Tải bản đầy đủ (.doc) (41 trang)

Giới Thiệu khái Quát Về Lịch Sử Các Loại Tiền Đang Lưu Thông Hiện Nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.14 MB, 41 trang )

Giới Thiệu Khái Quát Về Lịch Sử Các Loại Tiền Đang Lưu Thông Hiện Nay

Giới Thiệu khái Quát Về Lịch Sử Các Loại
Tiền Đang Lưu Thông Hiện Nay
----o0o---Đơn vị tiền tệ chung Châu Âu (ECU – European Unit )
ECU là đơn vị tiền tệ của khối cộng đồng kinh tế Châu Âu ( EEC ) nó thay thế cho
“đơn vị tính tốn Châu Âu” được tạo ra năm 1962.
ECU: khơng những đóng vai trị là tiền tệ ghi sổ chung của khối EEC mà cịn đóng
vai trị là phương tiện dự trữ coi như ngoại hối của các nước EEC.
Theo hiệp định tiền tệ Châu Âu thì quỹ tiền tệ Châu Âu (FECOM) là cơ quan phát
hành ECU. Để có ECU các nước thành viên phải ký gởi vào FECOM 20% quỹ dự trữ
của mình bằng vàng và 20% tổng quỹ dự trữ bằng USD.
Euro là tiền tệ thống nhất trong châu Âu có nguồn gốc từ thời kỳ đầu tiên của Liên
minh châu Âu và trong lịch sử kinh tế tồn cầu. Một mặt việc hịa nhập kinh tế thơng
qua liên minh thuế quan năm 1968 đã có những bước tiến dài, mặt khác sự sụp đổ của
hệ thống tỷ giá hối đoái Bretton Woods dẫn đến việc tỷ giá hối đối dao động mạnh
mà theo như cách nhìn của giới chính trị thì đã cản trở thương mại. Năm 1970 lần đầu
tiên ý tưởng về một liên minh tiền tệ châu Âu được cụ thể hóa. Trong cái gọi là kế
hoạch Werner, Thủ tướng Luxembourg, Pierre Werner, đã cùng nhiều chuyên gia
soạn thảo một Liên minh Kinh tế và Tiền tệ châu Âu với tiền tệ thống nhất. Dự tính
với mục đích thành lập liên minh này cho đến năm 1980 đã thất bại mà một trong
những nguyên nhân là sự sụp đổ của hệ thống Bretton Woods. Thay vào đó Liên minh
Tỷ giá hối đối châu Âu được thành lập vào năm 1972 và sau đó là Hệ thống Tiền tệ
châu Âu vào năm 1979. Hệ thống tiền tệ châu Âu có nhiệm vụ ngăn cản việc các tiền
tệ quốc gia dao động quá mạnh. Đơn vị Tiền tệ châu Âu, một đơn vị thanh toán, ra đời
vì mục đích này và có thể xem như là tiền thân của đồng Euro. Năm 1988 một ủy ban
xem xét về liên minh kinh tế và tiền tệ dưới sự lãnh đạo của chủ tịch Ủy ban châu Âu,
Jacques Delors, đã soạn thảo cái gọi là báo cáo Delors, dự định thành lập Liên minh
Kinh tế và Tiền tệ châu Âu qua 3 bước.

Hình: Biểu tượng đồng Euro


Bước đầu tiên bắt đầu vào ngày 1 tháng 7 năm 1990, việc lưu chuyển vốn được tự do
hóa giữa các nước trong Liên minh châu Âu. Vào ngày 1 tháng 1 năm 1994 bước thứ
hai bắt đầu: Viện Tiền tệ châu Âu, tiền thân của Ngân hàng Trung ương châu Âu
(ECB), được thành lập và tình trạng ngân sách quốc gia của các nước thành viên bắt
đầu được xem xét. Ngoài ra, vào ngày 16 tháng 12 năm 1995 Hội đồng châu Âu tại
Madrid (Tây Ban Nha) đã quyết định tên của loại tiền tệ mới: "Euro". Trước ngày này
Nhóm 1 thực hiện

1


Giới Thiệu Khái Quát Về Lịch Sử Các Loại Tiền Đang Lưu Thơng Hiện Nay
đã có nhiều tên khác được thảo luận: các "ứng cử viên" quan trọng nhất bao gồm
Franc châu Âu, Krone châu Âu và Gulden châu Âu. Việc sử dụng tên một loại tiền tệ
quen thuộc là nhằm vào mục đích phát ra tín hiệu của sự liên tục và củng cố niềm tin
tưởng của quần chúng vào loại tiền tệ mới này, ngoài ra một vài thành viên cũng có
thể tiếp tục giữ được tên tiền tệ của nước mình. Pháp thích "Ecu", tên của loại tiền tệ
thanh toán cũ. Thế nhưng tất cả các đề nghị này đều thất bại vì một vài nước dè dặt.
Để đối phó với tình thế này, tên "Euro" được Bộ trưởng Bộ Tài chính Đức, Theodor
Waigel, đề nghị.
Ngày 13 tháng 12 năm 1996 các bộ trưởng Bộ Tài chính của EU đi đến thỏa thuận về
Hiệp ước Ổn định và Tăng trưởng nhằm bảo đảm các nước thành viên giữ kỷ luật về
ngân sách và qua đó bảo đảm giá trị của tiền tệ chung. Bước thứ ba của Liên minh
Kinh tế và Tiền tệ châu Âu bắt đầu có hiệu lực cùng với cuộc họp của Hội đồng châu
Âu từ ngày 1 tháng 5 đến ngày 3 tháng 5 năm 1998, xác định 11 quốc gia thành viên
của Liên minh Kinh tế và Tiền tệ theo các tiêu chuẩn hội tụ được quy định trước.
Ngày 19 tháng 6 năm 2000 Hội đồng châu Âu đi đến "nhận định là Hy Lạp đã đạt hội
tụ bền vững ở mức độ cao và trên cơ sở này thỏa mãn các yêu cầu cần thiết để đưa
tiền tệ chung vào sử dụng". Vì thế vào ngày 1 tháng 1 năm 2001 Hy Lạp gia nhập vào
Liên minh Kinh tế và Tiền tệ châu Âu.

Vào ngày 1 tháng 1 năm 1999 tỷ lệ hối đoái giữa Euro và các đơn vị tiền tệ quốc gia
được quy định không thể thay đổi và Euro trở thành tiền tệ chính thức. Ngày 2 tháng
1, các thị trường chứng khoán tại Milano (Ý), Paris (Pháp) và Frankfurt am Main
(Đức) đã định giá tất cả các chứng khốn bằng Euro. Một thay đổi khác có liên quan
với thời điểm đưa đồng Euro vào sử dụng là việc thay thế cách ghi giá cho ngoại tệ.
Trước ngày đã định, việc ghi theo giá (1 USD = xxx DEM) là hình thức thơng dụng.
Từ ngày 1 tháng 1 năm 1999, trong mua bán ngoại tệ tại các nước thành viên, giá trị
của ngoại tệ được ghi theo lượng (1 EUR = xxx USD). Thêm vào đó, từ ngày 1 tháng
1 năm 1999 có thể chuyển khoản bằng Euro (Tại Hy Lạp từ ngày 1 tháng 1 năm
2001). Các tài khoản và sổ tiết kiệm được phép ghi bằng Euro và tiền cũ. Cổ phiếu và
các chứng khoán khác chỉ còn được phép mua bán bằng Euro. Việc phát hành đồng
Euro đến người tiêu dùng bắt đầu vào ngày 1 tháng 1 năm 2002.
Trong một thời gian chuyển tiếp nhất định tùy thuộc vào từng quốc gia, kéo dài hoặc
là đến hết tháng 2 năm 2002 hay đến hết tháng 6 năm 2002, đồng Euro và tiền quốc
gia cũ tồn tại song song như là tiền tệ chính thức. Thời gian sau này các tiền quốc gia
cũ khơng cịn là tiền tệ chính thức nữa nhưng vẫn có thể được đổi lấy đồng Euro tại
các ngân hàng quốc gia của các nước, tùy theo quy định của từng nước. Từ ngày 28
tháng 2 năm 2002 tại Đức quyền đổi đồng Mark Đức sang Euro khơng tốn lệ phí tại
các ngân hàng trung ương tiểu bang là một điều được pháp luật quy định. Khác với
một số nước thành viên khác, u cầu này tại Đức khơng có thời hạn. Mặc dầu có cơ
chế đổi tiền khơng tốn lệ phí và đơn giản, trong tháng 5 năm 2005 vẫn còn lưu hành
3,72 tỉ Euro tiền kim loại Mark Đức. Tổng giá trị của tiền giấy chưa đổi thành tiền
Euro ở vào khoảng 3,94 tỉ Euro.

Khi đưa đồng Euro vào lưu hành người ta hy vọng là thương mại và cộng tác kinh tế
giữa các thành viên trong vùng Euro sẽ vững mạnh thêm vì các rủi ro về tỷ giá hối
đối và kèm theo đó là việc bảo hộ tiền tệ (tiếng Anh: currency hedging) của các

Nhóm 1 thực hiện


2


Giới Thiệu Khái Quát Về Lịch Sử Các Loại Tiền Đang Lưu Thông Hiện Nay
doanh nghiệp châu Âu sẽ không cịn tồn tại nữa. Người ta cũng đốn rằng việc này sẽ
mang lại lợi thế cho người dân trong vùng Euro vì trong quá khứ thương mại là một
trong những nguồn chính của tăng trưởng kinh tế. Thêm vào đó người ta cũng tin rằng
giá cả của sản phẩm và dịch vụ sẽ khơng cịn chênh lệch nhau nhiều nữa. Điều này
dẫn đến cạnh tranh mạnh hơn giữa các doanh nghiệp và vì thế sẽ làm giảm lạm phát
và tăng sức mua của người tiêu thụ.
Một số nhà kinh tế học bày tỏ lo ngại về những nguy hiểm của một đồng tiền tệ chung
cho một vùng kinh tế không đồng nhất và rộng lớn như vùng Euro. Đặc biệt là khi các
nền kinh tế phát triển không đồng bộ sẽ tạo khó khăn cho một chính sách tiền tệ thích
ứng. Về mặt chính trị vẫn cịn câu hỏi là liệu Ngân hàng Trung ương châu Âu và Ủy
ban châu Âu có khả năng kiềm chế các nước thành viên giữ kỷ luật trong ngân sách
quốc gia hay không. Trên thực tế, thời gian vừa qua dường như đã xác thực nổi lo
ngại này, ít nhất là trong trường hợp của nước Đức: Từ khi đưa đồng Euro vào lưu
hành nước Đức chưa có năm nào đạt được điều kiện về thâm hụt ngân sách quốc gia
(không được vượt quá 3% tổng sản phẩm quốc nội). Cho tới nay, các biện pháp trừng
phạt thật ra là đã được quy định trước trong Hiệp ước Ổn định và Tăng trưởng đã
không được Hội đồng các bộ trưởng Bộ Tài chính châu Âu áp dụng.
1.1. Tiền kim loại Euro
Các đồng tiền kim loại Euro có mặt trước hồn tồn giống nhau trong tất cả các nước
nhưng mặt sau là hình ảnh của từng quốc gia. Thế nhưng vẫn có thể trả bằng tiền kim
loại trong khắp liên minh tiền tệ. Một euro được chia thành 100 cent, tại Hy Lạp thay
vì cent người ta dùng lepto (số ít) hay lepta (số nhiều) trên các đồng tiền kim loại của
Hy Lạp.

Hình : Tiền kim loại Euro


Nhóm 1 thực hiện

3


Giới Thiệu Khái Quát Về Lịch Sử Các Loại Tiền Đang Lưu Thông Hiện Nay
1.2. Tiền giấy Euro
Tiền giấy Euro giống nhau hoàn toàn trong tất cả các nước. Tiền giấy Euro có mệnh
giá 5 Euro, 10 Euro, 50 Euro, 100 Euro, 200 Euro và 500 Euro. Mặt trước có hình của
một cửa sổ hay phần trước của một cánh cửa, mặt sau là một chiếc cầu. Đây không
phải là hình ảnh của các cơng trình xây dựng có thật mà chỉ là đặc điểm của từng thời
kỳ kiến trúc. Tiền giấy Euro do người Áo Robert Kalina tạo mẫu sau một cuộc thi đua
trong toàn EU. Tiền giấy Euro có thể được theo dõi trên tồn thế giới qua dự án
Eurobilltracker.

Hình: Tiền giấy Euro
1.3. Đồng tiền chung châu Âu: 10 năm một chặng đường
Tháng 5 vừa qua là kỷ niệm tròn 10 năm ngày 15 nước thành viên EU thống nhất ra
mắt đồng tiền chung châu Âu - euro. Tuy nhiên, trên thực tế, mãi đến ngày 1/1/2002,
người dân của 12 nước thành viên EU đầu tiên mới bắt đầu sử dụng xu và tiền giấy
euro. Ban đầu, mọi việc cũng không mấy suôn sẻ.
Đồng euro mới đầu đã lập hết đáy này đến đáy khác so với USD, nhưng giờ đây, tình
thế đảo ngược, USD mới là đơn vị tiền tệ đang rớt giá.
Khách du lịch và các nhà nhập khẩu trong khu vực sử dụng đồng tiền chung châu Âu
phải đối mặt với thực trạng là đồng euro đang ở mức cao kỷ lục.
1.3.1. Khẳng định vị thế
Khoảng 16 triệu việc làm đã được tạo ra trong khu vực kể từ khi đồng euro được vào
sử dụng, trong khi tỷ lệ thất nghiệp đã giảm từ mức 9% của năm 1999 xuống cịn 7%
vào năm 2007.
Năm ngối, thâm hụt ngân sách trung bình của các nước trong khu vực sử dụng đồng

tiên chung châu Âu giảm xuống mức thấp nhất: 0,6% của GDP. Tất nhiên, tất cả
những thành tích trên có thể khơng hẳn nhờ vào sự hiện diện của đồng euro, giống
như tỷ lệ lạm phát trung bình và lãi suất dài hạn giảm xuống có thể khơng hồn tồn
là cơng của Ngân hàng trung ương châu Âu (ECB).
Thực tế là hầu hết các nền kinh tế phát triển trên thế giới đều chứng kiến tỷ lệ lạm
phát giảm đều qua các năm kể từ cuối thập niên 80 (ít nhất là cho tới gần đây), và việc
này đã khiến lãi suất giảm xuống. Tuy nhiên, những người ủng hộ Liên minh kinh tế
và tiền tệ (EMU) của EU cho rằng thâm hụt ngân sách giảm và việc làm tăng có cơng
của đồng euro. Họ sẽ nói rằng Hiệp ước ổn định và tăng trưởng (SGP), yêu cầu các

Nhóm 1 thực hiện

4


Giới Thiệu Khái Quát Về Lịch Sử Các Loại Tiền Đang Lưu Thông Hiện Nay
nước trong khu vực sử dụng đồng euro giữ tỷ lệ thâm hụt ngân sách ở mức dưới 3%
của GDP, đã tạo ra một “gọng kìm” đối với việc chi tiêu ngân sách của các nước.
Dù vậy, một số nền kinh tế lớn như Đức đôi khi cũng "phớt lờ" các quy định này, và
hiệp ước đã phải sửa đổi vào năm 2005.
Những người ủng hộ cũng sẽ cho rằng một đồng tiền chung duy nhất buộc các
nước phải tiến hành cải tổ nền kinh tế, trong đó có thị trường lao động, vì khi trở
thành một thành viên sử dụng đồng euro có nghĩa là các chính phủ đã mất lựa chọn
giải pháp hạ giá đồng nội tệ khi gặp khó khăn. Tuy nhiên, nhiều nhà kinh tế khơng
nhất trí với lập luận này. Đức đã rất thành cơng trong việc duy trì khả năng cạnh tranh
trong mấy năm gần đây bằng cách cắt giảm chi phí, ngay cả khi đồng euro tăng mạnh
so với các đồng tiền khác. Trong khi đó, tình hình của Italia lại không như vậy. Các
nhà sản xuất của nước này đang phải vật lộn với khó khăn để giữ chỗ đứng trên thị
trường thế giới.
Đây là một trong những điểm gây thất vọng của đồng euro cho đến nay, ít nhất là với

một số thành viên tạo ra nó.
1.3.2. Mảng tối
Liên minh kinh tế và tiền tệ EU có vẻ như chưa thúc đẩy được sự hợp nhất
kinh tế giữa các nền kinh tế trong khối, nếu không muốn nói là ngược lại.
Tình hình hiện nay là một ví dụ.
Kinh tế Tây Ban Nha và Ai Len từng có chuyển biến tích cực trong những năm đầu
mới sử dụng đồng euro, nhờ lãi suất thấp. Kinh tế tăng trưởng mạnh mẽ. Tuy nhiên,
cả hai nước này giờ đây đang chứng kiến tốc độ tăng trưởng kinh tế sụt giảm mạnh do
cuộc khủng hoảng tín dụng.
Ngược lại, kinh tế Đức và Pháp khơng có những bước tăng trưởng mạnh mẽ như vậy,
và giờ đây có thể cũng chỉ bị suy giảm nhẹ. Chính sách tiền tệ khơng thể dẫn đến sự
hợp nhất giữa các nền kinh tế lớn trong khối. Sẽ là thiếu thực tế khi trơng đợi điều đó.
Cách duy nhất để đạt được sự hợp nhất như mong muốn là tạo một ngân sách chung
thật lớn của khối các nước sử dụng đồng euro để có thể phân bổ tiền giữa các nước,
giúp giảm bớt khoảng cách giữa họ. Tuy nhiên, ý tưởng này có lẽ khơng khả thi, vì để
thực hiện, cần tăng thuế trên tồn châu Âu.
Bảng Anh
Bảng Anh (ký hiệu £, mã ISO: GBP) tức Anh kim là đơn vị tiền tệ chính thức của
Vương quốc Anh và các lãnh thổ hải ngoại, thuộc địa. Một bảng Anh gồm 100 xu
(pence hoặc penny), Ký hiệu của đồng bảng ban đầu có hai gạch trên thân (₤), sau này
mới chuyển thành một gạch (£), ký hiệu này xuất xứ từ ký tự L trong LSD – tên viết
tắt của các đơn vị trong hệ đếm 12 – librae, solidi, denarii, chuyển sang tiếng Anh là
Pound, shilling và pence (hoặc penny).
Đồng bảng Anh là đồng tiền lâu đời nhất còn được sử dụng sau khi một số quốc gia
thuộc khối EU chuyển sang dùng đồng Euro (€). Nó là đồng tiền được lưu trữ trong
các quỹ dự trữ ngoại tệ toàn cầu, mức phổ biến chỉ sau đồng đô la Mỹ và đồng Euro
Đồng bảng đứng thứ tư về khối lượng giao dịch ngoại tệ toàn cầu sau đồng đô la Mỹ,
đồng Euro và đồng Yên Nhật.
Trước năm 1971, một bảng là 20 shilling, một shilling là 12 xu (pence). Như vậy một
bảng là 240 xu. Ngày nay, đơn vị shilling không tồn tại nữa, một bảng Anh (£1) bằng

một trăm xu (100p). Đồng xu kim loại kiểu cũ rút ra khỏi hệ thống thanh tốn năm
1980.

Nhóm 1 thực hiện

5


Giới Thiệu Khái Quát Về Lịch Sử Các Loại Tiền Đang Lưu Thơng Hiện Nay

Hình: Tờ mười bảng (£10)
Lịch sử đồng bảng Anh
Trước thời đồng bảng
Thời Anglo-Saxon, những đồng xu bạc gọi là đồng sceat được sử dụng trong thương
mại và nặng 20 grain (xấp xỉ 1,3 gram).
Vua Offa ở vùng Merica giữa nước Anh ngày nay (khoảng năm 790) phát hành đồng
penny bạc nặng 22,5 grain (xấp xỉ 1.5 gram). 240 đồng penny bạc nặng tương đương
một đơn vị bạc gọi là Tower pound, tổng cộng 5.400 grain (349,9 gram)
Năm 1526, đơn vị pound bạc được nâng lên 373,242 gram gọi là Troy pound.
Là một đơn vị tiền tệ, đồng bảng Anh xuất xứ từ giá trị của khối lượng bạc trong đồng
Tower pound.
Đồng bảng (pound sterling)
Tên gọi đồng bảng (pound) bắt nguồn từ đồng Tower pound có hàm lượng bạc tinh
khiết khá cao đạt 92,5% (đồng chiếm phần còn lại 7,5%).
Đồng bảng Anh ngày nay (pound sterling) được xác lập bởi Nữ hoàng Elizabeth I và
các cố vấn của bà. Những năm trước đó từ 1543-1551, nước Anh dưới thời vua Tudor
trải qua biến động tài chính, đồng xu bạc – tiền của nước Anh giảm hàm lượng bạc rất
nhiều. Tới năm 1551, hàm lượng bạc trong đồng penny của nước Anh chỉ còn một
phần ba. Dưới thời Nữ hoàng Elizabeth I, những đồng xu bạc cũ được thu về để đúc
lại hoặc đổi đồng xu mới theo một tỷ lệ có khấu trừ.

Kể từ đó, đồng pound sterling giữ ổn định giá trị nội tại của nó bất kể các đồng tiền
khác của Châu Âu thay đổi ra sao, qua các khủng hoảng tài chính năm 1621, 1694-96,
1774 và 1797 và thậm chí là sau khi nước Anh chuyển sang bản vị vàng. Ngay cả
những loạn lạc của Nội chiến nước Anh cũng không làm đồng bảng mất giá. Có ý
kiến cho rằng nhờ đồng tiền vững giá trong nhiều thế kỷ, nước Anh xây dựng được
nền tảng tài chính ưu việt, hệ thống tín dụng an tồn, uy tín trong suốt thế kỷ 18.
Đồng bảng là đồng tiền chính thức của Ngân hàng Anh ngay khi nó thành lập năm
1694.
2.1. Tiền kim loại

Nhóm 1 thực hiện

6


Giới Thiệu Khái Quát Về Lịch Sử Các Loại Tiền Đang Lưu Thông Hiện Nay
Tiền kim loại do Xưởng đúc tiền Hoàng gia (Royal Mint) phát hành, bao gồm các
mệnh giá: 1 xu, 2 xu, 5 xu, 10 xu, 20 xu, 50 xu, 1 bảng, và 2 bảng. Có cả đồng 5 bảng,
nhưng ít được sử dụng.

Hình: Bộ tiền xu của Vương quốc Anh
Trên đồng 1 xu có hình một cổng thành.
Trên đồng 2 xu có hình biểu tượng của Hn tước xứ Wales.
Trên đồng 5 xu có hình hoa Thistle, quốc hoa của xứ Scotland.
Trên đồng 10 xu có hình một con sư tử, tượng trưng cho xứ England.
Đồng 20 xu có hình Tudor Rose.
Đồng 50 xu có hình Britannia, nữ thần tượng trưng cho đại đế quốc Anh và hình một
con sư tử.
Đồng 1 bảng (hình trên) có biểu tượng của cây thánh giá Celtic xứ Northern Ireland.
Đồng 2 bảng có in câu nói của Isaac Newton "Standing on the Shoulders of Giants"

(đứng trên vai những người khổng lồ).
2.2. Tiền giấy

Hình: Tiền giấy mệnh giá 50 bảng.
Tiền giấy do Ngân hàng Anh và các ngân hàng ở Scotland, Bắc Ireland phát hành, bao
gồm các loại mệnh giá: 5 bảng, 10 bảng, 20 bảng và 50 bảng. Việc phát hành tiền giấy
của các ngân hàng ở Scotland và Bắc Ireland tuân thủ nghiêm ngặt yêu cầu là phải đặt
thế chấp tại Ngân hàng Anh cho toàn bộ lượng tiền giấy đưa vào lưu thông.
Loạt tiền giấy hiện đang sử dụng gọi là loạt E phát hành từ tháng 7 năm 2005. Mặt
sau có in hình một số nhân vật lịch sử:
Trên tờ 5 bảng có in hình Elizabeth Fry, một nhà hoạt động xã hội đã có cơng cải cách
chế độ giam tù.
Nhóm 1 thực hiện

7


Giới Thiệu Khái Quát Về Lịch Sử Các Loại Tiền Đang Lưu Thơng Hiện Nay
Trên tờ 10 bảng có in hình Charles Darwin, nhà khoa học tự nhiên, người đề xuất
Thuyết Tiến hóa.
Tờ 20 bảng có hình Edward Elgar, một nhà văn.
Tờ 50 bảng có hình John Houblon, người sáng lập Ngân hàng Anh và là thống đốc
đầu tiên.
Hiện nay, tiền giấy mệnh giá 100 bảng không lưu thông trên thị trường. Tiền giấy
mệnh giá 1 bảng được dùng ở quần đảo Channels và Scotland.
ĐÔ LA MỸ
Nguồn gốc của tên "
dollar"
Đồng đô la Mỹ lấy tên từ đồng 8 real của Tây Ban Nha, có khối lượng bạc ít hơn 1
ounce. Trong thời kỳ thuộc địa, tiền này khá phổ biến đối với người Mỹ - họ gọi nó là

đồng đô la Tây Ban Nha, từ tên của đồng tiền của Đức có cỡ và cấu tạo tương đương
được gọi là thaler). Các đồng đơ la đầu tiên được chính phủ Hoa Kỳ đúc có cùng cỡ
và cấu tạo với đồng đô la Tây Ban Nha và ngay sau chiến tranh Cách mạng Hoa Kỳ
đồng đô la Tây Ban Nha và Hoa Kỳ vẫn được lưu hành tương đương nhau.
Có nhiều huyền thoại về nguồn gốc của dấu "$" để chỉ đồng đơ la. Vì đơ la thoạt tiên
là đồng 8 real của Tây Ban Nha, có người cho rằng hình chữ 'S' có nguồn từ số '8'
được viết trên đồng tiền này. Giải thích được nhiều người chấp nhận nhất là dấu "$"
được bắt nguồn từ chữ "PS" (cho 'peso' hay 'piastre') được viết trên nhau trong tiếng
Tây Ban Nha. Về sau, chữ 'P' biến thành một dấu gạch thẳng đứng - | - vì vịng cong
đã biến vào trong vịng cong của chữ 'S'. Giải thích này được ủng hộ khi khám xét vào
tài liệu cũ. Dấu "$" đã được sử dụng trước khi tiền đô la Tây Ban Nha đã được dùng
làm tiền tệ chính thức trong năm 1785.
Ký hiệu đơ la đơi khi cịn được viết với hai dấu gạch thẳng đứng. Có lẽ đây chỉ là thói
quen viết ba nét để viết dấu hiệu cũ: một nét cho chữ 'S', một nét cho đường gạch
đứng, và nét cuối cho đường cong trong chữ 'P'. Những người viết nhanh không chú ý
đến việc viết một chữ 'P' cho đúng cho nên tiện tay viết một dấu gạch nữa.
Có một số giải thích khác cho dấu gạch thứ hai - có người cho rằng dấu "$" xuất thân
từ hai chữ 'U' và 'S' viết chồng trên nhau (vòng cong của chữ 'U' cùng nét với vòng
cong ở dưới chữ 'S'), cũng có người cho rằng hai đường gạch tượng trưng cho hai cây
cột trụ trong Đền thờ Solomon tại Jerusalem. Hai giải thích này khơng có chứng cớ vì
cách viết này đã có trước khi nước Hoa Kỳ (US) được thành lập, hay vì khơng có
bằng chứng trong lịch sử đồng Tây Ban Nha.

Mặt trái của tờ 100 đô la
Đồng 1 đô la Mỹ
Mặt phải của 1 đơ la Mặt trái của 1 đơ la
(1996), có hình Hội
(1862)
Mỹ (1999)
Mỹ (1995)

trường Tự do

Đồng 1 đơ la Mỹ

Nhóm 1 thực hiện

$100 Benjamin

$50 Ulysses S. Grant

$20 Andrew

8


Giới Thiệu Khái Quát Về Lịch Sử Các Loại Tiền Đang Lưu Thông Hiện Nay

(1917)

Franklin

$10 Alexander
Hamilton

$5 Abraham
Lincoln

Jackson

$2 Thomas Jefferson


$1 George
Washington

Trong lịch sử, tại Mỹ từng lưu hành những đồng tiền có mệnh giá 100.000 USD và
10.000 USD, chuyên dùng trong các giao dịch có giá trị lớn. Nhưng từ khi hình thức
chuyển khoản ra đời, vai trị của những đồng tiền mệnh giá lớn kết thúc. Các đồng
tiền mệnh giá 100.000, 10.000, 5.000, 1.000 và 500 USD được ngân hàng và chính
phủ liên bang Mỹ sử dụng trong các giao dịch tài chính có giá trị lớn. Cục Dự trữ liên
bang Mỹ thiết kế các hình trang trí có vịng cuộn trên các đồng tiền có mệnh giá lớn.
Tất cả các đồng tiền này có màu xanh, trừ tờ 100.000 USD có một mặt màu vàng.

(Mặt trước và sau của tờ 100.000 USD. Đồng tiền này có chân dung Woodrow
Wilson, tổng thống thứ 28 của Mỹ, được lưu hành từ năm 1861, năm bắt đầu cuộc nội
chiến Mỹ, đến cuối những năm 1930).

Nhóm 1 thực hiện

9


Giới Thiệu Khái Quát Về Lịch Sử Các Loại Tiền Đang Lưu Thơng Hiện Nay

(Tờ 10.000 USD có hình Salmon P. Chase, Bộ trưởng Tài chính dưới thời Tổng thống
Abraham Lincoln)

(Tờ 500 USD có hình William McKinley, tổng thống thứ 25 của Mỹ, và từng là một
người tham gia cuộc nội chiến 1861-1865)
Thực tế, tờ 100.000 USD không phải là tiền, mà là giấy chứng nhận sở hữu vàng,
nhưng được in dưới dạng một tờ tiền. Theo quy định, các tờ chứng nhận này chỉ dành

cho Chính phủ trong các giao dịch vàng, và được lưu hành từ năm 1861 đến cuối
những năm 1930. Nếu người dân sở hữu các đồng tiền này, họ sẽ bị coi là phạm pháp.
Tuy nhiên, khi hệ thống giao dịch điện tử được đưa vào sử dụng, các đồng tiền có
mệnh giá lớn khơng còn vai trò như trước. Mặt khác, việc sử dụng tiền mệnh giá lớn
cũng khiến nhiều người lo ngại về nguy cơ tiền giả và tội phạm có tổ chức dễ dàng sử
dụng các đồng tiền này trong giao dịch phi pháp.
Đến năm 1940, Mỹ cho đình chỉ việc lưu hành các giấy chứng nhận này và ngày nay
người ta chỉ còn thấy chúng trong bảo tàng. Các tờ tiền mệnh giá lớn khác cũng bị
ngừng in ấn từ năm 1946, và rút khỏi lưu thông vào năm 1969, nhằm chống hoạt động
của tội phạm có tổ chức. Sau đó, ông chủ của sòng bạc Binion's Horseshoe tại bang
Nevada sưu tầm được một số tờ và dùng để trưng bày trong sòng bạc. Nhưng hiện
nay, các tờ tiền này cũng đã được bán cho các nhà sưu tầm.
Ngày nay, các tờ tiền tại Mỹ chỉ có mệnh giá 1, 2, 5, 10, 20, 50 và 100 USD. Hầu như
chắc chắn các đồng tiền có mệnh giá lớn sẽ khơng xuất hiện trở lại trong lưu thơng,
bởi thanh tốn qua ngân hàng đã thay thế hồn tồn vai trị của chúng.

Nhóm 1 thực hiện

10


Giới Thiệu Khái Quát Về Lịch Sử Các Loại Tiền Đang Lưu Thơng Hiện Nay

Hình: Tờ Một Đơla năm 1999

Hình: Một Trăm Đơla

Hình: Hai Trăm Đơla
3.1. Tiền kim loại
Tiền kim loại 1 đô la chưa bao giờ là phổ biến tại Hoa Kỳ. Đồng bạc được đúc giữa

1794 đến 1935 với một vài thời gian bị gián đoạn; tiền đúc bằng đồng và niken cùng
cỡ được đúc từ 1971 đến 1978. Đồng Susan B. Anthony được ra mắt trong năm 1979;
chúng khơng được ưa chuộng vì dễ bị nhầm lẫn với đồng quarter (25¢) có cỡ gần
bằng, có viền răng cưa và màu sắc tương tự. Những đồng này bị ngừng đúc ngay sau
đó, nhưng vẫn là có thể dùng làm tiền hợp pháp. Trong năm 2000, một đồng $1 mới
có hình Sacagawea được ra mắt, chúng có viền phẳng và có màu vàng kim loại. Dù

Nhóm 1 thực hiện

11


Giới Thiệu Khái Quát Về Lịch Sử Các Loại Tiền Đang Lưu Thông Hiện Nay
vậy, chúng không được ưa chuộng bằng đồng tiền giấy $1 và ít được dùng trong công
việc hằng ngày. Sự thất bại của tiền kim loại đã bị đổ lỗi vào sự thất bại trong việc
đồng thời thu hồi tiền giấy và cố gắng yếu kém trong việc phổ biến tiền kim loại. Hầu
hết các máy bán hàng tự động không thối tiền bằng giấy được, cho nên chúng thường
được thiết kế để thối bằng đồng đô la hay nửa đô la kim loại.
Trong quá khứ, Hoa Kỳ đã đúc tiền kim loại với giá trị: nửa xu, hai xu, ba xu, hai
mươi xu, $2,50, $3,00, $4,00, $5,00, $10,00 và $20,00. Chúng vẫn là tiền tệ chính
thức theo giá trị trên mặt, nhưng cao giá hơn đối với những nhà sưu tầm tiền cổ.
Sở Đúc tiền Hoa Kỳ cũng sản xuất tiền thoi vàng và bạch kim, được gọi là "American
Eagles" (Đại bàng Mỹ), đều là tiền tệ chính thức tuy chúng rất hiếm khi được dùng.
Lý do là chúng không được sản xuất để trao đổi, do đó giá trị mặt của chúng thấp hơn
giá kim loại quý được dùng để tạo chúng. Đồng thoi American Silver Eagle (Đại bàng
bạc Mỹ) được lưu hành với giá trị $1 (1 ounce troy). Đồng thoi American Gold Eagle
(Đại bàng vàng Mỹ) có giá trị $5 (1/10 ounce troy), $10 (1/4 ounce troy), $25 (1/2
ounce troy) và $50 (1 ounce troy). Đồng thoi American Platinum Eagle (Đại bàng
bạch kim Mỹ) có giá trị $10 (1/10 ounce troy), $25 (1/4 ounce troy), $50 (1/2 ounce
troy) và $100 (1 ounce troy). Đồng bạc có 99,9% bạc, đồng vàng có 91,67% vàng (22

karat) và đồng bạch kim có 99,95% bạch kim. Các đồng tiền này khơng có bán lẻ cho
cá nhân, mà phải mua từ các cơ quan có phép.
Sở Đúc tiền còn sản xuất tiền kim loại dành cho các nhà sưu tầm, có cùng giá mặt và
thể tích vàng thoi, để bán lẻ. Hiện giờ đơn vị lớn nhất được lưu hành là tờ $100 và
đồng $100 ounce troy Platinum Eagle.

Hình: Tiền Kim Loại
3.2. Tiền giấy
Tuy các biện pháp nhằm chống tiền giả như thêm màu và hình mờ đã được đưa vào
tiền giấy, các người chỉ trích cho rằng việc làm tiền giả còn quá dễ dàng. Họ cho rằng
việc in hình màu là việc dễ dàng đối với các máy in hiện đại rẻ tiền. Họ đề nghị Cục
dự trữ Liên bang nên đưa vào các chức năng ảnh tồn ký (holography) như đã có
trong các đơn vị tiền lớn khác như Đô la Canada, franc Thụy Sĩ và đồng euro, khó giả
mạo hơn. Một kỹ thuật khác được phát triển tại Úc, được một vài nước sử dụng (kể cả
Việt Nam), chế tạo ra tiền giấy bằng polymer.

Nhóm 1 thực hiện

12


Giới Thiệu Khái Quát Về Lịch Sử Các Loại Tiền Đang Lưu Thơng Hiện Nay
Tuy nhiên, có lẽ tiền Mỹ cũng khơng dễ giả mạo như các nhà chỉ trích đã nói. Hai
chức năng chống tiền giả quan trọng nhất trong tiền Mỹ là giấy và mực. Các thành
phần của giấy và các chế biến mực cịn được giữ bí mật. Sự kết hợp của giấy và mực
tạo ra một lớp da đặc biệt, càng được nổi rệt ra khi tiền được qua nhiều tay. Các đặc
điểm này khó tái tạo được nếu khơng có đủ thiết bị và vật dụng. Tuy nhiên, tiền giấy
Mỹ vẫn còn dễ giả mạo hơn hầu hết các tiền khác, và trong khi một ngân hàng có thể
phát hiện tiền giả, chúng ít được xem xét kỹ lưỡng khi được sử dụng.
Các nhà chỉ trích đồng thời cịn cho rằng tiền giấy Mỹ rất khó phân biệt: chúng có hoa

văn rất giống nhau, và được in bằng cùng màu, và có cỡ bằng nhau. Các tổ chức hỗ
trợ người mù muốn chúng được in bằng cỡ khác nhau tuỳ theo mệnh giá và có chữ
Braille cho những người khiếm thị có thể sử dụng chúng mà không cần phải đọc chữ.
Tuy một số người khiếm thị đã có thể dùng cảm giác để phân biệt tiền giấy, nhiều
người khác phải dùng máy đọc tiền; trong khi một số người khác gấp tiền khác nhau
theo mệnh giá để dễ phân biệt chúng. Giải pháp này vẫn cần sự giúp đỡ của một
người thấy rõ, cho nên khơng phải là một giải pháp hồn thiện.
Trong khi đó, các đơn vị tiền quan trọng khác như đồng euro có tiền với cỡ khác
nnhau: mệnh giá càng cao thì cỡ tiền càng lớn, và chúng cịn được in bằng nhiều màu
khác nhau. Chẳng những chúng giúp người khiếm thị, chúng cịn giúp người thường
khơng lẫn lộn một tờ giấy có giá trị cao trong một xấp tiền có giá trị thấp, một vấn đề
thường gặp ở Mỹ. Các du khách cũng thường không phân biệt được tiền Mỹ vì họ
khơng rành lắm với những hoa văn trên mặt giấy.
Đã có dự án để đổi tiền giấy thành nhiều cỡ, nhưng những nhà sản xuất máy bán hàng
tự động và máy đổi tiền cho rằng làm vậy sẽ làm các máy đó phức tạp hơn và tốn tiền
hơn. Tại châu Âu họ cũng dùng lý luận này trước khi có nhiều cỡ tiền, nhưng đã bị
thất bại.
Ngồi việc in tiền nhiều màu và nhiều cỡ khác nhau, nhiều nước khác cũng có các
chức năng cảm giác trong tiền khơng tìm thấy được trong tiền Mỹ để hổ trợ người
khiếm thị. Tiền Canada có một số nút có thể cảm nhận được trong góc trên phải để
cho biết mệnh giá tiền.
Ngoài chức năng giúp người dùng phân biệt tiền, việc in tiền nhiều cỡ có một chức
năng chống một cách làm tiền giả mà tiền Mỹ đã bị nhiều lần: các người làm tiền giả
tẩy trắng mực từ một tờ tiền với mệnh giá thấp (như là 1 đô la) và in lại với mệnh giá
cao hơn (như là 100 đơ la). Hiện đang có đề nghị được đưa ra để làm tờ 1 đô la và 5
đô la một inch ngắn hơn và nửa inch thấp hơn; tuy nhiên, giải pháp này khơng hồn
thiện vì có 7 đơn vị tiền mà chỉ có 2 cỡ tiền giấy.

Hình: Một Đơla
Nhóm 1 thực hiện


13


Giới Thiệu Khái Quát Về Lịch Sử Các Loại Tiền Đang Lưu Thơng Hiện Nay

Hình: Hai Đơla

Hình: Mười Đơla
Tiền tệ Ai Cập
Các loại tiền tệ của Ai Cập là pound, các pound Ai Cập được chia thành 100 piastres.
Có một số đơn vị tiền tệ như được chỉ ra trong bảng sau, tiền giấy đều có hai mặt, một
trong tiếng Ả Rập và thường có hình ảnh của một nhà thờ Hồi giáo cũng được biết
đến ở Ai Cập và mặt khác là tiếng Anh và có hình ảnh của Ai Cập cổ đại con số,
tượng hay nói chung đài kỷ niệm.
Lịch sử của tiền Ai Cập hiện đại
Từ đầu lưu hành bạc và tiền xu vàng ở Ai Cập và cho đến năm 1834, khơng có
quy định đơn vị tiền tệ tồn tại để làm cơ sở cho hệ thống tiền tệ. Chỉ có một vài trong
số các đồng tiền được đúc tại địa phương. Năm 1834, một Nghị định được ban hành
quy định về phát hành một loại tiền tệ Ai Cập dựa trên một cơ sở bimetallic, vàng và
bạc. Năm 1836 các pound Ai Cập được đúc và đưa vào lưu thông.
Luật Cải cách tiền tệ ban hành vào năm 1885 mà thiết lập tiêu chuẩn vàng để trở
thành cơ sở cho hệ thống tiền tệ Ai Cập, và đất nước đã thống nhất một loại tiền tệ,
vàng pound Ai Cập.
Nó được phép sử dụng tiền xu vàng một số nước ngoài, đặc biệt là pound Sterling, tại
pháp lý tỷ giá cố định. Đồng bảng Anh Sterling vàng, được có giá trị hơn vàng nội
dung của nó so với vàng tiền xu nước ngoài khác, đã trở thành phương tiện chính của
trao đổi, và hệ thống tiền tệ Ai Cập dựa trên tiêu chuẩn vàng Sterling.

Nhóm 1 thực hiện


14


Giới Thiệu Khái Quát Về Lịch Sử Các Loại Tiền Đang Lưu Thông Hiện Nay
Năm 1898 Ngân hàng quốc gia của Ai Cập được thành lập và đã được cấp, của chính
phủ, các đặc quyền phát hành tiền giấy của Ai Cập, phải trả bằng vàng trong thời gian
50 năm. Ngân hàng quốc gia của Ai Cập bắt đầu phát hành giấy bạc vào ngày 03
tháng 4 1899.
Do đó, các loại tiền tệ lưu thông ở Ai Cập bao gồm bảng vàng và giấy bạc Sterling Ai
Cập chuyển đổi thành vàng. Tình trạng này tiếp tục đến năm 1914 khi Nghị định đặc
biệt đã được phát hành giấy bạc làm cho Ai Cập một hồ sơ dự thầu quy phạm pháp
luật và đình chỉ việc chuyển đổi của họ vào vàng. Như vậy, tiền giấy pound Ai Cập
đã trở thành đơn vị tiền tệ cơ bản, và các cơ sở của hệ thống tiền tệ Ai Cập được đổi
giấy tiêu chuẩn tiền ủy thác. Theo đó, tiền vàng khơng cịn được sử dụng trong lưu
thông, với kết quả là khối lượng của vấn đề lưu ý tăng từ LE 11.600.000 vào cuối năm
1915 đến LE 3.557,0 triệu vào cuối năm 1980, và hơn nữa để LE 38.320,0 triệu vào
cuối năm 1999. Năm 1930, lần đầu tiên trong lịch sử tiền giấy của Ai Cập, watermark
một lần được sử dụng trong giấy bạc phát hành. Sau đó, vào cuối năm 1968, bằng
cách sử dụng một sợi kim loại (trong ghi chú do Ngân hàng Trung ương của Ai Cập)
là một bảo đảm chống lại giả mạo thay vì phụ thuộc vào độ phức tạp của màu sắc.
Các tính năng khác chống lại giả được tìm thấy trong chi tiết các thơng số kỹ thuật
từng loại tiền tệ. Ba chiều hiện đang được thêm vào các ghi chú lớn mệnh giá.
Trong tháng 7 năm 1960 Ngân hàng Trung ương của Ai Cập được thành lập và được
cấp quyền phát hành tiền giấy của Ai Cập. Một số thay đổi đã được giới thiệu đối với
watermark, các thiết kế hiển thị trên các ghi chú và màu sắc.
Ngân hàng Trung ương của Ai Cập thành lập một nhà máy in cho tiền giấy vào năm
1968 thay vì in ra nước ngồi. Ngân hàng cũng phục vụ một số ngân hàng trung ương
Ả rập trong in giấy bạc của họ.
Năm 1977 Ngân hàng Trung ương của Ai Cập đã ban hành các ghi chú của 20 và £

100 vào năm 1979 và £ 50 vào năm 1993.
Ai Cập pound tỷ giá (gần đúng): 1 USD = 5,53 LE
Các đơn vị tiền tệ Ai Cập:

Khu
phố

25 đơn vị tiền tệ đông dương Ai Cập
lưu ý hoặc khu phố. Các mặt Ả Rập
có hình ảnh của Aisha Mosque

Việc trở lại hoặc tiếng Anh đối mặt
với các khu phố có hình ảnh của Hawk
Quraysh biểu tượng chính thức của Ai
Cập

Một
nửa
pound

Các mặt Ả Rập của pound lưu ý một Các mặt tiếng Anh của pound lưu ý
nửa với hình ảnh của nhà thờ Hồi giáo một nửa với hình ảnh của Ramses II
Nhóm 1 thực hiện

15


Giới Thiệu Khái Quát Về Lịch Sử Các Loại Tiền Đang Lưu Thông Hiện Nay
Al Azhar


Một
Pound

Các mặt Ả Rập của đồng bảng Anh
có hình ảnh của nhà thờ Hồi giáo
Sultan Qayetbay

Bộ mặt khác của pound Ai Cập có
hình ảnh của ngôi đền Abu Simbel ở
Aswan

Các mặt Ả Rập của lưu ý pound năm
với hình ảnh của Ahmed ebn Tolon
Mosque

Các lưu ý mặt sau của £ 5

Bảng
5 lưu
ý

10
Pound
s
Các mặt tiếng Anh của pound lưu ý
Các mặt Ả Rập của pound lưu ý 10 có
10 có hình ảnh của Khafre với con đại
hình ảnh của Refaee moque El
bàng
50

Pound
s
Các mặt Ả Rập của pound lưu ý 50 có Các mặt tiếng Anh của 50 pound lưu
hình ảnh của Abu Hreba moque
ý có hình ảnh của ngôi đền Karnak
100
Pound
s
Các mặt Ả Rập của pound lưu ý 100
có hình ảnh của nhà thờ Hồi giáo

Nhóm 1 thực hiện

Mặt sau của bảng lưu ý 100 có hình
ảnh của Nhân sư

16


Giới Thiệu Khái Quát Về Lịch Sử Các Loại Tiền Đang Lưu Thông Hiện Nay
Sultan Hassan
200
Pound
s
Các mặt Ả Rập của pound lưu ý 200
có hình ảnh của Qanibay Mosque
5. Đồng tiền Canada
Lịch sử của đồng tiền Canada

Các mặt tiếng Anh của 200 pound lưu

ý với các bức tượng của Ai Cập scribe

5.1. Đơ la vàng

Hình: Tiền xu 1 đơ la Canada

Vào năm 1841, tỉnh Canada mới thành lập đã tuyên bố rằng đồng pound của mình là
tương đương với một phần mười đồng eagle vàng của Mỹ (10 đô la Mỹ) và có giá trị
bằng 5 s. (5 shilling) trong đơn vị tiền tệ địa phương. Đồng đô la Tây Ban Nha bạc
được định giá bằng 5 s. 1 p. và đồng Sovereign được định giá bằng 1 bảng 4 s. 4 p.,
một giá trị chính xác theo hàm lượng vàng của nó so với hàm lượng vàng vàng của
đồng đô la Mỹ vàng.
5.2. Đô la Canada độc lập
Tỉnh Canada tuyên bố rằng tất cả các tài khoản cần được duy trì theo đơ la và cent vào
thời điểm ngày 1 tháng 1 năm 1858, và ra lệnh phát hành các đồng tiền xu Canada
chính thức đầu tiên trong cùng một năm. Đồng đô la được chốt ngang giá với đồng đô
la Mỹ, theo tiêu chuẩn vàng là $1 = 23,22 grain (1,505 g) vàng.
Các vùng thuộc địa kết hợp cùng nhau trong Liên bang Canada đã dần dần chấp thuận
hệ thống thập phân trong vài năm sau đó. New Brunswick, British Columbia và đảo
Hoàng tử Edward chấp nhận các đồng đơ la có giá trị tương đương với đồng đô la
Canada (xem đô la New Brunswick, đô la British Columbia và đơ la đảo Hồng tử
Nhóm 1 thực hiện

17


Giới Thiệu Khái Quát Về Lịch Sử Các Loại Tiền Đang Lưu Thông Hiện Nay
Edward). Tuy nhiên, Nova Scotia và Newfoundland không chấp nhận cùng một đồng
đô la như vậy (xem đô la Nova Scotia và đô la Newfoundland). Nova Scotia duy trì
loại tiền tệ của mình cho đến năm 1871, cịn Newfoundland thì phát hành tiền tệ của

mình cho đến khi tham gia Liên bang Canada năm 1949, mặc dù giá trị của đồng đô la
Newfoundland trong năm 1895 đã được điều chỉnh để làm cho nó tương đương với
đồng đô la Canada.
Đơn vị tiền tệ được sử dụng ở Canada
Tiền tệ
Năm sử dụng Giá trị Bảng Anh Giá trị Đô la Canada
Bảng Canada
1841–1858 16s 5,3d
$4
Đô la Canada
1858–
Đô la New Brunswick
1860–1867
4s 1,3d
$1
Đơ la British Columbia
1865–1871
Đơ la đảo Hồng tử Edward 1871–1873
Đô la Nova Scotia
1860–1871 4s
$0,973
1865-1895
4s 2d
$1,014
Đô la Newfoundland
1895–1949 4s 1,3d
$1
Quốc hội liên bang thông qua đạo luật tiền tệ thống nhất vào tháng 4 năm 1871,[3] kết
thúc việc sử dụng các loại tiền tệ địa phương và thay thế chúng bằng đồng đô la
Canada chung. Tiêu chuẩn vàng đã tạm thời bị từ bỏ trong thời gian thế chiến thứ

nhất và bị hoàn toàn bãi bỏ từ ngày 10 tháng 4 năm 1933. Tại thời điểm bùng phát thế
chiến thứ hai, tỷ giá trao đổi với đồng đô la Mỹ đã được chốt ở mức 1,1 đô la Canada
= 1 đơ la Mỹ. Nó được thay đổi thành ngang giá vào năm 1946. Năm 1949, đồng
sterling bị phá giá và đồng đô la Canada cũng bị mất giá theo, trở về mức 1,1 đô la
Canada = 1 đô la Mỹ. Tuy nhiên, đồng đô la Canada đã được thả nổi trong năm
1950, chỉ trở về tỷ giá hối đoái cố định vào năm 1962, khi đồng đô la Canada được
chốt ở mức 1 đô la Canada = 0,925 đô la Mỹ. Mức này kéo dài cho đến năm 1970, sau
đó giá trị của loại tiền tệ này đã được thả nổi.
5.3. Tiền xu
Trong năm 1858, các loại tiền xu 1 ¢ bằng đồng thiếc và 5 ¢, 10 ¢ và 20 ¢ bằng bạc
0,925 đã được tỉnh Canada ban hành. Ngoại trừ tiền xu 1 ¢ được đúc năm 1859,
khơng có đồng xu nào đã được phát hành cho tới tận năm 1870, khi việc sản xuất tiền
xu 5 ¢ và 10 ¢ được phục hồi và các đồng xu 25 ¢ và 50 ¢ bằng bạc được đưa vào sử
dụng. Giai đoạn từ năm 1908 tới năm 1919, sovereign (tiền tệ chính thức tại Canada
với giá trị $ 4,866) được đúc tại Ottawa với một chữ "C" đánh dấu trên tiền. Tiền xu $
5 và $ 10 bằng vàng đã được phát hành từ năm 1912 tới năm 1914.
Vào năm 1920, kích cỡ của 1¢ đã được giảm và bạc pha đã được giảm tới 0,800. Vào
năm 1922, đồng 5 ¢ bằng bạc đã được thay thế bằng đồng tiền xu lớn hơn, đúc từ
niken. Trong năm 1942, như là một biện pháp trong thời gian chiến tranh, niken đã
được thay thế bằng tombac (tombac là hợp kim của đồng và kẽm) trong đồng xu 5¢,
và hình dáng đã được thay đổi từ hình trịn thành hình thập nhị giác. Thép mạ crơm
được sử dụng cho đồng 5¢ vào giai đoạn 1944-1945, và từ năm 1951 tới năm 1954,
trước khi niken được chấp nhận trở lại. Đồng 5 ¢ quay trở lại hình dáng ban đầu vào
năm 1963. Vào năm 1935, đô la Voyageur bằng bạc đã được giới thiệu nhưng việc
sản xuất bị dừng lại năm 1939, không bắt đầu sản xuất trở lại mãi cho tới năm 1945.

Nhóm 1 thực hiện

18



Giới Thiệu Khái Quát Về Lịch Sử Các Loại Tiền Đang Lưu Thơng Hiện Nay
Tiền xu 10¢ và 25¢ bằng bạc 0,500 đã được ban hành vào giữa năm 1967, trước khi
bạc được thay thế hoàn toàn bằng niken, và tiền xu 10¢ và 25¢ vào giữa năm 1968
(vào đầu năm là đồng tiền xu 50¢ và $1, cùng thời gian đó cả hai đã được giảm kích
thước). Năm 1982, đồng xu 1¢ đã thay đổi thành hình thập nhị giác cịn đồng 5¢ được
chuyển sang dùng hợp kim đồng-niken. Vào năm 1987, đồng xu $1 đúc từ niken mạ
vàng đã được giới thiệu. Tiền xu $2 lưỡng kim ra đời năm 1996. Năm 1997, kẽm mạ
đồng đã thay thế cho đồng thiếc trong tiền xu 1 ¢. Thời gian sau đó, vào năm 2000,
các loại tiền xu 1¢, 5¢, 10¢, 25¢ và 50¢ bằng thép mạ đã được giới thiệu, với đồng xu
1¢ được mạ đồng và những đồng xu khác thì bọc bằng hợp kim đồng-niken.
Những đồng tiền xu được Xưởng dúc Canada hoàng gia sản xuất ở Winnipeg,
Manitoba, và hiện nay được phát hành với mệnh giá 1¢ (penny), 5¢ (nickel), 10¢
(dime), 25¢ (twenty-five cent piece) ("quarter" khơng phải là một tên gọi chính thức
tại Canada), 50¢ (50¢ piece) (mặc dù 50 ¢ piece ít khi được sử dụng), $1 (loonie), và
$2 (toonie). Bộ tiêu chuẩn thiết kế là các biểu tượng của Canada (thường là động vật
hoang dã) nằm trên mặt trái, và hình Elizabeth II nổi trên mặt phải. Tuy nhiên, một số
đồng penny, nickel, dime hiện vẫn cịn lưu thơng có mang hình nổi của George VI.
Những đồng xu kỷ niệm với các mặt trái khác nhau cũng được phát hành không định
kỳ. Tiền xu 50¢ hiếm khi được tìm thấy trong lưu thơng; chúng thường được sưu tập
và không được sử dụng thường xuyên trong các giao dịch thường nhật. Đã có những
cuộc thảo luận lặp đi lặp lại về việc rút penny ra khỏi lưu thông với lý do là Xưởng
đúc Canada hoàng gia phải mất tới 4 cent để sản xuất và phân phối đồng tiền xu 1
cent này.[6] Đồng penny Canada tiêu tốn ít nhất 130 triệu C$ mỗi năm để duy trì nó
trong lưu thơng, theo ước tính của một tổ chức tài chính kêu gọi rút bỏ đồng penny.
Vào năm 2007 một cuộc khảo sát cho thấy, chỉ có 37% dân số Canada sử dụng penny,
nhưng chính phủ vẫn tiếp tục sản xuất khoảng 816 triệu penny mỗi năm, tương đương
25 penny cho một người Canada.
5.4. Giấy bạc


Hình: Loạt giấy bạc ngân hàng Canada mới nhất

Nhóm 1 thực hiện

19


Giới Thiệu Khái Quát Về Lịch Sử Các Loại Tiền Đang Lưu Thơng Hiện Nay
Tiền giấy có tên gọi là đô la được phát hành lần đầu ở Canada là British Army Bills,
phát hành vào giữa những năm 1813 và 1815 với mệnh giá trong khoảng từ $1 tới
$400. Chúng là sự phát hành khẩn cấp do cuộc chiến năm 1812. Giấy bạc đầu tiên
được Ngân hàng Montreal phát hành năm 1817. Một lượng lớn các ngân hàng đủ tư
cách được thành lập trong các thập niên 1830, 1850, 1860 và 1870, mặc dù nhiều
ngân hàng chỉ phát hành tiền giấy trong một thời gian ngắn. Các ngân hàng khác, như
ngân hàng Montreal, phát hành giấy bạc trong một vài thập niên. Cho đến năm 1858,
rất nhiều giấy bạc đã được phát hành với mệnh giá là cả hai loại shilling/pound và đô
la (5 shilling = $1). Một lượng lớn các mệnh giá khác nhau đã được ban hành, bao
gồm cả $1, $2, $3, $4, $5, $10, $20, $25, $40, $50, $100, $500 và $1000. Sau năm
1858, chỉ các mệnh giá đô la là được sử dụng. Xem thêm Giấy bạc ngân hàng đủ tư
cách tại Canada để biết thêm thông tin.
Sau khi thành lập vào năm 1841, trên địa bàn tỉnh Canada đã bắt đầu phát hành tiền
giấy. Giấy bạc được ngân hàng Montreal sản xuất cho chính phủ vào giữa những năm
1842 và 1862, với các mệnh giá $4, $5, $10, $20, $50 và $100. Năm 1866, tỉnh
Canada bắt đầu phát hành tiền giấy riêng của mình, với các mệnh giá $1, $2, $5, $10,
$20, $50, $100 và $500. Năm 1870, sau khi thành lập Liên bang, nhà nước tự trị
Canada đã giới thiệu giấy bạc 25¢ cùng với phát hành mới $1, $2, $500 và $1000.
Giấy bạc $50 và $100 theo sau trong năm 1872, nhưng phần lớn giấy bạc chính quyền
sản xuất sau này chỉ là giấy bạc $1 và $2, có $4 được thêm vào trong năm 1882. Các
mệnh giá $500, $1000, $5000 và $50,000 được phát hành sau năm 1896 chỉ để giao
dịch ngân hàng mà thôi.

Luật ngân hàng năm 1871 giới hạn các mệnh giá nhỏ nhất mà các ngân hàng đủ tư
cách có thể phátn hành đến $4, tăng lên đến $5 trong năm 1880. Để tạo điều kiện mua
hàng dưới $5 mà không cần sử dụng các giấy bạc của nhà nước tự trị, ngân hàng
Molsons đã phát hành giấy bạc $6 và $7 trong năm 1871. Chính phủ ban hành giấy
bạc $5 từ năm 1912. Tờ giấy bạc 25¢ cuối cùng, gọi là giấy bạc mất giá do kích cỡ
nhỏ của chúng, có niên kỷ vào năm 1923.
Trong năm 1935, chỉ còn mười ngân hàng đủ tư cách (chartered bank) vẫn còn phát
hành giấy bạc, ngân hàng Canada được thành lập và bắt đầu phát hành các giấy bạc
với các mệnh giá $1, $2, $5, $10, $20, $50, $100, $500 và $1000. Năm 1944, các
ngân hàng đủ tư cách đã bị cấm không cho phát hành tiền tệ riêng của mình, với Ngân
hàng Hồng gia Canada và Ngân hàng Montreal thuộc số những ngân hàng cuối cùng
được phát hành giấy bạc.
Mặc dù tiền xu $1 được giới thiệu vào năm 1935, nhưng chưa tới khi giới thiệu nó thì
giấy bạc ngân hàng $1 đã được rút khỏi lưu thông. Giấy bạc $2 cũng đã được thay thế
bằng tiền xu năm 1996. Hiện tại tất cả các giấy bạc ngân hàng đều được Công ty giấy
bạc Canada và BA International Inc in cho Ngân hàng Canada.
Trong năm 2000, Ngân hàng Canada ngừng việc phát hành giấy bạc $1000 và bắt đầu
rút chúng ra khỏi lưu thông, "như là một phần của cuộc chiến chống rửa tiền và các tổ
chức tội phạm.

Nhóm 1 thực hiện

20



×