Nestlé thống trị thị trường
cà phê hòa tan với mức thị phần trên 50%.

Trong hệ thống bán lẻ, hệ số lãi của sản phẩm cà phê truyền thống (Main
stream coffee) thấp hơn hệ số lãi của cà phê cao cấp (Speciality coffee). Các thương
hiệu riêng của hệ thống chuỗi cửa hàng bán lẻ vẫn chưa thâm nhập được vào phân
khúc cà phê cao cấp (Speciality coffee). Các “thương hiệu cà phê chất lượng cao”
như Starbucks, Illy thống trị phân khúc cao cấp trong hệ thống cửa hàng bán lẻ.
Thị trường RTD (Ready-To-Drink) của trà và cà phê thế giới ước tính vào
khoảng 69 tỷ đô la (năm 2011), dự đoán tốc độ tăng trưởng hàng năm là 10,9% từ
năm 2012 – 2017 (theo MarketsandMarkets).
Mặt bằng thuế đánh vào cà phê là tương đối thấp, từ 0 – 8%. Tuy nhiên, rào
cản thương mại tại các thị trường lớn vẫn là một thách thức đối với các sản phẩm
của Việt Nam. Đặc biệt là các rào cản kỹ thuật. Với trình độ kỹ thuật lạc hậu của đại
đa số doanh nghiệp Việt hiện nay thì muốn vào những thị trường khó tính này là
điều không thể.
Nhìn chung, thị trường cà phê thế giới vẫn đầy tiềm năng và hấp dẫn. Cà phê
Việt với những giá trị khác biệt vẫn đang có cơ hội hoà nhập vào thị trường chung
đầy sôi động này
Page 24
2.2 PHÂN TÍCH MÔI TRƯỜNG VI MÔ:
Thị trường bán lẻ cà phê Việt Nam đã đạt 127,33 triệu USD trong năm 2008
và tăng lên khoảng 287,34 triệu USD năm 2012. Mintel dự đoán sẽ tăng đến 573,75
triệu USD vào năm 2016.
Thị trường cà phê Việt Nam được chia thành 2 phân khúc rõ ràng. Cà phê
rang xay (cà phê phin) chiếm khoảng 2/3 lượng cà phê được tiêu thụ; còn lại là cà
phê hòa tan. Theo nghiên cứu của Học viện Marketing Ứng dụng I.A.M về thói
quen sử dụng cà phê, 65% người tiêu dùng có sử dụng cà phê Việt Nam uống cà
phê 7 lần/tuần, nghiêng về nam giới (59%). Riêng cà phê hòa tan có 21% người tiêu
dùng sử dụng cà phê hòa tan từ 3 đến 4 lần trong tuần, nghiêng về nhóm người tiêu
dùng là nữ (52%).
Sức tiêu thụ cà phê Việt Nam còn khá thấp Việt Nam sử dụng chừng 5% cà
phê thô để chế biến, trong khi đó tỷ lệ này của Brazil là 50%. Việt Nam có 5 nhãn

hiệu cà phê hòa tan, Brazil có 20 nhãn hiệu. Về cà phê rang xay, thì Việt Nam có 20
nhãn hiệu, trong khi đó số lượng của Brazil là 3.000 nhãn hiệu.
Theo số liệu của Bộ nông nghiệp Hoa Kì (USDA) lượng cà phê hòa tan xuất
khẩu của Việt Nam niên vụ 2011-2012 là 21.600 tấn. Năm 2012, doanh thu của
Trung Nguyên từ việc xuất khẩu cà phê sang thị trường Trung Quốc là 50 triệu đô
la. Doanh thu xuất khẩu cà phê hòa tan của Vinacafé Biên Hòa chiếm 8 – 10%
doanh thu hằng năm, chủ yếu tập trung ở 2 thị trường Mỹ chiếm 85% thị phần xuất
khẩu và còn Hồng Kông, Đài Loan, Trung Quốc chiếm 15%.
Cũng theo số liệu của USDA lượng cà phê hòa tan nhập khẩu của Việt Nam
niên vụ 2011 – 2012 là 6000 tấn. Hàng năm, Vinacafé Biên Hòa phải nhập khẩu cà
phê hòa tan bán thành phẩm từ Indonesia để phục vụ cho việc sản xuất cà phê hòa
tan. Vì công suất hiện tại của Vinacafé Biên Hòa chỉ đáp ứng được 50% nhu cầu
nguyên liệu cà phê hòa tan cho việc sản xuất.
Xu hướng mới cho ngành cà phê Việt Nam:
Mỹ tiếp tục là thị trường xuất khẩu lớn của các doanh nghiệp xuất khẩu cà
phê nhân của Việt Nam. Tổng tiêu thụ robusta ở Mỹ đã tăng 7% trong năm 2012,
sau khi tăng 3,9% trong năm 2011 và 3,6% năm 2010 (theo StudyLogic). Trong khi
Page 25

×