1. Đặt vấn đề :
Trong lịch sử phát triển hàng mấy nghìn năm của văn hoá truyền thống
Trung Quốc, Nho - Đạo - Phật, luôn luôn là những dòng t tởng chủ yếu. Cùng
với sự phát triển đó, Nho - Đạo - Phật luôn luôn đồng hành, luôn hấp thụ ,hỗ trợ
và bổ xung cho nhau, và điều đó có đóng góp rất lớn đối với sự phát triển của
văn hoá Trung Quốc và gián tiếp ảnh hởng tới văn hoá Việt Nam .Về sự đóng
góp đó, Đạo gia và Nho gia có những nét đặc thù. Đây chính là vấn đề mà
chúng tôi muốn đi sâu tìm hiểu.
Điều đầu tiên cần nói rõ đó là triết học nhân sinh Đạo gia - nếu không mở
vấn đề từ góc độ này thì khó lý giải cho rõ ràng giá trị lịch sử của t tởng Đạo
gia. Bởi vì, hạt nhân của t tởng Đạo gia do Lão Tử sáng tạo chính là triết học
nhân sinh. Sự phát triển của toàn bộ hệ thống triết học Lão Tử là từ Vũ trụ luận
phát triển đến nhân sinh luận, rồi lại từ nhân sinh luận đến chính trị luận. Nhng
nếu chúng ta tìm hiểu động cơ chân chính của t tởng Lão Tử thì chúng ta hiểu
rằng hình thợng học của Lão Tử đợc xây dựng để đáp ứng nhu cầu nhân sinh
và chính trị ( Trần Cổ Ưng- Lão Tử, chú dịch và phê bình). Còn đối với triết
học nhân sinh Nho gia, chúng tôi chỉ đề cập đến khía cạnh nhân đạo chủ nghĩa.
Có thể nói chủ nghĩa nhân đạo có nội dung phát triển qua nhiều chặng khác
nhau,và cho đến nay,về mặt lí luận,nội dung của khái niệm này vẫn còn đang di
động. Căn cứ vào lí luận hình thái kinh tế xã hội của chủ nghĩa duy vật lịch
sử ,mà ngời ta định tên cho các loại chủ nghĩa nhân đạo khác nhau. Nhng xét về
logic, ta có thể nói chủ nghĩa nhân đạo tập trung chính kiến trong ý tởng tất cả
vì hạnh phúc của con ngời ,loài ngời. Đó cũng là lí tởng chính trị xã hội , lí t-
ởng đạo đức cao cả mà chúng ta đang đấu tranh để thực hiện ...Bởi lẽ, Nho giáo
trong toàn bộ sự trờng tồn của mình ,đã tìm ra một điểm tựa về logic vô cùng
khôn khéo ,đó là lẽ phải thông thờng. Nh Hengel đã từng nhận xét ,lẽ phải
thông thờng bao giờ cũng đầy mâu thuẫn ,vừa hàm chứa những yếu tố lơng tri
,vừa phản ánh những thành kiến của mọi thời đại .Chính là nhờ việc biến
1
những nguyên tắc của học thuyết thành lẽ phải thông thờng ,thành chân lí ứng
dụng ,mà Nho giáo luôn tìm đợc sự đồng tình ,chia sẻ của một đa số thiếu nhận
thức triệt để.
Chủ nghĩa nhân đạo là một trong những nội dung lớn nhất trong toàn bộ sự
phát triển của lịch sử loài ngời .Lẽ dĩ nhiên nó trở thành một trong những thớc
đo chiều kích thực sự của trình độ phát triển xã hội .Bàn về chủ nghĩa nhân đạo
trong Nho giáo ,chúng ta có thể thấy có một chủ đề dặc biệt quan trọng ,luôn
luôn tơng tựu lu hành ,đó là nhân nghĩa .Nhân nghĩa là một nội dung cốt tử của
bản thân Nho giáo...
Cho đến nay,cách hiểu nội dung của Nhân nghĩa vẫn còn là điều đang
tranh luận .Có ý kiến cho Nhân nghĩa của Nho giáo tơng đơng với nhân đạo,chủ
nghĩa nhân đạo .Bảo vệ cho ý kiến này ,ngời ta dẫn những ý kiến của các bậc
khai sáng ra đạo Nho ,đặc biệt ý kiến của Khổng tử Nhân giả ái nhân.Có
nhiều nhà Đông phơng học thậm chí gọi Khổng tử là ngời phát hiện ra con ng-
ời .Cũng có nhiều ý kiến ,ngợc lại ,coi nhân nghĩa là lời lẽ mị dân của giai cấp
thống trị phong kiến ,che đậy thực chất dã man tàn bạo .Ngời ta cũng nói đến
tính hạn chế của nội dung Nhân nghĩa đơng thời với Khổng - Mạnh ,và cả về
sau-Nhân nghĩa liên tục bị phê phán ,dới nhiều góc độ
Vài Nét Khái Quát về Nho giáo :
2.1 Nho giáo :
Là học thuyết thuộc loại phức tạp nhất trong lịch sử t duy nhân loại, đồng
thời nó cũng có một vận mệnh lịch sử lâu dài nhất .Nó là ý thức hệ chứ không
phải là một tôn giáo nh một số ngời xa nay lầm tởng.Và trong lịch sử cha có ý
thức hệ nào tồn tại lâu nh vậy.
Trớc khi Khổng Tử xuất hiện ,Nho giáo đã tồn tại dới dạng phân tán(tức là
trớc thời Khổng Tử 700 năm).Nho giáo xuất hiện Tam hoàng đế ( Nhà Hạ - Th-
ơng - Chu ) cho đến nay đã trải qua những bớc thăng trầm của gần 3000 năm
2
lịch sử. Mãi đến Cách mạng Tân Hợi ( trung quốc) ,Nho giáo mới chấm dứt vai
trò ý thức hệ chủ yếu .Vào thế kỉ XIX ở Trung Quốc,Việt Nam,Triều Tiên, đã
xuất hiện những luồng t tởng chống Nho giáo và buộc cho Nho giáo tội làm trì
trệ xã hội .Thậm chí cả nhà Nho cũng tự phủ định để bớc sang vai trò mới.Lời
buộc tội ấy chỉ là phong trào xã hội mà cha có sự phê phán tận gốc về mặt chính
trị,xã hội .Nh vậy Nho giáo chỉ bị dánh tan rã chứ cha bị tiêu diệt hoàn toàn
.Trong những điều kiện nhất định ,nó sẽ hồi sinh.
Về thực tế,từ những năm của thế kỷ đã xuất hiện các cuộc vân động phục h-
ng Nho giáo : Tân Nho giáo.Biểu hiện rõ nhất là ở Đài Loan,Hồng Kông.Các
phong trào này,đầu tiên giống nh một câu lạc bộ những ngời hiếu cổ,dần dần
mạnh lên và có mặt ở các khu vực khác nh Hàn Quốc,Nhật Bản,Singapo.Hơn
thế nữa ,vào những năm 70 ở phơng Tây, giới nghiên cứu phơng Đông xuất hiện
một luận điểm cho rằng : sự thần kì của nền kinh tế Nhật Bản ,sự trỗi dậy trở
nên thịnh vợng của các nớc có nền công nghiệp mới nh Đài
Loan,HồngKông,Hàn Quốc,Singapo,là do các nớc này biết phát huy,khai thác
những tiềm lực sẵn có ,trong đó Nho giáo đóng vai trò then chốt.
2.2 Về nguyên tắc:
Học thuyết nào cũng có cấu trúc,lịch sử xác định,có nội dung đặc định làm
nó phân biệt với học thuyết khác .Có nhiều ý kiến cho rằng phải xác định cái
gọi là cấu trúc của học thuyết trớc rồi mới trình bày lịch sử .Nhng với Nho giáo
thì đã có sự thay đổi ngay trong khi trình bày .( hạt nhân của Nho giáo là gì? C-
ơng thờng hay luân thờng?)
Có ý kiến cho rằng cơng - luân chỉ là đòi hỏi về mặt xã hội.Có ngời cho hạt
nhân của Nho giáo là Lễ vì Lễ quan trọng và đợc Khổng Tử nói đến nhiều
.Một số ngời cho rằng chữ Nhân là trung tâm của học thuyết Nho giáo.Khổng
Tử đánh giá Nhan Hồi Nhân cao hơn mình.Khổng tử chỉ nhìn thấy Nhân ở
các bậc thánh nhân xa.Với hai ngời học trò của mình, Khổng tử đã trả lời mạch
lạc nhất về chữ Nhân:
3
- Khắc kỷ phục lễ vi nhân (Trả lời Nhan Hồi)
- Nhân giả ái nhân (trả lời Phàn Trì)
( Nhan Hồi là học trò giỏi,đợc thầy quí mến nên câu trả lời có lẽ đợc Khổng tử
cân nhắc nhiều,.Phàn trì học bình thờng,câu trả lời có vẻ không đợc hiểu theo
nghĩa nhân đạo )
Khổng tử nói có thể có ngời quân tử bất nhân chứ không thể có kẻ tiểu
nhân mà có nhân bao giờ .Nh vậy, Nhân không phải là phẩm chất của con ng-
ời bình thờng mà là của những bậc đại phu.Chữ quân tử (bậc đại phu) có
mang tính đẳng cấp và về sau còn đợc mang thêm nghĩa khác: là ngời có nhân
cách cao.Trong thực tế,nghĩa thứ hai của ngời quân tử đợc dùng nhiều hơn,chữ
nhân khó thể hiện do đó không mang tính phổ cập.
Khổng Tử cũng không nhận mình là Nhân. Nhân là yêu ngời,yêu nh thế
nào?Khổng tử đòi hỏi phải yêu bố mẹ,gia đình mình hơn,yêu có phân biệt...đó
là Nho giáo đã dựa vào lẽ phải thông thờng,không thể yêu đợc một con ngời ở
nơi xa mà không biết mặt,ghét là phải cụ thể một con ngời chứ không phải ở
đâu xa.
Xác định bản chất Nho giáo phải thông qua các mối quan hệ với các học
thuyết cùng tồn tại.Nho giáo với t cách là một chủ thuyết ,học thuyết thì đến
Khổng tử mới định hình .( Nếu là những yếu tố tồn tại lẻ tẻ thì đã có từ lâu). Nó
gắn liền với sự hình thành cộng đồng và sự tổ chức cộng đồng.
2. Chủ nghĩa nhân đạo của Nho giáo
3.1. Khái niệm chung về chủ nghĩa nhân đạo :
Theo định nghĩa của viện sĩ Vonghin về chủ nghĩa nhân đạo : Chủ nghĩa
nhân đạolà một học thuyết đạo đức và chính trị ,coi việc giải phóng những
năng lực và thoả mãn những nhu cầu lành mạnh của con ngời.
4
Trong lịch sử nhân loại chủ nghĩa nhân đạo có nội dung phát triển qua những
giai đoạn khác nhau .Xét trên phạm vi rộng,lòng yêu nớc căm thù giặc ngoại
xâm,đấu tranh quên mình cho đất nớc cho dân tộc đợc coi là nhân đạo ,trên ph-
ơng diện hẹp hơn,nhân đạo là có tấm lòng kiêm ái,biết cảm thông với nỗi thống
khổ của mọi kiếp ngời ,biết trân trọng con ngời và những tình cảm của họ ,biết
xúc động trớc nỗi sầu nhân thế ...
Nói chung ,quan niệm nhân đạo chủ nghĩa bao hàm toàn bộ những giá trị
đích thực của tinh thần .Và căn cứ vào lí luận hình thái kinh tế xã hội của chủ
nghĩa duy vật lịch sử mà ngời ta định tên cho các loại chủ nghĩa nhân đạo khác
nhau
( Trong phạm vi giới hạn của tiểu luận,tôi chỉ trình bày sơ lợc về phần này)
3.2. Quan niệm về Nhân của Nho giáo với chủ nghĩa Nhân đạo
Theo Khổng tử ,gốc của chữ Nhân là hiếu đễ đối với đơng thời ,việc đề
cao chữ nhân là có ý nghĩa tích cực ,mang tính chất nhân bản ,nhng mặt khác
trong quan niệm của Khổng tử về chữ Nhâncó bao hàm sự thừa nhận chế độ
đẳng cấp và quan hệ tòng pháp .Duy trì ngời có đức nhân mới có thể yêu ng-
ời ,mới có thể ghét ngời (Luận ngữ -Lý Nhân).Nhng sự yêu thơng này cũng có
những cấp độ khác nhau dựa trên quan hệ thân sơ,sang hèn , Nhân cũng
không phải là lòng bác ái rộng lớn bao la mà cần có những tiêu chí giới hạn cụ
thể .Trong quan niệm của Khổng Tử,Nhân gắn liền với Lễ.Có thể coi Lễ
là phơng thức giúp ngời ta đi đến đợc chữ Nhân : Ghìm nén cá nhân mình để
quay về với Lễ ,cả thiên hạ sẽ noi gơng mà quay về với điều Nhân. Thực hiện
điều Nhân là do mình chứ đâu phải là do ngời khác (Luận ngữ - Nhan
Uyên) .Khổng Tử nói Ngời mà không có đức nhân thì thực hành Lễ sao đợc...
Nh vậy Nhân theo Nho giáo khác với quan niệm nhân đạo thông thờng
và Nho giáo đề cao những lời dạy của ngời đi trớc .Lấy văn học làm ví dụ điển
hình ta sẽ thấy rõ điều này ...Trong văn học Nho giáo thì thuật nhi bất tác.Ng-
5
ời viết văn viết thơ càng thuộc và trích dẫn nhiều điển tích ,điển cố thì càng đợc
coi là bậc uyên thâm ,bác học.Vì thế các tác phẩm văn chơng Nho giáo thiếu sự
sinh động của cuộc sống ,khả năng sáng tác (theo đúng nghĩa của từ này) bị coi
là phàm tục ,không Đẹp .Sáng tác của nhà Nho thực chất là sao chép một
cách linh hoạt .Điều đó dẫn đến năng lực cá nhân bị kìm hãm .Vấn đề này sẽ đ-
ợc đề cập sâu hơn trong phần sau.
Nhân còn có phơng diện phản nhân đạo chủ nghĩa .Vì theo Nho giáo:
nớc có đạo mà nghèo thì xấu hổ ,nớc vô đạo mà no đủ cũng xấu hổ, với ngời
bình thờng thì đòi hỏi nghĩa,với tất cả mọi ngời trong mọi tầng lớp xã hội lại
đòi hỏi Hiếu( Hiếu giả bản giã ; Nhân giả mạt dã). Xác lập mối quan hệ
Hiếu-Nhân ,Nho giáo đã xác lập một cơ sở xã hội Nhân bắt đầu từ Hiếu
chứ không từ cái gì khác .Hiếu là lối ứng xử cần có của con cái với bố mẹ ,ngời
dới với ngời trên ... và đợc coi là chuẩn mực .
Bàn về chữ Nhân thì Nho giáo có rất nhiều quan niệm khác nhau. Chúng
đều rất phù hợp với hoàn cảnh lịch sử khi Nho giáo chiếm vị trí độc tôn trong xã
hội .Tuy nhiên nếu xét theo quan điểm hiện đại thì chính những điều trớc đây đ-
ợc coi là nhân đạo chủ nghĩa thì lại trở thành phản nhân đạo .Đó là tất yếu và
chúng ta không thể tách bạch hay chê trách quan điểm của Nho giáo là không
nhân đạo hay ngợc lại .Bởi phát triển và thay đổi ,xã hội loài ngời từng ngày
thay đổi ,những quan niệm mới dần trở thành những quan niệm cũ .Song,dù thế
nào thì Nho giáo cũng đã có một vị trí rất quan trọng trong lịch sử t tởng của
loài ngời.
3.3. Vấn đề giải phóng năng lực và nhu cầu cá nhân
Nhng có một thực tế rõ ràng rằng ,là nội dung Nhân Nghĩa đó vẫn
sống,thậm chí đôi khi là mãnh liệt và đắc thắng trong suốt gần hai ngàn năm
trăm lịch sử,rồi lại từ từ băng hoại ,tiêu mòn và cho đến nay nó không thực sự
giữ nguyên hình ,muốn hiểu nó thì ta cần phải làm công tác phục chế nhằm giải
thích cho triệt dể thực chất của Nhân Nghĩa .
6
Những năng lực và nhu cầu của loài ngời xuất hiện dần dần trong lịch sử,
và đợc giải phóng,đợc thỏa mãn từng bớc một .Xét đoán một học thuyết chính
trị xã hội ,triết học hay đạo đức trên tinh thần chủ nghĩa Nhân đạo chính là căn
cứ vào trình độ ứng xử của nó đối với năng lực và nhu cầu của con ngời ...
Khổng tử đã từng nói với Nhan Hồi ngời học trò mà ông đánh giá là xuất sắc
nhất của mình ,ông nói: Khắc hỷ, phục lễ, vi nhân ( nghĩa là : Ngự mình
,quay về với Lễ ,đó là Nhân).Trả lời Phàn trì ,một trong những học trò
khác,Khổng tử nói : Nhân giả ái nhân ( Nhân là yêu ngời).
Hai câu nói trên nh hai định nghĩa về chữ Nhân của Nho giáo .Trong
nhiều lần vấn đáp khác về Nhân ,Khổng Tử trình bày một cách hiểu khá hệ
thống về khái niệm đó ,mà mỗi khía cạnh của việc trình bày phụ thuộc cả vào
phẩm chất của ngời đối thoại .Ta có thể hiểu , Nhân là đức mục cao nhất của
ngời quân tử,ngời có đạo .Chữ Nhân khó thực hành đến mức đạt đợc nó thì
thành Thánh ,noi theo nó thì thành Hiền .
Tuy đòi hỏi cao nh vậy,chữ Nhân của Nho giáo không phải là ít sơ hở và
lệch lạc .Nền tảng của Nhân là Hiếu :Hiếu là đức hạnh tối thiểu đầu tiên
mà ngời quân tử cần đạt tới .Có thể nói Hiếu là đạo c xử của con ngời trong bối
cảnh một gia đình gia trởng. Lấy sự hoà mục êm ấm của gia đình làm điểm quy
chiếu ,cho dù để đạt đợc điều đó phải vi phạm nhiều tật xấu khác ,chịu đựng
nhiều nghịch lý khác.
Nhân Nghĩa của Nho giáo bị giới hạn trớc hết ở phạm vi đối tợng thực
hành nó .Khổng tử cho rằng Có thể có ngời quân tử không có Nhân ,cha từng
nghe có kẻ tiểu nhân lại có Nhân.
Nhân là đức hạnh riêng phẩm chất riêng của một số ngời trong đẳng cấp
thống trị .Không thừa nhận mọi ngời đều có thể theo Nhân - Nghĩa là một thứ
ân huệ trời phú ,một đặc sản của kẻ bề trên.
7
Nghĩa là còn có thể dợc thực hiện ở ngời dới .Không nhà Nho nào nói
đến đức Nhân của ngời bình thờng ,nhng ngời ta nói đến lòng hiếu nghĩa
,nghĩa của ngời bình thờng và ở cả loài vật nữa .trong ý nghĩa gốc ,Nghĩa là
sự hô ứng,sự noi theo đối với điều Nhân .Nhân Nghĩa có nội dung vị tha,có sự
khẳng định phải yêu thơng con ngời và hành động vì con ngời .Những lời
khuyên Kỷ sở bất dục ,vật thi nhân, Kỷ dục lập nhi lập Nhân,kỷ dục đạt nhi
đạt Nhân (Luận ngữ) có ý nghĩa những châm ngôn hành động tích cực .Yêu
con ngời,hành động vì con ngời,cái gì mình mong muốn thì cũng làm cho ngời
đợc thế ,biết động tâm,trắc ẩn trớc bất hạnh của ngời khác ... Những đòi hỏi nh
thế của Nhân Nghĩa làm nên mặt nhân đạo chủ nghĩa thành thục và tích cực
trong nội dung Nhân Nghĩa ,và nếu nh phê phán Nho giáo theo phơng diện này
thì thật trớ trêu và vô lý .
Tuy có phần tích cực là vậy,song-Nho giáo nh đã đề cập ,Nhân của Nho
giáo không phải là điều có thể có đợc ở tất cả mọi ngời vì vậy,hơn một lần,chủ
nghĩa Nhân đạo trong Nho giáo đã bị quý tộc hoá và dẫn đến cô lập hoá .Mặt
khác và là điều quan trọng nhất ,nội dung Nhân Nghĩa bị giới hạn trớc hết ở tính
chất cằn cỗi của các năng lực mà Nho giáo khẳng định ,các nhu cầu mà Nho
giáo chấp nhận đợc phép thoả mãn .
Trong nhận thức luận của Nho giáo ,nguyên lí tuần hoàn Chu nhi phục
thuỷ( đi hết vòng quay lại chỗ ban đầu ) ngự trị vững trãi .Nho giáo không nói
gì đến việc giải phóng năng lực xã hội của quần chúng .Lý tởng xã hội của nhà
Nho chứng minh rõ rệt cho điều đó :Nho giáo mơ ớc một xã hội đại đồng ,thoả
mãn những nhu cầu tự nhiên ,nguyên thuỷ,chấm dứt những đau khổ.Đối với
quần chúng ,Nho giáo không nhìn nhận ở đó yếu tố sáng tạo lịch sử ,động lực
tiến hoá ,mà nhìn nhận họ nh là sức mạnh cơ bắp ,thực hiện những nguyên lý
tiên nghiệm ,siêu nhiên ,trhuộc Thiên cơ thiên mệnh trừu tợng .Nho giáo chỉ
thừa nhận một cách đặc biệt dè dặt những phơng diện nhất định của năng lực cá
nhân và một thiểu số cá nhân xuất chúng .Và một khi bất đắc dĩ phải thừa nhận
một số phơng diện tài năng nhất định nào đó ,nó lại tung ra một khối lợng đồ sộ
8