Tải bản đầy đủ (.doc) (74 trang)

tiểu luận Việt Nam - quá trình hội nhập thông qua các tổ chức khu vực và thế giới trong thời kỳ đổi mới 1986 - 2006

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (370.93 KB, 74 trang )

Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Thu
Trang
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Sau khi thống nhất đất nước năm 1975, Việt Nam bên cạnh những
thuận lợi phải đối mặt với rất nhiều khó khăn, bao gồm cả những yếu tố nội
tại trong nước và những yếu tố bên ngoài tác động, khiến cho kinh tế xã hội
Việt Nam lâm vào khủng hoảng trầm trọng. Trong bối cảnh đó Hội nghị đại
biểu toàn quốc lần VI của Đảng cộng sản (ngày 15 đến 18/12/1986) đã diễn
ra. Thành công của Đại hội VI đã mở đầu cho công cuộc đổi mới toàn diện
của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng, đất nước ta bước vào một giai
đoạn lịch sử phát triển mới với những thành tựu và tiến bộ to lớn mà ngày
nay chóng ta đang chứng kiến. Tất cả những chuyển biến tốt đẹp Êy đều
bắt nguồn từ cải cách đổi mới do Đảng ta lãnh đạo, toàn Đảng, toàn dân ta
kiên trì và dũng cảm thực hiện.
Công cuộc đổi mới toàn diện đất nước đạt được những thành công to
lớn. Để đạt được những kết quả Êy là do nhiều nguyên nhân, trong đó có
nguyên nhân là Việt Nam đã biết tận dụng sức mạnh thời đại. Vì vậy tìm
hiểu quá trình Việt Nam hội nhập quốc tế thông qua các tổ chức kinh tế
trong khu vực và trên thế giới sẽ giúp hiểu rõ hơn công cuộc đổi mới của
nước ta từ năm 1986 đến nay.
Hiện nay nước ta ngày càng mở rộng mối quan hệ hợp tác quốc tế
nhằm tiến kịp với bước tiến của thời đại , và cũng nhằm tận dụng những cơ
hội, những nguồn lực của thế giới phục vụ cho sự nghiệp phát triển đất
nước. Những bài học thành công hoặc chưa thành công trong quá trình hội
nhập quốc tế của Việt Nam là những bài học kinh nghiệm vô cùng quý giá
trên bước đường sắp tới của dân téc.
Chính từ những lÝ do trên đây nên tôi đã quyết định lùa chọn nghiên
cứu đề tài "Việt Nam - quá trình hội nhập thông qua các tổ chức khu
Líp C - K53 Khoa Lịch sử Trường ĐHSP


1
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Thu
Trang
vực và thế giới trong thời kỳ đổi mới 1986 - 2006" làm khoá luận tốt
nghiệp của mình.
2. Lịch sử vấn đề
Việt Nam tiến hành hội nhập thông qua việc tham gia vào các tổ
chức khu vực và thế giới là vấn đề thu hót sự chú ý của nhiều nhà nghiên
cứu thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau như :nhà báo, nhà kinh tế học nhưng
lại vắng bóng của các nhà nghiên cứu lịch sử. Tuy nhiên, trong quá trình
hội nhập của Việt Nam các nhà nghiên cứu tập trung tìm hiểu những vấn đề
của Việt Nam liên quan đến một tổ chức cụ thể như sự kiện Việt Nam gia
nhập tổ chức ASEAN, tác giả Đào Huy Ngọc cùng một số tác giả khác cho
ra đời cuốn sách với nhan đề: "ASEAN và sự hội nhập của Việt Nam" đã
khai thác những chuyển biến của đất nước khi gia nhập tổ chức, đánh giá
thành tựu đạt được bên cạnh những khó khăn thách thức.
Năm 1996 việc tham gia vào Hội nghị Á - Âu (ASEM) là một thành
công lớn của Việt Nam. Tác giả Hoàng Lan Hoa đã hoàn thành cuốn sách
"ASEM V - cơ hội và thách thức trong tiến trình hội nhập Á - Âu" năm
2004. Đến năm 2006, tác giả Nguyễn Huy Quý đưa đến một cái nhìn toàn
diện hơn về tổ chức này cũng như vai trò của Việt Nam trong tổ chức, điều
đó thể hiện cụ thể qua cuốn sách "Tiến trình hợp tác Á - Âu và những đóng
góp của Việt Nam".
Dùa trên nền tảng cơ sở đã gây dựng được, Việt Nam tiếp tục đẩy
mạnh tiến trình hội nhập, tham gia vào các tổ chức mang tính chất liên khu
vực và quốc tế, cụ thể là diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á - Thái Bình
Dương năm 1998, tổ chức Thương mại thế giới năm 2006 với những thành
công đã thể hiện bước tiến dài của Việt Nam vào sân chơi quốc tế, có điều
kiện mở rộng quan hệ buôn bán với các nước, tạo ra những mặt hàng tốt có
tính cạnh tranh cao, tuy nhiên còn rất nhiều thách thức trên con đường hội

nhập của Việt Nam. Điều đó được thể hiện rất rõ qua một số cuốn sách như
Líp C - K53 Khoa Lịch sử Trường ĐHSP

2
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Thu
Trang
APEC và sự tham gia của Việt Nam, NXB Từ điển Bách Khoa, Hà Nội -
2006, Thời cơ và thách thức khi Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế
giới (WTO), NXB Lao động xã hội, Hà Nội - 2006
Các tác phẩm và các bài viết trên đây đề cập một cách cụ thể đến quá
trình Việt Nam gia nhập tổ chức, những đóng góp của nước ta trong tổ
chức, trở thành nguồn tư liệu quý gợi mở cho những người đi sau những
hướng nghiên cứu mới. Tuy nhiên, vấn đề các nhà nghiên cứu lùa chọn lại
chưa đề cập đến vấn đề mà tôi quan tâm, đó là cái nhìn toàn diện về quá
trình hội nhập của Việt Nam. Do vậy, tôi đã quyết định lùa chọn đề tài:
"Việt Nam - quá trình hội nhập thông qua các tổ chức khu vực và thế
giới trong thời kỳ đổi mới 1986 - 2006" để nghiên cứu.
3. Phạm vi nghiên cứu
- Vấn đề nghiên cứu: Khóa luận chỉ tìm hiểu quá trình hội nhập của
Việt Nam thông qua việc Việt Nam gia nhập các tổ chức lớn
trong khu vực và trên thế giới.
- Thời gian : 1986 _ 2006.
4. Phương pháp nghiên cứu
Khi nghiên cứu đề tài này tôi dùa trên phương pháp luận mác xít
trong nghiên cứu. Phương pháp lịch sử và phương pháp lôgíc là phương
pháp nghiên cứu chủ yếu trong đề tài này. Ngoài ra tôi còn sử dụng các
phương pháp tổng hợp, phân tích, so sánh làm nổi bật vấn đề nghiên cứu.
5. Nguồn tư liệu
Để hoàn thành đề tài nghiên cứu tôi dùa vào một số nguồn tư liệu sau:
- Các sách chuyên khảo, tham khảo.

- Các văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc từ 1986 đến nay.
- Các bài báo, tạp chí như Tạp chí quan hệ quốc tế, Tạp chí nghiên
cứu kinh tế, Báo tài chính Việt Nam, Báo Lao động
Líp C - K53 Khoa Lịch sử Trường ĐHSP

3
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Thu
Trang
- Các bản tin hàng ngày, tài liệu tham khảo đặc biệt của Thông tấn xã
Việt Nam có liên quan.
6. Đóng góp của khoá luận
Với đề tài khoá luận tốt nghiệp sẽ góp phần làm sáng tỏ thành công
của Việt Nam trên bước đường hội nhập kinh tế quốc tế thông qua việc
tham gia vào các tổ chức khu vực và thế giới. Qua đó nâng cao nhận thức
của mỗi người đối với sự nghiệp đổi mới đất nước. Đó là đóng góp mang
tính khoa học và thực tiễn từ việc nghiên cứu đề tài này.
7. Bố cục của khoá luận
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, khoá luận được chia thành 3
chương:
Chương 1: Tình hình thế giới và Việt Nam trong những thập niên
cuối thế kỷ XX.
Chương 2: Quá trình Việt Nam hội nhập vào các tổ chức khu vực và
thế giới.
Chương 3: Những tác động của quá trình hội nhập thông qua các tổ
chức khu vực và quốc tế đối với Việt Nam.
Líp C - K53 Khoa Lịch sử Trường ĐHSP

4
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Thu
Trang

PHẦN NỘI DUNG
Chương 1
TÌNH HÌNH THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM TRONG NHỮNG
THẬP NIÊN CUỐI THẾ KỶ XX
1.1. Bối cảnh thế giới
1.1.1. Những chuyển biến cơ bản của nền kinh tế thế giới thập niên 70 -
80 thế kỷ XX.
Từ những năm 1970 - 1980 cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật được
đẩy mạnh trên quy mô chưa từng có trong lịch sử, cách mạng khoa học
công nghệ cao mới liên tiếp thu được tiến bộ, có những đột phá trong
nhiều lĩnh vực, tạo điều kiện cho phân công lao động diễn ra mạnh mẽ.
Dưới tác động của cuộc cách mạng này, sự chuyên môn hóa ngày
càng sâu và chi tiết dẫn đến sự hợp tác giữa các nước mở rộng khắp toàn
cầu, làm cho các nền kinh tế thế giới liên kết, gắn bó chặt chẽ với nhau, phụ
thuộc lẫn nhau. Kinh tế thế giới đang được kết nối như một chỉnh thể, mà xu
hưóng chung là không nước nào đứng ngoài cuộc. Do vậy, từ thập niên 70
của thế kỷ XX đến nay một trào lưu cải cách, cải tổ, điều chỉnh, đổi mới
đang diễn ra trên phạm vi thế giới, không phân biệt chủ nghĩa tư bản, chủ
nghĩa xã hội, các nước phát triển hay các nước đang phát triển, chậm phát
triển.
Toàn cầu hóa hiện nay đang đem lại những cơ hội to lớn cho các
nước nhưng đồng thời cũng đặt ra những thách thức không nhỏ. Về khách
quan, toàn cầu hóa kích thích tăng trưởng kinh tế, thúc đẩy các doanh
nghiệp cải tiến công nghệ và quản lý, mở rộng thị trường xuất khẩu, tăng
cường thu hót vốn đầu tư nước ngoài, tiếp nhận được những công nghệ kỹ
thuật hiện đại. Đối với các nước đang phát triển, toàn cầu hóa kinh tế đã tạo
Líp C - K53 Khoa Lịch sử Trường ĐHSP

5
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Thu

Trang
điều kiện cho các quốc gia nhanh chóng tham gia vào quá trình phân công
lao động quốc tế. Từ đó hình thành nên một cơ cấu kinh tế hợp lý, hiệu quả
và sức cạnh tranh cao, rút ngắn được tiến trình hiện đại hóa.
Toàn cầu hóa về cơ bản đều mang lại lợi Ých cho tất cả các quốc gia.
Tuy nhiên, toàn cầu hóa cũng có những tác động xấu đến nền kinh tế các
nước. Tình trạng cạnh tranh diễn ra hết sức gay gắt, nảy sinh vấn đề phá
sản, thất nghiệp. Ở các nước đang phát triển hiện nay , sự cạnh tranh ngày
càng khốc liệt và không bình đẳng trong các quan hệ kinh tế thương mại.
Tham gia tù do hóa thương mại buộc các nước phải tuân theo những quy
định của tự do cạnh tranh, nghĩa là phải mở cửa thị trường, dỡ bỏ các hàng
rào thuế quan và phi thuế quan đối với hàng hóa và dịch vụ nước ngoài,
loại bỏ các hạn chế đầu tư. Trong điều kiện hầu hết nền kinh tế của các
nước đang phát triển còn đang ở một trình độ thấp kém thì chính sự tự do
cạnh tranh này đặt họ trước những thách thức vô cùng to lớn.
Toàn cầu hóa mở ra cơ hội tranh thủ các nguồn lực bên ngoài, song
chính điều đó lại bao hàm cả khả năng phụ thuộc rất lớn vào các nhà đầu
tư. Sự lệ thuộc này dồn các nước vào tình thế phải đối mặt với nhiều rủi ro
do biến động thị trường, giá cả.
Nhận thức đầy đủ những cơ hội và thách thức do toàn cầu hóa mang
lại ta thấy liên kết kinh tế là yêu cầu khách quan của sự phát triển. Trong
điều kiện khoa học công nghệ hiện đại đổi mới từng ngày từng giê, bất cứ
lúc nào cũng đều không thể có được toàn bộ những nguồn lực mà sự phát
triển kinh tế nước mình cần đến, không thể nắm được tất cả các công nghệ
tiên tiến và cũng ngày càng khó độc quyền được công nghệ mới, sự tiến bộ
của khoa học kỹ thuật, sự phát triển liên tục và sự sắp xếp các yếu tố sản
xuất của một nước ngày càng cần phải thông qua sự hợp tác và trao đổi
quốc tế mới thực hiện được một cách có hiệu quả . Điều này đòi hỏi tất cả
các nước đều phải tham gia vào hợp tác khu vực và thế giới. Liên kết kinh
Líp C - K53 Khoa Lịch sử Trường ĐHSP


6
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Thu
Trang
tế thương mại quốc tế mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn, các thành tựu
khoa học kĩ thuật và sản xuất được phổ biến rộng rãi hơn, nhanh hơn. Tính
đến năm 2006 trên toàn thế giới có khoảng 24 tổ chức liên kết kinh tế khu
vực có quy mô lớn với những mức độ quan hệ khác nhau, nhiều quốc gia
đồng thời là thành viên của nhiều tổ chức kinh tế. Nếu các nước tận dụng
được cơ hội của toàn cầu hóa sẽ đem đến những phát triển nhanh chóng,
ngược lại sẽ bị tụt hậu về kinh tế, những khó khăn tiềm Èn trong các lĩnh
vực khác như thất nghiệp, ô nhiễm môi trường, dịch bệnh, nguy cơ về ổn
định hòa bình xã hội. Việt Nam, một nước đang phát triển cũng đã nhận
thức một cách đầy đủ về xu thế phát triển của thời đại, qua đó từng bước
có những điều chỉnh hợp lý đưa đất nước phát triển trên con đường công
nghiệp hoá - hiện đại hoá trong xu thế hội nhập với khu vực và thế giới.
1.1.2. Hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, xu
hướng hình thành một trật tự thế giới mới.
Những năm cuối thế kỷ XX trên thế giới có những biến động to lớn,
năm 1989 được nhiều giới coi là năm đánh dấu sự kết thúc thời kì chiến
tranh lạnh, mở ra một kỉ nguyên mới dẫn tới chỗ phá vỡ hình thái hai phe,
hai cực. Tiếp đó là sự tan rã và sụp đổ nhanh chóng của chế độ xã hội chủ
nghĩa tại Liên Xô và Đông Âu, đã làm thay đổi một cách cơ bản cục diện
thế giới và đời sống chính trị, xã hội quốc tế, đặt ra cho mỗi quốc gia một
loạt các vấn đề trọng đại và mới mẻ về mọi mặt của xã hội. Sự tan rã của
Liên Xô, nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên và lớn nhất, một trong hai siêu
cường của thế giới đã làm thay đổi trật tự quốc tế cũ, một trật tự thế giới
mới đang dần được hình thành.
Với sự kiện trên đã tạo ra hậu quả sâu rộng về mọi mặt trên thế giới,
các mối quan hệ liên minh kinh tế, chính trị, quân sự đã tồn tại trong 45

năm qua bị đảo lộn. Vì không còn đối thủ nguy hiểm là Liên Xô, nên các
Líp C - K53 Khoa Lịch sử Trường ĐHSP

7
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Thu
Trang
nước tư bản lúc này không muốn nóp dưới cái ô bảo hộ của Mỹ nữa nên
đang trong quá trình đi tìm đồng minh mới.
Cuộc chạy đua vũ trang trong phạm vi thế giới theo xu hướng dịu
bớt, và nhanh chóng chuyển sang cuộc chạy đua về kinh tế và khoa học
công nghệ, tạo ra môi trường quốc tế tương đối hoà dịu, cởi mở, làm cho
việc phát triển quan hệ kinh tế giữa các nước diễn ra thuận lợi hơn. Buôn
bán quốc tế, đầu tư quốc tế, trao đổi khoa học công nghệ có điều kiện phát
triển.
Xu hướng ưu tiên cho phát triển kinh tế đang lôi cuốn cả cộng đồng
quốc tế, những nước công nghiệp phát triển cũng như những nước đang
phát triển, kinh tế trở thành nhân tố quyết định trong sức mạnh tổng hợp
của mỗi quốc gia, giữ vị trí chủ đạo trong quan hệ quốc tế ngày nay.
Xuất phát từ nhu cầu tăng cường phát triển kinh tế, thì việc liên kết
hợp tác khu vực trở thành một đòi hỏi khách quan với bất cứ nước nào.
Dưới tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học kinh tế đưa đến sự
tuỳ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia trong nền sản xuất được quốc tế hoá.
Các nước ra sức mở rộng quan hệ quốc tế, không phân biệt chế độ chính trị
- xã hội khác nhau, không câu nệ đối tượng, với tất cả những ai có khả
năng hợp tác hiệu quả, việc xác định bạn, thù, hình thức và mức độ quan hệ
trở nên rất linh hoạt. Nhiều tổ chức, diễn đàn đa phương khu vực được hình
thành. Các nước vừa và nhỏ đẩy mạnh liên kết khu vực, nhất là về kinh tế,
ưu tiên phát triển quan hệ với các nước láng giềng, đồng thời có quan hệ
cân bằng với các nước lớn, mở rộng đối thoại và quan hệ vì lợi Ých của
mình. Giê đây sự phát triển kinh tế không còn bó hẹp ở phạm vi trong nước

mà mang tính chất xuyên quốc gia. Lưu lượng vốn, thương mại, dịch vụ
từ nước này qua nước khác ngày càng tăng mạnh, thị trường được mở rộng
tối đa Xuất phát từ bối cảnh lịch sử cụ thể trên xu hướng hội nhập là một
tất yếu mà bất kì một quốc gia nào muốn phát triển nền kinh tế đất nước
Líp C - K53 Khoa Lịch sử Trường ĐHSP

8
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Thu
Trang
đều phải đặc biệt quan tâm, nếu không sẽ nhanh chóng bị đào thải ra khỏi
môi trường phát triển kinh tế thế giới, rơi vào sự tụt hậu và kém phát triển.
Líp C - K53 Khoa Lịch sử Trường ĐHSP

9
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Thu
Trang
1.1.3 Những tác động trực tiếp từ cuộc cải cách kinh tế của Trung Quốc
năm 1978.
Trước tiên phải khẳng định cuộc cải cách kinh tế ở Trung Quốc diễn ra
không phải là một sự ngẫu nhiên, mà là kết quả tất yếu của sự phát triển
lịch sử Trung Quốc và tình hình thế giới suốt ba thập kỷ trước . Trung
Quốc đã trải qua nhiều cuộc vận động nhằm thay đổi tình hình lạc hậu ,
nghèo đói và cát cứ , phục hưng đất nước , nâng cao địa vị dân téc Trung
Hoa , song không thu được kết quả vì nền kinh tế khép kín , và thể chế kinh
tế kế hoạch tập trung cao độ . Đặc điểm của thể chế này là " tập trung nhiều
, phân tán Ýt, thống nhất nhiều, tự do Ýt". Theo đó nhà nước Trung Hoa
đưa ra kế hoạch nắm trực tiếp việc khống chế và phân phối sức người sức
của, mọi hoạt động kinh tế phải tiến hành trong phạm vi quy định.
Tháng 12/ 1978 Đảng cộng sản Trung Quốc họp Hội nghị trung
ương lần thứ 3 khoá XI đưa ra quyết định quan trọng là sửa đổi đường lối

sai lầm trước đây , và quyết định chuyển trọng tâm sang xây dựng kinh tế
để hiện đại hoá đất nước , xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa với đặc điểm năng động và hiệu quả .
Cuộc cải cách kinh tế của Trung Quốc có ảnh hưởng trực tiếp hoặc
gián tiếp , và ở một góc độ không nhỏ tới tiến trình phát triển của khu vực
và thế giới . Việt Nam là nước láng giềng gần gũi với Trung Quốc , công
cuộc cải cách kinh tế của Trung Quốc tiến hành trong vòng 15 năm đã thu
hót sự chú ý đặc biệt của các nhà lãnh đạo và giới khoa học nước ta , từ cơ
sở học hỏi kinh nghiệm của nước bạn để tiến tới thay đổi nền kinh tế nông
nghiệp lạc hậu của đất nước kéo dài trong nhiều năm qua . Sau khi tiến
hành cải cách , mức tăng trung bình hàng năm tổng giá trị sản phẩm trong
nước của Trung Quốc là 8,9%, trong khi mức tăng của toàn thế giới là
2,8%. Như vậy mức tăng trưởng kinh tế Trung Quốc nhanh gấp 3,2 lần so
Líp C - K53 Khoa Lịch sử Trường ĐHSP

10
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Thu
Trang
với thế giới( chỉ sau Hàn Quốc với mức tăng 9,2%/ năm và có mức tăng
trưởng nhanh nhất trong số các nước lớn ). Trong khi kinh tế các nước vẫn
lâm vào tình trạng suy thoái và trì trệ , thì tổng giá trị sản phẩm trong nước
của Trung Quốc trong thập niên 90 tiếp tục tăng , Trung quốc trở thành một
quốc gia tương đối ổn định và hùng mạnh , mét địch thủ đáng gờm cho mọi
quốc gia trong cuộc chiến tranh kinh tế .
Như vậy với những thành tựu đạt được, cuộc cải cách năm 1978 ở
Trung Quốc đã có những tác động nhất định với các nước láng giềng xung
quanh , trong đó có Việt Nam. Đó không những là cuộc cải cách được ghi
nhận như những cố gắng lớn lao nhằm tìm lối thoát cho một quốc gia xã hội
chủ nghĩa trì trệ trở nên năng động, phát triển, mà còn đóng góp nhiều kinh
nghiệm cho các nước đang phát triển. Với ý nghĩa đó, nhiều nhà nghiên cứu

và hoạt động thục tiễn của Việt Nam từ lâu đã quan tâm đến cuộc cải cách của
Trung Quốc . Sau này khi Việt Nam tiến hành cải cách mà nhiều người cho
rằng cải cách kinh tế ở Việt Nam rất giống với cải cách kinh tế ở Trung
Quốc , bên cạnh những hạn chế còn tồn tại đã gặt hái được rất nhiều thành
công.
Như vậy , làn sóng cải cách kinh tế diễn ra rộng khắp trên thế giới, từ
cuối thập kỷ 70 đã tạo nên áp lực mạnh mẽ cho công cuộc đổi mới ở Việt
Nam . Trong bối cảnh phát triển kinh tế sôi động của thế giới , đặc biệt là
các nước trong khu vực thì Việt Nam không thể đứng ngoài xu thế đó. Tuy
nhiên cần nhấn mạnh rằng, công cuộc đổi mới kinh tế của Việt Nam là sản
phẩm của chính mình, do yếu tố nội lực trong nước quyết định .
1.2. Bối cảnh trong nước.
1.2.1. Nội lực nền kinh tế Việt Nam trong thời kỳ đổi mới.
Sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng năm 1975, mô hình kinh tế kế
hoạch hoá tập trung ở miền Bắc được áp dụng trong phạm vi cả nước. Mặc
Líp C - K53 Khoa Lịch sử Trường ĐHSP

11
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Thu
Trang
dù có nhiều nỗ lực trong xây dựng và phát triển kinh tế , nhà nước đã đầu
tư khá lớn nhưng trong 5 năm đầu ( 1976 - 1980) tốc độ tăng trưởng kinh tế
rất chậm chạp , thậm chí có xu hướng giảm sút và bắt đầu rơi vào tình trạng
khủng hoảng.
Trong khi nguồn viện trợ không hoàn lại của các nước xã hội chủ
nghĩa không còn nữa, do bản thân các nước này gặp khó khăn. Hơn nữa
Mỹ thi hành chính sách bao vây cấm vận kinh tế, ngăn cản Việt Nam bình
thường hoá quan hệ với các nước và các tổ chức quốc tế.
Trước những khó khăn đó Đảng và Nhà nước ta tìm đến giải pháp là
thực hiện điều chỉnh từ cơ sở nhằm tháo gì những vướng mắc trong cơ chế

quản lý nền kinh tế, tạo điều kiện phát triển sản xuất. Những điều chỉnh
đầu tiên thực sự bắt đầu từ năm 1981 với việc thực hiện khoán sản phẩm
cuối cùng đến nhóm và người lao động trong các hợp tác xã sản xuất nông
nghiệp ( khoán 100 ), và cải tiến quản lý, mở rộng quyền tự chủ cho các xí
nghiệp quốc doanh tiếp theo đó là một số cải tiến trong lĩnh vực tài chính
tiền tệ, giá cả cũng được thực hiện, đặc biệt là cuộc tổng điều chỉnh giá
lương và đổi tiền tháng 09/1985.
Những kết quả đạt được trong những năm 1979 - 1985 chính là
những bước tìm tòi, thử nghiệm cho cuộc cải cách toàn diện nền kinh tế.
Đó là những làn sóng đầu tiên của quá trình phi tập trung hoá, xoá bá cơ
chế tập trung quan liên bao cấp ở Việt Nam. Song những điều chỉnh cục bộ
chưa làm thay đổi căn bản thực trạng nền kinh tế và cuộc khủng hoảng
trong nước vẫn rất trầm trọng. Vì vậy đổi mới toàn diện nền kinh tế trở
thành một yêu cầu cấp bách đối với đất nước ta.
Đại hội VI (12/ 1986) của Đảng ta là một mốc lịch sử quan trọng trên
con đường đổi mới toàn diện và sâu sắc của đất nước, trong đó trọng tâm là
đổi mới kinh tế. Thành công lớn của Đại hội VI là chuyển từ nền kinh tế
Líp C - K53 Khoa Lịch sử Trường ĐHSP

12
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Thu
Trang
quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
đề ra mục tiêu, nhiệm vụ là ” Toàn Đảng, toàn dân, và toàn quân ta đoàn
kết một lòng quyết tâm đem hết tinh thần và lực lượng tiếp tục thực hiện
thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và
bảo vệ vững chắc xã hội chủ nghĩa. “[49; 37- 38 và 40 ]
Với việc thực hiện đường lối đổi mới chỉ sau 10 năm Việt Nam đã
thoát khỏi tình trạng khủng hoảng nặng nề. Nạn lạm phát phi mã bị đẩy lùi
từ hơn 700% năm 1986 xuống 12% năm 1995 và được kiểm soát chặt chẽ

từ trước đến nay đã góp phần đáng kể vào việc khôi phục và củng cố các cơ
sở ổn định và tăng trưởng. Việc tập trung đổi mới cơ chế quản lý kinh tế và
từng bước kết hợp với việc đổi mới chính trị, văn hoá, xã hội đã khuyến
khích sự phát triển của tất cả các thành phần, lực lượng kinh tế tạo nên sự
thúc đẩy phát triển mạnh mẽ chưa từng thấy, đồng thời vẫn giữ được sự ổn
định vĩ mô cả về kinh tế, chính trị, xã hội, tiền đề tối cần thiết cho thành
công của công cuộc đổi mới. Ngân sách nhà nước, cán cân thương mại và
dự trữ quốc gia không ngừng được cải thiện, tạo cơ sở vững chắc cho quá
trình tăng trưởng cao và bền vững. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch mạnh mẽ
theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, tỷ trọng nông nghiệp trong GDP
giảm xuống, tương ứng với sự tăng lên rõ ràng của công nghiệp và dịch vụ.
Với những nỗ lực trong 10 năm đầu kể từ khi tiến hành đổi mới nước
ta đạt được nhiều thành tựu đáng kể, song vẫn là một trong những nước
nghèo nhất thế giới, lực lượng sản xuất còn nhỏ bé, cơ sở vật chất kĩ thuật,
nhất là kết cấu hạ tầng còn lạc hậu, trình độ khoa học công nghệ chuyển
biến chậm, hiệu quả sản xuất kinh doanh, năng suất lao động, chất lượng
sản phẩm, chất lượng công trình thấp. Nhiều hàng hoá kém sức cạnh tranh
với hàng nước ngoài. Đầu tư của ngân sách nhà nước còn dàn trải, bị thất
thoát, kém hiệu quả, tổng sản phẩm bình quân đầu người trong nước còn rất
thấp. Sức cạnh tranh hàng hoá nước ta so với các nước khác còn yếu do
Líp C - K53 Khoa Lịch sử Trường ĐHSP

13
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Thu
Trang
chưa liên kết phát triển kinh tế với các nước trong khu vực và thế giới.
Trong khi đó tốc độ phát triển của nền kinh tế thế giới đang diễn ra với tốc
độ chóng mặt, nếu tiếp tục duy trì một nền kinh tế ở phạm vi nhỏ hẹp như
vậy mà không hoà vào dòng thác toàn cầu hoá thì nền kinh tế Việt Nam
tiếp tục trong vòng lạc hậu, trì trệ dù cố gắng rất nhiều cũng không thể

thoát ra được. Chính vì vậy, một yêu cầu tất yếu đặt ra cho nước nhà là
nhanh chóng hội nhập vào nền kinh tế quốc tế thông qua việc liên kết với
các tổ chức trong khu vực và trên thế giới là một nước nằm trong khu vực
kinh tế phát triển năng động của thế giới, Việt Nam không thể nằm ngoài
xu thế đó. Hơn nữa đây là một điều kiện thiết yếu để Việt Nam thực hiện
thành công sự nghiệp đổi mới của mình.
1.2.2. Chủ trương hội nhập của Việt Nam.
Nhận thức được tầm quan trọng cũng như tính cấp thiết của việc mở
rộng quan hệ đối ngoại nhằm đưa sự nghiệp phát triển đất nước hoà vào trào
lưu tiến bộ chung của thế giới. Từ rất sớm, Đảng ta luôn chú trọng việc kết
hợp sức mạnh dân téc với sức mạnh của thời đại, coi đây là một trong những
nguyên tắc cơ bản trong đường lối quốc tế của mình. Cũng chính vì vậy,
công cuộc giải phóng dân téc, xây dựng và bảo vệ tổ quốc của nhân dân ta
trải qua các thời kì lịch sử khác nhau và luôn giành được sự đồng tình, ủng
hộ, giúp đỡ của đông đảo các tầng líp nhân dân tiến bộ trên thế giới.
Trước hết về đường lối đối ngoại thì tư tưởng mở cửa, hội nhập kinh
tế với khu vực và thế giới của Đảng ta được thể hiện rõ nét trong các văn
kiện ngoại giao đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Chủ tịch Hồ
Chí Minh trong thư gửi tổng thư kí Liên hợp quốc (12/1946) đã khẳng
định: "Việt Nam sẵn sàng thực thi cuộc sống mở cửa và hợp tác trong mọi
lĩnh vực. Nước Việt Nam giành sự tiếp nhận thuận lợi cho đầu tư của các
nhà tư bản, nhà kỹ thuật nước ngoài trong tất cả các ngành kĩ nghệ của
mình, nước Việt Nam sẵn sàng mở rộng các cảng, sân bay và đường sá giao
Líp C - K53 Khoa Lịch sử Trường ĐHSP

14
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Thu
Trang
thông cho việc buôn bán và quá cảnh quốc tế, nước Việt Nam chấp nhận
tham gia mọi tổ chức hợp tác kinh tế quốc tế dưới sự lãnh đạo của Liên hợp

quốc”. Sau đó ngày 16/07/1947 khi trả lời một nhà báo nước ngoài, chủ
tịch Hồ Chí Minh nói rõ: " chóng tôi chủ trương làm cho tư bản Việt
Nam phát triển. Mà chỉ có thống nhất và độc lập thì tư bản Việt Nam mới
có thể phát triển. Đồng thời chúng tôi rất hoan nghênh tư bản Pháp và tư
bản các nước thật thà hợp tác với chúng tôi. Một là, để xây dựng lại Việt
Nam sau lúc bị chiến tranh tàn phá, hai là, để điều hoà kinh tế thế giới và
giữ gìn hoà bình". Đây thực sự là quan điểm đặt nền móng, cơ sở hình
thành đường lối chiến lược hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta sau này.
Tuy nhiên khi trả lời câu hỏi về hoạt động ngoại giao, Chủ tịch Hồ Chí
Minh khẳng định: "Phải trông ở thực lực. Thực lực mạnh, ngoại giao sẽ
thắng lợi. Thực lực là cái chiêng mà ngoại giao là cái tiếng. Chiêng có to
thì tiếng mới lớn".
Ngay sau khi thống nhất đất nước năm 1975, Việt Nam đã tìm cách
mở rộng quan hệ kinh tế với các nước, ký nhiều hiệp định song phương
mới, nâng tổng số bạn hàng buôn bán lên gần 40 nước ( 1976 ). Tại Đại hội
Đảng IV, Đảng ta nhấn mạnh vai trò quan trọng của kinh tế đối ngoại,
khẳng định phải: "kết hợp phát triển kinh tế trong nước với mở rộng quan
hệ kinh tế với nước ngoài. Do tầm quan trọng đặc biệt của nó, công tác
kinh tế đối ngoại phải được tăng cường". Việt Nam đã tích cực, chủ động
phát triển quan hệ và tham gia vào các cơ chế hợp tác của các nước xã hội
chủ nghĩa trong khuôn khổ Hội đồng tương trợ kinh tế ( SEV ). Mặt khác,
Việt Nam còng từng bước cải thiện mối quan hệ hợp tác kinh tế với nhiều
nước tư bản chủ nghĩa dùa trên nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi. Mặc dù
vậy, bạn hàng chủ yếu của Việt Nam vẫn là các nước xã hội chủ nghĩa
( chiếm trên 80% tổng kim ngạch buôn bán của Việt Nam ).
Líp C - K53 Khoa Lịch sử Trường ĐHSP

15
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Thu
Trang

Bước vào thời kỳ đổi mới, đứng trước những yêu cầu cấp bách là
phải đưa nền kinh tế nước nhà nhanh chóng thoát khỏi khủng hoảng, phá
thế bao vây cấm vận của chủ nghĩa đế quốc, đứng đầu là Mỹ, đường lối mở
rộng quan hệ đối ngoại với hội nhập quốc tế ngày càng được bổ sung và
hoàn thiện thông qua các đại hội. Tại Đại hội VI năm 1986, Đảng ta chỉ rõ:
"Muốn kết hợp sức mạnh của dân téc với sức mạnh của thời đại, nước ta
phải tham gia vào sự phân công lao động quốc tế trên nguyên tắc bình
đẳng cùng có lợi".
Sang Đại hội VII (06 / 1991), Đảng ta đã xây dựng nhiệm vụ đối
ngoại là giữ vững hoà bình, tiếp tục mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác,
tạo điều kiện thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc, góp
phần vào sự nghiệp đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc
lập dân téc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Đại hội thông qua chính sách: "Việt
Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu
vì hoà bình, độc lập và phát triển" [ 50 ; 147].
Chủ trương hội nhập quốc tế của Đảng ta thời kì đổi mới tiếp tục
được bổ sung cụ thể hơn. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 (khoá VII),
ngày 29/6/1992 nhấn mạnh chủ trương mở rộng quan hệ với các tổ chức
quốc tế, trong đó "cố gắng khai thông quan hệ với các tổ chức tài chính,
tiền tệ quốc tế như Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng thế giới (WB),
ngân hàng phát triển Châu Á (ADB), mở rộng quan hệ với các tổ chức hợp
tác khu vực trước hết là ở Châu Á - Thái Bình Dương". Tiếp đó ngày
22/11/1994, Bộ chính trị ban hành Quyết định số 1005 CV/VPTW, giao
cho chính phủ soạn thảo và gửi đơn xin gia nhập WTO. Theo Quyết định
số 493 CV/VPTW của Bộ chính trị, ngày 14/06/1996, Việt Nam đã gửi đơn
xin gia nhập diễn đàn APEC.
Líp C - K53 Khoa Lịch sử Trường ĐHSP

16
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Thu

Trang
Trên cơ sở những thành tựu đạt được, Đại hội VIII của Đảng
(06/1996) chủ trương xây dựng nền kinh tế mở, đẩy nhanh quá trình hội
nhập kinh tế khu vực và thế giới. Đại hội nhấn mạnh quan điểm đa phương
hoá và đa dạng hoá quan hệ kinh tế đối ngoại.
Bước vào những năm đầu tiên của thế kỷ XXI, Đại hội IX của Đảng
đã bổ sung và phát triển đường lối hội nhập kinh tế quốc tế. Đại hội xác
định: "chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát
huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự
chủ và định hướng XHCN, bảo vệ lợi Ých dân téc, an ninh quốc gia, giữ
gìn bản sắc văn hoá dân téc, bảo vệ môi trường" [52; 120]. Nhằm cụ thể
hoá đường lối chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, Bộ chính trị đã ra Nghị
quyết 07 - NQ/TW, ngày 27 / 01/ 2001 về hội nhập kinh tế quốc tế, trong
đó làm rõ hơn mục tiêu, quan điểm chỉ đạo, nội dung và nhiệm vụ cụ thể
của hội nhập kinh tế quốc tế.
Phát huy những thành tựu đạt được, tại Đại hội X (04/2006) tiếp tục
xác định mục tiêu: " mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động và tích cực hội
nhập kinh tế quốc tế đến 2020 nước cơ bản trở thành một nước công
nghiệp theo hướng hiện đại" [53; 76]. Trên bước đường hội nhập Việt
Nam trở thành bạn, đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế và
tiếp tục đẩy mạnh tiến trình hợp tác khu vực và quốc tế.
Thứ hai, chủ trương hội nhập của Đảng ta được xác định dùa trên
các nguyên tắc hội nhập kinh tế quốc tế là : “mở rộng, đa dạng hóa và đa
phương hóa quan hệ kinh tế đối ngoại trên nguyên tắc giữ vững độc lập chủ
quyền, bình đẳng, cùng có lợi “[50; 119 ]. Đa dạng hóa quan hệ đối ngoại ở
đây có nghĩa là mở rộng quan hệ về mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn
hóa, giáo dục, khoa học kỹ thuật, y tế, thể dục thể thao, an ninh quốc
phòng…mở rộng quan hệ về Nhà nước, Đảng, các tổ chức đoàn thể xã hội,
Líp C - K53 Khoa Lịch sử Trường ĐHSP


17
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Thu
Trang
các tổ chức phi chính phủ…Còn đa phương hóa có nghĩa là quan hệ với các
đối tượng và các tổ chức thuộc các xu hướng và chế độ chính trị, xã hội
khác nhau. Vì vậy, chúng ta sẵn sàng mở rộng mối quan hệ hợp tác với các
nước, kể cả những nước có chế độ chính trị khác nhau. Khi tham gia bất kỳ
một tổ chức kinh tế nào thì nguyên tắc này cũng được đề cao, khẳng định
tư tưởng nhất quán của Đảng ta.
Thứ ba, những chính sách đối ngoại của Đảng ta đề ra là tạo dựng
môi trường quốc tế thuận lợi cho công cuộc đổi mới. Điêù đó được nhấn
mạnh tại Đại hội VIII ( 1996 ) : “ nhiệm vụ đối ngoại trong thời gian tới là
củng cố môi trường hòa bình và tạo điều kiện quốc tế thuận lợi hơn nữa để
đẩy mạnh phát triển kinh tế _ xã hội, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước”[51; 120 ]
Nh vậy, chủ động hội nhập vào các tổ chức khu vực và quốc tế là nội
dung cốt lõi trong đường lối chiến lược hội nhập quốc tế của Đảng ta trong
giai đoạn hiện nay. Nã cho phép có thể kết hợp một cách hiệu quả tiềm
năng, nguồn lực trong nước với những nguồn lực bên ngoài nhằm tạo sức
mạnh tổng hợp, góp phần giải quyết thắng lợi những nhiệm vụ của sự
nghiệp cách mạng nước nhà trong thời kì đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước. Đây thực sự trở thành một đối sách chiến lược hàng đầu
nhằm thích ứng với những thay đổi sâu sắc đang diễn ra ở Châu Á - Thái
Bình Dương và trên thế giới trong bối cảnh của xu thế toàn cầu hoá đa bình
diện, rất sôi động ngày nay.

Líp C - K53 Khoa Lịch sử Trường ĐHSP

18
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Thu

Trang
Chương 2
QUÁ TRÌNH VIỆT NAM HỘI NHẬP VÀO CÁC TỔ CHỨC
KHU VỰC VÀ THẾ GIỚI
Với chủ trương đường lối đúng đắn của Đảng đã đề ra tại Đại hội VI
năm 1986, Việt Nam nỗ lực phấn đấu từng bước mở rộng cánh cửa hội
nhập, tham gia vào các tổ chức trong khu vực và ở phạm vi lớn hơn. Quá
trình hội nhập Êy sẽ diễn ra cụ thể như sau:
2.1. Vai trò của Ngân hàng thế giới (WB) và Quỹ tiền tệ quốc tế
(IMF) đối với sự hội nhập của Việt Nam.
2.1.1. Ngân hàng thế giới (WB).
Ngân hàng thế giới (WB) là tên gọi chung của nhóm Ngân hàng thế
giới (World Bank Group). WB là cơ quan chuyên môn của Liên Hợp Quốc
được thành lập theo Quyết định tại Hội nghị Tài chính - tiền tệ quốc tế ở
Bretton Woods (Mỹ) năm 1944. Tổng số thành viên hiện nay của WB là
184 nước.
Mục tiêu cơ bản của Ngân hàng thế giới (WB) là thúc đẩy sự tiến bộ
kinh tế, xã hội ở các nước thành viên và nâng cao mức sống ở các nước
này, đặc biệt là các nước đang phát triển. Ngân hàng thế giới gồm các tổ
chức Ngân hàng tái thiết và phát triển quốc tế (IBRD), Hiệp hội phát triển
quốc tế (IDA), công ty tài chính quốc tế (IFC), cơ quan bảo lãnh đầu tư đa
phương (MIGA), trung tâm Quốc tế về giải quyết tranh chấp, đầu tư
(ICSID).
Trước năm 1975, chính quyền Sài Gòn là thành viên của ba tổ chức,
sáu nhóm Ngân hàng thế giới (WB) đã đóng góp số vốn là 8,5 triệu USD.
Năm 1978, nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam kế tục ba tổ chức
này. Quan hệ giữa Việt Nam với WB thực chất là quan hệ tín dụng giữa
nước ta với Hiệp hội phát triển quốc tế (IDA), công ty Tài chính quốc tế
Líp C - K53 Khoa Lịch sử Trường ĐHSP


19
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Thu
Trang
(IFC). Còng trong năm này tổ chức Hiệp hội phát triển quốc tế (IDA) cho
vay 60 triệu USD để thực hiện dự án thuỷ lợi Dầu Tiếng.
Như vậy sự tham gia của Việt Nam vào tổ chức WB có ý nghĩa lớn lao
trên con đường phát triển. Nhờ vào tổ chức này mà Việt Nam đã phá được
thế bao vây cấm vận, tham gia tích cực vào đời sống của cộng đồng quốc
tế. Đồng thời nước ta có thêm mét nguồn vốn để tập trung phát triển kinh
tế trong điều kiện đất nước hết sức khó khăn, nhân dân Việt Nam vẫn chìm
trong đói nghèo, lạc hậu.
Sau một thời gian quan hệ Việt Nam - Ngân hàng thế giới bị gián
đoạn do chính sách cấm vận của Mỹ, đến năm 1993 mối quan hệ Êy được
thiết lập trở lại. Với sự kiện này, cánh cửa hội nhập của Việt Nam vào sân
chơi khu vực và quốc tế đã được mở toang, tạo điều kiện thuận lợi cho các
nhà đầu tư vào Việt Nam, khiến cho kinh tế trong nước nhanh chóng bắt
kịp với xu thế toàn cầu hoá đang diễn ra mạnh mẽ trên thế giới. Thuận lợi
Êy giúp Việt Nam thường xuyên vay tín dụng của tổ chức WB để thực hiện
những dự án xây dựng cơ sở hạ tầng như dự án cải tạo nhiều đoạn đường
thuộc quốc lé 1A, dự án giáo dục tiểu học Tổng giá trị các dự án lên đến
2 tỷ USD, trong đó năm 1994 là 324,5triệu USD, năm 1995 là 415 triệu
USD, năm 1996 là 502 triệu USD, năm 1997 là 384,2 triệu USD.
Tính đến năm 2006 Ngân hàng thế giới là nhà cung cấp vốn ODA lớn
thứ hai của Việt Nam (sau Nhật Bản). Trong vòng 10 năm kể từ khi nối lại
quan hệ (1993 - 2003), WB đã cam kết cho Việt Nam vay khoảng 5,96 tỷ
USD, bằng 23,5% tổng lượng ODA mà cộng đồng các nhà tài trợ cam kết
cho Việt Nam vay chủ yếu dưới hình thức cho vay ưu đãi và hỗ trợ kĩ thuật
của Hiệp hội phát triển quốc tế (IDA). Ngoài ra công ty Tài chính quốc tế
(IFC) còng cho vay các dự án thuộc khu vực tư nhân của Việt Nam theo lãi
suất của thị trường. WB cho Việt Nam vay chủ yếu thông qua chương trình

Líp C - K53 Khoa Lịch sử Trường ĐHSP

20
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Thu
Trang
tín dụng điều chỉnh cơ cấu (SAC), ngoài ra còn cung cấp các hỗ trợ kĩ
thuật, kể cả hỗ trợ kĩ thuật uỷ thác của các nước.
2.1.2. Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF).
Quỹ tiền tệ quốc tế tên tiếng anh là International Monetary Fund, viết
tắt là (IMF), thành lập theo quyết định của Hội nghị Tài chính tiền tệ thuộc
Liên Hợp Quốc tổ chức ở Bretton Woods (Mỹ) vào tháng 7-1944. Ngày
27-12-1945, Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) chính thức ra đời với 29 nước ký
hiệp định thành Quỹ Articles of Agreemet. Tổ chức IMF bắt đầu hoạt động
từ ngày 1-3-1947 và tiến hành khoản vay đầu tiên từ ngày 8-5-1947. Tính
đến tháng 4-2003 tổ chức đã có 184 thành viên.
Quỹ tiền tệ quốc tế có chức năng điều chỉnh quan hệ tiền tệ giữa các
nước thành viên vay trung hạn, ngắn hạn để ổn định tỷ giá hối đoái và giải
quyết cân bằng trong cán cân thanh toán quốc tế.
Tuy nhiên tổ chức này không phải là tổ chức cho vay vốn nhưng lại
đóng vai trò hết sức quan trọng trong phát triển kinh tế các nước, nó là
nhân tố để ổn định giá trị và sự chuyển đổi của đồng tiền nhằm tạo thuận
lợi cho thương mại quốc tế. Lúc đầu tổ chức thiết lập một hệ thống cố định
về chuyển đổi ngoại tệ, nhằm mục đích bảo đảm có đủ số lượng tiền mặt
cần thiết trong lưu thông. Thập niên 1940-1970 Mỹ bảo đảm sự ổn định
của hệ thống đó bằng cách quy định tỷ giá của đồng đô la so với vàng là 35
triệu USD bằng một ounce vàng. Đến năm 1971 hệ thống đó sụp đổ sau khi
Mỹ tuyên bố không đảm bảo tỷ giá cố định như vậy nữa, từ đó đồng đô la
tách khỏi bản vị vàng, tỷ giá hối đoái đồng đô la được thả nổi.
Thập niên 1980, tổ chức IMF áp dụng một chính sách mới đối với
những nước đang phát triển thường bị nợ nhiều bằng cách mở rộng thời

hạn cho vay từ ngắn hạn thành dài hạn, và cung cấp con dấu phê chuẩn
quốc tế. Nhờ đó có thể vay tiền các tổ chức cấp tín dụng song phương hoặc
đa phương, cũng như các Ngân hàng tư nhân. Các nước nhận viện trợ phải
Líp C - K53 Khoa Lịch sử Trường ĐHSP

21
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Thu
Trang
đáp ứng được một số điều kiện khắt khe do tổ chức đặt ra trong chương
trình cải cách cơ cấu bao gồm cả cải cách kinh tế
Mục tiêu chính hiện nay của Quỹ tiền tệ quốc tế là:
+ Xóc tiến hợp tác Tài chính quốc tế để mở rộng thương mại.
+ Ổn định việc chuyển đổi tiền tệ, duy trì thể thức chuyển đổi có trật
tự.
+ Góp phần thiết lập một hệ thống thanh toán đa phương và xoá bỏ
những hạn chế về trao đổi ngoại tệ.
+ Trợ giúp các thành viên bằng cách cung cấp nguồn dự trữ tài chính
tạm thời để khắc phục tình trạng mất cân đối trong cán cân thanh toán.
* Quan hệ Việt Nam - IMF.
Năm 1976 nước ta thừa kế tư cách thành viên Quỹ tiền tệ quốc tế
(IMF) của chế độ Sài Gòn, đồng thời thừa kế số nợ của chế độ cò để lại
đối với tổ chức. Vốn cổ phần là 314 triệu USD, chiếm 0,12% tổng số vốn
góp của IMF, với 75% góp bằng Việt Nam đồng và 25% bằng SDA.
Nhưng nợ cũ và nợ mới lên đến 250 triệu USD. Từ năm 1976 Việt Nam
được vay các khoản tín dụng có lãi xuất thấp với tư cách là thành viên của
IMF. Đến cuối năm 1984 Việt Nam không trả được nợ đúng hạn nên không
được vay mới. Đó là nguyên nhân dẫn đến quan hệ giữa hai bên bị gián
đoạn.
Đầu năm 1993 nước ta và IMF thương lượng cách giải quyết số nợ tồn
đọng để Việt Nam tiếp tục được vay. Tháng 9-1993 với sự giúp đỡ của

nhóm hỗ trợ (gồm Pháp, Nhật Bản, Óc, Canada ), Việt Nam đã trả xong
số nợ quá hạn, và một thuận lợi tiếp theo nữa là IMF tiếp tục cho nước ta
vay khoản tiền là 206 triệu USD, thời hạn là 5 năm và vay theo thể thức
chuyển đổi hệ thống với số tiền 17 triệu USD, thời hạn 5 năm theo lãi suất
của thị trường. Đây là mốc thời gian đánh dấu sự thiết lập quan hệ bình
thường hoá của Việt Nam với các định chế tài chính quốc tế. Ngược lại để
Líp C - K53 Khoa Lịch sử Trường ĐHSP

22
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Thu
Trang
vay được, nước ta phải đáp ứng những điều kiện khắt khe như giảm bội chi
ngân sách, giảm lạm phát, Ên định thời gian cải tổ cơ cấu kinh tế để chuyển
mạnh sang cơ cấu thị trường. Tuy nhiên ý nghĩa tích của việc tiếp tục vay
vốn IMF là ở chỗ tạo ra tiền đề để có thể vay vốn ở các tổ chức khác cũng
như thu hót vốn đầu tư nước ngoài nói chung. Thành công lớn của Việt
Nam sau khi nối lại quan hệ với IMF là tổ chức này đã cam kết cho Việt
Nam vay 821,56 triệu USD, trong đó đã giải ngân 489,76 triệu USD. Lĩnh
vực ưu tiên trợ cấp của IMF cho Việt Nam gồm hỗ trợ cán cân thanh toán
và dự trữ nhà nước, hỗ trợ chính sách tài chính vĩ mô, cải cách ngân hàng
và doanh nghiệp nhà nước, cải cách thuế. Ngoài ra tổ chức cũng cung cấp
hỗ trợ kĩ thuật như đào tạo và nâng cao kiến thức trong lĩnh vực thuế, quản
lý chi tiêu công, cải cách ngân hàng
Có thể nói Việt Nam đã không ngừng nỗ lực phấn đấu khắc phục những
khó khăn của đất nước, từng bước khai thông quan hệ với các tổ chức, làm
cơ sở đẩy nhanh tiến trình hội nhập của nước ta, có điều kiện phát triển
những mặt mạnh, hạn chế những yếu kém còn tồn tại, ngày càng thu hót nhà
đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Việc Việt Nam nối lại quan hệ với các tổ
chức Ngân hàng thế giới (WB) và Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) là sự kiện có ý
nghĩa, giúp cho nước ta phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội

chủ nghĩa, xoá bỏ chế độ quan liêu bao cấp. Vì vậy có thể coi đây là cầu nối
để Việt Nam có cơ hội mở rộng mối quan hệ với các nước trên thế giới và
gia nhập những sân chơi lớn hơn, mang tầm cỡ quốc tế và mục tiêu trước
mắt là nhanh chóng gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO).
2.2. Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) - bước tiến đầu
tiên của Việt Nam trên con đường hội nhập.
2.2.1. Bối cảnh ra đời của tổ chức ASEAN.
Ngày 08-08-1967 tại Băng Cốc một tổ chức mang tính chất khu vực là
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á đã ra đời, tên tiếng anh là Associasion
Líp C - K53 Khoa Lịch sử Trường ĐHSP

23
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Thu
Trang
of South - East Asian Nations (ASEAN), đầu tiên gồm 5 nước Inđônêxia,
Malaixia, Philippin, Thái Lan, Singapo đã thảo luận những vấn đề quan
trọng trong chính sách đối ngoại của họ, chủ yếu trên lĩnh vực kinh tế và
chính trị. Bản tuyên bố ASEAN (gọi là tuyên bố Băng Cốc) đã được kí kết
tại Hội nghị ngoại trưởng 5 nước, khai sinh ra tổ chức ASEAN.
Khu vực Đông Nam Á, là một vùng đất rộng lớn, giàu tài nguyên thiên
nhiên, án ngữ ở vị trí địa lý trên tuyến đường biển Đông - Tây, là khu vực
thu hót sự chú ý của nhiều nước thuộc hai hệ thống chính trị là xã hội chủ
nghĩa và tư bản chủ nghĩa khi đó đang ở tình trạng đối đầu căng thẳng. Hai
siêu cường Mỹ và Liên Xô đều muốn tranh thủ các nước ở khu vực này
phục vụ cho chính sách đối ngoại của mình, khiến cho khu vực Đông Nam
Á trở thành nơi hết sức nhạy cảm trước tác động của các lực lượng chính trị
và các lực lượng dân téc chủ nghĩa. An ninh của nhiều nước dễ bị tổn
thương nếu các quốc gia này từ chối chính sách "đứng cách đều" [30; 14],
nên buộc họ phải chọn giải pháp sống hoà thuận tối đa với tất cả các nước
lớn. Tình hình quốc tế khi đó đòi hỏi các quốc gia trong vùng phải tăng

cường đoàn kết nội bộ, xiết chặt mối quan hệ giữa các nước có chung
nguyện vọng là tự do, độc lập dân téc và trung lập. Bên cạnh đó tình hình
chính trị trong nội bộ từng nước ASEAN cũng có nhiều diễn biến phức tạp.
Trong bối cảnh thế giới và trong nước như vậy, 5 nước Inđônêxia,
Malaixia, Philippin, Thái Lan, Singapo đều đứng trước yêu cầu phải liên
kết chặt chẽ để củng cố hoà bình bảo đảm an ninh khu vực, dù các nước
này còn nhiều mâu thuẫn. Một lý do dẫn đến yêu cầu liên kết khu vực là
chiến tranh Đông Dương đang chuyển sang thời kỳ quyết liệt, 5 nước nhận
thức rõ những quyền lợi quốc gia đối chọi nhau thực sự, làm chậm trễ sự
tiến bộ của từng nước. Hơn nữa, chính bản thân 5 nước này vấp phải những
khó khăn chung sau khi giành độc lập như sự lạc hậu của các cơ cấu kinh
tế, tình trạng sản xuất độc canh và xuất khẩu nguyên liệu thô. Nếu liên kết
Líp C - K53 Khoa Lịch sử Trường ĐHSP

24
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Thu
Trang
với nhau họ có thể cùng giải quyết dễ dàng hơn những khó khăn lớn Êy,
nhất là chung một chính sách kinh tế đối ngoại nhằm chống lại một cách có
hiệu quả chính sách độc quyền của các nước tư bản phương Tây. Ngoài ra
còn một số nguyên nhân khác tác động đến xu hướng liên kết của các nước
Đông Nam Á. Do đó một hiệp hội dùa trên một thể chế kinh tế, chia sẻ với
nhau những quan điểm cơ bản về thể chế chính trị sẽ đảm bảo được an ninh
lâu dài. Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN) ra đời đảm bảo được
những yêu cầu Êy.
2.2.2. Quá trình Việt Nam tham gia vào tổ chức ASEAN.
* Quan hệ Việt Nam - ASEAN trước năm 1995.
Sau khi tổ chức ASEAN được thành lập thì hoạt động chung giữa các
nước trong tổ chức chưa có gì nổi bật. Lúc này trên thế giới đang diễn ra
cuộc chiến tranh lạnh và tình trạng đối đầu giữa hai hệ thống xã hội. Các

nước ASEAN cũng bị tình hình trên tác động nên phải điều chỉnh chính
sách đối ngoại của mình bằng việc đưa ra Tuyên bố về khu vực hoà bình,
tự do, trung lập ở Đông Nam Á hay còn gọi là Tuyên bố ZOPFAN vào
tháng 11-1971. Lúc này một số nước ASEAN đã bắt đầu thăm dò khả năng
quan hệ với Việt Nam trên một số lĩnh vực. Tuy nhiên quan hệ giữa hai bên
trong giai đoạn chưa có gì tiến triển đáng kể.
Đến đầu năm 1973, tình hình khu vực có nhiều chuyển biến lớn, dẫn
đến sự đảo lộn trong cán cân lực lượng ở đây. Tháng 01-1973, Hiệp định
Pari về chấm dứt chiến tranh ở Đông Dương được kí kết. Tháng 08-1973,
Mỹ buộc phải chấm dứt mọi hoạt động quân sự ở Đông Dương, xu thế hoà
bình, trung lập ở khu vực phát triển mạnh. Những sự kiện trên buộc các
nước ASEAN có sự điều chỉnh phù hợp trong chính sách đối ngoại của
mình.
Trên bình diện khu vực các nước ASEAN có nhiều cử chỉ thân thiện
hơn, tạo cơ sở cho việc đặt quan hệ với Việt Nam. Về phía Việt Nam, sau
Líp C - K53 Khoa Lịch sử Trường ĐHSP

25

×