Tải bản đầy đủ (.pdf) (42 trang)

bài viết về văn hóa chămpa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.39 MB, 42 trang )


5

MỤC LỤC
Lời mở đầu 7

P
P
H
H


N
N


I
I Sơ lược về việc nghiên cứu Champa 9

I. Trước 1954 11

II. Từ 1954 đến 1975 13

III. Từ sau năm 1975 14

P
P
H
H



N
N


I
I
I
I Nhận diện cổ vương quốc Champa 15

CHƯƠNG 1 Các vấn đề chung 17

I. Sử liệu 17

II. Danh xưng 17

1)

Chăm 17

2)

Hoa Champa 18

2.1)

Hoa sứ 18

2.2)

Hoa ngọc lan 18


3)

Địa danh Champa 19

4)

“Chiêm Bà” 19

5)

“Chiêm Thành” 19

6)

“Chàm” 20

7)

“Hời”, “Lồi” 20

III. Sự ảnh hưởng của văn hóa cổ Ấn Độ đến Champa 20

1)

Tôn giáo 20

2)

Sự phân chia đẳng cấp 21


3)

Chữ viết và văn học cổ 22

3.1)

Chữ Phạn (Sanskrit) 23

3.2)

Chữ Chăm cổ 23

3.3)

Văn học cổ Champa 23

4)

Lịch pháp 23

5)

Âm nhạc và múa 24

5.1)

Nhạc cụ 25

5.2)


Vũ điệu 26

6)

Quy tắc tổ chức chính trị 29

7)

Phong tục tập quán 30

IV. Người Champa 30

1)

Các truyền thuyết về sự hình thành tộc người 30

1.1)

Truyền thuyết về Kaudinay và Soma 30

1.2)

Truyền thuyết về Quốc Mẫu 30

1.3)

Truyền thuyết về hai dòng vương tôn 30

2)


Nguồn gốc dân tộc Chăm 31

2.1)

Nhận diện các sắc tộc bản địa sinh sống ở duyên hải miền Trung và
đông Trường Sơn 31



6

2.2)

Cộng đồng Austronesian và việc có mặt tại lãnh thổ Việt Nam ngày
nay 32

CHƯƠNG 2 Cấu trúc cổ vương quốc 35

I. Địa bàn 35

II. Đặc điểm địa hình vùng đồng bằng duyên hải miền Trung 35

III. Hệ thống giao thương dọc theo các con sông 35

1)

Nam Hà Tĩnh 36

2)


Quảng Bình 36

3)

Quảng Trị 36

4)

Thừa Thiên - Huế 36

5)

Quảng Nam – Đà Nẵng 37

6)

Quảng Ngãi 37

7)

Bình Định 37

8)

Phú Yên 38

9)

Khánh Hòa 38


10)

Ninh Thuận 38

11)

Bình Thuận 38

12)

Bà Rịa 38

IV. Thể chế chính trị nhà nước Champa – mô hình mandala 38

V. Mô hình một nagara 40

VI. Các vùng lãnh thổ 40

1)

Bắc Hoành Sơn 40

2)

Traik 41

3)

Jriy 41


4)

Vvyar và Ulik 41

5)

Amaravati 43

6)

Vijaya 44

7)

Aryaru 44

8)

Kauthara 44

9)

Panduranga 44

10)

Nam Bình Thuận 45

P

P
H
H


N
N


I
I
I
I
I
I Phụ lục 45

I. Danh mục các bài đọc thêm 45

II. Tài liệu tham khảo 45


7


Lời mở đầu
Champa là một cổ vương quốc hùng mạnh trong quá khứ với một nền văn hóa
rực rỡ những đã dần tàn lụi theo thời gian cùng với những công trình đền tháp kỳ bí. Tài
liệu khoa học nghiên cứu về cổ vương quốc Champa (quá khứ) và văn hóa dân tộc Chăm
(hiện tại) tuy có thể xem là một kho tàng đồ sộ nếu tính về số lượng, nhưng vẫn còn
nhiều vấn đề chưa được sáng tỏ để rồi nảy sinh nhiều bất đồng của các nhà nghiên cứu

trong cùng ngành lẫn khác ngành; và do quan điểm chính trị, xã hội khác nhau mà có lúc
dẫn đến đối đầu gay gắt. Một trong những nguyên nhân chính là do hiện nay chưa tìm
thấy nguồn sử liệu chính thống của cổ vương quốc Champa, các nhà nghiên cứu phải dựa
trên ba nguồn tư liệu chính là bia ký (của Champa và Angkor, mà phần lớn đều không có
niên đại chính xác), các ghi chép đến từ bên ngoài Champa (châu Âu, Ấn Độ, Ả Rập và
nhất là của Đại Việt và Trung Hoa – nhưng chúng rất rời rạc và mơ hồ) và các nghiên
cứu khảo cổ học.
Di sản của cổ vương quốc Champa và bản sắc văn hóa dân tộc Chăm là nội dung
du lịch đa dạng, phong phú và hấp dẫn du khách trong nước lẫn ngoài nước, cả hai được
kết hợp có thể tạo nên những sản phẩm du lịch độc đáo của ngành du lịch Việt Nam.
Nhưng đây là một nội dung rất “chăm”, một chủ đề không dễ “nuốt” ngay cả đối với
những người hành nghề du lịch dày dạn kinh nghiệm nếu như họ không phải là “chuyên
gia” về khảo cổ, lịch sử, văn hóa, … hay ngay cả thuyết minh viên chuyên môn tại điểm.
Bài viết này giới thiệu những cách nhìn về cổ vương quốc Champa để phục vụ
cho công tác nghiệp vụ du lịch mà không đi sâu vào các kiến thức chuyên môn của ngành
dân tộc học, xã hội học, khảo cổ học, sử học, ngôn ngữ học hay bất cứ chuyên ngành nào
khác.
Với những khó khăn, giới hạn trên, chắc không tránh khỏi những sai sót trong bài
viết này, rất mong nhận được sự phê bình, chỉ bảo cùng sự góp ý của đồng nghiệp và các
bạn.
Nguyễn Quang Toản



8


Tài liệu lưu hành nội bộ.
Mọi sự trích dẫn xin vui lòng ghi rõ nguồn.
Thông tin xin gởi về:


9

P
P
H
H


N
N


I
I


Sơ lược về việc nghiên cứu Champa


11

Từ trước thời hiện đại đã có những ghi chép, nghiên cứu về Champa. Có thể
chia lịch sử nghiên cứu Champa làm bốn giai đoạn cơ bản
1
:
1. Giai đoạn 1 với những ghi chép của các tác giả trước thời Pháp thuộc.
2. Giai đoạn 2 với những nghiên cứu dưới thời Pháp thuộc cho đến 1945.
3. Giai đoạn từ 1945 – 1975.
4. Giai đoạn sau 1975.

Tiểu luận này chỉ giới thiệu quá trình nghiên cứu về Champa từ các nghiên cứu
gần đây của người Pháp cho đến hiện nay. Quá trình được chia làm ba giai đoạn:
1. Giai đoạn trước 1954 là giai đoạn “mở màng”, với nhiều công trình nghiên cứu
của hầu hết các tác giả người Pháp đã đạt được nhiều thành tựu lớn, tuy chưa toàn diện và
nhiều phần nghiêng về lãnh vực khảo cổ học – nghệ thuật. Những thành tựu này đã trở
thành những nền tảng mang tính kinh điển cho toàn bộ quá trình nghiên cứu về Champa
về sau.
2. Giai đoạn từ 1954 đến 1975 là giai đoạn “chậm” của quá trình nghiên cứu và
từ đây đã xuất hiện các công trình nghiên cứu của một số tác giả trong nước.
3. Giai đoạn sau 1975 đến nay là giai đoạn “phục hưng”, các tác giả đã kế thừa
và khai thác thành quả của các giai đoạn trước; mặt khác đã mở rộng hơn phạm vi và đối
tượng nghiên cứu với một số phát hiện mới có ý nghĩa khoa học nhất định. Giai đoạn này
đã mở ra triển vọng lớn hướng tới việc nghiên cứu toàn hiện hơn, đầy đủ và sâu sắc hơn
về lịch sử văn hóa vật chất – tinh thần Champa xưa
2
.
I.
Trước 1954
Khoản thời gian này hầu hết các tác giả nghiên cứu về Champa đều là người
Pháp. Theo Pierre Bernard Lafont
3
:


1
Lê Công Tâm, Văn hóa Champa trong Giáo trình Các nền văn hóa cổ ở Việt Nam, tài liệu lưu hành nội
bộ, trường Đại học KHXH&NV Tp.HCM năm 2010, tr.2.
2
Lê Công Tâm, sđd, tr.6.
3

Pierre Bernard Lafont, Research on Champa and its Evolution đăng trong sách Proceedings of the
Seminar on Champa, gồm những bài thuyết trình trong cuộc hội thảo quốc tế về Champa tại đại học Copenhagen
(Đan Mạch) ngày 23-5-1987, tr. 1- 4, nguồn sách The Refugee Educators' Network, Inc. Xem bằng tiếng Việt tại :
- Ngô Văn Doanh [1], Văn Hóa Cổ Champa, NXB Văn hóa Dân tộc 2002, tr. 7 – 22.
- Phan Quốc Anh, Nghi lễ vòng đời của người Chăm Ahiêr, website PhanQuocAnh.com
- Thành Phần (Dharbhan Po Dam), Vấn đề nghiên cứu Chăm ở Việt Nam, trang thông tin điện tử của
trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn thành phố Hồ Chí Minh.


12

1. Việc nghiên cứu của các nhà khoa học về Champa bắt đầu từ giữa thế kỷ XIX.
Đầu tiên là một công trình của J.Crawford năm 1852 về ngôn ngữ học. Sau đó còn có các
nhà ngôn ngữ học khác cũng có những công trình nghiên cứu về ngôn ngữ và dân tộc
Chăm như A. Bastian, A. Morice, K.F. Holle.
2. Từ năm 1880 đến hết thế kỷ XIX, có nhiều ấn phẩm hơn giới thiệu các công
trình nghiên cứu về Champa cổ và người Chăm với các tác giả: A. Labussière, E.
Aymonier, Neis và Septfons, L. P. Lesserteur, J. Moura, A. Landes, Lamire, C. Paris …
Đáng chú ý, vào năm 1889 A. Bergaigne đã công bố công trình nghiên cứu đầu tiên về
lịch sử Champa thông qua văn khắc cổ (bia ký).
- Ngoài những người Pháp vừa kể, còn có các nhà nghiên cứu nước ngoài khác
như H. Kern, G. K. Niemann (Hà Lan), E. Kuhn (Đức), C. O. Blagden (Anh) với những
nghiên cứu trực tiếp hay gián tiếp.
3. Đầu thế kỷ XX đã xuất hiện nhiều nghiên cứu quan trọng về Champa của các
tác giả W. Schmidt, E. M. Durand, L. Cadière, E. Huber, G. Coedès, H. Maspéro, … Có
thể kể:
- L. Finot công bố danh mục thống kê về các đền đài và công trình nghiên cứu về
tôn giáo của Champa cổ vào năm 1901.
- H. Parmentier đã điều tra và miêu tả các đền đài, các kho báu của các vị vua và
báo cáo kết quả các cuộc khai quật tại vị trí các đô thị Champa cổ. Hai công trình có giá

trị nhất của ông khi đề cập đến những hiện vật điêu khắc cổ Champa là “Thống kê khảo
tả các di tích Chăm ở An-nam” và “Danh mục bảo tàng Chăm Đà Nẳng”
4
. Nhờ vào các
thống kê miêu tả của ông (được công bố tập 1 vào năm 1909, tập 2 vào năm 1918), mà
hiện nay người ta còn có thể hình dung diện mạo của các di tích vào đầu thế kỷ XX nay
đã bị hư hỏng, hoặc sụp đổ, hay biến mất hoàn toàn. H. Parmentier còn là người có công
trong việc lập ra Bảo tàng điêu khắc Chăm ở Đà Nẵng năm 1919.
- A. Cabaton công bố báo cáo đầu tiên về văn học Chăm và một quyển sách về
dân tộc học; dù được xuất bản năm 1901 nhưng công trình vẫn là tài liệu tham khảo tốt.
Đến năm 1906, ông đã cùng với E. Aymonier xuất bản “Từ điển Pháp – Chăm” được
xem là công trình cơ bản để hiểu về ngôn ngữ Chăm.
- G. Maspéro xuất bản quyển “Vương quốc Champa” năm 1911 và tái bản vào
năm 1928 có sửa chữa, công trình chủ yếu về lịch sử Champa thông qua nghiên cứu các
sử liệu của Trung Quốc. Tác phẩm này đến năm 1988 tái bản tại Paris có đoạn viết “cuốn
Vương quốc Champa trở thành một tác phẩm cần thiết và không thay thế được…”
5

4. Khoảng thời gian 1915 – 1920, số lượng ấn phẩm về Champa giảm đi một
cách rõ rệt do những nhà nghiên cứu Champa tiên phong đã qua đời và do sự hấp dẫn của
việc nghiên cứu thế giới người Khơ-me, người Việt và người Thái.
5. Từ 1920 đến Thế chiến II, có công trình của các tác giả A. Sallet, P. Ravaisse
6
,
E. D. K. Bosch, P. Mus, H. Baudesson, Nguyễn Văn Tố, J. Y. Claeys, R. C. Majunda, K.


4
Ngô Văn Doanh [1], tr. 293.
5

Tuy vậy, theo Lương Ninh [1], Vương Quốc Champa, NXB Ðại học Quốc gia Hà Nội – 2004, tr.05,
quyển sách này “quá xưa cũ, cả về tài liệu và quan niệm”.
6
Năm 1922, P. Ravaisse giới thiệu hai văn bia chữ Ả Rập được cho là có niên đại 1025 ~ 1035 và 1039,
được khám phá vào năm 1902 và 1907 tại một “điểm không xa bờ biển An-nam bởi hai sĩ quan hải quân Pháp mà
ông không nhớ tên”. Nội dung văn bia minh chứng cho sự tồn tại của cộng đồng Hồi giáo ở Champa vào thế kỷ X.
L.Finot đã nghi ngờ về tính chân thực của chúng.

13

A. Nilakanta Sastri, E. D. Edwards và C. O. Blagden, G. Coedès, L. Aurousseau, Nguyễn
Thiệu Lâu … Có thể kể một số công trình :
- “Các thuộc địa Ấn Độ cổ đại ở Viễn Đông, Champa” mô tả lịch sử và tôn giáo
Chăm của R. Majumdar xuất bản năm 1927
7
.
- Về nghệ thuật, vào năm 1942 P. Stern đã làm cuộc cách mạng quan trọng trong
việc nghiên cứu nghệ thuật cổ Champa. Trên cơ sở của H. Parmentier (chia lịch sử nghệ
thuật cổ Champa làm hai thời kỳ), Stern đã xếp lịch sử hình thành và phát triển nghệ
thuật tuần tự theo sáu phong cách
8
.
6. Sau Thế chiến II có công trình của các tác giả P. Dupont, R. Linguat, J.
Boisselier … Có thể kể đến tác phẩm “Lâm Ấp” của R. Stein xuất bản năm 1947.
*
Những công trình nghiên cứu về Champa của những người Pháp trong thời kỳ
này tập trung nhiều nhất hiện nay ở Học viện Viễn Đông Pháp (EFEO - École Francaise
d’Extrême Orient) tại Paris. Đa số các công trình nói trên chưa xuất bản ở Việt Nam. Các
công trình nghiên cứu của họ được đánh giá cao, nhất là những công trình nghiên cứu văn
hóa vật thể như kiến trúc, điêu khắc, bia ký; đó là những tư liệu vô cùng quý giá trong

việc bảo tồn, trùng tu di tích văn hóa vật thể lẫn phi vật thể.
II.
Từ 1954 đến 1975
Thời gian này, các nhà khoa học ngoại quốc ít có điều kiện nghiên cứu và không
ít di tích kiến trúc Champa còn bị tàn phá, hủy hoại do chiến tranh Việt Nam. Các nhà
nghiên cứu có J. Boisselier, R. Linguat, P.Y. Manguin, Carl Heffley … Có thể kể :
- Năm 1968, H. Moussay cho thành lập Trung tâm Văn hóa Chàm tại Phan Rang
và cho xuất bản “Từ điển Chăm – Việt – Pháp” năm 1971 (cùng các cộng sự Việt Nam
như Thiên Sanh Cảnh, Nguyễn Văn Mạnh, Trương Năng Tốn, Đàm Năng Phương, …
9
)
- Cùng năm, G. Coedès có “Các vương quốc Ấn hóa ở Đông Nam Á”.
- Năm 1973, Manguin công bố một nghiên cứu về các tuyến đường biển và quan
hệ thương mại giữa Việt Nam và Champa trong thế kỷ XIV – XVII.
Trong nước có các tác giả Nghiêm Thẩm, Nguyễn Khắc Ngữ, Nguyễn Văn Luận,
Nguyễn Bạt Tụy, Thái Văn Kiểm, Dohamide và Dorohiêm, Nguyễn Đình Tư … với
những công trình nghiên cứu chủ yếu về người Chăm và văn hóa Chăm đương đại, trong
một chừng mực nhất định, đã có những đóng góp quý báu vào kho tàng tư liệu khoa học
nghiên cứu về Champa ; tuy vậy vẫn có hạn chế lớn là chưa có những nghiên cứu chuyên
sâu
10
.
Cũng cần ghi nhận các cuộc khảo sát của Viện Khảo cổ Sài gòn thực hiện trong
thập niên 60, đáng chú ý là cuộc truy tìm kho báu của người Chăm, Churu ở Ninh Thuận,
Quảng Đức, v.v…
11


7
Theo Lê Công Tâm, sđd thì năm 1927, Majeandar, R.C, xuất bản “Champa: History and culture of an

Indian Kingdom on the Far – East, 2
nd
– 16
th
centuries AD”
8
Thế nhưng, bảng niên đại và phong cách nghệ thuật Champa của P. Stern cũng như của H. Parmentier
về thực chất là niên đại và phong cách của nghệ thuật kiến trúc đền tháp Chăm mà thôi.
9
Lê Công Tâm, sđd, tr.3.
10
Phan Quốc Anh, sđd.
11
Lê Công Tâm, sđđ, tr.4.


14

III.
Từ sau năm 1975
Chiến tranh Việt Nam chấm dứt đã tạo điều kiện tốt hơn cho việc nghiên cứu
Champa, cả trong nước lẫn hải ngoại. Ở hải ngoại, nhiều hoạt động học thuật quốc tế
được diễn ra tại Đan Mạch, Malaysia, Pháp, Hoa Kỳ… Nhiều tổ chức nghiên cứu như
Học viện Viễn Đông Pháp, Quỹ quốc tế tài trợ Văn hóa và Nghệ thuật Champa (Canada),
Trung tâm Nghiên cứu Văn hóa – Xã hội Champa (Đan Mạch), Trung tâm Quốc tế về
Champa (Hoa Kỳ), … và nhiều cơ sở khác ở Nhật, Indonesia, Singapore… Đặc biệt là
Malaysia gần đây đã bắt đầu quan tâm nghiên cứu về Chăm và cho xuất bản nhiều công
trình có giá trị.
Trong nước đã xuất hiện nhiều tổ chức, cá nhân nghiên cứu Champa trong nhiều
lĩnh vực đa dạng như dân tộc học, xã hội học, khảo cổ học, văn hóa, lịch sử… tuy chưa

hình thành bộ môn “Champa học” nhưng nội dung về Champa đã được đưa vào nghiên
cứu, giảng dạy ở nhiều trường đại học. Thời gian gần đây có khá nhiều sinh viên và
nghiên cứu sinh chọn đề tài liên quan đến Champa để bảo vệ luận án đại học và trên đại
học.
Có thể kể một số nhà nghiên cứu nổi bật : Po Dharma, Nguyễn Văn Huy (Paris),
Inrasara, Lương Ninh, Trần Kỳ Phương, Ngô Văn Doanh, Cao Xuân Phổ… (Việt Nam).
Cần phải kể đến những thu hoạch mới quan trọng trong lĩnh vực khảo cổ học, đó
là việc phát hiện thêm nhiều di tích kiến trúc Champa và đặc biệt là nhiều loại hình mới
được khảo cứu (thành quách, giếng nước, lò nung gốm sứ, di chỉ cư trú …), nhiều vấn đề
khoa học mới được nêu ra (văn hóa tiền Champa – Champa, văn hóa Champa – Angkor,
Champa – thế giới hải đảo, …)
12

*
Hiện nay việc nghiên cứu Champa tập trung ở hai lĩnh vực lớn là Dân tộc học và
Khảo cổ học. Các nhà nghiên cứu cũng đang đi sâu tiếp vào những vấn đề về lịch sử và
ngôn ngữ Chăm
13
. Tuy đội ngũ nghiên cứu có đông đảo hơn, được đào tạo tốt hơn nhưng
vẫn còn gặp nhiều khó khăn, đặc biệt là khi tiếp cận, nghiên cứu về văn hóa cổ Champa.
Có nhiều nguyên do nhưng việc không còn nhà nghiên cứu hiện đại nào có thể đọc hay
giải mã được những bi ký viết bằng chữ Phạn (Sanskrit) cổ và chữ Chăm cổ là một yếu tố
đóng vai trò không nhỏ trong những khó khăn này.

12
Lê Công Tâm, sđđ, tr.5.
13
Đã có nhiều bất đồng nảy sinh từ các nhà nghiên cứu về ngôn ngữ Chăm. Từ 1966, chính thức người ta
xếp ngôn ngữ Chăm vào nhóm Malayo – Polynesian (Mã lai – Đa đảo) thuộc ngữ hệ Austronesian (Nam Đảo)
nhưng vẫn còn ý kiến bảo thủ cho là nhóm Môn – Khơ-me thuộc hệ Austroasiatic (Nam Á). Vẫn đang tranh cãi

ngôn ngữ này là đơn hay đa âm tiết (monosyllabic or disyllabic) và có thanh điệu hay không (tone language)! (Pierre
Bernard Lafont, sđd, tr.12-13.)

15


P
P
H
H


N
N


I
I
I
I


Nhận diện cổ vương quốc Champa


16



Là vương quốc tồn tại từ sau Công nguyên cho đến thế kỷ XV và biến mất hẳn từ

đầu thế kỷ XIX, Champa có lãnh thổ ở vùng đồng bằng duyên hải Trung bộ Việt Nam và
vùng rừng núi tiếp giáp ở phía tây dãy Trường Sơn, có lúc kéo dài đến tận Lào ngày nay.
Cổ vương quốc Champa có thể hình dung như một liên bang đa chủng tộc và đa văn hóa,
với nhiều nhóm sắc tộc nói tiếng Mã Lai – Đa Đảo (hệ Nam Đảo) và Môn – Khơ-me (hệ
Nam Á). Thần dân của vương quốc được gọi chung là người Champa. Sau này cộng
đồng người Champa đồng bằng chấp nhận danh xưng Chăm, và đồng hóa nguồn gốc
Nam Đảo của mình với nền văn minh và văn hóa của vương quốc để phân biệt với các
nhóm thần dân Champa khác như H’Roi, Chu-ru và các dân tộc ít người khác sinh sống
nơi rừng núi.

17


CHƯƠNG 1 Các vấn đề chung
I.
Sử liệu
Lịch sử vương quốc được biết đến không phải bằng sử liệu gốc ngoài những bia
ký trên đá. Để có cái nhìn nhất định về lịch sử Champa, các nhà khoa học ngoài việc dựa
trên các nghiên cứu từ các di vật kiến trúc, điêu khắc và phải sử dụng thêm sử liệu của
các quốc gia cổ ở Đông Nam Á (Đại Việt, Khơ-me, Gia-va…), những bài tường trình của
du khách từ Âu châu, Ả Rập và nhất là các ghi chép của Trung Hoa. Sử liệu cổ nhất nhắc
đến Champa là Hậu Hán Thư viết vào năm 445 sau công nguyên
14
.
Từ cuối thế kỷ XIX cho đến nay, những phát hiện khảo cổ học mà đa số là qua
các di tích điêu khắc, kiến trúc và đặc biệt là bia ký đã minh chứng và bổ sung cho các
ghi chép đến từ bên ngoài Champa, góp phần quan trọng trong việc làm sáng tỏ lịch sử
của vương quốc Champa từ buổi đầu cho đến khi Vijaya sụp đổ (1471).
Người Chăm giữ lại trong ký ức, truyền miệng cho nhau nghe và về sau ghi chép
lại sách sử bằng tiếng Chăm hiện đại, gọi là “niên biểu hoàng gia”, nêu niên biểu của 39

đời vua Champa từ năm 1.000 sau công nguyên đến năm 1832
15
. Bản ghi chép này
không được đánh giá cao về giá trị lịch sử vì niên đại các vua không tương ứng với ghi
chép trong các bia ký
16
.
II.
Danh xưng
1)
Chăm
“Chăm” là từ tự xưng của nhóm dân cư hiện sinh sống trên những vùng đất thấp
dọc duyên hải miền Trung và đồng bằng Nam bộ Việt Nam, nói ngôn ngữ thuộc nhóm
Malayo – Polynesian (Mã Lai – Đa Đảo), ngữ hệ Austronesian (Nam Á Đa Đảo, Nam
Đảo)
17
.
Hiện nay giới khoa học trong nước thống nhất đã dùng chữ “Chăm”; đó là cách
gọi đúng nhất theo lối phát âm từ chữ Chăm (Cham, Cam) và Champa (Champa, Campa).
Trong tiểu luận này, giữ nguyên những danh tính mang tính lịch sử như “Cù Lao Chàm”,
“Lúa Chiêm”…; một số ít trường hợp dùng chữ “Chiêm thành” để dịch nghĩa cho chữ


14
Xem Lương Ninh [1], tr. 349 – 351.
15
Lương Ninh [1], tr. 262 – 270.
16
Trong một luận văn tại E.P.H.E có tựa đề “Les chroniques du Panduranga des origines à 1822”, Po
Dhamar giải thích sự khác biệt là do niên biểu này liệt kê về các của các vị cai trị lãnh thổ nam Champa còn các ghi

chép trong các bia ký là về các vị cai trị lãnh thổ bắc Champa trước thế kỷ XV (Pierre Bernard Lafont, sđd, tr. 9.)
17
Trang thông tin điện tử của Ủy Ban Dân Tộc, cơ quan chuyên trách ngang bộ, trực thuộc Chính phủ
Cộng hòa XHCN Việt Nam


18

Champapura, Champanagara với ý nghĩa “thành phố của Chiêm (nhân)” mà không dùng
“Chăm thành”.
2)
Hoa Champa
Có nơi xem đó là hoa sứ, nhưng có nơi xem đó là hoa ngọc lan.
2.1)
Hoa sứ
Hoa còn có tên chăm pa, đại, sứ cùi, miến chi tử
18
. Cây thuộc chi Plumeria (Đại)
với 7 – 9 loài, thuộc họ Apocynaceae (Trúc đào – phân họ Rauvolfioideae) trong bộ
Gentianales (Trang) của phân lớp Asteridae (Cúc).
Loài với tên khoa học là Plumeria Rubra L. var. Acutifolia (Poir.) Bailey
19

hoa với hương thơm ngào ngạt, mặt ngoài màu trắng, mặt trong hơi vàng có thể tìm thấy
tại khắp nơi trên duyên hải miền Trung; được trồng quanh cung điện của các vua Chăm
và đền thờ của người Chăm; sau này được trồng tại nhiều nơi thờ tự của các tôn giáo
khác ở miền Trung và các gia trang có sân vườn rộng. Mỗi dịp lễ lạc người Chăm
thường hái bông sứ dâng lên bàn thờ
20
; ngày nay được Lào xem là quốc hoa. Y học cổ

truyền dùng hoa chữa ho, táo bón, viêm ruột cấp, lỵ, huyết hữu; vỏ cây và nhựa có tác
dụng tẩy, tháo nước, chữa viêm quanh răng
21
.
2.2)
Hoa ngọc lan
Còn có các tên: mộc lan, ngọc đường xuân, vọng xuân, nghênh xuân; loài hoa
vàng còn có tên: hoàng ngọc lan, ngọc lan ngà, sứ vàng, hoàng miễn quế, đại hoàng quế,
hoàng lan; loài hoa trắng có tên: sứ ngọc lan, bạch ngọc lan
22
. Người Mã Lai viết là
cempaka, người Philippine viết là champaka
23
. Cây thuộc chi Michelia (Ngọc Lan) với
khoảng 50 loài, thuộc họ Magnoliaceae (Mộc Lan) trong bộ Magnoliales (Ngọc Lan) của
phân lớp Magnoliidae (Ngọc Lan).
Ở Việt Nam thường gặp hai loài: ngọc lan trắng – Michelia Alba L. và ngọc lan
vàng – Michelia Champaca L.; cả hai có nguồn gốc Ấn Độ và Indonesia
24
. Ngọc lan vàng
được người Ấn Độ gọi là “Golden Campa”. Golden Campa là loại cây phổ biến ở Ấn Độ,
đặc biệt được phụ nữ Hin-đu yêu thích; có thể thấy nhiều ở quanh các đền thờ cũng như
trong sân vườn
25
. Đây là loại cây có thân gỗ nhỏ, cao từ 10 đến 15m, tán rộng đến 6m,
có hoa rất thơm có màu vàng, da cam hoặc trắng kem, xuất hiện từ tháng Năm đến tháng
Bảy, quả chín ba tháng sau đó, khoảng tháng Tám. Cây thường được trồng nhiều ở công
viên, đình chùa (nên còn có tên temple tree) vì có hoa thơm để làm cảnh, lấy bóng mát
hoặc cất lấy tinh dầu chế biến nước hoa. Y học truyền thống sử dụng hoa ngọc lan như
một loại thuốc chữa các chứng khó tiêu, buồn nôn, nhiễm trùng đường hô hấp, dùng

chống viêm, hạ sốt và chữa một số bệnh phụ khoa …

18
Website vienduoclieu.org.vn
19
Hoàng Thị Sản và Phan Nguyên Hồng, Thực vật học - phần phân loại, NXB Giáo dục 1986, tr.150.
20
Nguyễn Văn Huy [1], Tìm hiểu cộng đồng người Chăm tại Việt Nam, website thongluan.org
21
Website vienduoclieu.org.vn
22
Website Wikipedia tiếng Việt.
23
Website malaymedicine.blogspot.com
24
Hoàng Thị Sản và Phan Nguyên Hồng, sđd, tr.77
25
Website Indianetzone

19

Michelia Champaca, ảnh: photo.tamtay.vn
3)
Địa danh Champa
Champa ngày nay là tên một thị trấn nhỏ thuộc quận (district) Janjgir-Champa,
bang Chhattisgarh ở miền trung Ấn Độ hiện nay. Thời cổ đại, Champa là tên một thành
phố phồn thịnh nằm ở phía đông, bên hữu ngạn sông Hằng của tiểu lục địa Ấn Độ. Vị trí
của thành phố ngày nay có thể nhận ra qua hai ngôi làng có tên Champanagara và
Champapura ở gần phủ Bhagalpur của bang Bihar thuộc Ấn Độ ngày nay
26

.
Danh xưng này chưa biết đã được dùng từ lúc nào như là quốc hiệu cho cổ vương
quốc Champa, nhưng ghi chép xưa nhất về tên Champa dưới hình thức “Champadesha”
27

được tìm thấy trên bia ký của vua Sambhuvarman tại Mỹ Sơn vào năm 629 (bia Mỹ Sơn
II) và sau đó vào năm 667 trên bia ký Ang Chumnik ở Cam-pu-chia
28
. Trước đó, trong bộ
Geographica năm 150 sau công nguyên, Claudius Ptolémée (90-168), nhà địa lý
gốc Hy Lạp và là sứ giả của hoàng đế La Mã Marc-Aurèle Antonin tại Alexandrie (Ai
Cập), đã có lần nói tới một xứ tên Zamba trên vùng Viễn Đông
29
.
4)
“Chiêm Bà”
Là chữ do người Trung Hoa phiên âm từ Champa.
5)
“Chiêm Thành”
Thành của Chiêm, có thể được dịch từ Champanagara (vương quốc Champa)
hay Champapura (thành phố Champa). “Chiêm” còn để chỉ sự vật liên quan đến cư dân
lưu trú trên lãnh thổ Chiêm Thành, như “Chiêm nhân” – người Chiêm, “Lúa Chiêm” –
thứ lúa do người Chăm gây giống có khả năng chịu hạn vào mùa khô và cũng chỉ giống
lúa ngắn ngày, có chất lượng cao, từng được nhà Tống du nhập vào Trung Hoa
30
.

26
Tổng hợp từ các website: Encyclopedia Britanica, Wikipedia, india9.com
27

Chữ Phạn “desha” có nghĩa là “nơi chốn” hay “đất nước” (William A. Southworth, The Coastal States
of Champa, được Ian Glover và Peter S. Bellwood biên tập trong Southeast Asia: from prehistory to history, tr.223)
28
Niên đại được ghi theo Ngô Văn Doanh [1], Văn hóa cổ Champa, NXB Văn hóa Dân tộc – 2002, tr. 73.
Theo Lương Ninh [1], tr.20 ghi niên đại bia Mỹ Sơn II là 629 Công nguyên và niên đại bia Ang Chumnik là 668.
Theo Po Dharma, Phong trào phục hưng Champa vào năm 1693-1694, website Champaka, thì ghi niên đại bia Mỹ
Sơn II là năm 658 và niên đại bia Ang Chumnik là 668. Liệu Po Dharma có lầm bia Mỹ Sơn II với bia Mỹ Sơn III
do vua Prakasadharma dựng, có “ghi rõ niên đại 579 Shaka = 657 Công nguyên” mà “nhiều người gọi nhầm là bia
Sambhuvarman” (Lương Ninh [1], tr.30)? nhưng Lương Ninh ghi tiếp “thực ra bia do Prakasadharma dựng năm
658” ! [Tại website của Bảo tàng Lịch sử Việt Nam, phần “Trưng bày ngoài trời” có ghi “khuôn viên phía đông của
bảo tàng trưng bày sưu tập điêu khắc đá Chămpa … Đó là … bia Mỹ Sơn II (tk 11)” ?! (ngày tham khảo
15/12/2009)]
29
Nguyễn Văn Huy [1]
30
Người Việt trước đây trồng lúa chủ yếu vào vụ mùa, nên gọi là lúa mùa. Về sau, do tiếp xúc với người
Chiêm nên có thêm lúa chiêm. Vụ lúa chiêm bắt đầu được gieo mạ vào trung tuần tháng 10, cấy vào cuối tháng 12
trở ra đến hết tháng 1 - thời điểm rét nhất trong năm - thu hoạch vào cuối tháng 5 (Phạm Thu Phương, Bùi Huy Đáp
- Người sáng tạo vụ lúa xuân ở miền Bắc, Báo Nhân dân 8/7/1997).


20

6)
“Chàm”
Là cách người Việt đọc trại đi từ chữ Champa hay Chiêm. Hiện nay còn dùng
khá thông dụng trong dân gian ; vài địa danh còn giữ chữ Chàm như Tháp Chàm, Cù lao
Chàm …
7)
“Hời”, “Lồi”

Là cách đọc trại từ chữ H’Roi là tên gọi của một “nhánh” dân tộc Chăm. Với
người Chăm thì chữ Hời biểu lộ một dụng ý khinh miệt; với nhiều người Việt thì chữ Hời
mang một ý nghĩa huyền bí xa xôi (ma Hời, thành Hời …)
31
.
III.
Sự ảnh hưởng của văn hóa cổ Ấn Độ đến Champa
Sau khi đã thống lãnh các khu vực có dân cư sinh sống trên vùng duyên hải miền
Trung, các nhóm người hải đảo gốc Malayo – Polynesian giỏi chinh chiến bắt đầu thiết
đặt nền tảng vật chất để trị vì lâu dài và từng bước tạo dựng các giá trị văn hóa
trong sự pha trộn giữa yếu tố bản địa với văn hóa ngoại sinh đến từ Trung Hoa và Ấn Độ
được mang đến bởi các giáo sĩ và thương gia.
Giai đoạn đầu, từ thế kỉ thứ V trước Công nguyên đến thế kỉ thứ II, miền Trung
là vùng đất giao thoa giữa hai dòng văn hóa, chịu ảnh hưởng của Trung Hoa từ phương
Bắc và Ấn Độ từ phương Nam. Dựa vào các loại hàng hóa nhập khẩu, các nhà khoa học
kết luận rằng trong thời kì này văn hóa Trung Hoa từ phương Bắc có sức ảnh hưởng
mạnh hơn văn hóa Ấn Độ từ phương Nam. Giai đoạn thứ hai là khoảng thời gian tiếp
theo, từ thế kỉ thứ II đến thế kỷ thứ V, Ấn Độ và Trung Hoa có sức ảnh hưởng ngang
nhau đối với miền Trung. Tuy nhiên, ảnh hưởng của Ấn Độ đã trở nên vượt trội hơn so
với Trung Hoa từ thế kỉ thứ V trở đi
32
. Với thời gian, văn hóa Ấn Độ dần trở thành yếu tố
độc tôn, nhất là trong lớp thượng tầng xã hội.
1)
Tôn giáo
Cho đến nay vẫn chưa tìm thấy tài liệu nào nói về các nhà truyền giáo Ấn Độ đến
truyền bá tôn giáo ở Champa. Thế nhưng, ngày từ những thế kỷ đầu công nguyên, các tôn


31

Người Chăm còn có các danh xưng:
(1) Chăm Ahiêr, Chăm “Rặt” (Cham Jat – Chăm gốc), Chăm Kút (Cuh): người Chăm theo một tôn giáo hỗn
dung giữa Bà-la-môn giáo với tín ngưỡng bản địa.
(2) Chăm Awal, Chăm Bà-ni: người Chăm theo một tôn giáo hỗn dung giữa tín ngưỡng nông nghiệp bản địa
với Hồi giáo.
(3) Chăm Islam: người Chăm theo Hồi giáo.
(4) Chà Và Ku (Java Ku) : người Cam-pu-chia gốc Mã Lai, nói tiếng Khmer pha trộn Mã Lai.
(5) Chăm Yuôn là từ để chỉ số người Chăm lai Việt (Yuôn hay Yun để chỉ người Việt). Người Việt gọi là Kinh
Cựu, nhưng danh xưng này rất ít người biết đến vì người Kinh Cựu luôn tự nhận mình là người Kinh.
Những binh sĩ hay tội đồ gốc Kinh, bị đày ra vùng biên địa giáp ranh với Chiêm Thành, đã lập gia đình với
những phụ nữ Chăm (mà họ cho là người Kinh cổ xưa), từ đó mới sinh ra chữ Kinh Cựu.
(6) Chăm Hoi: Nhà Lê đưa những tội phạm biệt xứ gốc Kinh vào các châu Thăng Hoa, Tư Nghĩa và Hoài
Nhơn (thuộc đạo Quảng Nam) khai phá đất mới. Những lưu dân này lúc ra đi, hoặc độc thân hoặc không
được mang theo gia đình, một số đã lập gia đình với các thiếu nữ Chăm và sinh con đẻ cái. Con cái của
những người này sau đó đã trở thành người Việt, quên hẳn gốc Chăm của mẹ và đã trở thành những người
miền Trung. Người Chăm tại Phan Rang gọi những người Chăm mang hai giòng máu tại Quảng Nam và
Bình Định là Chăm Hoi (người Việt gọi là Hời).
(7) Chăm Pal: do người Chăm Phan Rang gọi nhóm người Chăm lai Thượng hay Thượng gốc Chăm. Họ là
những người thuộc các bộ lạc Rhadé, Raglai, Churu v.v
32
Trần Kỳ Phương [1], Hệ thống giao thương ven sông, bài viết đăng trên báo Du lịch online ngày
23/01/2009.

21

giáo Ấn Độ đã có mặt ở vùng đất thuộc Champa sau này. Với tấm bia Võ Cạnh có niên
đại được dự đoán
33
là thế kỷ III – IV sau Công nguyên, có thể đoán rằng tư tưởng Phật
giáo đã được truyền bá ít nhất đến vùng đất phía nam của lãnh thổ Champa sau này. Đây

có lẽ là bằng chứng vật chất đầu tiên và cổ nhất ở Đông Nam Á nói về Phật giáo ở khu
vực này
34
.
Bia Mỹ Sơn I có niên đại dự đoán sớm nhất có lẽ khoảng thế kỷ IV cho thấy Hin-
đu giáo đã có mặt. Bên cạnh Shiva giáo được đề cao như là tôn giáo chính thống của cả
vương quốc thì Vishnu giáo cũng được coi trọng. Cùng với các vị thần Hin-đu giáo được
tôn thờ, các vị thần trong tín ngưỡng bản địa trước Ấn hóa đã được bọc một tấm áo Hin-
đu giáo để bước vào các đền tháp Champa và ngược lại, các vị thần Hin-đu giáo cũng
được hóa thân thành những vị thần địa phương khi Hin-đu giáo được “bản địa hóa”,
Chăm hóa. Tuy vậy, Hin-đu giáo hầu như chỉ tồn tại trong lớp thượng tầng xã hội; chỉ
giới vương tôn quí tộc mới có quyền hành lễ và dự lễ
35
, chỉ có những tu sĩ Balamôn và
những người thuộc đẳng cấp cao mới được vào trong gian điện thờ
36
.
2)
Sự phân chia đẳng cấp
Đọc thêm 1) Nguồn gốc phân chia đẳng cấp tại Ấn Độ
Ba nghìn năm trước công nguyên, người Dravida (Dravidian) đã định cư trên tiểu lục địa Ấn Độ
dọc lưu vực sông Ấn và sông Hằng. Họ được cho là chủ nhân của nền văn minh Thung lũng sông Ấn rực
rỡ. Người Dravida có vóc dáng nhỏ, nước da sậm màu và mũi lớn hơi tẹt.
Tại vùng cao nguyên bắc Iran, giáp vùng biển Caspian có giống người Arya (Aryan) nói ngữ hệ
Ấn – Âu, nhân chủng học gọi họ là người Ấn – Âu tiền sử (proto Indo – European), biểu tượng đặc trưng
của họ là Swastika (Svastika, chữ Vạn). Một nhánh của người Arya đã di cư sang xâm chiếm Âu châu.
Một nhánh khác đã di cư đến miền bắc tiểu lục địa Ấn Độ từ khoảng 1.600 năm trước công nguyên mang
theo ngôn ngữ của mình và sáng tạo nên chữ viết Sanskrit. Người Arya cao lớn, nước da sáng màu và mũi
cao nhọn. Khi mới đến, người Arya họ đơn thuần là dân di trú nhưng về sau họ dùng vũ lực làm chủ được
cả xứ Ấn Độ. Người Dravida và các thổ dân khác bị chinh phục, một số trở thành tù binh rồi làm nô lệ

cho Arya, số còn lại phải bỏ chạy vào rừng sâu hoặc kéo nhau tràn xuống định cư ở phía nam Ấn.
Tuy vậy vào lúc đầu, trình độ văn hoá của người Arya thấp hơn người Dravida, nhưng sau họ tiếp thu văn
hoá của kẻ bị chinh phục, tiếp thu kỹ thuật canh nông và chuyển sang đời sống định cư thành từng bộ lạc
gồm nhiều làng cộng đồng tương đối tự trị do một hội đồng gia tộc cai trị. Mỗi bộ lạc có một người cầm
đầu gọi là raja mà quyền hành bị một hội đồng bộ lạc hạn chế. Các bộ lạc hợp nhau theo vùng lãnh thổ
tạo thành từng tiểu quốc, đứng đầu bởi một ông vua mà quyền hành cũng bị một hội đồng chiến sĩ hạn
chế.
Cũng như mọi dân tộc khác, người Arya lo sợ bị đồng hóa, đặc biệt trong bối cảnh dân số của họ
ít hơn nhiều so với lớp cư dân bản địa của tiểu lục địa nên họ đã đề ra những quy định mang tính cách
“phân biệt chủng tộc”. Đầu tiên phân chia đẳng cấp dựa theo màu da (varna – nghĩa gốc là “màu da”).
Sau đó đến thời kỳ Bà La Môn (1.000 – 500 năm trước công nguyên), với sự phát triển của xã hội và tư
tưởng, sự phân hóa giai cấp càng trở nên khắc nghiệt mà do đó sự phân chia đẳng cấp trở thành phân chia
tập cấp (casta – nghĩa gốc là “thuần khiết”) với bốn đẳng cấp mang tính thế tập và giới ti tiện ngoài đẳng
cấp (patria – gồm những bộ lạc thổ dân không cải tôn, tù binh, nô lệ)
37
.
Cũng như ở Ấn Độ, cư dân Champa được chia thành bốn đẳng cấp:

33
Bia Võ Cạnh và bia Mỹ Sơn I không có ghi niên đại. Các nhà nghiên cứu dựa trên tự dạng chữ Phạn mà
đoán định ra niên đại.
34
Ngô Văn Doanh [1], tr. 353.
35
Nguyễn Văn Huy [1].
36
Phan Quốc Anh, Ảnh hưởng tôn giáo Ấn Độ với văn hóa Champa, website PhanQuocAnh
37
Will Durat, Lịch sử văn minh Ấn Độ, Nguyễn Hiến Lê dịch, NXB VHTT 2002 (tái bản), tr. 39. Chữ
“tập cấp” do Nguyễn Hiến Lê đề xướng.



22

1) Brāhmana (phiên âm là Bà La Môn; Anh ngữ: Brahmin, Brahmana) là giới tăng lữ
nắm quyền văn hóa tư tưởng và học thuật. Phần lớn họ là người Ấn Độ
38
.
2) Kṣatriya (Anh ngữ: kshatriya, satriya) là giới vua chúa, quí tộc, chiến sĩ nắm quyền
chính trị và quân sự. Phần lớn là người Chăm gốc Nam Đảo.
3) Vaishya (Anh ngữ: vaisya, vysyas, wesya), là giới thương gia và phú nông. Đa số là
người Chăm giàu có và người Thượng
39
gốc Nam Đảo.
4) Sūdra (Anh ngữ: Shudra, Sudra), là giới thợ thủ công, bần dân, đầy tớ. Đa số là các
sắc dân miền núi và tù binh.
Tuy vậy, trong giai đoạn đầu không thấy có sự phân chia đẳng cấp xã hội trong
những bia ký tìm được trên lãnh thổ bắc Chiêm Thành. Ngược lại trên lãnh thổ nam
Chiêm Thành, đẳng cấp Shudra vẫn tiếp tục tồn tại cho tới thế kỷ 19. Ngày nay đẳng cấp
Brahmin chỉ còn thấy trong các dịp tế lễ của giáo dân đạo Bà La Môn (các thầy Paseh,
Tapah) và đạo Bani (các thầy Char, Po Adhya, Po Bac) mà thôi, nhưng đã biến dạng rất
nhiều so với nguyên thủy
40
.
3)
Chữ viết và văn học cổ
Đọc thêm 2) Tiến trình lịch sử chữ viết Chăm
Có thể chia thành hai thời kỳ:
1. Văn tự khắc (trên đá hay gạch): từ thế kỷ IV đến thế kỷ XV bằng hai thứ ngôn ngữ và văn tự
Phạn và Chăm cổ. Văn bia Võ Cạnh, niên đại thế kỷ IV, được xem là sớm nhất. Minh văn Biên Hòa, niên

đại thế kỷ XV
41
, được xem là trễ nhất
42
. Sau thế kỷ XV, không phát hiện thấy văn tự khắc.
43

2. Chữ Akhar Thrah – vốn đã thoát khỏi vỏ bọc của chữ Phạn
44
, có từ thế kỷ XVII và được lưu
truyền cho đến nay. Chất liệu sử dụng để ghi chép là giấy, vải, vỏ cây bồ đề, lá buông…. Chữ được ghi
lại và gìn giữ trong dân gian bởi giới tu sĩ, bô lão Chăm (Gru). Họ xem đó là một di sản tinh thần, một
phương tiện thiêng liêng để nối liền sự liên hệ giữa chức sắc và thần linh
45
nên cho đến nay, chữ “của
thần thánh” chỉ được các Po Gru truyền dạy cho theo phương pháp cổ truyền cho vài người thật tin cậy
hoặc con cháu trong nhà. Gần đây đã xuất hiện xu hướng chỉnh lý (1964), cải cách (sau 1975
46
) chữ
Akhar Thrah cho phù hợp với thời hiện đại, mang tính phổ cập hơn, tránh đi những hiện tượng giấu chữ,
thần bí hóa chữ viết
47


38
Thành phần các đẳng cấp (in nghiên) được dẫn theo Nguyễn Văn Huy [1].
39
Chữ để chỉ chung các sắc dân sống trên cao – Tây Nguyên.
40
Nguyễn Văn Huy [1].

41
Minh văn Biên Hòa được khắc sau tượng đá thần Vishnu tư thế ngồi, hiện đang thờ tự tại chùa Bửu
Sơn, thành phố Biên Hòa (Nguyễn Đức Hiệp [1], Một thoáng Đông Nam Bộ, website vanchuongviet.org). Minh văn
có niên đại 1421 (Ngô Văn Doanh [1], tr. 424) hay 1441 (Lương Ninh [1], tr.182) ?
42
Còn có di tích khảo cổ học mộ Bình Truông (Quảng Ngãi) có di vật bằng hiện kim có khắc chữ Chăm
cổ thế kỷ XV (Lê Công Tâm dẫn lại từ Đinh Bá Hòa, Lê Công Tâm, sđd, tr.9).
43
Thế nhưng Po Dharma trong bài Ngôn ngữ và chữ viết Chăm trong quá trình lịch sử, đăng trên
Champaka 15 thì cho giai đoạn “lưu truyền trên bia kí” đến tận thế kỷ XVI !
44
Huỳnh Văn Mỹ, Những tàng thư Chăm, Tuổi Trẻ Chủ Nhật ngày 21/12/2003.
45
Quảng Văn Đại, Ngôn ngữ chữ viết dùng trong cộng đồng chức sắc Chăm Ahiér, Champaka.
46
Vẫn đang có những tranh luận chung quanh việc cải cách sau 1975.
47
Thuở trước, giấy, bút, mực hiếm và khá đắt nên mỗi trang giấy có ghi chữ Chăm đều rất quý. Phải tốn
một xe trâu chở thóc (800 kg) mới thuê được thợ chép sách để có nguyên tác Akayet Dewa Mưno chỉ dài 460 câu
lục bát Chăm, do vậy chúng được xem như báu vật gia truyền. Sách vở được cất vào rương đan bằng tre lát rồi treo
trang trọng lên xà ngang ngay giữa nhà. Định kỳ hàng tháng, với lễ vật đơn sơ, người Chăm làm lễ rước xuống
mang hong nắng. Sách lâu ngày không được dùng tới gọi là sách hoang (akhar bhaw), sẽ mang đến điềm không lành
cho chủ nhân của chúng. Khi đó hoặc khi sách vở bị mục nát, chủ nhân phải làm lễ tạ rồi đem thả xuống sông hoàn

23

Ngoài ra, từ đầu thế kỷ XX còn xuất hiện chữ Chăm Latin, cả phiên âm lẫn chuyển tự, nhưng mỗi
tác giả, mỗi giai đoạn lại có một cách sử dụng khác nhau và không được người Chăm chấp nhận rộng rãi.
3.1)
Chữ Phạn (Sanskrit)

Từ đầu công nguyên, chữ Phạn đã được du nhập vào nam Trung bộ rồi được
truyền bá rộng rãi hơn ra bắc và phía nam, lãnh thổ Phù Nam. Bia sớm nhất được tìm
thấy tại làng Võ Cạnh (Diên Khánh, Khánh Hòa) cách Nha Trang 6km về phía nam. Niên
đại của bia, trước đây được cho chậm nhất là cuối thế kỷ II nhưng xu hướng hiện nay xác
định muộn hơn, thuộc thế kỷ IV
48
. Chữ Phạn trên bia có tự dạng rất gần với kiểu viết các
bia ký Amaravati ở nam Ấn Độ khoảng cuối thế kỷ III, đầu thế kỷ IV
49
.
Trong khá nhiều trường hợp, mỗi bia ký Champa đều có cả chữ Phạn lẫn chữ
Chăm cổ. Khi bày tỏ với thần thánh, về gia hệ, công đức, thành tích của vua thì viết bằng
chữ Phạn
50
. Phần chữ Chăm cổ thường là nội dung nói tới người trần thế
51
.
3.2)
Chữ Chăm cổ
Người Champa đã sớm tiếp thu hệ thống văn tự Phạn cổ để sáng tạo ra chữ viết
của riêng mình. Chữ Chăm cổ xuất hiện sớm nhất trên bia được tìm thấy ở Đông Yên
Châu (Diên Phước, Quảng Nam). Bia này được đoán là có niên đại khoảng thế kỷ IV, V
52
; như vậy có thể nói Champa là quốc gia ở Đông Nam Á có chữ viết sớm nhất bằng thổ
ngữ.
3.3)
Văn học cổ Champa
Do chịu ảnh hưởng sâu sắc của văn hóa cổ Ấn Độ, cho nên các triều đại phong
kiến Champa thường dùng chữ Phạn để bày tỏ ý tưởng của mình đối với các thần linh,
cho nên, ý nghĩa văn chương của bia ký Champa rất lớn. Các tác giả bia ký cố gắng dùng

lời lẽ văn hoa, nhiều điển tích và ẩn dụ của văn học Ấn Độ để thể hiện ý tưởng của mình.
Vì thế những văn bia Champa là một mảng quan trọng của văn học cổ Champa, đặc biệt
là phần bằng chữ Phạn được viết theo những thể thơ phổ biến của Ấn Độ.
4)
Lịch pháp
Qua bia ký, người ta biết được Champa đã dùng lịch Shaka cổ của Ấn Độ, thuộc
loại âm dương lịch với cách tính khá phức tạp. Shaka có năm đầu tiên (0) trùng với năm
78 Công nguyên, năm 2000 Công nguyên tương ứng năm 1922 Shaka
53
.


trả lại đất trời (Nguồn: Inrasara, Chuyện chữ, Website Tiền Vệ và Nguyễn Yên Thy, Tìm lịch sử trên lá buông, báo
Người Lao Động được Việt Báo online đăng lại ngày 20/02/2004).
48
Có nhiều tranh luận về chủ nhân của tấm bia này. Có người cho đó là Phạm Sư Man là vua của Phù
Nam và từ đó cho rằng lãnh thổ Phù Nam đã vươn ra đến tận miền Trung. Có người việc gán ghép với vị thủ lãnh
Khu Liên lập ra nhà nước Lâm Ấp vào năm 192 sau Công nguyên từ đó kéo dài lãnh thổ của Lâm Ấp đến tận Khánh
Hòa ngày nay. Còn có ý kiến cho rằng tấm bia này là “cột mốc” biên giới giữa Phù Nam với Champa. Tuy vậy, khó
có thể xác định tấm bia này là thuộc Champa ngoài việc vị trí tìm thấy bia là ở phần đất một thời là lãnh thổ vương
quốc Champa. Chủ nhân có thể là vị thủ lãnh của một lãnh địa ở phía nam Lâm Ấp. Kết thúc cuộc tranh luận kéo dài
nữa thế kỷ, J. Filiozat cho rằng bia này chỉ nhắc lại, tỏ lòng thương nhớ, theo truyền thống, một dòng vua Pallavah ở
Nam Ấn là Sri Mara (Lương Ninh [1], tr. 180).
49
Ngô Văn Doanh [1], tr. 403.
50
Lương Ninh [1], tr. 182.
51
Ngô Văn Doanh [1], tr. 406.
52

Coedes G., IICC, C. 174 được Ngô Văn Doanh [1] trích lại, sđd, tr. 403.
53
Lịch Shaka có giờ, ngày, tháng, năm không hoàn toàn giống về độ dài thời gian lẫn về ý nghĩa với đơn
vị thời gian hiện ta đang dùng . Ở phần đọc thêm, những từ in nghiên là tên Phạn của các đơn vị đo lường thời gian
theo lịch Shaka, những từ gạch dưới là đơn vị thời gian hiện ta đang dùng.


24

Đọc thêm 3) Lịch Shaka
Có bảy vaasara (hôm) tương ứng bảy ngày trong tuần: Mặt Trời, Mặt Trăng, Sao Hỏa, Sao Thủy,
Sao Mộc, Sao Kim, Sao Thổ.
Tithi (ngày
mặt trăng)
54
là khoảng thời gian của một mas chia ra 30. Mỗi tithi tương ứng 21 giờ
51 phút và 26,3 giây.
Mas (tháng mặt trăng) là khoảng thời gian mặt trăng hoàn tất một chu kỳ theo sao dài 27 ngày 7
giờ 43 phút 11,5 giây (Thiên văn học gọi là “tháng thiên văn” hay “tháng sao”). Mỗi mas có hai paksha:
Nửa sáng (shuklapaksha) tương ứng Thượng tuần
và Nửa tối (krishnapaksha) tương ứng Hạ tuần. Mỗi 14
tithi của Thượng tuần có tên khác nhau. Các tithi của Hạ tuần được gọi tên lập lại theo Thượng tuần.
Riêng tithi thứ 15 của mỗi nữa có tên khác nhau (Amavasya – Trăng đầy, Purnima – Trăng mới)
55
.
Ngày
nào mà trăng mới xuất hiện trước lúc mặt trời mọc thì đó là ngày đầu tiên của tháng. Mỗi
tháng có 29 hoặc 30 ngày. Bình minh vào tithi nào thì ngày mang tên của tithi đó, nhưng tên của ngày
không hẳn theo thứ tự tên của tithi. Đó là do độ dài của ngày (24 giờ) khác với tithi (gần 22 giờ). Xuất
hiện hai trường hợp: A) Hai ngày liên tiếp có cùng tithi: ngày sau vẫn lấy tên của tithi nhưng có chữ

“thêm” – adhika tithi. B) Đôi khi một tithi không hề trùng với lúc mặt trời mọc thì tithi đó có chữ “mất” –
kshaya tithi.
Có 12 tên để đặt cho 12 mas. Nhưng việc đặt tên cho mas không đơn giản, còn phải xem qua các
nakshatra. Hoàng đạo được chia thành 27 nakshatra (cung hoàng đạo
) ứng với chu kỳ 27 ngày của
“tháng thiên văn”. Phần lẻ của “tháng thiên văn” tạo thành nakshatra thứ 28 (nhuận). Mỗi nakshatra ứng
với một sao hay chòm sao. Cung
đầu tiên ứng với Chitra
56
, mas nào gần với cung này nhất thì được đặt
tên là Chaitra (tháng Giêng) và năm mới bắt đầu từ tháng đó.
Năm Shaka có 12 mas, tương ứng 356 ngày. Do vậy cứ mỗi 32,5 mas lại có một tháng nhuận –
adhik mas masa, nhưng cách thêm tháng nhuận không phải trên cơ sở tính toán đơn thuần mà dựa trên
cách xem sao. Do vậy mà người Chăm có câu nói “Chỉnh tháng thì nhìn ngôi sao. Định giờ thì nhìn mặt
trời. Định ngày thì nhìn mặt trăng”. Tháng thêm được mang tên của tháng trước liền kề. Cùng đó còn có
tình trạng mất tháng, được gọi là mas kshay, khi đó tháng chung được đặt tên của cả hai tháng trước và
sau liền kề bị mất không được đặt tên. Với lễ hội, trường hợp thêm tháng nhuận thì lễ hội thường được tổ
chức vào tháng nhuận; trường hợp mất tháng thì các lễ hội trong hai tháng bị mất được tổ chức chung
trong tháng chung.
Thứ tự viết lịch: Năm Shaka Z, hôm Mặt trời, ngày 12, hạ tuần, tháng Y.
5)
Âm nhạc và múa
Thư tịch cổ Trung Quốc như Tùy thư (cuối thế kỷ VI – đầu thế kỷ VII) chép
Chiêm thành có nhiều nhạc cụ, “dịp lễ, đám cưới cũng có nhạc, múa”. Họ có nhạc điệu
trống và cả hát mà vua quan Đại Việt rất ưa thích, mà Việt Sử lược và Đại Việt Sử ký
Toàn thư đã ghi, có đội múa và điệu múa rất hấp dẫn mà Lê Hoàn khi đi đánh Champa
năm (982) đã bắt hàng trăm kỹ nữ cung đình
57
.
Trong sinh hoạt văn hóa của vương quốc Champa có lẽ đã có ba hình thức ca

múa nhạc: dân gian, cung đình và tôn giáo; nhưng hầu như không còn tư liệu nói về nhạc
điệu, ca từ và vũ điệu Champa cổ. Ngày nay các nhà nghiên cứu hình dung chung qua
sinh hoạt ca múa nhạc của người Chăm hiện đại và thông qua các hình ảnh chạm khắc tại
các đền đài cổ.

54
Ở đây dùng “ngày mặt trăng” hay “tháng mặt trăng” thay cho “ngày âm lịch”, “tháng âm lịch”.
55
Mỗi một tithi có một vị thần chủ và điềm hung, cát.
56
Chitra là tên Phạn của sao Giác (Spica), một trong những ngôi sao sáng nhất, nằm trong Xử Nữ.
57
Lương Ninh [1], tr. 200.

25

5.1)
Nhạc cụ
Trống
Ở Ấn Độ, trống là một loại nhạc cụ vô cùng quan trọng và hầu như có mọi trong
mọi giàn nhạc lớn nhỏ. Một trong những kiểu trống cổ nhất Ấn Độ là trống mridangam
với tang được làm bằng gỗ, hai mặt bọc bằng da dê và được giữ bằng dây da nối với nhau
qua tang trống. Trống này phổ biến nhất ở nam Ấn. Trong khi đó thì ở bắc Ấn phổ biến là
trống tabla. Cả hai loại trống này đều có mặt trên những hình khắc Champa. Ở nhiều
vùng của Ấn Độ có riêng cả những giàn nhạc trống từ 5 đến 20 nhạc công để đệm cho
những điệu múa khác nhau hoặc những buổi trình diễn trích đoạn sử thi. Ở một số phù
điêu điêu khắc đá Champa cũng có những hình tượng dàn nhạc với nhạc cụ chỉ có
trống
58
.


Ảnh trên: website chandiramani.com
Ảnh phải: website india-instruments.de

Đàn
Đối với Ấn Độ, từ xưa đến nay, chiếc đàn vina (veena) được coi là một trong
những nhạc cụ truyền thống. Thoạt đầu vina có hình dáng như hạc cầm với nhiều dây.
Đến cuối thời Gúp-ta (thế kỷ VI – VII) được thay thế bằng kiểu đàn mà bầu cộng hưởng
hình quả lê. Từ thế kỷ VIII được thay thế bằng kiểu vina mới với phím dài, bầu cộng
hưởng tròn và thường làm bằng quả bầu khô. Kiểu đàn vina cổ và mới đều có mặt trên
nhiều tác phẩm điêu khắc đá Champa
59
.

Ảnh: website chrysalis-foundation.org
Ảnh bên: Nữ thần nghệ thuật Sarasvati (Saraswati)
với cây đàn vina. Ảnh: website Sitars.net

Kèn
Trên nhiều tác phẩm điêu khắc đá Champa thể hiện các nhạc công chơi một loại
kèn, không rõ loại kèn gì nhưng hiện nay trong nhạc cụ của người Chăm có kèn Sa-ra-nai
đóng vai trò quan trọng trong nhạc lễ của họ. Trong nhạc cụ truyền thống của Ấn Độ - họ

58
Ngô Văn Doanh [1], tr. 438 – 439.
59
Ngô Văn Doanh [1], tr. 437 – 438.


26


hơi có cây kèn shehnai (shahanai) với hình dáng tương tự sa-ra-nai. Đây là nhạc cụ được
xem là mang lại may mắn và được sử dụng rộng rãi trong đám cưới và các đám rước tại
Ấn. Kèn thân tròn, hơi bầu ở giữa, loe ở đầu, thân kèn làm bằng gỗ - lớn dần về phía loa
kèn. Theo mô tả, kèn có từ 6 đến 9 lỗ.


(Trên) Thổi kèn shehnai. Ảnh: website outlookindia.com
(Dưới) Điêu khắc đá Champa: Đội nhạc công đang chơi
nhạc (hai người thổi kèn, một người vỗ trống, một người
đánh xập xèng – hay vỗ trống một mặt ?) Ảnh: PhanHong

Ảnh: website india-instruments.de
5.2)
Vũ điệu
Trong múa Chăm hiện đại, có thể nhận thấy không ít những yếu tố có nguồn gốc
Ấn Độ: vai trò của các vũ nữ tại các lễ hội ở các đền tháp (dấu ấn của các vũ nữ chuyên
phục vụ các thần của Ấn Độ giáo), tính độc diễn của từng vũ nữ, tính chuyên nghiệp và
có bài bản, ngôn ngữ hình tượng của các động tác tay, chân và thân mình, vai trò quan
trọng của tiếng trống với các điệu múa. Ngay cả một số điệu múa dân gian
của người Chăm hiện nay cũng có những nét giống với một vài điệu múa cổ của Ấn Độ.
Tuy nhiên, chỉ rõ đâu là những yếu tố Ấn Độ trong múa của người Chăm hiện đại là một
việc làm rất khó. Vì sau cả ngàn năm bị ảnh hưởng, các yếu tố Ấn Độ đã hòa tan hoặc đã
hòa nhập vào những truyền thống văn hóa của người Chăm từ lâu rồi. Thế nhưng, nếu
ngược về thời xa xưa – thời vương quốc Champa, ta sẽ thấy ảnh hưởng của âm nhạc và
múa Ấn Độ đối với người Chăm xưa thật mạnh mẽ và sâu sắc
60
. Thông qua các hình ảnh
điêu khắc đá trên các công trình tôn giáo, như nhạc công ngồi đánh đàn, vũ nữ đang
múa… người ta hình dung một phần về nghệ thuật âm nhạc và múa thời xa xưa của

người Chăm, ít ra là trong lĩnh vực tôn giáo và cung đình.
Đối với người Chăm hiện đại, kho tàng nhạc lễ, hát lễ được các tu sĩ Bà La Môn
lưu truyền và hát ở các nghi lễ, đây là nhạc lễ có nguồn gốc từ Ấn Độ xa xưa và trước
đây vài thập niên, âm nhạc và múa đều mang nặng tính thiêng, chỉ để phục vụ nghi lễ,
không được sử dụng làm chức năng vui chơi giải trí có tính chất trần tục
61
. “Múa Chăm là

60
Ngô Văn Doanh [1], tr. 430.
61
Phan Quốc Anh, Nghệ thuật ca múa nhạc dân gian trong đời sống tinh thần xã hội Chăm, blog của tác
giả trên YuMe.vn

27

sự gắn bó với tín ngưỡng-tôn giáo của họ, là phương thức biểu hiện lòng tôn kính ngưỡng
mộ đối với thần linh.”
62

Đọc thêm 4) Việc “phục dựng” các điệu múa Champa từ những tác phẩm điêu khắc đá
Liệu có quá vội vã, khinh suất khi mà từ những hình ảnh điêu khắc đá, phần nhiều là hình ảnh
những vị thần Hin-đu giáo linh thiêng đang nhảy múa theo những câu chuyện trong truyền thuyết Ấn Độ
cổ, mà chuyển thể thành điệu múa thực, mang tính biểu diễn, “thi thố” là chính; hoặc như Ngô Văn
Doanh ghi rằng “…Hầu như tất cả vũ nữ Champa đều để mình trần khi múa. Những đồ trang sức, những
tà váy áo mỏng tanh, trong suốt chỉ có vai trò phụ trợ cho những động tác múa chứ không phải để che
thân”
63
để rồi từ đó nhìn nhận những tiết mục múa xoạc chân, hai chân khuỳnh xuống (kiểu banh háng),
hai tay khuỳnh ra với những vũ công ăn bận hở hang, khuôn mặt lạnh buồn là văn hóa cổ Champa?

Không dừng lại ở đó, người ta cho rằng những tác phẩm điêu khắc Champa với các nhân vật nữ
có “tà váy áo mỏng tanh, trong suốt” đó gần như khỏa thân, bầu vú căng tròn, cặp đùi thon, hông rộng,
cổ tay tròn lẳn với tư thế uốn lượn mềm mại đã “toát lên nỗi đam mê cuồng nhiệt”, và “cảm hứng tình
dục toát lên” từ đó
64
. Khi đứng trước các tượng vũ nữ, người ta “cảm giác vừa sững sờ thán phục, vừa
hoan hỉ trong những xúc cảm đầy tính dục”, để rồi không biết từ đâu mà tiếp tục “suy” rằng “các thiếu nữ
trước khi về nhà chồng đều “được” ra mắt vua, nhà vua có thể hưởng lạc với bất cứ ai trong số họ”
65
!
Điều này đã gây những bất bình trong người Chăm hiện đại
66
!

Điêu khắc đá Champa, “Vũ nữ Trà Kiệu”
67
.
Ảnh website dzunglam.com

Múa “Khát vọng” – Huy chương vàng toàn quốc
1985, một trong những tiết mục múa Chăm hay nhất
của NSND Đặng Hùng. Nguồn website:
baobinhdinh.com.vn

62
Cao Xuân Phổ, được Chế Vỹ Tân, sđd trích lại.
63
Ngô Văn Doanh [1], tr. 441.
64
Anh Thư, Vài nét về cảm hứng tình dục trong điêu khắc Chăm, website tạp chí Khoa học và Công nghệ

Bình Định - dostbinhdinh.org.vn.
65
Từ Quốc Hoài, Cảm hứng tính dục trong điêu khắc Chăm, tạp chí Thế Giới Mới, Số 421, tr. 36 – 37,
được Champaka dẫn lại và bình rằng “người ta có cảm tưởng Từ Quốc Hoài đang điên loạn vì tính dục khi chiêm
ngưỡng các tượng vũ nữ Chăm. Ðộc giả cũng nghĩ rằng: ông ta đang xuyên tạc và bôi bác các vị vua Champa xưa
kia, khi viết ra những điều thô lỗ mà không đưa ra một dẫn chứng cụ thể.”
66
Chế Vỹ Tân, Nghĩ về múa Khát vọng, Tagalau 7.
67
Có người đã giải mã (?) “…Chỉ một ngón tay trỏ lúc nào cũng hướng về mặt đất cho ta cảm nhận bao
điều rằng: đất là điểm tựa vững chắc của con người để bay cao hơn, xa hơn, vươn tới hạnh phúc nhân ái. Một tay
hướng lên là biểu hiện cho “cái chết”, còn một ngón tay cong hướng lên trời có nghĩa là “hôm nay”, nếu đặt cánh tay
lên ngang ngực thì nó thể hiện ý nghĩa “hạnh phúc”, khi tay trái hướng ra phía sau và tay phải nắm lại trước ngực
với 3 ngón tay hướng lên, ngón trỏ chạm vào ngón cái thì đó là biểu tượng bắt ấn trừ khử cái xấu và khi hai bàn tay
chuyển đổi lên xuống theo nhịp điệu nhanh thì nhằm nói đến 2 trong 4 giai đoạn của vòng đời con người là sinh –
trưởng thành – bệnh tật và chết.” (Các hình thái nghệ thuật múa Chăm, website hungvuong.edu.vn)


28

“Múa cung đình Chăm”
Có thể nhận định rằng đã thất truyền nhưng gần đây được “khôi phục” lại từ những nghiên cứu
qua các hình tượng điêu khắc cổ. “Múa cung đình Chăm” là tên được nghệ sĩ nhân dân Đặng Hùng đặt
cho các điệu múa ông biên đạo và dàn dựng cho Đoàn ca múa Thuận Hải thời kỳ ông làm trưởng đoàn.
Lấy cảm hứng từ các thao tác của những tác phẩm điêu khắc Champa xưa, ông “giải mã” chúng, rút tỉa
tổng hợp được 8 thế tay và 4 thế chân, kết hợp với vài thao tác múa dân gian để thành “Múa cung đình
Chăm”. Các tác phẩm tiêu biểu Khát vọng (1985), Ước mơ (1981), Niềm tin (1989) … đã “ẵm” không
biết bao nhiêu huy chương vàng của các cuộc thi, hội diễn chuyên nghiệp toàn quốc
68
. Cùng với Tiếng

trống Paranưng, Đoa Pụ (đội nước), Dòng nước mát, Quà tặng em, Vũ nữ Shiva mà từ đó ông được
mệnh danh là “Người hồi sinh vũ điệu Chăm”, “Người thổi hồn vào vũ điệu Chăm”, “Đánh thức những
pho tượng Chăm”…
Sau này, NSƯT Thu Vân trên cơ sở đó cũng có tác phẩm “Huyền thoại Bhagavati”. Các điệu múa
này nhiều lần được biểu diễn ở nước ngoài
69
. Trong số đó, tác phẩm múa Khát Vọng (còn gọi là múa
Shi-va) tuy đụng chạm đến tính cách thiêng liêng của các vị thần linh mà người Chăm đang phụng thờ
70

nhưng vũ phục, vũ điệu trong tác phẩm này đã trở thành “nền tảng” cho những “sáng tạo” múa Chăm hiện
đại sau đó.
Việc trình diễn vũ điệu tôn giáo Chăm trên sân khấu đại chúng
Lễ hội Rija Nưga là lễ hội đầu năm của người Chăm. Chủ lễ trong hai ngày lễ hội là ông thầy Vỗ
(Ong Mưdwơn) và cũng là người vỗ trống pa-ra-nưng. Thầy vỗ là vị chức sắc, có tác phong đạo mạo.
Vậy mà trong điệu múa “Tiếng trống Pa-ra-nưng” hiện được trình diễn khắp nơi mỗi khi nhắc đến văn
hóa Chăm thì “bắt Ong Mưdwơn múa may, đá giò lái như những tên du thủ, du thực. Trống Pa-ra-nưng
thiêng liêng đến vậy mà họ huơ lên giựt xuống như mãi võ Sơn Đông, quảng cáo tiếp thị ”
71

Gần đây nhất, vào đêm 27/12/2009, trên HTV có trực tiếp chương trình văn nghệ chào mừng
“Đại hội Đại biểu các dân tộc thiểu số tp.HCM lần 1”, có tiết mục múa mang đặc trưng của các dân tộc
(Hoa, Khmer, Chăm …). Trong đó, ở “nội dung Chăm”, các “Gru” cầm trống pa-ra-nưng tiếp tục nhảy
kiểu tung chân như “hip-hop” !


Tiết mục múa Shiva trình diễn tại Mỹ Sơn phục vụ du khách.
Ảnh: website vietbao.vn




68
Vũ Hương Giang, Người giữ hồn Chăm, bài trên báo Tuổi Trẻ được website Việt Báo đăng lại ngày
12/3/2006.
69
Inrasara, Múa Chăm, website Inrasara.com
70
Chế Vỹ Tân, sđd.
71
Trà Vigia, Mỹ Sơn đường về, Tagalau 2.

29

Múa Chăm là chân ở tư thế “banh” và trang phục ít vải ?!

Đâu rồi những thiếu nữ Chăm duyên dáng, kín đáo trong tà
áo dài truyền thống đội bình đi lấy nước? Thí sinh Nguyễn
Hồng Nhung trình diễn điệu múa Chăm “Đội bình” tại vòng
chung khảo Hoa hậu Việt Nam khu vực phía bắc năm 2008.
Nguồn: website Ngoisao.net

Thí sinh Bạch Vĩ Quân (nữ sinh lớp 11) với tiết mục
múa Chăm được đánh giá cao tại vòng chung kết
cuộc thi “Tìm kiếm chân dung tuổi teen Việt Nam -
Hot Vteen 2008” khu vực Đà Nẵng.
Nguồn: website vnexpress.net

Tại cuộc thi Miss IIR (Học viện Qua hệ Quốc tế) 2008, thí
sinh “Nguyễn Quý Trâm Anh (SBD 04) đoạt giải “Tài năng
xuất sắc nhất” nhờ tiết mục múa Chăm huyền bí, sexy và lôi

cuốn!”. Nguồn:

Điệu múa Champa cổ do đội văn nghệ Danapha
trình diễn khai mạc Hội nghị Khách hàng của công
ty Danapha 2010. Nguồn:
6)
Quy tắc tổ chức chính trị
72

Người Ấn Độ không hề tiến hành một cuộc xâm lăng (bạo lực võ trang) nào,
không hề thôn tính tên tuổi một quốc gia hay một kinh thành nào ở Đông Nam Á nhưng
các quốc gia chịu ảnh hưởng văn hóa cổ Ấn Độ trong khu vực này lại lấy khuôn mẫu tổ
chức chính trị và thiết lập vương quyền theo mô hình của Ấn Độ. Và vương quốc
Champa cổ cũng không nằm ngoài quỹ đạo chung ấy. Champa mô phỏng một cách khá
trung thành những quy tắc tổ chức chính trị của Ấn Độ như cách thức phân chia đất nước,
cách thức tổ chức bộ máy nhà nước cai trị và các tên gọi. Đứng đầu vương quốc là vua
(Maharatja – Đại Vương), truyền ngôi theo huyết thống nhưng nếu hoàng tử, dù là người
con duy nhất, không đủ sức khỏe hay tư cách thì triều thần họp lại để chọn vua khác. Vua
được xem như là hiện thân của thần linh, là người bảo vệ thần dân và giữ gìn trật tự đất
nước theo những “luật thiêng”.
Cũng giống như tại Ấn Độ và tại các quốc gia cổ ở Đông Nam Á chịu ảnh hưởng
Ấn Độ, lịch sử chính trị của Champa là lịch sử mở mang đất đai, thôn tính lẫn nhau giữa
các vùng hay các tiểu quốc. Trong suốt hơn một chục thế kỷ tồn tại, các vị vua Champa


72
Trích từ Ngô Văn Doanh [1], mục I phần III – Thể chế vương quyền, tr.337 – 349.

×