Tải bản đầy đủ (.doc) (56 trang)

tiểu luận Vài nét khái quát về lịch sử các nước châu á, châu Phi và Mĩ latinh từ 1918 - 1945

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (304.75 KB, 56 trang )

CHƯƠNG I
VÀI NÉT KHÁI QUÁT VỀ LỊCH SỬ CÁC NƯỚC CHÂU Á,
CHÂU PHI VÀ MĨ LATINH TỪ 1918 - 1945
§1. TÁC ĐỘNG CỦA CUỘC CÁCH MẠNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA THÁNG MƯỜI NGA.
Thắng lợi của cuộc Cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười 1917 ở Nga đã mở
ra một thời kỳ mới trong sự phát triển của lịch sử thế giới nói chung và lịch sử các
nước Á, Phi, Mĩ Latinh nói riêng. Đúng như Hồ Chí Minh đã viết:
"Giống như mặt trời chãi lọi, Cách mạng tháng Mười chiếu sáng khắp năm
châu, thức tỉnh hàng triệu người bị áp bức bóc lột trên thế giới”
(1)
Tác động của cuộc Cách mạng tháng Mười trước hết là ở chỗ chính cuộc Cách
mạng này đã nêu lên một tấm gương sáng về việc giải quyết vấn đề dân téc ở nước
Nga Xôviết. Lần đầu tiên trong lịch sử, Cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười đã
giải quyết được vấn đề dân téc ở nước Nga trên cơ sở dân chủ và lợi Ých của nhân
dân lao động. Nhiều dân téc ở nước Nga Sa hoàng đã được giải phóng khỏi áp bức
dân téc. Ngày 2 (15) tháng mười một 1917, Hội đồng uỷ viên nhân dân thông qua bản
"Tuyên bố về quyền lợi của các dân téc ở nước Nga”, văn kiện này đã nêu lên nguyên
tắc xã hội chủ nghĩa về quan hệ giữa các dân téc, nguyên tắc tất cả các dân téc ở nước
Nga đều được tự do phát triển và bình đẳng hoàn toàn. Ngày 20-1 (ngày 3 tháng chạp)
1917. Hội đồng đã ra lời kêu gọi đặc biệt "Gửi nhân dân lao động theo đạo Hồi ở các
nước Nga và Phương Đông”, trong đó có nói rằng: "Từ nay tín ngưỡng và tập quán
của các bạn, các thể chế dân téc và văn hóa của các bạn đều được tự do và bất khả
xâm phạm”.
Không chỉ dừng lại trong phạm vi nước Nga, ngày 29-8-1918, Hội đồng uỷ
viên nhân dân đã ra sắc lệnh huỷ bỏ tất cả mọi hiệp ước ký kết giữa Chính phủ đế
quốc Nga với Chính phủ vương quốc Phổ và Chính phủ Áo - Hung về việc chia cắt
Ba Lan. Bản sắc lệnh vạch rõ rằng những hiệp ước đó trái với nguyên tắc dân téc tự
quyết và tinh thần pháp luật cách mạng của nhân dân Nga. Nhân dân Nga thừa nhận
quyền độc lập và thống nhất là quyền không thể thiếu của nhân dân Ba Lan, vì vậy,
những hiệp ước đó phải được huỷ bỏ. Cùng với các văn kiện này, Chính phủ Xô viết
đã ban hành các sắc lệnh về quyền tự quyết của Ucơraina, Ba Lan, Phần Lan, các sắc


lệnh về việc huỷ bỏ tất cả các hiệp ước không bình đẳng mà Chính phủ Sa hoàng đã
(1)
Hå ChÝ Minh, Lªnin vµ chñ nghÜa Lªnin, Nxb Sù thËt, H.1982, trang 121.
1
buộc các nước Trung Hoa, Iran, Thổ Nhĩ Kỳ phải ký kết trước đây. Tất cả các văn
kiện này không chỉ xác định chính sách hữu nghị giữa các dân téc của các nước Nga
Xô viết mà nó còn nêu lên một tấm gương sáng về việc giải quyết các vấn đề dân téc,
làm cho nhân dân các dân téc bị áp bức hướng về nước Nga Xô viết với một hy vọng
mới mẻ.
Những tư tưởng giải phóng vĩ đại của Cách mạng tháng Mười chính là sự thể
hiện trong thực tiễn các giá trị của chủ nghĩa Mác - Lênin. Chủ nghĩa Lênin không coi
vấn đề dân téc là một vấn đề riêng biệt mà là một bộ phận của vấn đề cách mạng vô
sản, đem nó kết hợp với phong trào đấu tranh chống đế quốc ở các thuộc địa. Đồng
thời, sự tồn tại của Nhà nước Xô viết và sự thắng lợi của công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở Liên Xô, làm cho Liên Xô trở thành căn cứ địa vững chắc của cách
mạng thế giới, cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân téc.
§ 2. NỘI DUNG, ĐẶC ĐIỂM CHỦ YẾU CỦA LỊCH SỬ CÁC NƯỚC Á - PHI - MĨ LATINH
TRONG THỜI KỲ 1918 - 1945
Đến trước Chiến tranh thế giới lần thứ nhất, về cơ bản các nước Châu Á, Châu
Phi và Mĩ latinh đã trở thành các quốc gia lệ thuộc vào các nước tư bản phương Tây ở
những mức độ khác nhau. Trong tác phẩm "Chủ nghĩa đế quốc - giai đoạn tột cùng
của chủ nghĩa tư bản” viết năm 1916, V.I. Lênin đã đưa ra một bản thống kê về diện
tích và dân số của các nước thuộc địa năm 1914: Bấy giê, 6 cường quốc lớn có nhiều
thuộc địa hơn cả là: Anh, Nga, Pháp, Đức, Mỹ, Nhật; còn lại là một số thực dân khác
như Bỉ, Hà Lan tất cả đã chiếm thuộc địa với diện tích là 91,4 triệu km
2
với số dân
hơn 1 tỷ người. Nếu kể các nước nửa thuộc địa như Ba Tư, Trung Quốc, Thổ Nhĩ Kỳ
thì diện tích sẽ là 10,9 triệu km
2

với số dân hơn 1 tỷ 300 triệu người (so với tổng diện
tích các lục địa là 133,9 triệu km
2
và số dân lúc đó là 1 tỷ 600 triệu người). Riêng đế
quốc Anh thống trị trên một diện tích 33,8 triệu km
2
và với 440 triệu dân, tức là cứ 1
người Anh chính quốc thì có 9,8 người ở các thuộc địa.
Sau Chiến tranh thế giới lần thứ nhất, cơ cấu kinh tế xã hội của các nước thuộc
địa và phụ thuộc có những thay đổi lớn. Nền công nghiệp dân téc bắt đầu được phát
triển, giai cấp tư sản dân téc ra đời, giai cấp vô sản ngày càng tăng nhanh cả về số
lượng và chất lượng. Cùng với quá trình này là sự bần cùng hoá của các tầng líp nhân
dân lao động. Chính những nhân tố này đã tạo nên một phong trào đấu tranh mạnh mẽ
của nhân dân Á, Phi, Mĩ latinh trong cuộc đấu tranh vì độc lập dân téc. Trong cuộc
2
đấu tranh này, nhân dân các nước Á, Phi, Mĩ latinh đã thu được những thắng lợi bước
đầu ở Ápganixtan, Mông Cổ, Thổ Nhĩ Kỳ, Ríp. Tuy nhiên nội dung chủ yếu của lịch
sử các nước Á, Phi, Mĩ latinh trong những năm 1918 - 1945 vẫn là lịch sử của cuộc
đấu tranh chống lại áp bức dân téc của chủ nghĩa thực dân phương Tây.
Đặc điểm nổi bật trong sự phát triển của các nước Á, Phi, Mĩ latinh từ sau cuộc
Cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười Nga là ở nhiều nước giai cấp vô sản trẻ tuổi
đã tích cực tham gia vào cuộc đấu tranh giành độc lập, chống ách thống trị của chủ
nghĩa đế quốc bên ngoài. Chẳng hạn như ở Trung Quốc, công nhân Thượng Hải,
Đường Sơn, Trường Tân Điếm và các thành phố khác, đã tích cực tham gia “Phong
trào Ngò Tứ” năm 1919, họ đã tổ chức những cuộc bãi công chính trị đầu tiên trong
lịch sử Trung Quốc để từ đó vươn lên trở thành một lực lượng chính trị trong cuộc
đấu tranh giành quyền lãnh đạo cách mạng Trung Quốc; ở Inđônêxia, Đông Dương
phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân cũng phát triển mạnh mẽ trong những
năm 20, 30 của thế kỷ XX Trong điều kiện của cao trào cách mạng giải phóng dân
téc, các Đảng Cộng sản đã được thành lập ở nhiều nước. Sù ra đời của Đảng Cộng sản

ở các nước Á, Phi, Mĩ latinh là thể hiện bước phát triển hơn nữa của cuộc đấu tranh
này. Sau khi thành lập, các Đảng Cộng sản đã nhanh chóng phát triển và ngày càng
được củng cố để vươn lên đảm nhận vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân trong
cuộc đấu tranh giải phóng dân téc của nhân dân các nước bị áp bức, phụ thuộc. Năm
1918 Đảng Cộng sản Áchentina ra đời. Năm 1920, Đảng Cộng sản Inđônêxia ra đời.
Năm 1921, Đảng Cộng sản Trung Quốc, Đảng Cộng sản Ai Cập, Đảng Cộng sản
Nam Phi cũng được thành lập. Tiếp đó, các Đảng Cộng sản cũng được thành lập ở
Braxin (1922), Cuba (1925), Đông Dương (1930)
Với sự lớn mạnh của giai cấp vô sản và sự ra đời của các Đảng Cộng sản, cuộc
đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân của nhân dân Á, Phi, Mĩ latinh đã diễn ra phong
phú, đa dạng hơn so với thời kỳ cận đại cả về hình thức lẫn xu hướng. Tuỳ theo điều
kiện cụ thể của mỗi nước mà xu hương vô sản hay tư sản được lùa chọn cũng như
hình thức đấu tranh là bạo lực hay bất bạo lực được áp dông.
Mặc dù cuộc đấu tranh của các dân téc là không giống nhau nhưng phong trào
đấu tranh của các nước thuộc địa, phụ thuộc ở Á, Phi, Mĩ Latinh là phong trào chống
đế quốc đồng thời cũng là phong trào chống phong kiến, bởi vì ở đây sự thống trị của
chủ nghĩa đế quốc dùa vào sự ủng hộ và câu kết với bọn phong kiến thuộc địa. Vì thế
3
nên giai cấp tư sản dân téc cũng tích cực tham gia vào phong trào đấu tranh và ở
nhiều nước giai cấp này đã lãnh đạo cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do cho đất nước.
Là một bộ phận của phong trào cách mạng thế giới, sự phát triển của phong trào cách
mạng ở Á, Phi, Mĩ latinh đã góp phần to lớn trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa
phát xít và nguy cơ Chiến tranh thế giới. Trong những năm 1936 - 1939, Mặt trận dân
téc thống nhất đã ra đời ở nhiều nước Á, Phi, Mĩ latinh và trong những năm Chiến
tranh thế giới lần thứ hai, cuộc đấu tranh của nhân dân Á, Phi, Mĩ latinh đã hoà cùng
với cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít do các lực lượng dân chủ toàn thế giới
tiến hành. Tuy nhiên, sự phát triển của cuộc đấu tranh vì độc lập dân téc trong suốt
những năm 1918 - 1945 ở Á, Phi, Mĩ latinh là một quá trình liên tục với nội dung dân
téc, dân chủ.
Xem xét sự phát triển của phong trào đấu tranh giải phóng dân téc ở các nước

Á, Phi, Mĩ latinh trong thời kỳ 1918 -1945, chóng ta thấy phong trào phát triển quyết
liệt trước hết là ở châu Á, ban đầu là những nước gần với Liên Xô như Mông Cổ,
Trung Quốc, Thổ Nhĩ Kỳ, Apganixtan, Ên Độ sau đó lan xuống các nước Đông Nam
Á và các nơi khác.
Bên cạnh sự phát triển mạnh mẽ của phong trào giải phóng dân téc ở châu Á,
phong trào cách mạng ở châu Phi và Mĩ latinh cũng có bước phát triển mới.
Ở châu Phi sự phát triển ý thức dân téc đã được thể hiện qua sự kiện Đại hội
toàn Phi lần thứ I năm 1919 họp ở Pari. Có 17 đại biểu tham dự Đại hội và họ đề ra
quyền của người Phi tham gia việc cai quản đất nước, bắt đầu từ các cơ quan địa
phương và dần dần đi đến những “Nhiệm vụ chính quyền cấp cao để trong tương lai
châu Phi do người Phi cai quản”. Chính sự trưởng thành của ý thức dân téc đã thúc
đẩy mạnh mẽ hơn cuộc đấu tranh giải phóng dân téc của nhân dân châu Phi mà tiêu
biểu là các nước Bắc Phi và Châu Phi nhiệt đới.
Ở Ai Cập, từ năm 1918 đã xuất hiện các tiểu tổ xã hội chủ nghĩa ở Cairo,
Alêchxanđri, Poóc Xait. Các tiểu tổ này đã hợp nhất thành Đảng Xã hội và từ năm
1921 lấy tên là Đảng Cộng sản Ai Cập. Trong những năm 1918- 1919 ở Ai Cập đã
diễn ra cuộc đấu tranh "giành độc lập hoàn toàn cho Ai Cập bằng con đường hoà
bình và hợp pháp” do tư sản dân téc Ai Cập khởi xướng. Phong trào đấu tranh đã
nhanh chóng phát triển mạnh mẽ từ "Con đường hoà bình và hợp pháp” thành cuộc
khởi nghĩa vũ trang trong nhiều thành thị. Các cuộc bãi công của công nhân xe điện,
4
đường sắt ở Cairô, công nhân khuân vác ở Alêchxanđri cùng các viên chức Nhà nước
đã diễn ra. Trong nhiều làng xã, tỉnh thành, các ủy ban cách mạng có tên gọi Xô viết
được thành lập. Do thiếu sự lãnh đạo thống nhất nên cuộc khởi nghĩa vũ trang đã bị
thực dân Anh đàn áp vào tháng 4-1919. Tuy nhiên, đến cuối năm 1921, một cuộc khởi
nghĩa mới lại bùng nổ buộc thực dân Anh phải tuyên bố huỷ bỏ chế độ bảo hộ và trao
trả "độc lập” cho Ai Cập. Quốc vương Atmetphuat đổi danh hiệu là vua Chuat. Tháng
5/1923 Hiến pháp mới được ban hành. Tuy nhiên trên thực tế, ảnh hưởng của đế quốc
Anh vẫn giữ nguyên, bởi vì:
- Chính phủ Anh vẫn để quân đóng ở Ai Cập với lý do “bảo vệ giao thông” của

đế quốc Anh ở đây.
- Anh bảo vệ cho Ai Cập khỏi bị các nước khác xâm lăng hoặc can thiệp một
cách gián tiếp hay trực tiếp.
- Anh bảo vệ quyền lợi của người ngoại quốc và các dân téc thiểu số ở Ai Cập.
- Anh vẫn giữ xứ Xu Đăng tách ra khái Ai Cập.
Không thoả mãn với những điều này, nhân dân Ai Cập tiếp tục đấu tranh. Các
cuộc biểu tình lại nổ ra ở Cairô, Alếchxanđri với khẩu hiệu "Đả đảo thực dân Anh”,
"Ai Cập muôn năm”. Đi đầu trong các cuộc đấu tranh này là học sinh, sinh viên. Tuy
nhiên đợt đấu tranh này chỉ diễn ra ở thành phố mà không lan rộng về các vùng khác
nên chỉ Ýt lâu sau đã tự lắng xuống.
Đến năm 1930, thực dân Anh đề ra hiến pháp nhằm tập trung quyền hành vào
tay nhà vua thân Anh. Tháng 5 năm 1931, cuộc bầu cử diễn ra trong tình hình quần
chúng bất bình sâu sắc. Trong cả nước đã bùng nổ một cuộc bãi công chính trị, đặc
biệt mạnh mẽ ở Cairô và Poóc Xait, quần chúng đã xung đột vũ trang với cảnh sát,
quân đội. Các cuộc biểu tình của học sinh, sinh viên đã diễn ra ở Cairô và
Alếchxanđri. Trong đợt đấu tranh này Gaman Abđen Natxơ dẫn đầu một đoàn học
sinh hô vang khẩu hiệu "Ai Cập muôn năm”. Chính quyền tiến hành đàn áp làm hai
học sinh bị chết và Natxơ bị một viên đạn sượt qua trán, thành sẹo. Mặc dù vậy ý chí
đấu tranh đã được chàng thanh niên này khẳng định:
"Dù trái tim tôi có thể dời từ bên trái qua bên phải, dù các kim tự tháp có di
chuyển, dù sông Nin có đổi hướng thì chí tôi cũng không thay đổi”.
Sau này người ta sẽ thấy chàng thanh niên này xuất hiện trên chính trường Ai
Cập và đóng một vai trò quan trọng trong lịch sử các nước Arập.
5
Ở Marốc, phong trào đấu tranh bùng lên mạnh mẽ ở Marốc thuộc Pháp và
Marốc thuộc Tây Ban Nha dưới sự lãnh đạo của Apden Kơrim. Vào giữa năm 1921,
Apden Kơrim đã lãnh đạo nhân dân các bộ lạc Rip chiến thắng ở Annâuơn (Anoul) do
Tướng Xinvettôpơ chỉ huy gồm 12.000 binh lính và 120 khẩu đại bác. Nghĩa quân
chiếm được nhiều súng đạn và bắt được khoảng 1000 tù binh, buộc Tây Ban Nha phải
chuộc 4 triệu đồng peseta. Ngày 19-9-1921 tại Đại hội các bộ lạc dưới sự lãnh đạo

của Apden Kơrin, Cộng hoà Rip độc lập được tuyên bố thành lập.
Trên cơ sở thắng lợi đã giành được, Apden Kơrim tiến lên đánh vùng Marốc
thuộc Pháp, giải phóng nhiều vùng rộng lớn như Fez, Taza, Duezzane. Lực lượng
nghĩa quân bấy giê lên đến 140.000 người. Chính phủ Pháp vội vàng cử Thống chế
Pêtanh sang Marốc để đối phó. Với viện trợ từ Pari, Pêtanh có trong tay 300.000 quân
và 22 phi cơ, đồng thời quân Pháp liên kết với Tây Ban Nha để tiêu diệt nghĩa quân.
Do lực lượng còn yếu, ngày 25 tháng 5 năm 1926, Apden Kơrim bị bao vây và phải ra
hàng. Cộng hoà Rip bị thủ tiêu và cuộc khởi nghĩa bị thất bại. Apden Kơrim bị đày
sang đảo Rêuniông (Réunion) và sau này ông đã trèn thoát trở về Ai Cập hợp tác với
Nátxơ.
Ở Mĩ Latinh, cuộc đấu tranh của nhân dân Mĩ latinh đã diễn ra sôi nổi ở nhiều
nước như Achentina, Mêhicô, Braxin, Chilê, Cuba, Pêru Mục tiêu của các cuộc đấu
tranh này là chống lại các chính phủ phản động thân Mỹ, đòi thực hiện các quyền dân
chủ. Cuộc đấu tranh này đặc biệt phát triển trong thời kỳ 1929 - 1933, do cuộc khủng
hoảng kinh tế đã giáng một đòn nặng nề vào các nước trong khu vực này, hàng hoá
xuất khẩu truyền thống của các nước Mĩ latinh xuống giá nghiêm trọng, quần chúng
nhân dân bị bần cùng hoá.
Ở Mêhicô, trong những năm 1920 - 1921 đã xuất hiện các Xô viết ở một số
thành phố và bang. Chính cuộc đấu tranh của quần chúng nhân dân là cơ sở để chính
phủ tư sản dân téc, đứng đầu là Laxarô Cácđênát - lãnh tụ cánh tả của tư sản dân téc
Mêhicô - thi hành một số biện pháp tiến bộ có lợi cho nhân dân, hạn chế ảnh hưởng
của chủ nghĩa đế quốc những năm 1934 -1939.
Năm 1935, phong trào quần chúng nhân dân rộng lớn mà nòng cốt là công nhân
đã đập tan âm mưu đảo chính của các lực lượng phản động. Năm 1935, Tổng liên
đoàn lao động Mêhicô được thành lập và nhanh chóng tập hợp lực lượng, lãnh đạo
phong trào đấu tranh của nhân dân lao động. Dưới ảnh hưởng của phong trào đấu
6
tranh mạnh mẽ do quần chúng công nông tiến hành, Chính phủ Cácđênát đã tuyên bố
thi hành "luật cải cách ruộng đất”. Ngày 23 tháng 6 năm 1937, luật quốc hữu hoá các
đường sắt chủ yếu được thực hiện, đưa 700 km đường sắt vào tay Nhà nước. Tháng 3

năm 1930, Cácđênát tuyên bố quốc hữu hoá 17 công ty dầu lửa nước ngoài Tuy
nhiên, trước sự bao vây, phá họai kinh tế của Mỹ, Anh, Chính phủ Cácđênát ngày
càng thiên hữu và cuối cùng đã bị lật đổ. Mặc dù vậy, phong trào đấu tranh của quần
chúng nhân dân vẫn tiếp tục phát triển, đặc biệt là của công nhân. Tháng 9 năm 1930,
theo sáng kiến của các công đoàn Mêhicô, Tổng liên đoàn Mĩ latinh được thành lập ở
Mêhicô bao gồm các tổ chức công nhân trong nhiều nước Mĩ latinh có cùng mục đích
phấn đấu là xây dựng một chế độ xã hội dùa trên "Sự tôn trọng độc lập kinh tế và
chính trị của mỗi nước, tình hữu nghị giữa các dân téc trên thế giới”.
Ở Braxin, cuộc đấu tranh của công nhân lên cao trong suốt năm 1920 đã buộc
chính phủ phải có những nhượng bộ như: thực hiện chế độ ngày làm việc 8 giê, tăng
lương cho công nhân một số ngành, thi hành chế độ tiền lương mới cho công nhân,
chế độ trợ cấp tai nạn lao động cho công nhân Từ năm 1924, làn sóng đấu tranh đã
lôi cuốn tất cả các tầng líp trong xã hội Braxin. Tháng 7 năm 1924, cuộc khởi nghĩa
của một trại lính ở trung tâm công nghiệp Xan Paolô đã nổ ra và nhanh chóng lan
rộng nhiều nơi. Trong lóc đó, một tiểu đoàn lính do đại uý Luit Cáclốt Prêxtéc chỉ huy
đã nổi dậy khởi nghĩa thành phố Xanto Angilô, thuộc Tây - Nam Braxin. Cuộc khởi
nghĩa được sự ủng hộ to lớn của quần chúng nhân dân và lan nhanh khắp vùng tây
nam. Nghĩa quân đòi chính phủ Bécnađét phải thực hiện tự do ngôn luận, báo chí, trả
tù chính trị, thực hiện bỏ phiếu kín, giải quyết nạn thất nghiệp, chia ruộng đất cho
nông dân Từ tháng 10 năm 1924, sự liên hệ giữa nghĩa quân của Prêxtéc với nghĩa
quân ở Xan Paolô đã được thiết lập, tuy nhiên cũng từ đây, Chính phủ Bécnađét bắt
đầu tấn công lại nghĩa quân. Do so sánh lực lượng không có lợi và vùng đồng bằng
miền nam Braxin không phù hợp với lối đánh du kích Prêxtéc quyết định vừa chiến
đấu vừa hành quân lên miền Bắc đất nước. Từ tháng 10 năm 1924 đến tháng 2 năm
1927, nghĩa quân đã vượt qua 26.000km để tới miền Bắc, song do lực lượng hao tổn
nên nghĩa quân rút sang Bôlivia để củng cố lực lượng.
Mặc dù cuộc khởi nghĩa Prêxtec không thành công nhưng "Người kỵ sĩ hy
vọng” đã thức tỉnh ý thức cách mạng của nhân dân Braxin, làm tiền đề cho sự phát
triển của lực lượng dân téc, dân chủ ở đây.
7

Trong những năm 1935 - 1937, cuộc đấu tranh ở Braxin lại lên cao nhằm chống
lại chế độ độc tài của Vácgát, xây dựng mặt trận nhân dân. Công nhân Braxin đã đi
đầu trong cuộc đấu tranh này. 15 triệu công nhân đã tham gia vào các cuộc bãi công.
Bên cạnh đó phong trào đấu tranh của nông dân cũng phát triển, sự bất mãn lan rộng
trong các tầng líp tiểu tư sản thành thị. Trên cơ sở đó, tháng 3 năm 1935 tổ chức Đồng
minh giải phóng dân téc được thành lập theo sáng kiến của Đảng Cộng sản. Tổ chức
này đã thu hót được 1,5 triệu người, bao gồm công nhân, nông dân, quân nhân và các
nhóm tư sản dân téc, đặt dưới sự lãnh đạo của Cáclốt Luít Prêxtét. Từ ngày 5 tháng 7
năm 1935, khẩu hiệu: "Tất cả chính quyền về tay Đồng minh” được nêu ra, cuộc đấu
tranh của quần chúng phát triển mạnh mẽ và chuyển thành đấu tranh vò trang. Chính
quyền dân téc cách mạng được thiết lập ở Natalia, Riu Gơranđiđu Noócđi. Khởi nghĩa
bùng nổ cả ở Riô Đờ Gianêrô. Trước tình hình đó, Vácgát đã tiến hành các biện pháp
khẩn cấp, tiến hành đảo chính, giải tán Quốc hội, đặt các chính đảng ra ngoài vòng
pháp luật, đàn áp phong trào quần chúng (tháng 11 năm 1937).
Ở Chilê, năm 1931 phong trào đấu tranh của quần chúng nhân dân lên cao với
yêu cầu cần thiết lập chế độ cai trị theo hiến pháp, chống lại ảnh hưởng của đế quốc
Mỹ và đòi giải quyết nạn thất nghiệp, cải thiện đời sống. Đến tháng 6 năm 1932,
chính phủ mới của Chilê được thành lập, do Gơrôvơ đứng đầu. Chilê tuyên bố là nước
"Cộng hoà xã hội chủ nghĩa”, nhưng các lực lượng phản động trong nước được các
thế lực đế quốc bên ngoài giúp sức đã lật đổ chính phủ Gơrôvơ, đưa lãnh tụ Đảng Tự
do là Ácturô Alếchxanđri lên làm Tổng thống.
Chính sách phản nhân dân của chính phủ Alếchxanđri đã gây nên làn sóng phản
đối không chỉ trong tầng líp nhân dân lao động mà trong cả các tầng líp tiểu tư sản và
tư sản hạng trung. Trên cơ sở đó, năm 1936, Mặt trận Nhân dân đã ra đời trong
phong trào đấu tranh chống chính phủ của Alếchxanđri. Mục tiêu của Mặt trận là tự
do, dân chủ, độc lập dân téc thực sự, cải thiện đời sống nhân dân lao động, do vậy nó
đã thu hót đông đảo các lực lượng tiến bộ trong xã hội như: Đảng Cộng sản, Đảng Xã
hội, những người cấp tiến và dân chủ. Chính Mặt trận Nhân dân là lực lượng chính
trong cuộc đấu tranh chống lại các thế lực phản động ở Chilê. Trong cuộc bầu cử
quốc hội năm 1937, Mặt trận đã đưa một số đại biểu vào Quốc hội. Tiếp đó, năm

1938, Mặt trận nhân dân đã giành thắng lợi, Chính phủ Mặt trận nhân dân được thành
lập do Pêđơrô Cácđa, lãnh tụ cấp tiến, làm Tổng thống. Sau khi giành thắng lợi,
8
Chính phủ Mặt trận nhân dân đã thực hiện một số biện pháp tiến bộ trong nước và giữ
cho Chilê khỏi rơi vào tay lực lượng phát xít.
Ở Cuba, tháng 8 năm 1925 Đảng Cộng sản Cuba đã ra đời và tiến lên lãnh đạo
phong trào quần chúng đấu tranh chống lại các thế lực phản động tay sai của Mỹ, đòi
độc lập dân téc, tự do, tiến bộ xã hội và đời sống dân sinh. Đặc biệt Đảng đã đóng vai
trò nòng cốt trong phong trào đấu tranh những năm 1933 - 1935. Nhờ vậy, năm 1939,
Đảng được quyền họat động hợp pháp, tiến hành hợp nhất với Liên đoàn cách mạng
thành Liên đoàn Cách mạng Cộng sản (từ tháng 01 năm 1944, Liên đoàn Cách mạng
Cộng sản đổi tên thành Đảng Xã hội nhân dân Cuba).
Cũng như ở các nước Mĩ latinh khác, nhân dân Cuba tiến hành đấu tranh chống
lại chế độ độc tài thân Mỹ trong nước. Từ năm 1933, cuộc đấu tranh chống chế độ
độc tài thân Mỹ Macchađô đã phát triển mạnh mẽ. Mỹ tìm cách dưa Xécpêđét,
nguyên đại sứ Cuba ở Mỹ, lên thay. Phong trào đấu tranh của nhân dân Cuba lại tiếp
tục với sự tham gia của đông đảo nhân dân, trong có cả tư sản dân téc và binh lính
yêu nước. Đầu tháng 9 năm 1933, một cuộc đảo chính tiến bộ đã nổ ra, Xécpêđét bị
lật đổ, chính phủ mới được thành lập do Giáo sư Gơrây Xan Máctin đứng đầu. Chính
phủ mới đại diện cho tư sản dân téc Cuba đã thi hành một số biện pháp dân chủ tiến
bộ như chế độ ngày làm 8 giê , nâng cao tiền lương cho công nhân, hạn chế họat động
của một số công ty độc quyền Mỹ Trước tình hình đó, đế quốc Mỹ đã cho tàu chiến
đến bao vây các hải cảng lớn của Cuba nhằm uy hiếp phong trào đấu tranh của quần
chúng và khích lệ các lực lượng phản động trong nước. Tuy nhiên chính phủ Mỹ lúc
bấy giê, do Ph.Rudơven đứng đầu,đã không dám lệnh cho quân đội đổ bộ vào Cuba
mà sử dụng các Đại sứ Mỹ ở Cuba là Oelét (Welles)và Capheri (Caffery) để giật dây
các lực lượng phản động, gây áp lực buộc Chính phủ tư sản dân téc Xan Matin phải từ
chức và đưa tập đoàn Batixta - Menđieta thân Mỹ lên cầm quyền.
Chính sự phát triển mạnh mẽ của phong trào quần chúng nhân dân ở Cuba đã
góp phần buộc đế quốc Mĩ phải tuyên bố xoá bỏ "Điều khoản bổ sung Pơlát". Đồng

thời, phong trào quần chúng chính là sức Ðp buộc Batixta phải ban hành một số chính
sách tự do, dân chủ: Năm 1938, Đảng Cộng sản Cuba ra họat động công khai sau 13
năm bị đặt ra ngoài vòng pháp luật; năm 1939, Tổng liên đoàn lao động Cuba được
thành lập và Quốc hội lập hiến được triệu tập; năm 1940, Quốc hội lập hiến đã thông
qua Hiến pháp dân chủ và tiến bộ. Khi Chiến tranh thế giới thứ II nổ ra, Cuba đã tham
9
gia Đồng minh chống phát xít, thiết lập quan hệ ngoại giao với Liên Xô. Phong trào
đấu tranh của nhân dân Cuba thời kỳ này là bước chuẩn bị về tư tưởng cho nhân dân,
đó chính là nền tảng để Phiđen Caxtrô và tổ chức "Phong trào cách mạng" của ông
phát triển sau này.
Trong những năm 1939 -1945, nhân dân Á, Phi, Mĩ latinh đã kiên cường đấu
tranh chống lại chủ nghĩa phát xít. Sự tham gia của các nước thuộc địa vào cuộc đấu
tranh chống chủ nghĩa phát xít có nhiều hình thức khác nhau. Ở những nước bị phát
xít chiếm đóng, nhân dân các nước này đã đấu tranh quyết liệt chống lại sự xâm lược
phát xít và ách thống trị của chủ nghĩa phát xít, ở những nước không bị phát xít chiếm
đóng, sự đóng góp của nhân dân các nước này thể hiện ở sự huy động sức người sức
của cho các "mẫu quốc", phục vụ cho cuộc chiến tranh trong đồng phe Đồng minh.
Trong giai đoạn này cuộc kháng chiến chống Nhật của nhân dân Trung Quốc, Triều
Tiên và các nước Đông Nam Á là bộ phận quan trọng trong cuộc đấu tranh chung của
các lực lượng dân chủ trên thế giới chống chủ nghĩa phát xít.
Cùng với chiến thắng của các lực lượng đồng minh dân chủ đối với chủ nghĩa
phát xít thế giới, tùy vào những điều kiện cụ thể ở mỗi nước, nhân dân các dân téc
thuộc địa, phụ thuộc - đặc biệt là ở châu Á - đã giành được độc lập ở những mức độ
khác nhau sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Có thể nói rằng, thời kỳ 1918 - 1945 là
bước chuẩn bị cho những thắng lợi của các nước Á, Phi, Mĩ latinh trong cuộc đấu
tranh vì độc lập dân téc và tiến bộ xã hội trong những năm tiếp theo.
10
CHƯƠNG II
QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA MỘT SỐ QUỐC GIA TIÊU BIỂU
§ I. MÔNG CỔ THẮNG LỢI CỦA CUỘC CÁCH MẠNG NHÂN DÂN (1921 - 1924), TIẾN LÊN

XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI.
1. Tình hình Mông Cổ trước cách mạng:
Đến đầu thế kỷ XX, Mông Cổ là một nước thuộc địa nửa phong kiến nằm dưới
sự thống trị của triều Mãn Thanh (Trung Quốc). Đứng đầu nhà nước này là Bogdo
Gheghen, gáo chủ đạo Lạt ma, nắm trong tay cả thần quyền lẫn vương quyền. Đất
nước bị chia cắt thành các công quốc riêng rẽ, gọi là cơ, đứng đầu là vương công. Mỗi
cơ là một đơn vị hành chính, đồng thời là một đơn vị quân sự, có nghĩa vụ đóng góp
cho nhà nước hàng năm một số quân nhất định về kỵ binh và bộ binh.
Trước cách mạng, Mông Cổ là một nước rất lạc hậu, nền kinh tế hầu như chỉ
dùa trên cơ sở chăn nuôi gia súc, cả nước không có một nhà máy, xí nghiệp công
nghiệp nào, tuyệt đại đa số cư dân sống bằng nghề chăn nuôi du mục. Từ năm 1870
trở đi, tư bản Nga và tiếp đó là Nhật, Anh, bắt đầu xâm nhập vào Mông Cổ. Tuy nhiên
tất cả đều họat động bằng nghề cho vay lãi nên không có tác dụng thúc đẩy nền kinh
tế mà chỉ làm cho đời sống nhân dân càng thêm khèn khổ.
Nông dân Mông Cổ được chia làm ba loại: một số bị cột chặt trên đất đai của
bọn vương công; một số bị cột chặt trên đất đai của nhà chùa và các tăng lữ Lạt ma
giáo; số đông là nông dân thường có nghĩa vụ nép tô và đóng thuế cho nhà nước
phong kiến và bọn thống trị ngoại téc.
Cũng như nền kinh tế, văn hoá giáo dục hầu như không có gì đáng kể. Cả nước
không có một trường học, không có nhà in, nhà xuất bản nào, không có một tờ báo
hay tạp chí phát hành. Lạt ma giáo và các tu viện được sử dông như những công cụ
của bọn thống trị nhằm nô dịch tinh thần nhân dân lao động. Hậu quả của chính sách
ngu dân đó là hầu hết nhân dân đều mù chữ, văn hoá dân téc bị mai một và gần 1/2
trai tráng xuất gia quy y Lạt ma giáo, dân số giảm sút, đe dọa sự tồn vong của dân téc.
Dưới ách thống trị nặng nề của triều đình Mãn Thanh, cuộc đấu tranh của nhân
dân Mông Cổ đã không ngừng phát triển. Năm 1911, nhờ một cao trào đấu tranh của
nông dân, Mông Cổ đã thành lập một chế độ quân chủ tự trị, do giáo chủ Bốc đô
Gheghen trị vì. Ở mét mức độ nhất định, chế độ quân chủ tự trị này vẫn là một bước
11
tiến của lịch sử Mông Cổ. Tuy nhiên, đời sống nhân dân thì vẫn như xưa.

Thắng lợi của cuộc Cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười Nga năm 1917
làm cho triều đình phong kiến tự trị Mông Cổ hoảng sợ. Đồng thời các nước đế quốc
muốn biến Mông Cổ thành căn cứ quân sự để mở rộng can thiệp vũ trang chống nước
Nga Xô viết. Viên toàn quyền của Trung Quốc ở Uốcga (thủ đô Mông Cổ lúc bấy giê)
đã buộc Mông Cổ ký điều ước "64 khoản", theo đó quân đội Trung Quốc sẽ chiếm
đóng Mông Cổ, mọi phí tổn phải do Mông Cổ đài thọ. Tháng 3 năm 1919, lực lượng
quân phiệt Trung Quốc đã tiến vào Uốcga. Tháng 1 năm 1919, bọn quân phiệt Từ Trụ
Thanh tới Uốcga, gây sức Ðp buộc tập đoàn phong kiến Mông Cổ phải từ bỏ quyền tự
trị, làm lễ trao quyền cai trị Mông Cổ cho Từ Trụ Thanh.
Nhật Bản cũng lo sợ không kém Trung Quốc. Sau chiêu bài thành lập "Nước
Đại Mông", Nhật đã dùng lực lượng Bạch vệ Nga, do Unghéc cầm đầu, xâm nhập sâu
hơn vào Mông Cổ. Tháng 10 năm 1920, với khẩu hiệu lừa bịp "giải phóng Mông Cổ",
Unghéc đã dẫn 800 quân Bạch vệ vào Mông Cổ. Tháng 2 năm 1921, sau hai lần tấn
công Uốcga, Unghéc đã thắng lợi. Bọn phong kiến quân phiệt Trung Quốc bị đánh
đuổi, triều đình phong kiến Mông Cổ được khôi phụ về hình thức nhưng mọi quyền
hành thực tế nằm trong tay bọn Bạch vệ Nga.
Bọn Bạch vệ Unghéc ra sức vơ vét sức người sức của của nhân dân Mông Cổ
để phục vụ cho cuộc tấn công nước Nga Xô viết, đời sống nhân dân Mông Cổ càng
trở nên cơ cực hơn. Do đó, sự bất bình sâu sắc lan rộng trong các tầng líp nhân dân.
Yêu cầu của nhân dân Mông Cổ lúc bấy giê là phải thủ tiêu quan hệ phong kiến kìm
hãm sự phát triển của đất nước và nhất là yêu cầu giải phóng dân téc khỏi ách thống
trị của các thế lực bên ngoài. Trên cơ sở này các nhóm du kích, cách mạng đã xuất
hiện và họat động ở Mông Cổ.
2. Tác động của Cách mạng tháng Mười Nga và thắng lợi của cuộc cách
mạng nhân dân ở Mông Cổ.
Thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga đã có ảnh hưởng sâu sắc đối với
cách mạng Mông Cổ, trước hết xuất phát từ chính đường lối của Đảng Bônsêvích Nga
và Nhà nước Xô viết đối với cách mạng Mông Cổ. Từ năm 1916, V.I. Lênin đã viết
rằng" Chúng ta, những người công nhân nước Nga phải đòi hỏi chính phủ Nga
hoàng cút đi khỏi xứ Mông Cổ, Tuyếcki và Iran. Chóng ta ra sức giúp đỡ các dân téc

lạc hậu bị áp bức tiến tới sử dụng máy móc, giảm nhẹ những công việc nặng nề, thực
12
hiện dân chủ và chủ nghĩa xã hội".
Sau thắng lợi của Cách mạng tháng Mười, tháng 8 năm 1919, Chính phủ Xô
viết đã gửi cho nhân dân Mông Cổ và Chính phủ Ngoại Mông một bức công hàm với
nội dung: "Chính phủ Xô viết một lần nữa trịnh trọng tuyên bố rằng: nhân dân Nga từ
bỏ mọi hiệp ước mà Nga hoàng trước đây đã ký kết với chính phủ Nhật và Trung Hoa
về Mông Cổ. Mông Cổ ngày nay là một nước độc lập. Đối với bọn cố vấn, bọn lãnh
sự của Nga hoàng, bọn tài phiệt Nga, phải đuổi cổ chúng ra khỏi đất Mông Cổ. Mọi
quyền bính ở Mông Cổ đều phải thuộc về tay nhân dân Mông Cổ. Không một nước
ngoài nào được can thiệp vào nội trị của Mông Cổ. Hiệp ước Nga - Mông năm 1913
đã bị thủ tiêu. Mông Cổ, một quốc gia độc lập, có quyền ngoại giao trực tiếp với tất cả
các nước khác, không cần có sự đỡ đầu hay trung gian nào của Bắc Kinh hay
Pêtơrơgrát."
Cùng với đường lối mới của Nhà nước Xô viết, những thắng lợi của nhân dân
Nga, đặc biệt là quét sạch bọn Kônsắc giải phóng Xibêri, làm cho nhân dân Mông Cổ
càng thêm tin tưởng vào cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga. Tìm hiểu về Cách mạng
tháng Mười, người Mông Cổ đi đến kết luận: "Chỉ có Cách mạng xã hội chủ nghĩa
tháng Mười mới mở ra cho nhân dân Mông Cổ con đường giải phóng thực sự khỏi
ách của ngoại téc và của phong kiến bản xứ. Cách mạng tháng Mười Nga không
những chỉ giải phóng nhân dân Mông Cổ khỏi ách của Nga hoàng và của giai cấp tư
sản đế quốc Nga, nó còn kích thích tinh thần dân téc và hành động cách mạng của
quần chúng lao động Mông Cổ".
Những tư tưởng của Cách mạng tháng Mười, những tin tức về thắng lợi quân
sự, chính trị và kinh tế của Nhà nước Xô viết trẻ tuổi được phổ biến rộng rãi sang
Mông Cổ qua những phần tử tiên tiến trong nhân dân Mông Cổ có liên hệ với những
người Nga cách mạng hồi Êy sống ở vùng Uốcga. Năm 1919, Sukhê Bato sáng lập ra
nhóm cách mạng đầu tiên nhằm mục đích đấu tranh giải phóng dân téc, tại Uốcga.
Còng năm 1919, Sôibansan sáng lập ra một nhóm cách mạng khác với mục đích như
vậy. Chỉ trong một thời gian ngắn các tổ chức cách mạng tiến hành hội nghị quyết

định thành lập một cơ quan trung ương thống nhất làm nòng cốt cho một đảng cách
mạng về sau. Hội nghị đã khởi thảo một bản tuyên ngôn được gọi là "Lời tuyên thệ
của những người đảng viên". Hội nghị đã cử một đoàn đại biểu do Sukhê Bato và
Sôibansan dẫn đầu sang Mátxcơva và kêu gọi sự viện trợ từ Chính phủ Xô viết.
13
Ngày 1 tháng 3 năm 1921, Đại hội lần thứ nhất Đảng nhân dân cách mạng
Mông Cổ họp ở Kiasơta. Sau khi nhận định tình hình trong nước và quốc tế, Đại hội
đề ra nhiệm vụ chủ yếu là đấu tranh chống bọn đế quốc xâm lược, tuyên bố liên minh
giữa nhân dân lao động Mông Cổ và giai cấp công nhân Nga là điều kiện căn bản bảo
đảm thắng lợi cho cuộc cách mạng chống đế quốc và phong kiến. Đại hội cũng đặt
quan hệ với Quốc tế Cộng sản, bầu ra Trung ương Đảng và cử Sukhê Bato làm Tổng
tư lệnh, Sôibansan làm Chủ nhiệm Tổng cục chính trị của quân đội Mông Cổ. Tiếp đó
ngày 13- 3 -1921 Đại biểu của Đảng nhân dân cách mạng Mông Cổ, của quân đội và
của nông dân miền biên giới họp tại Trôisôcốt quyết định tiến hành khởi nghĩa vũ
trang và thành lập chính phủ nhân dân lâm thời để chuẩn bị lãnh đạo cuộc khởi nghĩa
(Sukhê Bato được cử giữ chức Bộ trưởng Bộ quốc phòng kiêm Tổng tư lệnh quân đội
nhân dân, Sôibansan giữ chức phó Tổng tư lệnh), Hội nghị đã vạch rõ mục đích của
cuộc khởi nghĩa là: 1. Giải phóng đất nước khỏi bọn quân phiệt Trung Hoa và bọn can
thiệp Bạch vệ Nga; 2. Thành lập chính quyền nhân dân cách mạng có khả năng bảo
vệ nền độc lập dân téc; 3. Kiến lập quan hệ hữu nghị với các nước láng giềng, trước
hết là với nước Nga Xô viết; 4. Triệu tập Đại hội quốc dân (Khoural) để khởi thảo và
ban hành hiến pháp.
Những nghị quyết của Đảng nhân dân cách mạng cũng như sự ra đời của Chính
phủ nhân dân lâm thời đã thể hiện rõ ràng sự phát triển của phong trào cách mạng
Mông Cổ cũng như ảnh hưởng to lớn của Cách mạng tháng Mười. Xu hướng xã hội
chủ nghĩa trong phong trào đấu tranh đó phát triển mạnh mẽ và có tác động tích cực
với phong trào cách mạng.
Với sự giúp đỡ tích cực của Hồng quân Xô viết, quân đội Mông Cổ nhanh
chóng giành những thắng lợi to lớn. Chỉ 5 ngày sau khi thành lập chính phủ lâm thời,
ngày 18 tháng 3 năm 1921, quân cách mạng đã giành thắng lợi đầu tiên ở thành phố

Kiasơta. Từ thắng lợi này, quân đội nhân dân tiếp tục truy kích đuổi bọn tàn quân,
quân phiệt Trung Hoa khỏi đất Mông Cổ. Chính phủ lâm thời kêu gọi Bócđô Gêghen
đàm phán để tránh tình trạng huynh đệ tương tàn và chĩa mòi nhọn và bọn Bạch vệ
Unghéc. Đáp lại đề nghị đó là sự từ chối và việc quân Unghéc tấn công vào Kiasơta,
Trôisôcốt và các thành phố khác. Trước tình hình đó, Chính phủ lâm thời đã ra sức
tăng cường lực lượng vũ trang, đồng thời kêu gọi Chính phủ Xô viết viện trợ quân sự.
14
Từ đây cuộc đấu tranh giải phóng của dân téc Mông Cổ kết hợp chặt chẽ với cuộc
chiến đấu của Hồng quân Xô viết chống lại bọn Bạch vệ Unghéc.
Sự giúp đỡ của Hồng quân Xô viết đã làm thay đổi hẳn tương quan lực lượng
có lợi cho cách mạng, thúc đẩy cách mạng Mông Cổ nhanh chóng đi đến thắng lợi.
Trong tháng 5 và tháng 6 năm 1921, liên quân cách mạng đã cơ bản đánh bại kẻ thù,
giải phóng đại bộ phận đất nước Mông Cổ. Đầu tháng 7 năm 1921, Unghéc tấn công
vào Trôisôcốt hòng tiêu diệt lực lượng cách mạng nhưng đã bị Hồng quân Xô viết và
quân cách mạng Mông Cổ đánh bại. Tiếp đó, Unghéc đưa tàn quân xâm nhập nước
Nga Xô viết và bị Hồng quân Xô viết bắt sống.
Ngày 10 tháng 7 năm 1921, Chính phủ lâm thời cách mạng Mông Cổ tự giải
tán, Chính phủ nhân dân Mông Cổ chính thức thành lập. Việc giải phóng cơ bản đất
nước và sự thành lập Chính phủ nhân dân là những thắng lợi to lớn có tác dụng mở
đường cho cải cách dân chủ và cho sự thiết lập chế độ cộng hoà trong tương lai.
Trong bối cảnh lịch sử cụ thể lúc bấy giê (tín ngưỡng của nhân dân và sự giác ngộ của
nhân dân còn hạn chế, Boócđô Geghen vẫn được mời làm vua Mông Cổ trên danh
nghĩa (Nhà vua không được tham dự vào các công việc của nhà nước, chỉ có quyền về
tôn giáo).
3. Hoàn thành cuộc cách mạng dân téc dân chủ và bước quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở Mông Cổ.
Phát huy những thắng lợi đã đạt được và với sự giúp đỡ của Hồng quân Xô viết
đang ở lại Mông Cổ, quân đội Mông Cổ tiếp tục tiêu diệt bọn Bạch vệ, thổ phỉ, tiến
hành thống nhất toàn bộ lãnh thổ Mông Cổ vào cuối năm 1922. Đồng thời, ngày 5
tháng 11 năm 1921, Hiệp ước Xô - Mông được ký kết, theo đó Chính phủ Xô viết xoá

bỏ mọi đặc quyền của Sa hoàng đối với Mông Cổ, tiến hành viện trợ tài chính cho
Mông Cổ. Việc ký kết hiệp ước này đã có tác dụng lớn trong việc củng cố chính
quyền cách mạng non trẻ.
Trong những năm 1922 - 1924, Chính phủ nhân dân Mông Cổ thực hiện các
biện pháp nhằm xoá bỏ những tàn tích của chế độ phong kiến như: thủ tiêu mọi nghĩa
vụ phong kiến, giải phóng nông dân khỏi ách nông nô, quốc hữu hoá ruộng đất. Chính
quyền phong kiến địa phương cũng được xoá bỏ với sự thành lập các cơ quan dân chủ
địa phương, được gọi là Khoural nhân dân.
15
Tháng 5 năm 1924 Quốc vương Bócđô Gêghen chết. Ngày 13 tháng 6 năm
1924, Chính phủ Mông Cổ ban bố sắc lệnh bãi bỏ chế độ quân chủ và thiết lập chế độ
cộng hoà ở Mông Cổ. Tiếp đó, tháng 8 năm 1924, Đại hội lần thứ III của Đảng nhân
dân cách mạng Mông Cổ tiến hành. Đại hội đã thông qua đường lối chung của Đảng
về sự phát triển của đất nước Mông Cổ trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội,
không qua con đường phát triển tư bản chủ nghĩa với sự giúp đỡ của Nhà nước Xô
viết xã hội chủ nghĩa. Tháng 11 năm 1924, Đại hội Khoural, tức Đại hội đại biểu nhân
dân lần thứ nhất khai mạc với tư cách là một cơ quan nhà nước có quyền lực cao nhất,
thông qua Hiến pháp của nước Cộng hoà nhân dân Mông Cổ, mở đường cho bước quá
độ đi lên chủ nghĩa xã hội.
Dùa vào sự giúp đỡ chí tình của nhân dân Xô viết, nhân dân Mông Cổ đã tích
cực bắt tay vào công cuộc xây dựng đất nước thông qua các chương trình cải cách
kinh tế, chính trị, văn hoá xã hội.Về kinh tế, nhà nước đã tiến hành cải cách chế độ
tiền tệ và cho phát hành giấy bạc quốc tệ "tongrich" trong những năm 1924 - 1925,
chế độ đo lường được thống nhất toàn quốc, chế độ hàng rào quan thuế giữa các miền
trong nước bị bãi bỏ. Năm 1929, chính phủ tiến hành thống kê đất đai, mục trường
của địa chủ và ra lệnh tịch thu tài sản của chúng. Hệ thống hợp tác xã và mậu dịch
quốc doanh được xây dựng. Trong quá trình hợp tác hoá đã xuất hiện những tư tưởng
"tả" khuynh muốn xây dựng các nông trường tập thể và artels bằng sự cưỡng Ðp, do
vậy đã xuất hiện những cuộc phiến loạn vào năm 1932. Tuy nhiên, Hội nghị bất
thường của Ban chấp hành trung ương Đảng nhân dân cách mạng Mông Cổ họp vào

tháng 6 năm 1932 đã đề ra các biện pháp khắc phục những sai lầm "tả" khuynh.
Thành tựu lớn nhất về kinh tế mà nhân dân Mông Cổ thu được trong những
năm tháng này là đã xây dựng được nền công nghiệp dân téc. Nhiều nhà máy công
nghiệp lớn, nhiều công trình xây dựng quy mô do Liên Xô giúp đỡ đã xuất hiện như:
nhà máy kéo sợi Khadkhal (1933), nhà máy liên hợp Ulan Bato có quy mô lớn nhất
(1934), các mỏ than ở Halanxút được xây dựng và trang bị kỹ thuật hiện đại, hệ thống
đường sá, dây điện được thiết lập, xây dùng.
Về chính trị, Nhà nước cộng hoà đã tiến hành thủ tiêu hoàn toàn quyền chính trị
thế tập của bọn vương công ở các cơ (Khoshun), tiến hành dân chủ hoá bộ máy chính
quyền ở các địa phương. Năm 1925, Quốc hội (Khoural) thông qua chế độ tư pháp
với nguyên tắc của chế độ dân chủ nhân dân. Về đối ngoại, mối quan hệ hữu nghị,
16
thân thiết giữa Mông Cổ và Liên Xô được củng cố vững chắc thông qua Hiệp ước
tương trợ giữa hai nước ký kết ngày 12 tháng 3 năm 1936. Chính tình đoàn kết Xô -
Mông đã góp phần củng cố vững chắc chế độ chính trị ở Mông Cổ. Các thế lực phản
động ở trong nước bị đập tan. Đặc biệt, tháng 5 năm 1939, cuộc tấn công xâm lược
của Nhật Bản ở vùng Khankhin Gôn bị đẩy lùi.
Về văn hoá - xã hội cũng có những biến đổi lớn lao. Giai cấp địa chủ phong
kiến bị xoá bỏ, các hình thức bóc lột bị thủ tiêu, giai cấp công nhân Mông Cổ ra đời
và phát triển nhanh chóng, đời sống nhân dân không ngừng được cải thiện, chế độ
giáo dục phổ thông được áp dụng.
Những thay đổi lớn lao từ 1921 đến 1929 đã làm cho Hiến pháp năm 1924
không còn phù hợp với tình hình kinh tế, xã hội ở Mông Cổ nữa. Nhận thức rõ điều
này, trong khoá họp lần thứ VIII của Quốc hội Mông Cổ (tháng 6 năm 1940), dự thảo
hiến pháp mới đã được thảo luận và được toàn thể Quốc hội nhất trí thông qua. Hiến
pháp năm 1940 quy định: "Nước Cộng hoà nhân dân Mông Cổ là nước độc lập của
những người lao động mục dân, công nhân và phần tử trí thức tự nguyện tiến theo con
đường phát triển phi tư bản chủ nghĩa để quá độ sang xã hội chủ nghĩa" (Điều I). "Để
đảm bảo cho nước Cộng hoà nhân dân Mông Cổ phát triển theo con đường phi tư bản
chủ nghĩa, tiến lên chủ nghĩa xã hội, cần phải thực hành việc cải tạo và phát triển kinh

tế, văn hoá và sinh họat xã hội của nước Cộng hoà nhân dân Mông Cổ theo kế họach
của nhà nước" (Điều IV).
Với hiến pháp năm 1940, Mông Cổ bước vào giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã
hội không qua con đường phát triển tư bản chủ nghĩa.
Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, Mông Cổ đã thi hành chế độ nghĩa vụ tham
gia lao động nhằm tăng cường sức sản xuất. Nhờ vậy đến cuối năm 1942 Mông Cổ đã
chấm dứt việc nhập khẩu từ nước ngoài các thức ăn của súc vật và muối. Ngành công
nghiệp thực phẩm nảy nở và nhanh chóng phát triển. Đồng thời, Chính phủ Mông Cổ
đã tích cực tham gia vào cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít, đặc biệt là chống
phát xít Nhật ở Nội Mông và Mãn Châu.
Những thắng lợi của nhân dân Mông Cổ trong công cuộc xây dựng đất nước và
những cống hiến trong cuộc chiến tranh chống phát xít càng làm cho địa vị quốc tế
của nước Cộng hoà nhân dân Mông Cổ ngày càng được nâng cao, cổ vò cho các dân
téc đang đấu tranh giành độc lập.
17
§ II. THỔ NHĨ KỲ - CUỘC CÁCH MẠNG GIẢI PHÓNG DÂN TÉC (1922) VÀ CÔNG CUỘC
CANH TÂN ĐẤT NƯỚC.
1. Thổ Nhĩ Kỳ trước cuộc cách mạng, Hoà ước Xevơrơ (1920)
Đến đầu thế kỷ XX, các đế quốc phương Tây xâu xé khoảng nửa đế quốc Thổ.
Trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, Thổ Nhĩ Kỳ đứng về phe Đức và khi chiến tranh
kết thúc, Thổ trở thành nước bại trận, lâm vào nguy cơ bị chia cắt. Chiến tranh thế
giới thứ nhất đã cướp đi sinh mạng của 500.000 người và làm cho 800.000 người bị
thương. Nạn đói và dịch bệnh hoành hành sau chiến tranh làm cho tình hình Thổ Nhĩ
Kỳ trở nên hết sức nghiêm trọng. Đời sống nhân dân lao động vô cùng cực khổ.
Trong lúc đó quân đội nước ngoài đang chiếm đóng nhiều vùng lãnh thổ ở Tây
Anatoni, Idơmia, Kilikia và các hải cảng quan trọng. Anh và Pháp âm mưu chia cắt
thống trị toàn bộ lãnh thổ đế quốc Èttôman.
Sau khi Chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc, phong trào đấu tranh của nhân
dân Thổ Nhĩ Kỳ đã phát triển. Mục tiêu của cuộc đấu tranh là chống lại chế độ Thổ
hoàng và các lực lượng đế quốc âm mưu xâm chiếm Thổ. Giai cấp tư sản Thổ đã trở

thành lực lượng lãnh đạo phong trào dân téc. Năm 1919, giai cấp tư sản ở Anatôni đã
lập ra tổ chức Hội bảo vệ pháp luật, đề ra yêu sách đòi quân đội nước ngoài phải rút
khỏi Thổ và khôi phục chủ quyền dân téc Thổ Nhĩ Kỳ. Hội bảo vệ luật pháp đã bầu
Mutxtapha Kêman làm Chủ tịch.
Cuối năm 1919, chính phủ Xuntan Ixtambun quyết định tiến hành bầu cử Quốc
hội nhằm củng cố địa vị. Tuy nhiên, theo kết quả bầu cử, tuyệt đại đa số nghị sĩ thuộc
về phái Kêman. Ngày 23 tháng giêng năm 1920, Quốc hội đã thông qua Công ước
quốc dân, trong đó tuyên bố sự toàn vẹn lãnh thổ, nền độc lập dân téc của Thổ Nhĩ Kỳ
và phản đối mọi hành động chống lại sự phát triển cả đất nước về chính trị, pháp luật,
tài chính và các mặt khác.
Tháng 3 năm 1920, quân đội Anh đang chiếm đóng ở Thổ Nhĩ Kỳ đã trắng
trợn chiếm Ixtambun, giải tán Quốc hội và bắt bớ nhiều nghị sỹ. Thổ hoàng Mehmed
VI và giáo chủ Hồi giáo liền tuyên bố Kêman và những người theo ông là những kẻ
phiến loạn và không thừa nhận chính phủ đã được bầu ra. Do đó, tháng 4 năm 1920,
phái Kêman triệu tập Quốc hội ở Ancara, đồng thời chính phủ mới cũng được thành
lập do Kêman đứng đầu.
18
Tháng 8 năm 1920, các nước trong phe Hiệp ước buộc chính phủ Xuntan ký kết
hoà ước Xevơrơ (Servres), trong đó quy định: Thổ Nhĩ Kỳ sẽ cắt vùng đất phía Tây
(miền Thrace và xung quanh Smyrne) cho Hylạp, vùng Tây nam trên bờ địa Trung
Hải (đối diện đảo Chypre) cho Italia, vùng Armênie ở Tây Bắc được độc lập, trở
thành nước cộng hoà Ácmênia, vùng Nam Ácmênia trở thành xứa tự trị của người
Cuốc (Kurde), vùng Malatie (phía bắc Xiri) trao cho Pháp, vùng Irắc giáp Batư cho
Anh quản lý. Như vậy, Thổ Nhĩ Kỳ chỉ còn lại vùng đất nhỏ giữa Ancara và Hắc Hải,
rộng khoảng 120.000km
2
. Ngay trong vùng đất còn lại này chủ quyền của Thổ cũng
mất. Thổ phải giao nép hạm đôi, quân đội chỉ được có 50.000 người, thậm chí nền
giáo dục cũng do các nước đế quốc kiểm soát.
Với Hoà ước Xevơrơ, nền độc lập dân téc của Thổ bị cướp đoạt, đồng thời sự

phản động của Thổ hoàng Mehmed VI đã lé rõ. Nhân dân Thổ Nhĩ Kỳ đã đứng lên
phản đối bản hoà ước nhục nhã này dưới sự lãnh đạo của vị anh hùng dân téc
Mustapha Kêman.
2. Cách mạng giải phóng dân téc ở Thổ Nhĩ Kỳ.
Với việc ký kết hiệp ước Xevơrơ, Thổ hoàng đã lé rõ bộ mặt phản động của
mình. Toàn thể nhân dân Thổ Nhĩ Kỳ đã đồng tình phản đối lại bản hiệp ước nhục nhã
này dưới sự lãnh đạo của M.Kêman. Cuộc đấu tranh của Kêman vừa phải chống lại
triều đình Thổ, vừa phải chống lại các đế quốc Anh, Pháp, Italia.
Sau Chiến tranh thế giới, Anh, Pháp, Italia không muốn theo đuổi một cuộc
chiến tranh với Thổ. Vì thế các nước này đã sử dụng Hylạp - mét thuộc địa cũ của
Thổ - để chống lại Kêman. Ban đầu, lực lượng Hylạp gấp đôi lực lượng của Kêman,
lại được quân Anh trợ giúp mọi mặt. Phía quân cách mạng, cùng với khí thế của toàn
dân téc, họ còn được chính phủ nước Nga Xô viết ủng hộ. Nhờ vậy, sau một vài thất
bại, ngày 7 tháng 1 năm 1921, quân cách mạng đã giành được thắng lợi quan trọng
đầu tiên ở Inênu.
Mùa hè năm 1921, với sự giúp đỡ tích cực của Anh, quân Hylạp đã tiến cách
Ancara 100 km. Các trận đánh gay go, ác liệt đã diễn ra trên đường đến Ancara. Đến
tháng 9 năm 1921, quân cách mạng của Kêman đã giành thắng lợi lớn ở Sakaria.
Cũng từ năm 1921, quân cách mạng của Kêman đã giành được những thắng lợi
to lớn về chính trị và ngoại giao. Ngày 16 tháng 3 năm 1921, hiệp ước hữu nghị và
thân thiện được ký kết giữa Nga và Thổ, theo đó Nga nhường cho chính phủ Kêman
19
các vùng Kars và Ardahan ở Ácmênia, công nhận chủ quyền của Thổ ở eo biển
Idơmia. Tiếp đó, tháng 6 năm 1921, Italia rút quân khỏi Adalia, chỉ giữ quyền khai
thác than ở Hêradê. Ngày 20 tháng 10 năm 1921, Pháp từ bỏ quyền chiếm đóng Xirin,
trừ vùng Sangiắc Alêchxanđrốt, theo hiệp định Phrancơlin - Builongki ký ở Ancara.
Trên thực tế, Pháp công nhận chính phủ Kêman.
Những thắng lợi trên đã tạo nên sức mạnh để quân đội Kêman tiến lên giành
những thắng lợi quyết định. Trong năm 1922, quân đội Hylạp và Anh buộc phải ký
kết hiệp định đình chiến với Thổ Nhĩ Kỳ ở Moudania. Tiếp đó, ngày 24 tháng 7 năm

1923, các nước đế quốc đã phải ký kết hoà ước Lôdan (Thuỵ Sỹ), công nhận biên giới
của Thổ (biên giới ngày nay), xoá bỏ quyền lãnh sự tài phán và quyền kiểm soát tài
chính như hiệp ước Xevơrơ quy định. Ngày 29 tháng 10 năm 1923, nước Cộng hoà
Thổ Nhĩ Kỳ được thành lập. Mutxtapha Kêman trở thành Tổng thống đầu tiên của
nước cộng hoà. Công cuộc giải phóng dân téc của Thổ Nhĩ Kỳ kết thúc thắng lợi.
3. Những cải cách tiến bộ của M.Kêman.
Mutxtapha Kêman (1881 - 1938) sinh ra trong mét gia đình trung lưu ở
Salonique. Với tính tình kiên quyết, năng nổ, từ rất sớm ông đã đi theo con đường
binh nghiệp. Tuy nhiên ông cũng rất quan tâm đến chính trị, thích tìm hiểu các tư
tưởng cách mạng. Ông sử dụng thông thạo tiếng Pháp và Đức. Trong Chiến tranh thế
giới thứ nhất, Kêman là sỹ quan quân đội Thổ và có nhiều họat động chung với quân
Đức. Tài năng quân sự của ông được thể hiện rõ nhất ở mặt trận Dardanelles. Tại đây
ông đã ba lần chặn đứng liên quân Anh, Pháp. Với tài năng và uy tín của mình,
Kêman đã lãnh đạo nhân dân Thổ Nhĩ Kỳ đứng lên giải phóng dân téc. Sau khi thắng
lợi, Kêman tiếp tục tiến hành các biện pháp cải cách mang tính cách mạng trong liền 6
năm, đưa Thổ Nhĩ Kỳ phát triển nhanh chóng, ổn định. Vì thế nhân dân Thổ xem ông
là "Người cha của Thổ Nhĩ Kỳ" (Kêman Ata Tuốc)).
Sau khi giành được độc lập, ngày 1 tháng 11 năm 1922, Thổ Nhĩ Kỳ tuyên bố
truất ngôi của Mehmed VI, huỷ bỏ vương quyền và lập nên Nhà nước cộng hoà. Tiếp
đó, giáo quyền cũng bị bãi bỏ. Các tổ chức như Bộ tôn giáo, Toà án tôn giáo và
trường học của giáo hội bị giải tán. Lịch Hồi giáo (bắt đầu từ năm 622) bị bãi bỏ, thay
vào đó là công lịch. Kêman còn bỏ cả chữ viết Ảrập, dùng chữ latinh thay thế, nhờ
vậy chỉ trong một năm số người mù chữ đã giảm khoảng một nửa. Ông cũng cho dịch
kinh Coran ra tiếng Thổ để tiện cho việc sử dụng trong dân chóng.
20
Về vấn đề dân téc, M.Kêman buộc khoảng 1.400.000 người Hylạp lập nghiệp
trên đất Thổ và người Thổ ở Hylạp phải trở về nguyên quán. Còn đối với những
người thuộc các nước Ảrập cùng theo Hồi giáo thì quy định để phân biệt. Chính sách
này của Kêman có gây bất bình trong dân chúng. Ngoài ra, Kêman còn bãi bỏ hệ
thống đo lường cũ, áp dụng hệ thống đo lường như châu Âu, nhằm thống nhất thị

trường dân téc.
Chính phủ cộng hoà cũng đã ban hành một bộ luật mới được đánh giá là rất tiến
bộ. Bộ luật này tham khảo dân luật của Thuỵ Sỹ, hình luật của Italia, thương luật của
Đức. Theo bộ luật, địa vị người phụ nữ được nâng cao, những người phạm tội được
giáo dục Đây là điều mới mẻ, tiến bộ ở một quốc gia Hồi giáo như Thổ Nhĩ Kỳ.
Với tinh thần tự lực tự cường, như M.Kêman đã nói: "Muốn mất độc lập thì
không gì bằng nhận tiền của kẻ khác”, Thổ Nhĩ Kỳ đã nhanh chóng phát triển nền
kinh tế đất nước: Từ năm 1925 đến 1928, diện tích đất đai canh tác tăng lên 4 lần, các
ngành công nghiệp được xây dựng và phát triển, đặc biệt là sản xuất xi măng, công
nghiệp dệt phát triển nhanh.
Năm 1938, M.Kêman qua đời, tướng Ismet Inoru lên thay. Trước các mối quan
hệ quốc tế phức tạp, Thổ Nhĩ Kỳ giữ thái độ trung lập nhằm tránh bị lôi vào vòng
cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai. Vì chính sách này, các nước đế quốc đã phong toả
nền kinh tế của Thổ, làm cho Thổ lâm vào tình trạng khó khăn.
Như vậy, giai cấp tư sản Thổ Nhĩ Kỳ đã lãnh đạo thành công cuộc cách mạng
giải phóng dân téc, đồng thời đã thủ tiêu chế độ phong kiến quân chủ, tiến hành các
biện pháp cách mạng để tạo ra khả năng rộng lớn để phát triển sản xuất trong nước.
Đây là tiền đề để nước Cộng hoà Thổ Nhĩ Kỳ trở thành một quốc gia ổn định và phát
triển nhanh chóng.
§ III . TRUNG QUỐC - CUỘC CÁCH MẠNG DÂN TÉC DÂN CHỦ TỪ 1919 -1945
1. Sự chuyển biến của cách mạng Trung Quốc từ 1919 - 1945.
Cho đến những năm Chiến tranh thế giới lần thứ nhất, nước Trung Hoa nửa
phong kiến, nửa thuộc địa vẫn như chìm trong bóng tối. Cách mạng Trung Quốc lâm
vào ngõ cụt, chưa tìm thấy lối ra. Sau thất bại của phong trào nông dân Thái Bình
Thiên Quốc là thất bại của đường lối cải lương tư sản Trung Quốc. Với sự nỗ lực của
Tôn Trung Sơn, tư sản Trung Quốc đã làm nên cuộc cách mạng Tân Hợi. Cuộc cách
mạng này đã lật đổ ngai vàng đế chế ngự trị hàng nghìn năm ở Trung Hoa nhưng lại
21
không thủ tiêu được quyền chiếm hữu ruộng đất và bóc lột nông dân của giai cấp địa
chủ phong kiến, không đánh đổ được ách nô địch của bọn đế quốc đang đè nặng lên

số phận dân téc. Cuộc cách mạng Tân Hợi đã không khai sinh ra được một nền dân
chủ cộng hoà thực sự mà lại đẻ ra một quái thai chính trị, đó là chế độ phong kiến
quân phiệt của bọn Viên Thế Khải nóp dưới nhãn hiệu "Trung Hoa dân quốc”. Đến
đây cách mạng Trung Quốc lâm vào tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng về đường
lối và lãnh đaọ. Chính Tôn Trung Sơn cũng phải thốt lên rằng: “Đi cùng núi sông, vẫn
chưa tìm ra lối thoát”. Trong bối cảnh đó, thắng lợi của cuộc cách mạng Trung Quốc
tìm thấy ở cuộc cách mạng này một tấm gương sáng về sự nghiệp đánh đổ bọn phong
kiến, đế quốc phản động, giải phóng cho quần chúng lao động; giải phóng cho các
dân téc bị áp bức. Sức quyến rò của cuộc cách mạng càng tăng lên khi Chính phủ Xô
viết tuyên bè:
"Tất cả những đặc quyền mà trước kia chính phủ đế quốc Nga đã chiếm đoạt
được ở Trung Quốc, đều trao trả lại cho Trung Quốc, không phải bồi thường”.
Còng trong những năm Chiến tranh thế giới thứ nhất, nền kinh tế Trung Quốc
có bước phát triển mạnh mẽ ở nhiều lĩnh vực, nhất là ngành dệt, khai thác mỏ, ngân
hàng Năm 1914, Trung Quốc có 21 xưởng dệt, đến năm 1919 tăng lên 48 nhà băng,
năm 1923 con số đó là 100. Đi đôi với sự phát triển của nền kinh tế công thương
nghiệp dân téc là sự trưởng thành của giai cấp tư sản và vô sản Trung Quốc. Năm
1913 vô sản công nghiệp ở Trung Quốc khoảng 65 vạn người, đến năm 1919 đã tăng
lên khoảng 2 triệu người. Nếu kể cả thợ thủ công và người làm công trong các ngành
thương nghiệp, dịch vụ thì con số đó lên tới khoảng 10 triệu người. Ngoài những
đặc điểm chung của công nhân thế giới, giai cấp công nhân Trung Quốc mang một số
đặc điểm riêng nổi bật như: chịu ba tầng áp bức của đế quốc, phong kiến và tư bản;
tập trung trong các trung tâm kinh tế như Thượng Hải, Thiên Tân, Vũ Hán, Nam
Kinh, Quảng Châu có những mối liên hệ tự nhiên, gần gũi với nông dân và các tầng
líp nhân dân lao động khác Chính sự lớn mạnh của vô sản Trung Quốc trong thời kỳ
này là một nhân tố thúc đẩy sự phát triển của cách mạng Trung Quốc.
Những biến đổi về kinh tế, xã hội cùng với tác động của cuộc Cách mạng tháng
Mười Nga 1917 đã dẫn đến một phong trào đấu tranh mạnh mẽ, được lịch sử ghi
nhận là "Ngò Tứ vận động” hay “Phong trào Ngò Tứ”. Phong trào Ngò Tứ bùng nổ
vào ngày 4 tháng 5 năm 1919. Mở đầu phong trào là cuộc biểu tình của học sinh

22
trước Thiên An Môn để phản đối việc các nước đế quốc trong “Hội nghị hoà bình ở
Pari” đã bác bỏ những đề nghị chính đáng của Trung Quốc nhằm âm mưu xâu xé
nước này. Đây là mét phong trào quần chúng chống đế quốc và phong kiến, mang tính
chất là phong trào yêu nước. Sù phát triển của phong trào Ngò Tứ trải qua 2 giai đoạn
chính.
Từ ngày 4 tháng 5 đến ngày 3 tháng 6 năm 1919, phong trào đấu tranh chủ yếu
là học sinh, sinh viên. Đầu tiên là việc học sinh Trung Quốc ở Pháp phản đối lại "Hoà
ước Pari”, sau đó những tin tức về Hội nghị hoà bình Pari được báo về Trung Quốc và
lập tức khoảng 5000 học sinh Bắc Kinh đã tập trung trước Thiên An Môn để diễu
hành, thị uy. Đoàn diễu hành giương cao các khẩu hiệu "Ngoại tranh quốc quyền, nội
trừng quốc tặc”, "Thà chết giành lại Thanh Đảo” Chính phủ Đoàn Kỳ Thuỵ đã phái
cảnh sát đến đàn áp, bắt giam 32 học sinh. Lập tức phong trào đấu tranh của học sinh
lan nhanh trong cả nước. Học sinh ở các địa phương như Thiên Tân, Bảo Định,
Thượng Hải, Nam Ninh, Vũ Hán, Lưỡng Quãng, Phóc Kiến, Sơn Tây, Thiểm Tây,
Triết Giang, Hồ Nam, Tứ Xuyên đã đứng lên hưởng ứng cuộc đấu tranh của học sinh
Bắc Kinh. Sự đàn áp của chính phủ Đoàn Kỳ Thuỵ được tăng cường, ngày 3 tháng 6
năm 1919, Hiệu trưởng Đại học Bắc Kinh bị cách chức, hơn 1000 học sinh bị bắt
giam. Sự kiện này đã đưa phong trào phát triển lên một bước mới.
Từ ngày 3 tháng 6 đến 28 tháng 6 năm 1919, phong trào đấu tranh lan rộng
trong các tầng líp xã hội Trung Quốc, đặc biệt là sự tham gia tích cực của công nhân.
Ngày 3 tháng 6, những người buôn bán ở Thượng Hải và các vùng lân cận đã tổ chức
bãi thị, ủng hộ cuộc đấu tranh của học sinh. Tiếp đó, công nhân các ngành cơ khí, dệt,
đường sắt lần lượt tiến hành bãi công. Chỉ riêng ở Thượng hải đã có 6 - 7 vạn người
tham gia bãi công chính trị. Đồng thời, hơn 3000 công nhân ở Đường Sơn trên đường
sắt Kinh Phụng và công nhân ga Trường Tân cũng tích cực tham gia bãi công. Đặc
biệt, cuộc bãi công của công nhân đường sắt Hỗ Ninh có ảnh hưởng lớn nhất.
Bãi công của công nhân cùng với phong trào bãi thị, bãi khoá ở hầu khắp các
thành phố đã tạo ra mét cao trào đấu tranh chống đế quốc, phong kiến mang tính chất
quần chúng rộng rãi chưa từng có. Trước sức mạnh của cuộc đấu tranh, chính phủ

Đoàn Kỳ Thuỵ đã phải nhượng bộ, trả lại tự do cho tất cả các học sinh yêu nước bị
bắt giữ, cách chức bọn Tào Nhữ Lâm, Lục Tôn Dư, Chương Tôn Tường và ra lệnh
cho đoàn đại biểu Trung Quốc tham dự Hội nghị hoà bình ở Pari cự tuyệt ký vào bản
23
hoà ước.
Song song với sự phát triển của phong trào bãi khoá, bãi thị, bãi công là cuộc
vận động "Tân văn hoá”. Thực tế đây là hình thức biểu hiện sớm nhất và góp phần
đưa đến phong trào đấu tranh ngày 4 tháng 5, nhưng khi cuộc đấu tranh nổ ra, phong
trào "Tân văn hoá” đã hợp thành một bộ phận của cuộc đấu tranh này. Từ tháng 10
năm 1918, Lý Đại Chiêu đã viết về Cách mạng tháng Mười Nga và chủ nghĩa Mác -
Lênin. Đến tháng 6 năm 1919, khi phong trào Ngò Tứ đã vượt quá phạm vi của các
phần tử trí thức để trở thành một phong trào có quy mô toàn quốc thì bắt đầu nảy sinh
một vấn đề thuộc lĩnh vực tư tưởng văn hoá, đó là: Tiền đồ của Trung Quốc là chủ
nghĩa xã hội hay chủ nghĩa tư bản? Cuộc luận chiến về "vấn đề" và "chủ nghĩa” chính
là cuộc đấu tranh tư tưởng văn hoá đầu tiên của giai cấp vô sản và tư sản của Trung
Quốc về vấn đề này.
Như vậy, phong trào Ngò Tứ vừa là một phong trào chính trị, vừa là một phong
trào văn hoá mang tính chất quần chúng sâu sắc. Những phần tử trí thức tiến bộ đã tự
giác tham gia lãnh đạo phong trào, làm cho phong trào này không giống với những
phong trào dân chủ trước đó, mở mét trang mới trong lịch sử cuộc vận động dân chủ
Trung Quốc. Từ trong phong trào Ngò Tứ, chủ nghĩa Mác - Lênin được truyền bá sâu
rộng hơn vào quần chúng và công nhân Trung Quốc đã vươn lên tham gia đấu tranh
chính trị. Các tiểu tổ cộng sản lần lượt xuất hiện nhờ sự giúp đỡ của Quốc tế Cộng
sản. Sù kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu
nước đã dẫn tới sự ra đời của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Ngày 1 tháng 7 năm 1921,
các tiểu tổ cộng sản đã cử đại biểu đến dự Đại hội ở Thượng Hải. Đại hội đã thông
qua Điều lệ Đảng, cử ra cơ quan lãnh đạo Đảng do Trần Độc Tó đứng đầu và tuyên
bố thành lập Đảng Cộng sản Trung Quốc.
Sù ra đời của Đảng Cộng sản Trung Quốc là một sự kiện có ý nghĩa trọng đại
trong đời sống chính trị ở Trung Quốc, nó đánh dấu bước chuyển biến lớn lao của

cách mạng Trung Quốc từ cách mạng dân chủ tư sản kiểu cũ sang dân chủ tư sản kiểu
mới.
Sù ra đời của Đảng Cộng sản Trung Quốc đã có tác dụng thúc đẩy hơn nữa sự
phát triển của phong trào công nhân, các cuộc bãi công ở Hương Cảng, Thượng Hải,
Hán Dương, An Nguyên liên tiếp nổ ra. Đặc biệt là cuộc đấu tranh của công nhân
24
Hương Cảng từ tháng 1 năm 1922 đến tháng 6 năm 1922.
Nhằm tăng cường sự lãnh đạo trong phong trào công nhân, ngày 1 tháng 5 năm
1922, Đảng Cộng sản Trung Quốc đã tổ chức Đại hội lao động toàn quốc lần thứ nhất
ở Quảng Châu. Đại hội đã đi đến thành lập Tổng công đoàn toàn quốc, nhằm thống
nhất phong trào công nhân. Sự kiện này càng thúc đẩy hơn nữa phong trào công nhân
toàn quốc. Từ tháng 8 năm 1922 công nhân Trung Quốc tiến hành cuộc đấu tranh đòi
đặt luật lao động. Nổi lên trong phong trào là cuộc tổng bãi công của hơn 1 vạn người
ở tuyến đường sắt Kinh - Hán ngày 4 tháng 2 năm 1923. Cuộc đấu tranh này đã bị bọn
Ngô Bội Phu đàn áp dã man, đặc biệt là "vụ thảm sát ngày 7 tháng 2”, làm cho 40
người chết, 300 người bị thương, 270 người bị cầm tù Mặc dù phong trào đấu tranh
thất bại, do sự đàn áp của tập đoàn phong kiến quân phiệt Ngô Bội Phu, nhưng đây là
tiếng nói đầu tiên của giai cấp công nhân Trung Quốc tự giác đứng lên, nó thể hiện
rằng: "Công nhân Trung Quốc đã nhảy lên vũ đài chính trị thế giới”.
Trong sự phát triển của cách mạng Trung Quốc, Đảng Cộng sản Trung Quốc
vừa tiến hành lãnh đạo cuộc đấu tranh, vừa tiếp tục củng cố Đảng. Tại Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ II ở Thượng Hải (7-1927), các đại biểu đã bổ sung đường lối
của Đảng thông qua "Tuyên ngôn của Đảng”. Tuyên ngôn xác định kẻ thù của cách
mạng Trung Quốc là các nước đế quốc và bọn quân phiệt, phân tích tính chất xã hội
Trung Quốc, tính chất và động lực của cách mạng Trung Quốc, tuyên ngôn chỉ rõ
Trung Quốc là nước nửa thuộc địa, nửa phong kiến, cách mạng Trung Quốc trước
mắt là cách mạng dân téc dân chủ chống đế quốc và phong kiến, động lực của cách
mạng gồm công nhân, nông dân, tiểu tư sản và tư sản dân téc. Tuyên ngôn đã đề ra
cương lĩnh tối đa và cương lĩnh tối thiểu. Cương lĩnh tối đa là: "dần dần đi đến xã hội
cộng sản chủ nghĩa”, Cương lĩnh tối thiểu là: "a. Dẹp nổi loạn, đánh đổ quân phiệt,

xây dựng hoà bình trong nước; b. lật đổ ách áp bức của chủ nghĩa đế quốc quốc tế,
làm cho dân téc Trung Hoa được độc lập hoàn toàn; c. Thống nhất Trung Quốc thành
một nước cộng hoà dân chủ chân chính”.
Như vậy, Đại hội II của Đảng Cộng sản Trung Quốc đã lần đầu tiên vạch ra
được tính chất xã hội, đề ra được nhiệm vụ cơ bản và đường lối cho cách mạng. Tuy
nhiên, còn có những vấn đề cơ bản chưa được đề cập, chẳng hạn như: vai trò lãnh đạo
cách mạng của giai cấp công nhân, vấn đề liên minh công nông, ruộng đất Những
25

×