Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

tiểu luận Thăng Long - Kẻ Chợ thế kỷ XVII-XVIII qua mô tả của người nước ngoài (một vài nét sơ lược)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (248.2 KB, 25 trang )

Thăng Long - Kẻ Chợ thế kỷ XVII-XVIII qua mô tả của người nước ngoài
(mét vài nét sơ lược)
Mở đầu
Phương Tây sau những phát kiến địa lý cuối thế kỷ XV đầu thế kỷ XVI của
Crítxtốp Côlômbô, của Magienlăng… đã thực sự bước vào một thời kỳ tìm kiếm
thị trường mới, nhằm thoả mãn những yêu cầu bức xúc mà chủ nghĩa tư bản và
nền kinh tế hàng hoá tuy mới hình thành nhưng đã bắt đầu đặt ra. Cùng với sự
phát triển của khoa học kỹ thuật, đặc biệt là thiên văn, địa lý và kỹ thuật hàng hải,
người phương Tây đã vượt qua đại dương, đặt những bước chân đầu tiên của
mình lên mảnh đất á châu trù phú, trong đó có khu vực Đông Nam á mà Việt
Nam, Inđônêxia, Thái Lan (Xiêm)… là những điểm dừng chân quan trọng của họ.
Sự có mặt của người phương Tây đã làm cho khu vực này trở nên nhén nhịp và
phát triển, hình thành những luồng giao lưu buôn bán quốc tế và tạo nên một thời
kỳ mà trong lịch sử gọi là “Thời kỳ thương mại biển Đông”. Thế kỷ XVI-XVIII, ở
Việt Nam, cùng với sự hiện diện của người Bồ Đào Nha, Hà Lan, Anh, Pháp,… là
sự hưng khởi của một loạt đô thị lớn đóng vai trò là trung tâm buôn bán nh Thăng
Long – Kẻ Chợ, Phố Hiến (Hưng Yên), Hội An (Quảng Nam)…
Không phải là một đô thị mới hình thành trong thời gian này, Thăng Long
đã có một lịch sử phát triển lâu dài với vai trò là thủ đô đầu não của nước Đại Việt
từ thế kỷ XI. Tuy nhiên, trong bối cảnh của “Thời kỳ thương mại”, Thăng Long -
Đông Kinh mới thực sự đột khởi lên trong một đà phát triển mạnh mẽ, cả ở khu
vực thành lẫn khu vực thị, đặc biệt là khu vực thị, trở thành một trung tâm buôn
bán nhén nhịp mang tầm cỡ quốc tế, thu hót sự có mặt của người Hà Lan, Anh…
Nó đã trở thành một Thăng Long – Kẻ Chợ, một trung tâm chính trị – kinh tế lớn
nhất trong cả nước, “một trong những thành thị lớn của vùng Đông Nam á và
Đỗ Thị Thuỳ Lan, K44 - Lịch sử Việt Nam
1
Thăng Long - Kẻ Chợ thế kỷ XVII-XVIII qua mô tả của người nước ngoài
(mét vài nét sơ lược)
Phương Đông nói chung, trước sự chú ý và chiêm ngưỡng không phải là không có
cơ sở của các lái buôn và giáo sĩ phương Tây”


(1)
.
Để phục vụ cho những mục đích buôn bán, truyền đạo, những người châu
Âu có mặt ở đây trong khoảng thời gian này đã có những ghi chép mô tả về
Thăng Long – Kẻ Chợ một cách rất khách quan và chân thực. Đây là những tư
liệu quý và độc đáo, góp phần phục dựng lại diện mạo của Thủ đô Thăng Long –
Hà Nội của chúng ta, một công việc có ý nghĩa mà các học giả và nhân dân Hà
Nội cũng như cả nước đang hướng tới để kỷ niệm ngày thành phố tròn một nghìn
tuổi.
Tuy nhiên, trong bài viết nhỏ này, do điều kiện trình độ, thời gian và tư liệu
hạn chế, chúng tôi chỉ xin phác qua một vài nét sơ lược về Thăng Long – Kẻ Chợ
qua miêu tả của một vài người nước ngoài, đó là Samuel Baron, William
Dampier, Richard và Alexandre de Rhodes. Họ là những thương nhân (S. Baron
là nhân viên của công ty Đông Ên Anh, William Dampier…), giáo sĩ (Alexandre
de Rhodes)… đến Đông Kinh nói riêng và Đàng Ngoài nói chung trong khoảng
thời gian thế kỷ XVII-XVIII (William Dampier là 1688, Alexandre de Rhodes
1627…).
Dù rất cố gắng song bài tiểu luận này chỉ là một góc nhìn hẹp, chúng tôi
cũng chưa có điều kiện để so sánh đối chiếu với sử liệu và tài liệu Việt Nam và
chắc chắn cũng còn nhiều thiếu sót. Kính mong Thầy giáo chỉ bảo và hướng dẫn
thêm.
Em xin chân thành cảm ơn!
1
NguyÔn Thõa Hû, Th¨ng Long - Hµ Néi thÕ kû XVII - XVIII - XIX, Nxb. Héi Sö häc ViÖt Nam, H.
1993, tr. 5.
Đỗ Thị Thuỳ Lan, K44 - Lịch sử Việt Nam
2
Thng Long - K Ch th k XVII-XVIII qua mụ t ca ngi nc ngoi
(một vi nột s lc)
Ni dung

I. Thng Long - K Ch th k XVII-XVIII qua mụ t ca ngi nc ngoi
(mt vi nột s lc)
1. V trớ a lý v quy mụ
Nhng ngi nc ngoi n Thng Long K Ch thi k ny u cú
nhng nh v khỏ ging nhau v thnh ph. Trong cun sỏch Mụ t vng quc
ng Ngoi, Samuel Baron ó vit: Thnh ph K Ch l th ph ca ng
Ngoi, nm v 21
0
bc, cỏch bin khong 40 dm (league
(2)
)
(3)
. Richard n
ng Ngoi thỡ cho rng õy chng cú mt thnh ph no ngoi K Ch, ụng
cho rng õy l thnh ph duy nht, hon ton xng ỏng vi cỏi tờn ca nú, l
Kacho, hay Kecho, th ụ ca vng quc. Nh vua sng õy: thnh ph ny
nm bờn con sụng Cỏi (Songkay), cỏch bin khong 40 dm (league), vo v
21
0
bc
(4)
. Cũn theo William Dampier, K Ch nm trỏi tim ca vng quc,
nm gia nhng tnh phớa ụng, Tõy, Bc v Nam
(5)
. Dampier cũng cho bit
2
1 league = 1 hải lý = 5820 mét, còn 1 mile = 1850 mét.
3
S. Baron, Mô tả vơng quốc Đàng Ngoài, trong A general collection, London 1811, tr. 659.
4

Richard, Lịch sử Đàng Ngoài, trong A general collection, Sđd, tr. 713.
5
William Dampier, Du hành và khám phá, Nxb. Argonaut, London 1931, tr. 21.
Th Thu Lan, K44 - Lch s Vit Nam
3
Thng Long - K Ch th k XVII-XVIII qua mụ t ca ngi nc ngoi
(một vi nột s lc)
thờm: Nú cỏch xa bin chừng 80 dm (mile), v bờn tõy con sụng, trong mt
ng bng nh
(6)
.
V quy mụ, theo s mụ t ca nhng ngi ny, õy qu thc l mt thnh
ph ln. K Ch lỳc ny cú ti hai mi nghỡn núc nh, din tớch rt rng rói,
cú th sỏnh ngang vi nhng thnh ph ln ca Chõu ỏ. Theo Richard, quy mụ
ca nú cú th so sỏnh vi hu ht nhng thnh ph ni ting chõu ỏ, v chu vi
ca nú tớnh ra thỡ cú th bng chu vi ca Pari, nhng khụng mt thnh ph no
theo nh tụi c bit, cú th bng nú v quy mụ dõn s
(7)
. C Baron v Richard
u b ấn tng v mụ t rt k v s ụng ỳc ca thnh ph trong nhng ngy
hp ch l mng mt v mi lm õm lch. Vo nhng ngy ny, theo quan sỏt
ca h, nhng ỏm ụng ngi cht kớn c nhng con ng rng, n ni phi
mt na giờ ng h i c mt khong trm bc chõn.
Theo giỏo s Alexandre de Rhodes trong cun sỏch Lch s vng quc
ng Ngoi thỡ chúa Trnh ng Ngoi hựng mnh mt phn l do cú s dõn
ụng m ch cn nhỡn vo K Ch l cú th bit: tuy kinh thnh ny ch di
bng sỏu ngn bc v rng cng nh vy, ph phng thỡ rt rng v rt cú th
cho mi hay mi hai con nga qua li d dng c. Th nhng mi thỏng
hai ln vo ngy mng mt v ngy rm, h ngh vic v ngi ta thy rt ụng
dõn chỳng i i li li, rao khp ph phng, ng chm nhau, n ni nu ai vi,

nhng mi lỳc mt b ngng, thnh th mt nhiu thi giờ m ch tin c chỳt
ít. Ri thờm vo nhiu phng oỏn khỏc, theo d lun chung thỡ dõn c kinh
thnh lờn ti mt triu ngi (?). Cú mt chng c chớnh (b cỏc chng c khỏc)
hiu s ụng dõn õy. s l ngi dõn cú thói quen dựng mt th trỏi cõy
tng cng sc kho v cú mựi v thm ngon, gi l tru cau Nhng a s qun
chỳng vn n hng ngy nhng khụng cú ngi phc dch tờm sn nh.
6
William Dampier, Một chuyến du hành sang Bắc Kỳ vào năm 1688, T liệu bản dịch Khoa Lịch
sử, tr. 34.
7
Richard, Sđd, tr. 713.
Th Thu Lan, K44 - Lch s Vit Nam
4
Thng Long - K Ch th k XVII-XVIII qua mụ t ca ngi nc ngoi
(một vi nột s lc)
Ngi ta núi cú ti nm mi ngn ngi bỏn l v bỏn l nhiu a im trong
thnh ph. Vỡ th cú th kt lun l s ngi ti mua thỡ ụng vụ lng
(8)
.
Cú th thy rng s phng oỏn ca Alexandre de Rhodes l cũn thiu c
s. Tuy nhiờn qua nhng ghi chộp ca v giỏo s ny cũng nh nhng ngi khỏc,
ta cng cú c mt ý nim v quy mụ dõn s ca kinh ụ trong thi k thng
mi.
Núi túm li, th k XVII-XVIII, ụng Kinh ó thc s phỏt trin v tr
thnh mt thnh ph quy mụ ln, tp trung mt s lng dõn c khỏ ụng ỳc, cú
th so sỏnh vi nhng thnh ph ln trong khu vc v trờn th gii.
2. Din mo v cỏc cụng trỡnh kin trỳc
Hin lỳc ny, kinh ụ khụng cú nhng tng thnh cng nh khụng cú s
phũng th bờn ngoi no m theo Richard õy cng l mt c im chung ca
nhiu thnh ph khỏc õy. Theo quan sỏt ca ụng, K Ch ch c ro li bng

nhng hng ro tre m thc t thỡ li tt hn nhng bc tng c xõy bng
gch, cú th ngn trm v nhng t tn cụng bt ng t ngoi vo. Quan sỏt ny
cng c William Dampier chia s, thm chớ theo Dampier, K Ch cng trng
nh vy, chng cú tng, lu hay ro.
Tuy nhiờn, bự li, theo Richard, bao quanh kinh ụ ny l nhng khu kiờn
c vi mt lot n lớnh m vi chỳng, nh vua cú th sn sng trc bt c tỡnh
hung no. Nhng cụng binh xng, nhng kho v khớ v lng thc thc phm
d tr khỏc phc v cho chin tranh thỡ c t bờn b sụng
(9)
. Baron cng mụ
t v nhng cn c quõn s ny: Hn th, trong thnh ph ny cng cú mt cn
c quõn i hựng hu, luụn sn sng trong bt c tỡnh hung no, v õy cng
8
Alexandre de Rhodes, Lịch sử vơng quốc Đàng Ngoài, Tủ sách Đại Kết, Uỷ ban Đoàn kết Công
giáo thành phố Hồ Chí Minh, 1994, tr. 16, 17.
9
Richard, Sđd, tr. 714.
Th Thu Lan, K44 - Lch s Vit Nam
5
Thng Long - K Ch th k XVII-XVIII qua mụ t ca ngi nc ngoi
(một vi nột s lc)
cú mt cụng binh xng hay kho v khớ ca nh vua phc v cho chin tranh,
úng bờn b mt con sụng, gn mt o cỏt, trờn ú cú Thecadaw (T k
n)
(10)
Theo s mụ t ca Richard, Thng Long K Ch thi gian ny cú nhng
con ph rt rng v p, c lỏt bng gch, tr nhng ni m voi, nga, xe
nga ca vua v cỏc sỳc vt i qua
(11)
. Tuy nhiờn, bờn cnh nhng ph ln thỡ

cng cú nhng con ng hp. Hu ht ng ph c lỏt ỏ nhng theo
Dampier, thc ra ch l ri nhng hũn ỏ nh v rt cu th. V mựa ma, cỏc
ph ny rt ly li; v ngi ta thy trong thnh ph cũng nh quanh y, khi
thi tit khụ rỏo, nhiu vng nc mi ng v nhng h trn y mt th bựn
en
(12)
. Trờn cỏc ng ph u cú nhng trm lớnh gỏc gi gỡn an ninh trt
t v ngn chn nhng ri lon. Nhng lớnh gỏc ng trờn nhng bc thang cnh
im gỏc ca mỡnh kim tra ngi qua ng. H cng chng dõy thng ngang
ng v khụng ngi no qua m thoỏt c s kim tra ny. õy l quy nh
c c bit thi hnh nhng thnh ph ln m nht l K Ch
(13)
.
Ti K Ch lỳc ny cú n khong gn hai chc vn núc nh theo sự quan
sỏt ca William Dampier, Nhng nh ny thng l thp, tng trỏt bng bựn,
v mỏi nh thỡ lp bng rm. Tuy vy cú mt vi nh xõy bng gch, v lp ngói.
Hu ht nhng nh ny u cú mt cỏi sõn hay mt khong sau nh cng thuc
vo y
(14)
. C Richard v Baron u cú nhng mụ t tng t: Hai phn ba
nhng ngụi nh õy lm bng g, cũn li l bng gch; gia nhng ngụi nh
ny cú nhng ca hng ca nhng lỏi buụn nc ngoi, m rt d phõn bit gia
mt ng nhng ngụi nh lp sp lm bng tre v t sột
(15)
. Theo Baron, ngoi
10
Baron, Sđd, tr. 659.
11
Richard, Sđd, tr. 713.
12

William Dampier, Một chuyến du hành sang Bắc Kỳ vào năm 1688, Sđd, tr. 35.
13
William Dampier, Du hành và khám phá, Sđd, tr. 57.
14
William Dampier, Một chuyến du hành sang Bắc Kỳ vào năm 1688, Sđd, tr. 34.
15
Richard, Sđd, tr. 713.
Th Thu Lan, K44 - Lch s Vit Nam
6
Thăng Long - Kẻ Chợ thế kỷ XVII-XVIII qua mô tả của người nước ngoài
(mét vài nét sơ lược)
những cung điện làm bằng gỗ, “số còn lại làm bằng tre và đất sét, không được
chắc chắn cho lắm, rất Ýt được xây bằng gạch, trừ những thương điếm của người
nước ngoài là trội hơn cả”
(16)
. Còng vì có nhiều kiểu nhà tre gỗ này mà hoả hoạn
là một vấn nạn thường xuyên. Trong kinh thành dân chúng không được thắp lửa
qua đêm, ngay cả ban ngày cũng chỉ được thắp những giê nhất định. “Cảnh sát”
tức lính đi tuần sẽ đi kiểm tra và phạt tiền những nhà nào vi phạm quy định này.
Nh vậy, nhìn chung khu vực dân cư của kinh thành trong thời gian này
cũng rất đơn sơ, phổ biến là những nhà tranh vách đất. Richard cũng nhắc đến
một loại nhà mà ông gọi là “Nhà chung” (common house) có mái lợp bằng rơm
hoặc một loại lá lớn, có nhiều cột trụ và đặc biệt là rộng rãi nhưng gần như trống
rỗng, chỉ được phân ra làm nhiều phần với những công dụng khác nhau. Có thể
đây là những cái đình chăng?
Bên cạnh khu vực dân cư, kinh đô cũng có những công trình kiến trúc lớn.
Đó là những cung điện, lâu đài của nhà vua, quan lại, các tướng lĩnh, hoàng tử…
tạo thành một khu vực đối lập với khung cảnh xung quanh. Khu vực này được
ngăn cách bởi một vòng thành trong, tức Hoàng thành: “Cung điện của nhà vua
chiếm một phần của thành phố, nó có những bức tường bao quanh, toàn bộ được

che khuất bởi những ngôi nhà xung quanh. Người ta nói rằng những bức tường
này chu vi phải đến 3 dặm (league), cao 6 hoặc 7 feet
(17)
, và cũng dầy đến nh vậy,
tạo thành một chỗ đi dạo tốt cho dân chúng”
(18)
. William Dampier cũng mô tả khá
kỹ về vòng thành này: “Các bức tường thành vây xung quanh rất là đặc biệt:
người ta nói rằng chu vi của chúng đo được ba dặm (league). Chiều cao của tường
thành có tới năm hay sáu bộ và cũng gần bằng Êy chiều ngang hay bề dầy. Cả hai
mặt tường thành đều có xây gạch che bên ngoài. Có nhiều cổng nhỏ để ra vào
trong cung điện; nhưng cổng chính quay về phía thành phố Có hai cổng bé hơn
16
Baron, S®d, tr. 659.
17
1 foot (sè nhiÒu lµ “feet”) = 1 bé = 0.3048 mÐt.
18
Richard, S®d, tr. 714.
Đỗ Thị Thuỳ Lan, K44 - Lịch sử Việt Nam
7
Thăng Long - Kẻ Chợ thế kỷ XVII-XVIII qua mô tả của người nước ngoài
(mét vài nét sơ lược)
gần cổng chính này, mỗi bên có một cái… được phép trèo lên tường thành bằng
những bậc thang ở chân cổng và đi dạo khắp xung quanh; có một vài chỗ cửa bức
tường thành này đã sụp đổ”
(19)
.
Hơn thế, Richard cũng có nhắc đến ba vòng thành và cho rằng đó là của
kinh đô cũ trước đây. Baron còng cho rằng, trong các công trình kiến trúc của Kẻ
Chợ thì đồ sộ hơn cả là “ba vòng thành của kinh đô cũ… mặc dù bị tàn phá”

(20)
.
Khu vực cung điện chiếm một vùng rộng lớn, chu vi khoảng 6 hoặc bảy
dặm (mile), mà theo Baron còng nh Richard thì cũng không có gì nổi bật. Phần
lớn được xây dựng bằng gỗ, với những nét “hình thức tầm thường”, “không có gì
nổi bật”. Tuy nhiên, Ên tượng nhất đối với những người nước ngoài đó là cung
điện của nhà vua. Đó là “một toà nhà bằng gỗ rộng lớn mà tạo thành phần chính
yếu [của khu vực này - ĐTTL], được xây dựng chắc chắn hơn phần lớn những
ngôi nhà thông thường ở đây, được trang trí với những vật trạm trổ và những bức
tranh: ở phía trong được chia làm vài gian, hành lang và sàn nhà rất sạch sẽ, và
trần nhà lợp ngãi với nhiều màu khác nhau được sắp xếp khéo léo”
(21)
. William
Dampier cũng mô tả rất kỹ về khu vực này với toà cung điện của nhà vua: “Các
ông vua xứ Bắc Kỳ chọn thành phố này làm chốn xây dựng triều đình, có ở đây
hai hay ba lâu đài. Có hai lâu đài chẳng lấy gì làm to tát: chúng dựng bằng gỗ,
nhưng có nhiều khẩu thần công đặt trong các nhà xung quanh. Cũng có những
chuồng ngựa của nhà vua để nhốt voi và ngựa, và một khoảng đất hình vuông và
khá rộng là nơi binh lính sắp hàng rất trật tự trước mặt nhà vua. Người ta gọi lâu
đài thứ ba là cung điện của nhà vua. Nó được xây dựng nguy nga hơn hai lâu đài
kia nhiều, tuy cũng chỉ làm bằng gỗ và để trống trải giống nh người ta kể lại về
các phòng khách ở bên Thổ Nhĩ Kỳ”
(22)
. Đi vào bên trong, Richard cũng miêu tả
19
William Dampier, Mét chuyÕn du hµnh sang B¾c Kú vµo n¨m 1688, S®d, tr. 36.
20
S. Baron, S®d, tr. 659.
21
Richard, S®d, tr. 713.

22
William Dampier, Mét chuyÕn du hµnh sang B¾c Kú vµo n¨m 1688, S®d, tr. 36.
Đỗ Thị Thuỳ Lan, K44 - Lịch sử Việt Nam
8
Thăng Long - Kẻ Chợ thế kỷ XVII-XVIII qua mô tả của người nước ngoài
(mét vài nét sơ lược)
thêm: “Những toà nhà được làm bằng thứ gạch và gỗ tốt nhất, vàng và bạc được
dát khắp nơi một cách xa xỉ: trong vườn hoa, những con kênh đào, những cái ao,
và ở tất cả những thứ mà có thể đem lại sự giải trí và tiện nghi cho những ai sống
cả đời ở đây”
(23)
. Cung điện này đã kém lộng lẫy đi so với trước kia, mà Richard
cho rằng những gì còn lại của nó cũng đủ “làm mỗi người chúng ta đều hối tiếc về
sự tàn phá của một trong những lâu đài đẹp nhất và rộng lớn nhất của châu á”
(24)
.
ở trong khu vực này cũng có những hồ rộng thả thuyền để nhà vua giải trí.
Samuel Baron cũng đã mô tả về phủ chóa Trịnh mà ông gọi là “Phủ tướng
quân”, cũng là một công trình kiến trúc lớn ở kinh thành. “Phủ tướng quân đặt tại
Kẻ Chợ, gần như là ở giữa thành phố: nó rất là rộng và xây tường xung quanh;
trong đó có đầy những ngôi nhà nhỏ, thấp và không được xây [bằng gạch -
ĐTTL] vốn thuận tiện cho binh lính ở; ở trong đó có hai gác cao hầu như lé thiên.
Những cái cổng rộng và trang nghiêm, tất cả đều làm bằng sắt, dường như đây
mới chính là phần vĩ đại nhất của khu cung điện. Nơi ở của ông ta và những
người vợ của ông ta cũng rất uy nghi và tốn kém ngang với những toà lâu đài, bốn
phía đều được trạm trổ, mạ vàng và sơn mài. ở cánh đồng đầu tiên của cung điện
là những cái chuồng cho những con voi to nhất và những con ngưạ tốt nhất của
ông ta; phần đằng sau là nhiều công viên, những khu rừng nhỏ, những con đường
bách bộ, chỗ ở, ao cá, và tất cả những gì có thể đáp ứng được nhu cầu tiêu khiển
hay những lúc nghỉ ngơi, giải trí của ông ta, bởi ông ta hiếm khi thoả mãn”

(25)
.
Còng giống nh lâu đài của nhà vua, “ở đằng trước phủ Chóa (Choua) có một thao
đường rộng, một sân hình vuông để cho binh lính sắp hàng. Một phía là chỗ các
quan ngồi xem binh lính tập, còn phía bên kia là một cái nhà chứa đồ mà trong đó
có xếp xung quanh những khẩu đại bác và súng hạng nặng”
(26)
.
23
Richard, S®d, tr. 714.
24
Nh trªn.
25
S. Baron, S®d, tr. 692.
26
William Dampier, Du hµnh vµ kh¸m ph¸, S®d, tr. 52.
Đỗ Thị Thuỳ Lan, K44 - Lịch sử Việt Nam
9
Thăng Long - Kẻ Chợ thế kỷ XVII-XVIII qua mô tả của người nước ngoài
(mét vài nét sơ lược)
Trong thời kỳ thương mại, số người nước ngoài sống ở Thăng Long – Kẻ
Chợ khá đông. Họ đã thành lập nên những chi điếm của mình tại đây, mà chủ yếu
là chi điếm của người Hà Lan và người Anh. William Dampier cũng đã mô tả khá
kỹ về những ngôi nhà trụ sở chi điếm này khi ông đến Đông Kinh vào năm 1688:
“Nhà của chi điếm Anh Cát Lợi, không có nhiều người, đặt ở phía bắc của thành
phố, tại một chỗ thật thó vị và nhìn ngay ra sông. Đây là một ngôi nhà thấp, trông
đẹp mắt, và là ngôi nhà đẹp nhất mà tôi đã trông thấy trong thành phố. ở chính
giữa có một căn phòng đẹp đẽ là nơi người ta ăn cơm, và ở mỗi bên là những căn
nhà dành riêng cho các thương gia, các người đại lý và những người hầu hạ của
công ty, có sắp đặt nhiều phương tiện sinh hoạt thuận lợi khác nữa. Ngôi nhà này

xây dựng song song với con sông, và ở mỗi đầu nhà lại có những căn nhà khác
nhỏ hơn, dùng vào nhiều việc khác nữa như nhà bếp, các kho… xếp thành một
hàng dài đi từ căn nhà chính ra tận sông, và tạo thành hai cánh có một cái sân
vuông để trông về phía trông ra sông. ở trong sân vuông này, gần bờ sông có một
cái cột, người ta chủ tâm dựng lên để treo quốc kỳ Anh Cát Lợi, khi nào cần
thiết…
Chi điếm của người Hoà Lan giáp vào chi điếm của chúng tôi ở phía Nam,
nhưng tôi chưa bao giê tới đây, như vậy là tôi chẳng nói được gì hơn về chi điếm
Êy ngoài những điều người khác đã kể lại cho tôi nghe, tức là họ không chiếm đất
rộng như chúng ta, tuy rằng họ đặt chi điếm ở đây trước ta nhiều năm: người Anh
từ Hiến (Hean) là nơi họ đặt trụ sở lúc đầu chuyển về đây chưa được bao nhiêu
lâu”
(27)
.
Ngoài ra, Richard trong “Lịch sử Đàng Ngoài” còn nhắc đến một khu vực
nhiều người Tàu sinh sống ở cạnh kinh thành, ở phía bên kia sông Cái, tức sông
Hồng. Trước đó, người nước ngoài thậm chí người châu Âu được vào trong kinh
thành nhưng sau đó thì lại bị cấm. Người Trung Quốc buôn bán ở đây trở nên
27
William Dampier, Mét chuyÕn du hµnh sang B¾c Kú vµo n¨m 1688, S®d, tr. 36, 37.
Đỗ Thị Thuỳ Lan, K44 - Lịch sử Việt Nam
10
Thăng Long - Kẻ Chợ thế kỷ XVII-XVIII qua mô tả của người nước ngoài
(mét vài nét sơ lược)
giàu có, có thế lực, lấn át cả thương nhân Việt Nam và rất có thể từ sức mạnh về
kinh tế sẽ dẫn đến những đe doạ về chính trị cho triều đình Đông Kinh, do đó đã
không được phép vào đây. Đó là theo ghi chép của Richard.
Nói tóm lại, qua những ghi chép của người nước ngoài được liệt kê trên
đây, ta có thể hình dung kinh thành Thăng Long – Kẻ Chợ trong thời gian này là
một quần thể với nhiều công trình kiến trúc khác nhau. Bên cạnh sự xa hoa của

các cung điện, lâu đài (theo như người ngoại quốc gọi), những ngôi nhà tiện nghi
trụ sở thương điếm, thì cũng tồn tại phần lớn những đường phố, nhà cửa bình dân
được xây dựng đơn giản. Và rõ ràng Thăng Long – Kẻ Chợ lúc này do những
biến động chính trị, xã hội cũng đã có phần bị tàn phá so với trước.
3. Hoạt động kinh tế
Người châu Âu đến Đông Kinh đều phải trầm trồ về sự tấp nập trong những
phiên chợ của người dân bản địa được tổ chức đều đặn vào mồng một và ngày
rằm hàng tháng. Những phiên chợ này thu hót một số lượng lớn dân xung quanh
kinh thành đến trao đổi buôn bán tại đây với rất nhiều loại hàng hoá tạo một số
lượng người đông “không thể tưởng tượng nổi; vài đường phố dù rất rộng rãi mà
cũng trở nên chật cứng đến nỗi một người có thể tìm thấy nhiều việc để làm nếu
anh ta đi xuyên qua một đám đông khoảng 100 bước trong vòng nửa tiếng đồng
hồ”
(28)
.
Với lợi thế giao thông đường thuỷ, đó là con sông Cái – sông Hồng, kinh
thành là trung tâm buôn bán lớn, thu hót nhiều thuyền hàng ra vào tập nập. Theo
Richard, số lượng thuyền “khổng lồ” đến nỗi mà mỗi chiếc chỉ cần trả hai xu rưỡi
phí đỗ thuyền thôi mà cũng có thể thành một khoản thu nhập lớn. Các loại thuyền
đậu san sát đến nỗi “rất khó có thể tiến vào gần được bờ sông; những con sông ở
28
S. Baron, S®d, tr. 659.
Đỗ Thị Thuỳ Lan, K44 - Lịch sử Việt Nam
11
Thng Long - K Ch th k XVII-XVIII qua mụ t ca ngi nc ngoi
(một vi nột s lc)
nc chỳng tụi v hu ht nhng cng buụn bỏn, thm chớ Venice, vi tt c
thuyn di
(29)
v thuyn nh, cng khụng th no bng c s nhộn nhp v ụng

ỳc trờn sụng K Ch, mc dự ú ch l s ngi cn thit li qun lý
thuyn v bo v hng hoỏ cũn li ca h: tt c cỏc lỏi buụn u cú nh riờng ca
h nhng lng xung quanh, khụng ai trong s h sng trờn nhng chic
thuyn
(30)
.
Tuy ụng ỳc nh vy nhng nhng hot ng buụn bỏn ca ngi dõn
õy li rt quy c m Richard gi l mt trt t hon ho. Mi loi hng hoỏ
khỏc nhau c sp t vo mt ph nht nh, v nhng ph ny mt ln na
cng nhn hng bi mt, hai hay nhiu lng khỏc nhau; nhng ngi dõn ti
nhng lng ny mi cú c quyn m ca hiu õy, cng phn nhiu ging vi
mt s cụng ty hay nghip on nhng thnh ph chõu u
(31)
. Hot ng buụn
bỏn ca K Ch c chia ra thnh nhng phng m c th l cú khong 36
phng. Nhiu trong số 36 phng ny (n v hnh chớnh) ca Thng Long
c t di cỏi tờn ca nhng sn phm th cụng c lm ra õy. Mi
phng ny nm gi mt ph nht nh vi nhng ca hng c dnh bỏn loi
sn phm ca h
(32)
. Nhng thng nhõn õy cng thnh lp nhng Hi buụn
bỏn. Nhng hi ny u cú ngi ng u, thu hút nhiu nhúm ngi khỏc nhau,
cú lc lng bo v v lut l riờng. Quy mụ buụn bỏn rt ln di hỡnh thc
ch yu l qua nhng ngi rao hng v nhng con thuyn trờn con sụng rng
chy qua thnh ph ny
(33)
.
Trong thi k thng mi, hot ng buụn bỏn ca K Ch khụng ch bú
hp trong nc m cũn c m rng giao lu quc t. Nhng thng im H
29

Loại thuyền cong và dài thờng đi hơn 50 ngời ở thành phố Venice.
30
Richard, Sđd, tr. 714.
31
S. Baron, Sđd, tr. 659.
32
Anthony Reid, Đông Nam
á
trong thời kỳ thơng mại 1450 - 1680, tập 1, Nxb. Yale
University, USA, 1988, tr. 101.
33
Richard, Sđd, tr. 714.
Th Thu Lan, K44 - Lch s Vit Nam
12
Thng Long - K Ch th k XVII-XVIII qua mụ t ca ngi nc ngoi
(một vi nột s lc)
Lan, Anh ó ln lt c thnh lp õy iu khin mi hot ng buụn bỏn
ca c vựng. Theo nhng ghi chộp ca ngi H Lan, Anh, K Ch l mt trung
tõm buụn bỏn ln trong h thng cỏc thnh ph thng mi quc t dc tuyn
sụng ng Ngoi, trong ú, Thng Long/K Ch Ph Hin Domea l nhng
a danh c nhc n nhiu hn c. Theo William Dampier, nhng cụng vic
kinh doanh vng quc ny lm Cacho (K Ch), l thnh ph chớnh. Vỡ vy
cho nờn cỏc cụng ty ụng ấn ca ngi Anh v ngi Ho Lan t ti õy nhng
u viờn thng trc. Thnh ph ny cũn ngc xa hn na trờn con sụng, nm
cỏch ch chỳng tụi th neo (Domea) chừng tỏm chc dm (mile)
(34)
.
Vi sự nhộn nhp buụn bỏn ú, K Ch tp trung nhiu mt hng phong
phỳ. Hn th, theo ghi chộp ca nhng ngi u, õy l mt vựng t rt trự phỳ:
Tnh Cachao (K Ch), ngay trung tõm vng quc, nm gia cỏc tnh Min

ụng, Min Tõy, Min Bc v Min Nam. õy l mt vựng rt p v rt tt. t
ai mu vng hay mu xỏm v cú khỏ nhiu g Hai mt hng chớnh ca nn
thng mi, tc l sn sng v t tm, cú õy rt nhiu. Ngi ta cng a n
õy ít go. Nhng cú th núi rng khụng tnh no trong cỏc tnh ny thiu nhng
th ấy, tuy rng tnh n khụng cú y bng tnh kia, do tớnh cht t ai khỏc
nhau
(35)
4. Sinh hot vn hoỏ
Nhng hot ng ny c Alexandre de Rhodes miờu t mt cỏch k
cng, trong ú ấn tng nht i vi v giỏo s ny l nhng nghi l ca triu
ỡnh.
34
William Dampier, Một chuyến du hành sáng Bắc Kỳ vào năm 1688, Sđd, tr. 11.
35
William Dampier, Một chuyến du hành sang Bắc Kỳ vào năm 1688, Sđd, tr. 16, 17.
Th Thu Lan, K44 - Lch s Vit Nam
13
Thăng Long - Kẻ Chợ thế kỷ XVII-XVIII qua mô tả của người nước ngoài
(mét vài nét sơ lược)
Đầu tiên là “lễ tịch điền”, theo Alexandre de Rhodes nghĩa là “mở đất và
cày ruộng”: “Đầu năm nơi xứ này cũng như nơi người Tàu, thường vào giữa
những đông chí và xuân phân, đúng ngày tuần trăng mới tương đương với ngày
mồng 5 tháng 2 theo cách tính của chúng ta; vào ngày mồng ba, do các nhà toán
học hay ma thuật chỉ định…, mọi người có trọng trách, chức vụ hay cấp bậc trong
ngành quan võ hay quan văn đều phải tới đền vua với những phù hiệu và y phục
chức vụ mình để theo vua trong đám rước long trọng qua khắp thành cho tới một
thửa ruộng…
Mở đầu là binh sĩ tập hợp từ khắp nước về đây, nghiêm chỉnh hàng lối và
rất đông, có tới mấy nghìn, tất cả đều mang khí giới, kẻ đem cung, tên, người
mang gươm giáo và súng ống. Sau đó là sĩ quan và hàng quý téc một phần đi

ngựa cảnh, một phần cưỡi voi, chõng ba trăm tất cả, có trải thảm quý, đã được
huấn luyện dừng bước và tuân lệnh. Vị tướng lãnh cai trị nước như phó vương gọi
là chóa thành đô vương đi sau hàng quý téc, ngự trong chiếc xe kéo thấp thiếp
vàng. Theo sau là một cỗ voi phủ áo sang trọng, có người dắt, chóa tuỳ tiện có khi
cưỡi voi, tuỳ tính khí mỗi khi muốn làm đẹp lòng dân đứng nghinh tiếp và ca
ngợi. Sau đó là một đám rất đông các ông nghè, ông cử, ông tó mặc áo dài bằng
lụa và thứ hàng quý màu tím sẫm, mỗi người với phù hiệu chức vụ hay cấp bậc
mình. Cuối cùng là vua ngự trên ngai lộng lẫy do nhiều người khiêng trên vai,
ngai phủ một tấm thảm thêu vàng và xanh, màu sắc dành riêng cho mình ngài.
Với đoàn thể và quân ngò, vua ra khỏi nhà gọi là đền rộng chõng bằng một thành
phố lớn, rồi qua những phố chính trong kinh thành gọi là Kẻ Chợ, rồi tới một
cánh đồng rộng xa kinh thành chõng một dặm, nơi đây tất cả đoàn thể đến trước
đang chờ ngài với rất đông dân chúng. Ngài bước xuống ngai, rồi sau khi đọc lời
khấn và long trọng bái Trời, ngài cầm cán cày được trang hoàng nhiều màu sắc và
chạm trổ kỳ công, cày mấy phót và mở một luống trong thửa ruộng, để dạy cho
dân biết cách làm việc, không nghỉ và chăm sóc đất ruộng. Rồi tới lượt chóa là vị
Đỗ Thị Thuỳ Lan, K44 - Lịch sử Việt Nam
14
Thăng Long - Kẻ Chợ thế kỷ XVII-XVIII qua mô tả của người nước ngoài
(mét vài nét sơ lược)
cai trị cả nước, vị có quyền thế đầy đủ và thế giá cao cả trên tất cả thần dân, ông
là người đầu tiên tiến đến bái kính đức vua, sấp mình trên đất. Sau ông là các
hoàng tử, tướng lãnh và toàn thể hoàng téc, sau cùng là quân sĩ và toàn dân bái
phục đức vua và hoan hô chức mừng. Đó là cách cung kính vĩ đại nhất và sự nhìn
nhận long trọng nhất đối với vua, một lần vào dịp đầu mỗi năm”
(36)
Một hoạt động thường xuyên hàng tháng là lễ chầu vua. Vào ngày mồng
một và ngày rằm hàng tháng, “những vị tiến sĩ chính yếu và những bậc quan văn
đều đến chầu vua ngù trong đền và cung kính bái yết không phải chỉ là bậc quân
vương mà còn là đấng đã ban cấp cho mình sau kỳ thi tuyển”

(37)
. Những kỳ thi
tuyển này chủ yếu được tổ chức tại kinh đô Thăng Long – Kẻ Chợ. Alexandre de
Rhodes cũng đã ghi chép cụ thể về hoạt động này.
“Theo tục lệ thì cứ ba năm có niêm yết ở nơi công những kì thi long trọng.
Tới ngày hết những người đã dùi mài kinh sử thì đến điện nhà vua gọi là đền để
chịu sát hạch theo cách thức sau đây. Người ta dùng trong đền vua một số phòng
hay lều đủ cho các thí sinh đến trình diện để thi. Thí sinh phải làm bài (để theo
bài, người ta xét xem có đủ khả năng) do các tiến sĩ chính yếu được sử ra chủ toạ
kỳ thi. Họ bị nhốt trong một phòng đã dọn sẵn, không được mang theo gì ngoài
giấy, mực và một bót lông để viết. Mỗi người có một lính hay một người canh gác
để phục dịch khi cần và cũng để canh không cho ai tới gần để giúp hay trao dụng
cụ gì cho. Người ta cho cả một ngày để làm bài thi, sau khi xong thì nép cho chủ
khảo. Vị này đóng Ên và số riêng vào bản. Ông kỹ lưỡng xem xét những lỗi.
Những người ông cho là có khả năng và tỏ ra trí thông minh trong cuộc thi, thì
được cấp tó tài gọi là sinh đồ với văn bằng có chữ ký của vua… Kỳ thi thứ hai thì
thi về pháp chế và dân luật… Những người đậu kỳ này được lên cấp cử nhân gọi
36
Alexandre de Rhodes, S®d, tr. 7, 8.
37
Nh trªn, S®d, tr. 9.
Đỗ Thị Thuỳ Lan, K44 - Lịch sử Việt Nam
15
Thăng Long - Kẻ Chợ thế kỷ XVII-XVIII qua mô tả của người nước ngoài
(mét vài nét sơ lược)
là hương cống… Sau cùng là kỳ thi để đậu tiến sĩ chỉ dành cho những người từ ba
năm nay đã đỗ cử nhân luật…”
(38)
.
Những hoạt động này là một vài trong số rất nhiều những sinh hoạt văn hoá

tinh thần của kinh đô Thăng Long – Kẻ Chợ. Do thời gian và tư liệu hạn chế mà
chúng tôi chỉ có điều kiện tìm hiểu nh trên.
II. Một vài nhận xét bước đầu
Nh vậy, qua một số tài liệu thư tịch nước ngoài, ta có thể thấy những điểm
nh sau:
1. Kinh đô Thăng Long – Kẻ Chợ trong khoảng thời gian từ thế kỷ XVII
đến thế kỷ XVIII đã trở thành một thành phố lớn, có quy mô ngang tầm các nước
lớn của châu á. Kẻ Chợ thời kỳ này đã phát triển thành một trung tâm buôn bán
chính của cả nước và quan trọng trong khu vực. Cũng chính vì vậy, ở đây đã tập
trung một số lượng dân cư rất lớn còng nh những thương nhân trong và ngoài
nước, đặc biệt là sự xuất hiện của những thương điếm Hà Lan, Anh.
2. Những công trình kiến trúc của Đông Kinh thời kỳ này đã thực sự thu
hót sự chú ý của những người châu Âu đến đây với những hệ thống các vòng
thành và cung điện đồ sộ. Tuy nhiên, cả Richard, William Dampier và Samuel
Baron đều có một cảm nhận chung là chúng được xây dựng đơn giản, không có gì
đặc biệt (điều này cũng dễ hiểu khi ở châu Âu thế kỷ XVII-XVIII đã xuất hiện
những lâu đài lớn và kiên cố, tồn tại đến tận ngày nay) và đã có phần bị tàn phá.
3. Trong con mắt của những người nước ngoài, hoạt động kinh tế đặc biệt
là những hoạt động buôn bán ở Kẻ Chợ hết sức tấp nập tạo sự tập trung dân cư,
thuyền bè đông đúc ngoài sức tưởng tượng của họ. Những nếp sinh hoạt văn hoá
cũng thực sự cuốn hót họ nh những lễ nghi: tịch điền, chầu vua, nh kì thi tiến sĩ…
38
Alexandre de Rhodes, tr. 26, 27.
Đỗ Thị Thuỳ Lan, K44 - Lịch sử Việt Nam
16
Thăng Long - Kẻ Chợ thế kỷ XVII-XVIII qua mô tả của người nước ngoài
(mét vài nét sơ lược)
Qua đó, ta cũng thấy những nét phác thảo trên rất cụ thể và khách quan. Có
thể nói, để phục dựng lại diện mạo của kinh thành Thăng Long – Hà Nội, những
ghi chép và mô tả của người nước ngoài đương thời cũng là một trong những tài

liệu quan trọng, cần được các nhà khoa học đầu tư nghiên cứu.
Tài liệu tham khảo và sử dụng
1. Alexandre de Rhodes, Lịch sử vương quốc Đàng Ngoài, (bản dịch của Hồng
Nhuệ), Tử sách Đại Kết, Uỷ ban Đoàn kết Công giáo Thành phố Hồ Chí
Minh, 1994.
2. Anthony Reid, Đông Nam á trong thời kỳ thương mại 1450 - 1680 (Southest
Asia in the Age of Commerce 1450 - 1680), tập 1, Nxb. Yale University, USA.
1988.
3. Nguyễn Thừa Hỷ, Thăng Long - Hà Nội thế kỷ XVII - XVIII - XIX, Nxb.
Hội Sử học Việt Nam, H. 1993.
4. Richard, Lịch sử Đàng Ngoài (History of Tonquin), trong “A general
collection of the best and most interesting Voyages and Travels in all parts of
the world”, London 1811.
5. Samuel Baron, Mô tả vương quốc Đàng Ngoài (A description of the kingdom
of Tonqueen), trong “A general collection of the best and most interesting
Voyages and Travels in all parts of the world”, London 1811.
6. Thương điếm Anh ở Đàng Ngoài (British factory in Tonkin), Tư liệu lưu trữ
Thư viện Quốc gia Anh.
Đỗ Thị Thuỳ Lan, K44 - Lịch sử Việt Nam
17
Thăng Long - Kẻ Chợ thế kỷ XVII-XVIII qua mô tả của người nước ngoài
(mét vài nét sơ lược)
7. William Dampier, Một chuyến du hành sang Bắc Kỳ vào năm 1688, Tư liệu
bản dịch Khoa Lịch sử, Trường ĐHKHXH&NV, Ký hiệu VT 359.
8. William Dampier, Du hành và Khám phá (Voyages and Discoveries), Nxb.
Argonaut, London 1931.
Đỗ Thị Thuỳ Lan, K44 - Lịch sử Việt Nam
18
Thăng Long - Kẻ Chợ thế kỷ XVII-XVIII qua mô tả của người nước ngoài
(mét vài nét sơ lược)

Phụ lục
Mô tả vương quốc Đàng Ngoài
(Trích dịch)
Samuel Baron
Thành phố Kẻ Chợ là thủ phủ của Đàng Ngoài, nằm ở vĩ độ 21
0
bắc, cách
biển khoảng 40 dặm (league) và với sự rộng rãi của mình, nó có thể được so sánh
với nhiều thành phố ở châu á, nhưng đông đúc hơn hẳn, nhất là vào những ngày
mồng một và mười lăm âm lịch hàng tháng, là những ngày họp chợ của họ hoặc là
ở một phiên chợ lớn; nơi mà người dân từ những làng quê phụ cận đến đây với
những vật phẩm của mình, và với số lượng người như vậy thì thật là đông đúc
không thể tưởng tượng nổi; vài đường phố dù rất rộng rãi mà cũng trở nên chật
cứng đến nỗi một người có thể tìm thấy nhiều việc để làm nếu anh ta đi xuyên qua
một đám đông khoảng một trăm bước trong vòng nửa tiếng đồng hồ. Mỗi hàng
hoá khác nhau bán ở thành phố này được sắp đặt vào một phố nhất định, và những
phố này một lần nữa cũng nhận hàng từ một, hai hay nhiều làng khác nhau, mà
dân các làng này mới có đặc quyền mở cửa hiệu ở đây, cũng phần nhiều giống với
một số công ty hay nghiệp đoàn ở những thành phố châu Âu. Những cung điện
của Nhà vua, tướng lĩnh, hoàng tử… và những cung điện to lớn và cao khác của
triều đình được đặt tại đây, mà tôi chỉ có thể nói là chúng toạ lạc trên một vùng
đất rộng: những công trình quan trọng nhưng lại với một hình thức tầm thường,
được xây bằng gỗ, số còn lại được làm bằng tre và đất sét, không được chắc chắn
cho lắm; rất Ýt nhà được xây bằng gạch, trừ những thương điếm của người nước
ngoài là nổi trội hơn cả. Nhưng quả thực đồ dé là ba vòng thành của kinh đô cũ và
cung điện; mặc dù bị tàn phá nhưng chúng vẫn hiện diện là những công trình
hùng mạnh với những chiếc cổng rộng uy nghi, được lát bằng một loại đá hoa
cương; cung điện nằm trong khoảng chu vi là 6 hoặc 7 dặm (mile); những chiếc
cổng, cung điện, nhà cửa… thể hiện một cách khuếch đại sự lộng lẫy và nguy nga
Đỗ Thị Thuỳ Lan, K44 - Lịch sử Việt Nam

19
Thăng Long - Kẻ Chợ thế kỷ XVII-XVIII qua mô tả của người nước ngoài
(mét vài nét sơ lược)
trước đây của kinh thành. Hơn thế, trong thành phố này cũng có một căn cứ quân
đội hùng hậu, luôn sẵn sàng trong bất cứ tình huống nào, và ở đây cũng có một
công binh xưởng hay kho vũ khí của Nhà vua phục vụ cho chiến tranh, đóng bên
bờ một con sông, gần một đảo cát, ở trên đó có Thecadaw (Tế kỳ đàn) mà dưới
đây sẽ đề cập tới. Con sông này được người bản địa gọi là Songkoy (sông Cái),
hoặc con sông chính yếu; nó bắt nguồn từ Trung Quốc và sau khi chảy qua hàng
trăm dặm (league), nó chảy qua đây và đổ ra vịnh An Nam, bằng 8 hoặc 9 cửa
sông, hầu hết những cửa sông này tàu thuyền đều có thể vào được với một mực
nước sâu tối thiểu. Con sông này thực sự rất tiện lợi cho kinh thành, từ khi tất cả
những hàng hoá được đem đến đây, tụ điểm hàng hoá này dường như là hình ảnh
thu nhỏ của vương quốc này, bởi vô số thuyền buôn bán ra vào nước này nhén
nhịp; tuy nhiên những lái buôn này có nhà ở của họ theo cách riêng của họ và tất
cả không sống cùng nhau trên thuyền, như ghi chép của Tác-vê-ni-ê (Taverniere),
trừ khi đi du hành trên biển.
(Trang 659)
Phủ tướng quân đặt tại Kẻ Chợ, gần như là ở giữa thành phố: nó rất là rộng
và được xây tường xung quanh; trong đó có đầy những ngôi nhà nhỏ, thấp và
không được xây [bằng gạch - ĐTTL] vốn thuận tiện cho binh lính ở; ở trong đó
có hai cái gác cao hầu như lé thiên. Những cái cổng rộng và trang nghiêm, tất cả
đều làm bằng sắt, dường như đây mới chính là phần vĩ đại nhất của cung điện.
Nơi ở của ông ta và những người vợ của ông ta cũng rất uy nghi và tốn kém
ngang với những toà lây đài, bốn phía đều được trạm trổ, mạ vàng và sơn mài. ở
cánh đồng đầu tiên của cung điện là những cái chuồng cho những con voi to nhất
và những con ngựa tốt nhất của ông ta; phần đằng sau là nhiều công viên, những
khu rừng nhỏ, những con đường bách bộ, chỗ ở, ao cá, và tất cả những gì có thể
Đỗ Thị Thuỳ Lan, K44 - Lịch sử Việt Nam
20

Thăng Long - Kẻ Chợ thế kỷ XVII-XVIII qua mô tả của người nước ngoài
(mét vài nét sơ lược)
đáp ứng được nhu cầu tiêu khiển hay những lúc nghỉ ngơi giải trí của ông ta mà
hiếm khi ông ta thoả mãn cho lắm.
(Trang 692)
Lịch sử Đàng Ngoài
(Trích dịch)
Richard
Thành phè duy nhất, hoàn toàn xứng đáng với cái tên của nó, là Kacho hay
Kecho (Kẻ Chợ), thủ đô của vương quốc. Nhà vua sống ở đây: thành phố này nằm
bên con sông Cái, cách biển khoảng 40 dặm (league), ở vào vĩ độ 21
0
bắc. Quy
mô của nó có thể so sánh với hầu hết những thành phố nổi tiếng ở châu á, và chu
vi của nó có thể tính được Ýt nhất là bằng chu vi của Pari, nhưng không một
thành phố nào, theo như tôi được biết, có thể bằng với nó về quy mô dân số, đặc
biệt là vào những ngày mồng một và ngày mười lăm âm lịch hàng tháng, khi mà
những phiên chợ lớn được họp, thu hót gần như tất cả cư dân của các thị trấn và
làng quê ở cách nó một khoảng đáng kể. Một người có thể đoán được về những
đám đông mà được tập hợp lại, và bỗng nhiên được thêm vào bằng hàng triệu con
người, đến một mức độ mà phải khó khăn vất vả lắm mới có thể tiến thêm được
khoảng trăm bước trong vòng nửa giê đồng hồ, mặc dù những con đường này khá
là rộng. Mặc dù có những đám người đông vô kể này, khắp nơi trong thành phố
vẫn giữ được một trật tự hoàn hảo nhất. Mọi mặt hàng được bán ở đây đều có
những phố riêng biệt để phân phối nó, mà những phố này lại phụ thuộc vào một,
hai hoặc nhiều làng và chỉ những làng này mới có quyền mở cửa hiệu tại đó.
Những con phố của Kẻ Chợ rất rộng và đẹp, được lát bằng gach, trừ những
nơi mà voi, ngựa, xe ngựa của nhà vua, và súc vật đi qua. Hai phần ba những ngôi
nhà ở đây làm bằng gỗ, còn lại là bằng gạch; ở giữa những ngôi nhà này có những
Đỗ Thị Thuỳ Lan, K44 - Lịch sử Việt Nam

21
Thăng Long - Kẻ Chợ thế kỷ XVII-XVIII qua mô tả của người nước ngoài
(mét vài nét sơ lược)
cửa hàng của những lái buôn nước ngoài, mà rất dễ phân biệt giữa một đống
những ngôi nhà lụp sụp làm bằng tre và đất sét.
Những cung điện của quan lại và những toà lâu đài của các cơ quan triều
đình, chiếm một vùng rộng lớn, không có gì nổi bật ở chúng ngoại trừ toà nhà
bằng gỗ rộng lớn mà tạo thành phần chính yếu và được xây dựng chắc chắn hơn
phần lớn những ngôi nhà thông thường ở đây, nó được trang trí với những vật
trạm trổ và những bức tranh; ở phía trong được chia ra làm vài gian, hành lang và
sàn nhà rất sạch sẽ, và trần nhà lợp ngãi với nhiều màu khác nhau được sắp xếp
khéo léo.
Những ngôi nhà chung (commom house) được tạo bởi những cái mái được
chống đỡ trên những cây cột trụ, phần lớn được phủ rơm, hoặc những cái lá lớn
mà nếu không có gì bất trắc thì chúng có thể bền 30 đến 40 năm. Những ngôi nhà
này không có trần cũng như lầu gác; chúng chỉ đơn giản được chia ra làm nhiều
phần khác nhau ngăn cách bởi những ván ghép với những công dụng khác nhau;
và những ngôi nhà này tất cả chỉ là một nền nhà trống rỗng. Không có kính cửa
sổ, điều này không được biết đến ở đất nước này; nơi này chỉ được đáp ứng bởi
vải gai và những tấm chiếu làm bằng tre hoặc mây, nhưng đẹp chẳng kém gì pha
lê.
Với kiểu xây nhà như vậy thì lửa là một mối hoạ lớn, vì vậy người ta đưa ra
những cách bảo vệ tốt nhất chống lửa: chính vì vậy mà người ta cấm thắp lửa vào
ban đêm, và họ chỉ cho phép thắp lửa trong khoảng những giê nào đó của ngày;
cảnh sát (lính tuần) sẽ đi tuần tra vào những lúc Ýt đề phòng nhất, và những ai mà
bị phát hiện là thắp lửa trong giê cấm sẽ bị phạt tiền.
Một trật tự lớn chi phối thành phố này nói chung: đó là nó được chia ra
thành những phường và những hội buôn bán khác nhau, mà những hội này đều có
những người đứng đầu và được thành lập bởi nhiều nhóm người khác nhau với
lực lượng bảo vệ và luật lệ của riêng họ. Quy mô buôn bán của họ rất lớn và được

Đỗ Thị Thuỳ Lan, K44 - Lịch sử Việt Nam
22
Thăng Long - Kẻ Chợ thế kỷ XVII-XVIII qua mô tả của người nước ngoài
(mét vài nét sơ lược)
tiến hành với những người rao hàng và bằng những con thuyền trên con sông rộng
chảy qua thành phố này. Mỗi con thuyền phải trả khoảng hai xu rưỡi phí đỗ
thuyền, mà cũng tạo ra một khoản thu nhập đáng kể. Số lượng thuyền thì thật
khổng lồ đến nỗi rất khó có thể tiến gần vào được bờ; những con sông nước
chúng tôi và hầu hết những cảng buôn bán, thậm chí Venice, với tất cả thuyền
dài
(39)
và thuyền nhỏ, cũng không thể nào bằng được sự nhén nhịp và đông đúc
trên sông ở Kẻ Chợ, mặc dù đó chỉ là số người cần thiết còn lại để quản lý thuyền
và bảo vệ hàng hoá của họ: tất cả các lái buôn đều có nhà riêng của họ ở những
làng xung quanh, không ai trong số họ sống trên những chiếc thuyền, đúng như sự
miêu tả của Tác-vê-ni-ê (Tavernier) và những người khác.
Cung điện của nhà vua chiếm một phần của thành phố; nó có những bức
tường bao quanh, toàn bộ được che khuất bởi những ngôi nhà xung quanh. Người
ta nói rằng những bức tường này chu vi phải đến 3 dặm (league), cao 6 hoặc 7
feet, và dầy cũng đến nh vậy, mà tạo thành một chỗ đi dạo cho dân chúng. Khu
này là nơi đẹp nhất và được xây dựng tốt nhất của thành phố này, đây cũng là nơi
ở của những người nổi tiếng nhất: những nhân vật quan trọng của vương quốc,
của triều đình, của toà án đều ở đó, và giá đất rất cao để có thể xây nhà ở đó. Kiến
trúc của cung điện cũng không đặc biệt hơn là mấy so với những lâu đài chính của
thành phố: cái lối vào của nó chẳng có dấu hiệu gì cao sang cho thấy ông vua
đang ở đây cả, cũng không chứa đựng một sự giàu có: phía trong nã Ýt được biết
đến, ngoại trừ là có những vật điêu khắc và tranh vẽ theo nghi lễ mà đây cũng là
những môn nghệ thuật được cho phép ở nước này. Những toà nhà được làm bằng
thứ gạch và gỗ tốt nhất, vàng và bạc được dát ở khắp nơi một cách xa xỉ: trong
vườn hoa, trên những con kênh đào, ở những cái ao và tất cả những thứ mà có thể

đem lại sự giải trí và tiện nghi cho những ai sống cả cuộc đời ở đây; đặc biệt là
39
Lo¹i thuyÒn cong vµ dµi, thêng ®i trªn 50 ngêi ë thµnh phè Venice.
Đỗ Thị Thuỳ Lan, K44 - Lịch sử Việt Nam
23
Thăng Long - Kẻ Chợ thế kỷ XVII-XVIII qua mô tả của người nước ngoài
(mét vài nét sơ lược)
những người vợ của hoàng tử, những người mà chẳng bao giê ra khỏi đây, cũng
như là những người đàn bà và những thái giám hầu hạ họ.
Trước khi cuộc nổi dậy diễn ra mà lập nên chính phủ hiện nay của Đàng
Ngoài, những toà nhà này đẹp và chắc chắn hơn nhiều so với chúng lúc này. Ba
vòng thành của kinh đô cũ và của cung điện cổ, những cung điện lát đá hoa
cương, sự đổ nát của những cái cổng và điếm canh, đã đem lại một vài ý niệm về
nó như thế nào khi còn lộng lẫy, và làm mỗi người chúng ta đều hối tiếc về sự tàn
phá của một trong những lâu đài đẹp nhất và rộng lớn nhất của châu á.
Hiện tại, kinh đô này không có những tường thành cũng như bất cứ sự
phòng thủ bên ngoài nào, cũng giống như những thành phố khác, hay khá nhiều
nơi ở vương quốc này, nó chỉ được rào lại xung quanh bằng những hàng rào tre,
mà thực sự thì lại bảo vệ nó tốt hơn khỏi trộm cướp, thậm chí cả những cuộc tấn
công bất ngờ, tốt hơn bất cứ bức tường nào mà họ có thể xây ở đất nước này.
Bao quanh kinh đô này là những khu kiên cố với một loạt đồn lính mà với
chúng, nhà vua có thể sẵn sàng trước bất cứ tình huống nào. Những công binh
xưởng, những kho vũ khí và lương thực thực phẩm dự trữ khác phục vụ cho chiến
tranh thì được đặt bên bờ sông.
Còn bên bờ kia của sông Cái là một cái dinh hay thành phố của người Tàu;
trước đây người nước ngoài và thậm chí người châu Âu được phép đi vào trong
kinh thành; nhưng hiện tại họ đều không được vào, lý do là vì người Trung Quốc
đã và đang trở nên giàu có và tăng lên về số lượng ở Đàng Ngoài, ngoài ra họ còn
đang tự hào và nhẫn nại với những công việc kinh doanh của mình, họ rất đáng sợ
và rất có thể trở nên có thế lực đủ để kích động một cuộc phản loạn, như họ đã

làm ở Batavia, Manillas, Xiêm (Siams), và những nơi khác của phương Đông,
những nơi mà hoạt động thương mại đã thu hót họ, họ thậm chí đáng sợ hơn rất
nhiều ở Đàng Ngoài, hơn bất cứ nơi nào khác, bởi vì vương quốc này có lần đã
trở thành một phần của đế chế Trung Hoa; họ có nhiều hơn những lý do dù không
Đỗ Thị Thuỳ Lan, K44 - Lịch sử Việt Nam
24
Thăng Long - Kẻ Chợ thế kỷ XVII-XVIII qua mô tả của người nước ngoài
(mét vài nét sơ lược)
chính đáng, và có lẽ là cũng nhiều cách thức hơn để tiến hành một cuộc bạo loạn.
Tuy nhiên họ vẫn được phép đi lại mọi nơi trong vương quốc này, những nơi họ
tiến hành việc buôn bán chui lủi của mình, và thậm chí còn được công nhận là
được đi vào trong kinh thành, nhưng không được ở lại đó. Tất cả những người
ngoại quốc khác thì bị cấm không cho vào, hoặc thậm chí cũng không được cập
bến nếu không có sự cho phép đặc biệt.
(Trang 713 đến 715).
Đỗ Thị Thuỳ Lan, K44 - Lịch sử Việt Nam
25

×