Tải bản đầy đủ (.doc) (41 trang)

tiểu luận Cù lao Chàm và hoạt động thương mại biển của Champa thế kỷ VII-X.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (310.82 KB, 41 trang )

CÙ LAO CHÀM VÀ HOẠT ĐỘNG THƯƠNG MẠI BIỂN
CỦA CHAMPA THẾ KỶ VII-X.
Những tri thức về hoạt động thương mại biển trong hoạt động kinh tế
của vương quốc Champa xưa đã được ghi nhận bởi con người qua các thời
đại lịch sử khác nhau. Những phát hiện về Khảo cổ học cũng góp phần làm
sáng tỏ và minh chứng rõ hơn cho điều đó.
Về tên gọi của vương quốc Champa: Thư tịch cổ Trung Quốc gọi là:
Lâm Êp, Chiêm Thành, Hoàn Vương, Champa. Thư tịch cổ Trung Quốc có
nhắc nhiều đến các sự kiện, phong phú từ địa lý (trong Tân Đường thư). Sản
vật (Lương thư), cách ăn mặc và sinh hoạt hàng ngày (Tống sử)…nhưng
nhìn chung chỉ dừng lại ở những ghi chép tản mạn, vụn vặt, những hoạt
động triều cống, những quan hệ mang tính thần thuộc. Quan hệ buốn bán
của Champa với bên ngoài nhìn chung Ýt được nhắc đến
Thư tịch cổ của người Batư-Arab cũng ghi chép tản mạn về vấn đề
này. Thương nhân Tây á hiểu biết về một vương quốc ven biển nổi tiếng với
những sản phẩm quý hiếm, có giá trị cao trên thị trường như trầm hương,
đậu khấu, hồi hương, vàng…Trong “Akhbaral-Sìn Wa al Hind” (Truyện kể
về Trung Quốc và Ên Độ) được viết vào thế kỷ IX bằng tiếng Arab, nhắc tới
một vương quốc Sanf (Champa) và địa danh Sanf-Fùlàu (Cù lao Chàm), nơi
họ thường xuyên ghé thuyền nghỉ ngơi và tích trữ lương thảo, nước ngọt
cũng như trao đổi hàng hoá trước khi đi tiếp sang Trung Quốc hoặc đi về
các địa điểm phía Nam.
Do xuất phát từ nhiều nguyên nhân khách quan khác nhau, trong đó
có nhãn quan của giai cấp thống trị về phẩm giá xã hội của hoạt động buôn
bán (thương vi mạt) nên các thư tịch cổ của Việt Nam và Trung Quốc dù có
ghi chép khá nhiều, nhưng những thông tin về hoạt động nội, ngoại thương
của Champa vẫn hầu như không được đề cập đến.
“Không giống đế quốc Angkor, vương quốc Chàm nhìn ra biển. Thực
tế này gợi mở sự tồn tại của thương mại quốc tế mặc dù không một bằng
chứng nào về nó được tìm thấy qua những văn bia”(Claude Jacqes…
chamland).


G.Maspero: “đường giao thông khó khăn, đường biển bất trắc, những
thung lũng nhỏ chỉ có thể nuôi sống được đám dân cư thưa thít…Êy thế mà,
chính tại vùng đất này đã tồn tại một quốc gia phồn thịnh, mà ở tận xa người
ta nói nhiều đến sự phú cường, đó là vương quốc Chàm” (Trang 5)
“Miền trung Việt Nam không phải là “xứ nghèo” nh người ta tưởng.
Người Sa Huỳnh có đời sống vật chất phong phó qua các di vật còn để lại ở
nơi cư trú của người sống và mộ táng của người chết. Người Champa mức
sống cồn phong phú hơn người Sa Huỳnh. Cái nghèo của miền Trung là hậu
quả kinh tế –chính trị –xã hội của một nền quân chủ trọng nông ức thương
suy tàn, một thể chế thực dân áp bức bóc lột dã man đã qua” (p.15,
TQV:Những di tích thời tiền sử…Quang Nam)
“Bởi vì người Chăm có cái nhìn về biển đúng đắn, biết tham dự và
dân thân tích cực vào luồng thương mại quốc tế trên biển.
Thương mại biển là một trong những tiềm lực kinh tế của vương quốc
Champa xưa.
Cù Lao Chàm với vị trí thuận lợi của mình đã từng là một tiền cảng
của cư dân Champa (có thể cả người Sa Huỳnh ở những thế kỷ trước công
nguyên) và người Việt thời kỳ Hội An thế kỷ XVII-XVIII sau công nguyên.
Nước ngọt là một thế mạnh ưu việt của Cù Lao Chàm. Ngoài phục vô
nh cầu nội hạt, còn là một mặt hàng xuất khẩu có giá trị.
Những biến đổi địa hình khu vực ven bê (vùng Hội An và vùng phụ
cận) diễn ra thường xuyên trong lịch sử đã tác động không nhỏ đến các hoạt
động buôn bán của người Chàm và người Việt trong lịch sử. Là một tiền
cảng (pre-port) của vùng buôn bán cửa sông Thu Bồn và nội địa, Cù lao
Chàm có liên quan mật thiết với sự hưng thịnh hay suy giảm của các vùng
trên. Địa hình của Cù lao Chàm và Hội An từ khoảng Công nguyên đến thế
kỷ X khá ổn định và thuận lợi cho giao thương.
Đào khai quật thu được một vài mảnh vò sành có xương gốm mịn,
màu xám tro, mặt ngoài của các mảnh vò có nhiều vết lồi lõm nhẹ do kỹ
thuật sản xuất bằng tay lưu lại, có nhiều khả năng được sản xuất ở miền Bắc,

gần gũi với những vò sành phát hiện ở Hoa Lư niên đại IX-X.
Gốm Đường lớn về số lượng. Các loại hình vò với các loại chất liệu,
kiểu dáng màu men khác nhau cho thấy chúng được sản xuất từ nhiều lò
khác nhau.Phần lớn những mảnh vò có men trấu rạn, xương gốm trắng sữa
hoặc trắng xám cho thấy nguồn gốc Quảng Đông, trong khi một số Ýt mảnh
được sản xuất tại lò Trường Sa, niên đại thế kỷ IX-X. Loại gốm với kiểu
trang trí này cũng đã được phát hiện rất nhiều ở Đông Nam á (TháI Lan, Mã
lai…).
Bát được làm từ chất liệu mịn, màu vàng nhạt khá, độ nung cao, tráng
men trấu rạn màu vàng nhạt cả phần miệng và chân đế. Loại bát này thuộc lò
Việt Châu, thế kỷ IX-X.
Sản phẩm của lò gốm Trường Sa, niên đại cuối thời Đường (IX-X).
Loại gốm này được xuất khẩu rất rộng ra các địa điểm ở Đông Nam, Nam,
Tây á, dọc theo “con đường tơ lụa trên biển” nối liền Đông – Tây trong lịch
sử.
Kendy làm từ chất liệu mịn, độ nung khá cao nên xương gốm chắc,
được sản xuất tại lò Việt Châu của Trung Quốc thời Đường. Người Trung
Quốc không có sở thích sử dụng Kendy trong sinh hoạt hang ngày cũng như
trong các nghi lễ tôn giáo. Các sản phẩm Kendy Trung Quốc được sản xuất
chủ yếu dành cho hoạt động trao đổi với bên ngoài.
Việc phát hiện các loại hình gốm Đường phong phú, được sản xuất ở
nhiều lò khác nhau cho thấy quá trình chuyển dịch mạnh trong cơ cấu các
thương phẩm xuất khẩu của Trung Quốc thời Đường: Từ các mặt hàng tơ lụa
sang gốm sứ. Phương thức vận chuyển bằng đường biển của Trung Quốc
xuống phía Nam đồng thời cũng tạo điều kiện cho các hải cảng dọc bờ biển
miền trung nước ta phát triển hưng thịnh.
Hiện vật Tây Nam Á: Gốm Islam (Islamic Ceramics) là đồ gốm được
sản xuất ở vùng Trung Cận Đông. Số lượng mảnh gốm Islam phát hiện ở
miền Trung Việt Nam không phải là Ýt so với Đông Nam Á, Việt Nam có
số lượng lớn thứ ba (khaongr 100 mảnh), Thái Lan (400 mảnh), Trung Quốc

(300 mảnh). Được phát hiện không chỉ ở khu vực cận duyên, vùng hải cảng
(Cù lao Chàm) mà còn tìm thấy ở các vùng sâu trong nội địa (Trảng Sơn,
Trà Kiệu). Với những điều kiện khách quan bên ngoài như: ngăn cấm
thương nhân nước ngoài vào buôn bán trong vùng nội địa như trường hợp
của Thái Lan, Ankor, Nhật Bản thì việc người Chăm nắm giữ hoạt động
phân phối sản phẩm nhập ngoại từ các cảng thị vào các vùng nội địa là điều
có thể đã xảy ra.
Những hiện vật gốm phát hiện đó đã góp phần khẳng định về nền hải
thương Champa giai đoạn VII-X. Cù Lao Chàm ngoài vai trò là đảo tiền
tiêu, còn là tieefnc ảng cho vùng Lâm Êp Phố và kinh đô Trà Kiệu
(Simhapura) phía tây.
Thuỷ tinh Islam: chất liệu thuỷ tinh được con người sử dụng để chế
tạo sản phẩm từ rất sớm. ở Aicập, thuỷ tinh xuất hiện khoảng 4500 năm
trước.
Hiện vật thuỷ tinh không chỉ là những vật dụng đơn thuần, theo An
Jiayao “hàng thuỷ tinh thường xuyên được ngưỡng mộ như một kiểu nghệ
thuật và là một mẫu trao đổi có giá trị”, Francis Peter “những sản phẩm thuỷ
tinh được xem là đặc biệt, thậm chí có phần thần bí”.
Miền Trung Việt Nam trong giai đoạn văn hoá Sa Huỳnh được đánh
giá là “trung tâm đầu tiên của thuỷ tinh cổ nước ta”
Thuỷ tinh có nguồn gốc Tây Á và Fustat (Aicập) gồm một số đồ thuỷ
tinh gia dụng niên đại IX-X. Được phát hiện và thông báo nhiều nơi ở Đông,
Đông Nam và Tây Á (Chân đế là những hạt thuỷ tinh nhỏ gắn vào mặt đáy,
mảnh thuỷ tinh được trang trí bằng sơn màu hoặc đắp nổi hình chiếc lá, hình
đồng xu tròn…
Thuỷ tinh có nguồn gốc Đông Nam Á, Trung Quốc: Gồm những hạt
thuỷ tinh trang sức ghép (Mosaic beads) bao gồm cả những hạt chuỗi ghép
mắt (Mosaic eyes beads) và hạt chuỗi có sọc trên thân (folded beads)…
Những hạt chuỗi này được sản xuất ở Đông Nam á (Java), Trung Quốc,
Trung Đông…

điều này cho thấy hoạt động hải thương sôi động ở c vùng biển Đông
và Đông Nam á, còng nh sù tham gia tích cực của người Chàm thời kỳ này.
Một số hiện vật thuỷ tinh chắc chắn được “made in Champa”, và có khả
năng là “made of the local meterial”.
Vai trò của buôn bán có ý nghĩa rất quan trọng trong sự phát triển văn
hoá của các cư dân Đông Nam á. Huttever, nhà nghiên cứu người Mỹ về
khảo cổ học Đông Nam á cho rằng “hoạt động buôn bán đóng vai trò lớn
trong sự tiến triển văn hoá ở Đông Nam á và làm động lực gián tiếp để biến
đổi văn hoá”. Cư dân Sa Huỳnh đã có quan hệ buôn bán khá rộng với các
nhóm cư dân trong và ngoài lãnh thổ Việt Nam ngày nay.
Bản chất của những mối quan hệ tiếp xúc với Ên Độ trong văn hoá Sa
Huỳnh mới chỉ nằm trong phạm vi trao đổi, thương mại, buôn bán. Trong
mối quan hệ nhiều chiều của văn hoá Sa Huỳnh, bóng dáng của văn hoá
Đông Sơn để lại đậm đà nhất.
Tiếp nối truyền thống của cư dân Sa Huỳnh, cư dân Chăm cổ ở khu
vực Hội An tiếp tục khai thác thế mạnh về vị trí thiên phú, mở rộng giao lưu
buôn bán với bên ngoài.
Những tiền đề cho thời kỳ hưng thịnh.
1. Những tiền đề nội tại của vương quốc.
Nông nghiệp nh cơ sở cho sự ổn định nội tại của vương quốc, làm
ruộng theo lối “hoả canh thuỷ chủng” nh những vùng Nam Trung Hoa.
Người Chàm cũng đồng thời phát triển nhiều nghề thủ công: trồng bông, dệt
vải…đặc biệt là tiến hành buôn bán trao đổi sản phẩm với bên ngoài. Trong
giai đoạn đầu phát triển, vương quốc Champa mang đậm nét của một quốc
gia nông nghiệp.
Sự ổn định về thiết chế chính trị là yếu tố tiên quyết cho việc tiến
hành buôn bán. Maspero: gai đoạn từ thế kỷ II đến X là thời kỳ ổn định của
Champa về chính trị, tạo điều kiện cho xâm lấn, cướp bóc”. Cuộc “Bắc tiến”
không ngừng của Champa sau ngày lập quốc, là hướng duy nhất họ có thể
làm vì tiềm lực kinh tế, chính trị của Bắc- Bắc trung bộ Việt Nam lúc đó rất

yếu, trong khi “nam tiến” để mở rộng lãnh thổ là điều không không thể bởi
vì Phù Nam được đánh giá là một “Đại cường quốc” của Đông Nam á lúc
bấy giê, có thể so sánh với Rome ở châu Âu (Hall, 64).
2. những tác động của bối cảnh khu vực và quốc tế.
a. Sự chuyển biến của các trung tâm buôn bán lớn ở Đông Nam á thời
cổ trung đại.
Lịch sử hải thương Đông Nam á thời cổ trung đại được K.R.Hall chia
thành năm vùng buôn bán ứng với mỗi giai đoạn (từ thế kỷ ITCN đến 1511,
khi người Bồ Đào Nha đến Malacca):
1. Thiên niên kỷ I TCN, những hoạt động buôn bán được tiến hành
sôi động từ vùng biển phía bắc bán đảo Mãlai đến nam biển Việt Nam. Điều
hành chính các hoạt động buôn bán này là những hải nhân Malayo-
Polynesian, những người đã từng bước mở rộng hoạt động buôn bán của họ
xa về phía tây đến Madagaxca và về phía đông đến tận Trung Quốc. Hàng
hoá Trung Quốc được chuyên chở xuống nam biển Đông, chuyển bộ qua eo
Kra (bắc bán đảo Mã Lai) sau đó được chuyển tiếp qua vịnh Bengan đến Ên
Độ để phân phối đi các vùng khác nhau. Từ khoảng thế kỷ I SCN, các thuỷ
thủ Arab phát hiện ra tính chất ưu việt của các luồng gió mùa (monsoons)
nên hoạt động hàng hải càng thuận lợi. Buôn bán trên biển giữa Trung Quốc
với Trung Đông bao gồm Ýt nhất ba tuyến nhỏ: trung Đông-Ên Độ, Ên Độ-
Phù Nam, Phù Nam-Trung Quốc.
1
2. Từ thế kỷ II-III SCN, một vùng vùng buôn bán khác xuất hiện ở
vùng biển Java. Mạng lưới buôn bán ở vùng biển này liên quan chủ yếu đến
nguồn lâm sản quý như gỗ Gharu, Sandal và các loại hương liệu như trầm
hương, đinh hương…trong các vùng quần đảo Lesser Sunda, Malluccas, bờ
biển phía đông Berneo, Java và bờ biển phía nam của Sumatra. Vị trí lý
tưởng của vùng eo Sunda cho thấy nó là nơi tập trung hàng hoá lớn, dễ dàng
1
K.R.Hall, Maritime trade and state Development in Early Southeast Asia, University of Hawaii Press,

1995.
thu hót thương nhân từ nhiều vùng khác nhau, đáp ứng đầy đủ các sản phẩm
nội địa của quần đảo Indo.
3. Từ thế kỷ V vùng bờ biển phía nam Sumatra mang một tầm quan
trọng mới, do sự dịch chuyển của tuyến đường buôn bán đông tây từ vùng
thượng bán đảo Mã Lai xuống eo Mallacca. Eo Mallacca trở thành tiêu điểm
cho nền thương mại của Mã Lai ở đông Borneo, Java và những đảo phía
đông còng nh vùng thượng bán đảo Mã Lai. Sù thay đổi tuyến đường đi
xuống eo biển Mallacca góp phần đưa đến sự suy tàn của Phù Nam, đồng
thời tạo điều kiện cho quốc gia biển Srivijaya nổi lên nh mét trung tâm thay
thế.
Trong bối cảnh đó, Champa đã nổi lên, thay thế vai trò của Phù Nam
trước đó. Quan hệ buôn bán giữa một số quốc gia thuộc vùng biển Indo như
Koying, Cantoli hay Srivijaya sau này với Trung Quốc lại sôi động hơn, xác
lập một nền thương mại hàng hải từ Trung Quốc xuống vùng biển Đông
Nam á đi qua các hải cảng của Champa dọc bờ biển Đông. Sự kiện này tác
động to lớn đến hải thương Champa, đặc biệt là vùng biển Cù Lao Chàm và
khu vực phụ cận miền Amaravati của Champa trong suốt VII-X.
4. Từ khoảng thế kỷ XI, buôn bán ở vùng biển Đông Nam Á lại có
những biến động. Sự suy yếu của Srivijaya xuất hiện vào giữa lúc thương
nhân Arab, Ên Độ, Trung Quốc đang mở rộng thu mua các mặt hàng từ vùng
biển này. Borneo và Philippin trỗi dậy tổ chức buôn bán hương liệu ở vùng
biển Đông Nam Á.
Các thương nhân nhận ra: Việc gom hàng từ các cảng lớn còn thu lợi
nhiều hơn. Sự “sực tỉnh” này cùng sự lớn mạnh trở lại của trung tâm buôn
bán vùng hạ lưu bán đảo Mã Lai, bắc Sumatra và sự tham dự trực tiếp của
các thế lực đất liền (Ankor, Pagan…), làm cho khu vực từ vịnh Bengan qua
bán đảo Mã Lai, nam biển Đông hưng thịnh trở lại, tham dự tích cực vào con
đường buôn bán quốc tế.
b. Khuynh hướng mới của hải thương Trung Hoa thời Đường.

Quan hệ buôn bán giữa Trung Quốc với Trung á, Địa Trung Hải đã
diễn ra từ những thế kỷ III, II TCN thông qua con đường tơ lụa trên đất liện
dài hơn 7 ngàn cây số nối liền kinh đô Trường An, chạy qua hành lang Hà
Tây và lòng chảo Tarim của Tân Cương-Trung Quốc, qua Tajikixtan,
Udơbekixtan, Tuocmenixtan, sau đó qua Afganixtan, Iran, Iraq rrooif đến
Địa Trung Hải. Từ Địa Trung Hải, hàng hoá Trung Quốc có thể qua đường
biển về phía Tây đến Ai Cập và bán đảo Italia. Hàng hoá Tây á, La mã,
Syrie còng theo đường này quay trở lại Trung Quốc.
Từ thế kỷ VIII trở về sau, con đường tơ lụa trên đất liền ngày càng bị
suy thoái bởi sự cướp bóc, tàn sát của người Đột Quyết. Người Batư-chủ lực
trong việc vận chuyển tơ lụa Trung Quốc sang châu Âu bị suy yếu và bị
người Arab chinh phục vào thế kỷ VII. Con đường tơ lụa trên bộ được thay
thế bằng con đường biển đi qua biển Đông, đến Ên Độ, Ba Tư, Arab. Tuyến
đường biển này được thừa nhận là an toàn và hiệu quả hơn. Trong bối cảnh
đó, Champa đã tích cực tham dự vào luồng buôn bán sôi động này.
c. Thị trường mới cho người Arab nửa sau thế kỷ VII.
Từ thế kỷ VII, các thương nhân Ên mất dần vai trò chi phối trong
buôn bán giữa Ên Độ với Đông Nam á. Các thuyền buôn của người Arab
tràn sang phía đông,vượt qua Ên Độ và từ thế kỷ VII, những thuyền buôn
này tiến lên buôn bán ở vùng biển Champa và Trung Quốc, đem theo nhiều
mặt hàng đang co sức hấp dẫn mạnh thị trường phương đông như thuỷ tinh,
gốm sứ, trang sức.
Những mặt hàng trao đổi
hàng xuất khẩu của Champa
Lâm thổ sản là nguồn hàng quan trọng của người Chàm sử dụng để
bán ra ngoài. Trầm hương Chăm là một mặt hàng xuất khẩu ưu thế, thu hót
sự ngưỡng mộ và say mê thu mau của các thương nhân ngoại quốc. Nahf sử
học Ba Tư Abe Ya Kub thế kỷ IX cho rằng “trầm hương Champa gọi là
Canfi, được đánh giá là tốt nhất trên thị trường thế giới, xức quần áo bền
mùi nhất.”

Sách “Lĩnh ngoại đại đáp” của Chu Khứ phi hết lời ca ngợi giá trị của
trầm hương Champa “Giao chỉ với Chiêm Thành gần cõi nhau, phàm những
trầm hương mà Giao Chỉ đưa đến Khâm Châu đều là trầm của Chiêm Thành
đấy”
Trầm hương có trữ lượng lớn ở miền trung Việt Nam, nhaats là các
tỉnh Quảng Trị, Quảng Bình. Ngoài trầm hương còn có mun và các hương
quý khác, gỗ thơm, gỗ hương, gỗ phượng hoàng và long não, đinh hương,
trầm méc…Ngà voi là thứ hàng buôn bán quan trọng, tê giác có giá trị trong
y dược viễn đông.
Người Chàm cũng được biết đến nh những người cung cấp nguồn nô
lệ cho các thuyền buôn ngoại quốc. Sách “Lĩnh ngoại đại ddap” cho biết
rằng thuyền buôn của Champa phần nhiều chở người nô lệ ra ngoài để bán,
ghe thuyền của họ thay vì chở hàng hoá thì lại chở nô lệ, “giá một đứa trẻ là
ba lạng vang hoặc trả bằng gỗ thơm tương đương đương với ba lạng vàng”.
GS. Đào Duy Anh cho rằng: nguồn gốc nô lệ chủ yếu do người Chăm đánh
phá đất Nhật Nam và nghề cướp biển.
Nững nguồn khoáng sản quý có trữ lượng không lớn ở miền trung
nhưng lại được người Chàm khai thác triệt để và mua thêm từ bên ngoài.
Thư tịch cổ Trung Quốc miêu tả là “núi vàng”, “vàng có ở trong sông, muốn
lấy thì tất cạn lòng sông đi”, nhiều cống phẩm cho triều đình Trung
Hoa:ngọc lưu ly, hổ phách…Nguồn hàng bí mật mà người Chàm thu mua từ
Batan (Philippin) suốt nhiều thế kỷ mà các thương nhân Trung Hoa không
hề hay biết. Đây là một trung tâm sản xuất vàng có quy mô lớn.
Các mặt hàng thủ công được xuất khẩu: vải vóc, tơ lụa, đường mía.
Bán nước ngoạt cho tàu thuyền nước ngoài cũng là nguồn thu lớn cho cư dân
Champa phân bố rải rác khắp nơi, tập trung nhiều ở các vùng cửa sông,
vũng, vịnh- tàu thuyền thường xuyên ghé vào trú ngụ và buôn bán. ở khu
vực quanh Hội An và Cù Lao Chàm đã phát hiện rất nhiều giếng tương tự,
chúng hẳn đã được xây dựng để bán nước cho thương thuyền ngoại quốc khi
cập cảng buôn bán, nghỉ ngơi.

Người Chàm xưa đã tận dụng tất cả các nguồn hàng sẵn có để tham
gia buôn bán, trao đổi với bên ngoài, tạo ra sù thu hót mạnh các thương nhân
ngoại quốc đến buôn bán nên một số vùng nhờ vậy đã trở nên hưng thịnh.
Những mặt hàng nhập khẩu của Champa
Đồ gốm, sành Trung Quốc và một số laoij trang sức gương đồng: có
kỹ thuật cao, nguyên liệu tốt, độ nung cao. Xương gốm chắc. Đồ gốm Trung
Quốc từ thời Đường về sau tìm thấy ở khắp Đông Nam á, Tây á và nhiều
vùng khác trên thế giới. Đối với người Chăm, loại hình vò đựng tráng men
được sử dụng trong táng tụng người chết
Các hàng hoá Tây á, Ai Cập…chủ yếu là mặt hàng thuỷ tinh và gốm,
men ngọc Barsa. Thuỷ tinh gia dụng Tây á độc đao về chất liệu, hoa văn;
thuỷ tinh trang sức
Gốm Islam dù có xương gốm bở, xốp nhưng màu men xanh biếc, vẫn
có sức hấp dẫn với người phương Đông.
Một số hiện vật trang sức quý nh hạt chuỗi thuỷ tinh nhiều màu, hạt
chuỗi ghép, hạt chuỗi bằng đá quý, mảnh đá mã não
Các tuyến buôn bán quốc tế:
Cù Lao Chàm – miền Bắc – Trung Quốc
Cù Lao Chàm – Đông Nam á - Nam á - Tây á
Tuyến buôn bán ngược phía bắc đến Trung Quốc được ghi chép rất
nhiều trong các thư tịch cổ. “Nam Tống thư” của Trung Quốc cho biết về sự
phát triển của hải thương Trung Hoa ở các tỉnh phái Nam sau khi con đường
buôn bán trên đất liền bị đình đốn. “Các đồ vật quý giá từ núi đồi và biển cả
đã đến bằng con đường biển này, gồm hàng ngàn loại hàng hoá khác nhau
mà các vua đều thèm muốn. Do đó tàu thuyền nối đuôi nhau đến đây nh
dòng nước chảy liên tục, các thương gia và phái viên chen lấn nhau. (Hall,
tr.72)
Hoạt động giao lưu giữa những cư dân miền Trung Việt Nam và cư
dân Đông Nam á hải đảo có từ hàng ngàn năm TCN. Truyền thống gốm Sa
Huỳnh –Kalanay” của W.Solhaim.

Người Chàm trong lịch sử nói chung và trong thời kỳ VII-X nói riêng
có tiềm lực hàng hải không nhỏ, nếu không muốn nói là khá hùng mạnh.
Thương nhân Champa không chỉ sử dụng thuyền nhỏ để dễ bề cơ động, mà
còn có những đoàn thuyền có trọng tải lớn, đi biển an toàn và hoạt động
buôn bán có hiệu quả. Với thế mạnh này, người Chàm đa tiến hành trao đổi
với nhiều vùng ở Đông, Đông Nam, Nam và Tây á.
Quan hệ của Champa với các nước Đông Nam á trong giai đoạn VII-
X tập trung vào một số trung tâm buôn bán lớn như Philippin (Butuan),
Indonesia (Srivijaya)…Những quan hệ này, nhất là quan hệ mang tính thần
thuộc của Butuan đưa đến cho Champa những nguồn lợi lớn về vàng. Quan
hệ buôn bán Srivijaya – Trung Quốc qua vùng biển Đông càng thúc đẩy hoạt
động thương mại của Champa hơn, nhất là khi triều đình Trung Quốc mở đại
lý thương mại ở biển Đông để quản lý hoạt động hải thương năm 971 (Hall,
109).
Sự tiếp xúc Champa với những thương nhân Tây á (Batư, Arab) có lẽ
muộn hơn. Đến VI, thương nhân Tây á buôn bán trong phạm vi từ Ên Độ trở
về phái Tây, Địa Trung Hải. Từ giữa thế kỷ VI, các thuyền buôn Tây á vượt
qua các vùng biển Đông Nam á (Srivijaya) đ qua vùng bờ biển miền trung
Việt Nam và đến thẳng phía nam Trung Quốc. Sách “Truyện về Ên Độ và
Trung Quốc” của người Arab viết năm 851-852 cho biết: “Tàu từ Ên Độ đến
Sanfu (Champa) mất mười ngày. ở đây có nước ngọt và trầm hương xuất
khẩu. ở đây có một vị vua, nhân dân thì da ngăm đen và mặc váy hai líp…”.
Thời kỳ này, mỗi chuyến đi thường kéo dài nên việc ghé thuyền vào
các cảng ven bờ để trao đổi, nghỉ ngơi, tích trữ lương thảo, nước ngọt là khá
thường xuyên.
Từ thế kỷ VIII, các thuyền mành Trung Quốc bắt đầu đi dọc biển
Đông, mang theo nhiều hàng hoá Trung Quốc (gốm sứ, tơ lụa…) xuống các
vùng buôn bán ở Đông Nam á. Giữa lúc đó, Srivijaya lại phát triển hưng
thịnh, vươn lên thành trung tâm buôn bán chính ở Đông Nam á. Việc thuyền
mành Trung Hoa đi xuống phía Nam đã dẫn đến sự chấm dứt thời kỳ hưng

thịnh của vùng buôn bán này.
Nguyên nhân suy sụp: Tựu trung lại, đó là sự mất cân bằng trong cơ
cấu hàng xuất khẩu của Champa đưa đến tình trạng chắp vá, nếu không
muốn nói là có đôi chút què quặt và tính tự nhiên trong khai thác các nguồn
hàng xuất khẩu.
2
Keneth R. Hall trong “Lịch sử kinh tế Đông Nam á cổ trung đại” bình
luận đại khái rằng: thương mại quốc tế của Champa là nguồn thu nhập quan
trọng nhưng phụ thuộc vào việc bán các sản phẩm địa phương ra thị trường
bên ngoài và như vậy nó không phải là một nền kinh tế đầy đủ để một quốc
gia dùa lên. Những dao động thất thường có tính thời hạn của hải thương bởi
vì sự bất ổn của hai đầu tuyến đường buôn bán là Trung Quốc và Trung
Đông làm cho vương quốc Champa không thể dùa vào thương mại quốc tế
trên biển như một tiềm lực kinh tế ổn định
3
.
Khi người Chàm không thể dùa vào những dòng buôn bán thông
thường để bảo đảm cho nền kinh tế, những cư dân đi biển sống dọc duyên
hải dường nh trở thành cướp biển. Điều này đã làm suy yếu thêm sự hấp dẫn
của các hải cảng Champa với các thương nhân ngoại quốc, và vì vậy, vương
quốc Champa càng không thể thường xuyên thu lợi nhuận từ đó để cung ứng
cho các tham vọng về chính trị. Nh mét định mệnh, vương quốc Champa
ngày càng suy yếu và các vùng cảng thị cũng dần suy tàn.
Cù Lao Chàm là một mắt xích quan trọng trong “Con đường tơ lụa
trên biển” nối liền Đông – Tây suốt nhiều thế kỷ, trước khi chuyển thành
“con đường buôn bán trên biển” của thời đại thương mại. Các thương nhân
ngoại quốc trong những hải trình dài ngày thường ghé thuyền vào nghỉ ngơi,
tích trữ lương thảo, thu thêm hàng hoá và sản vật địa phương của Champa
trước khi đi buôn bán ở các nơi khác.
2

Hoang Anh TuÊn, sdd. T.113.
3
T. Nicholas, The Cambridge history of Southeast Asia, Vol 1, Cambridge University Pres, 1992, t.115.

Hoàng Anh Tuấn, Cù Lao Chàm và hoạt động thương mại
ở biển Đông thời vương quốc ChamPa, trong: Văn hoá Quảng
Nam, những giá trị đặc trưng, p.163-173.
Nhiều năm qua, bằng những nỗ lực không ngừng của giới nghiên cứu,
đặc biệt là khảo cổ học, nhiều đợt khảo sát, thám sát và khai quật ở Cù Lao
Chàm đã được tiến hành, lật giở từng trang sử bị vùi chôn dưới lòng đất đầy
nắng và gió biển miền Trung. Không còn hoài nghi gì nữa, những phát hieej
quý giá về khảo cổ học là những bằng chứng để đi đến một kết luận chắc
chắn: Trong suốt thời kỳ hưng thịnh của mình, Cù Lao Chàm là thương cảng
số một, là cửa ngõ thông thương của vương quốc ChamPa với bên ngoài.
I. Hoạt động buôn bán ở biển Đông và Đông Nam á thời cổ-trung đại
Vào khoảng thiên niên kỷ I TCN….
Từ thế kỷ II sau CN, vùng buôn bán mới xuất hiện ở Java. Hàng hoá
được tập trung lại ở Koying, sau đó được chuyển đến Phù Nam để buôn bán
4
Từ thế kỷ V-VI sau CN, vương quốc Phù Nam suy yếu trên con
đường buôn bán trên biển dịch chuyển hẳn xướng vùng eo Malacca. Việc
chuyển bộ hàng hoá qua eo đất Kra lùi xuống hàng thứ yếu và sự phổ biến
của việc chuyên chở bằng tàu thuyền qua eo biển Malacca một mặt làm cho
vương quốc Phù Nam tàn lụi, mặt khác thúc đẩy sự ra đời của Srivijaya như
một trung tâm thay thế.
4
Wolters cho r»ng Koying n»m ë bê biÓn ®«ng nam Sumatra. Xem: Early Indonesian Commerce: A study
of the Origins of Srivijaya, Ithaca 1967, pp:55-58. Cßn Keneth R.Hall kh¼ng ®Þnh Koying ë sên phÝa b¾c eo
biÓn Sunda. Xem: Keneth R.Hall: Maritime trade and state development in early Southeast Asia, University
of Hawaii Press, Honolulu 1985, p.21.

Wolters hoàn toàn có lý khi coi vùng biển Đông Nam á nh là “vùng
duyên hải được biệt đãi” (Favoured Coast). Cư dân Srivijaya không chỉ thu
lợi từ nguồn hàng phong phú, thuỷ thủ đoàn hùng mạnh mà còn nhờ vị trí
thuận lợi của nó trong buôn bán các hàng hoá đến từ phương Đông và
phương Tây
5
II. Cù Lao Chàm và hoạt động thương mại của ChamPa.
Cư dân văn hoá Sa Huỳnh – tiền nhân của người Chàm- “đã có cía
nhìn về biển, giao lưu xa và chặt chẽ với miền cao nguyên thượng Lào –
Korat và miền hải đảo Thái Bình Dương”. Kết quả nghiên cứu Khảo cổ học
cho thấy người Sa Huỳnh đã sử dụng Cù Lao Chàm nh tiền cảng để trao đổi
xa đến Ên Độ, Trung Quốc và nhiều nơi khác.
ChamPa là quốc gia biển, người Chàm là những ngư dân và thuỷ thủ
tài ba, buôn bán giỏi, lại biết kế thừa tiền nhân, “có cái nhìn về biển đúng
đắn, biết tham dự và dấn thân tích cực vào luồng thương mại quốc tế”. “Có
thể nói, hoạt động thương mại biển đã góp phần lớn vào quá trình tồn tại và
phát triển của vương quốc ChamPa”.
Nghịch lý thay, tư liệu về ChamPa khá nhiều nhưng về hoạt động
thương mại thì gần nh ngược lại. Bản thân Claude Jacques cũng từng than
thở: “không giống đế quốc Angkor, vương quốc Chàm nhìn ra biển. Thực tế
này gợi ý đến sự tồn tại của thương mại biển quốc tế, mặc dù không một dấu
vết nào về nó (thương mại biển) được phát hiện trong những văn bia”
6
.
Được thừa hưởng vị trí thuận lợi nhất ở Đông Nam á trong hoạt động
buôn bán với Trung Quốc, ChamPa đã sớm vươn lên khẳng định vị trí của
5¨y
Wolters: A Study Srivijaya DÉn theo: Keneth R.Hall: : Maritime trade and state development in early …
Southeast Asia, University of Hawaii Press, Honolulu 1985, p.20.
6

Claude Jacques: Economic Activities in Khmer and Cham lands, in: Southeast Asia in the 9
th
-14
th

centuries, Institute of Southeast Asia Studies, Singapore, 1990, p.333.
mình. ý thức được sự an toàn và lợi nhuận trong việc thần phục Trung Quốc,
ngay sau khi lập quốc, ChamPa đã phái sứ thần sang thần phục Trung Quốc
và học tập kinh nghiệm buôn bán
7
. Tuy nhiên ở những thế kỷ đầu, vị trí của
ChamPa trong hoạt động hải thương quốc tế còn rất khiêm nhường. Đa phần
các nhà nghiên cứu đều cho rằng ở thời kỳ đầu, ChamPa giống một quốc gia
nông nghiệp hơn là hoạt động thương mại
8
.
Bối cảnh lịch sử khu vực và quốc tế đã chi phối thực tại đó:
1. Giai đoạn từ thế kỷ V trở về trước là thời kỳ toàn thịnh của vương
quốc Phù Nam và sự phát triển mạnh của các trung tâm buôn bán ở vùng
biển phía nam Đông Nam á. Các cảng ChamPa chưa thực sự thu hót các
thương nhân ngoại quốc đến buôn bán
Ở Trung Quốc, hoạt động buôn bán thông thương qua con đường tơ
lụa trên đất liền đang được chú trọng, mặc dù hải thương Trung Quốc vẫn
được duy trì xuống vùng Đông Nam á. Các cảng ChamPa chưa thực sự thu
hót các thương nhân ngoại quốc đến buôn bán. Cù Lao Chàm thời kỳ này có
lẽ chỉ là trạm ghé thuyền nghỉ ngơi, lấy nước ngọt, thực phẩm…mà thiếu
những hàng hoá buôn bán có thể thu hót các thương nhân nước ngoài, mặc
dù các đoàn thương hành vẫn luôn phải bám sát bờ biển ChamPa, Ýt nhất
cũng là chặng đường từ mòi Varrella đến Cù Lao Chàm.
2. Từ thế kỷ VII đến thế kỷ X là giai đoạn toàn thịnh của thương cảng

Cù Lao Chàm và của nền thương mại ChamPa nói chung.
7
Anthony Reid, Charting the Shape of Early modern Southeast Asia, Institute of Southeast Asia Studies,
Singapore.2000, pp:40-44.
8
Keneth R.Hall: ChamPa plunder base political Economy– , in: The Cambridge history of Southeast Asia,
Vol 1, Cambridge University Pres, 1992, t.125.
Vào khoảng thế kỷ VI, Phù Nam từng bước để mất vị trí của mình
trong buôn bán ở vùng biển phía Nam, tạo điều kiện cho ChamPa phát huy
vị thế của mình
9
Dưới thời thịnh trị của vương triều Gupta ở Ên Độ (320-520), hoạt
động buôn bán ở khu vực từ Ên Độ đến Đông Nam á nằm dưới quyền kiểm
soát của người Ên Độ. Các thương nhân Ba Tư, A Rập hoạt động chủ yếu
giữa tuyến Ên Độ – Trung Đông, Ai Cập và Địa Trung Hải. Sau ngày vương
triều Gupta sụp đổ, thuyền buôn Tây á mở rộng sang phía đông. Vào giữa
thế kỷ VII, những tàu buôn này bắt đầu giương buồm tiến lên buôn bán ở
vùng biển ChamPa và Trung Quốc, đem theo bạc và hàng hoá Trung Đông
như thuỷ tinh, gốm sứ, các loại trang sức…là những mặt hàng đang rất được
ưa chuộng ở Đông và Đông Nam á
10
.
Thư tịch cổ A Rập thế kỷ X ghi chép khá đầy đủ về sự kiện này: “Tàu
từ Hinsd ( Ên Độ) đến Sanf (ChamPa) mất mười ngày. ở đây có nước ngọt
và trầm hương xuất khẩu…Họ dừng lấy nước ngọt ở Sanf – Fu lawl Cham –
pu lau (Cù lao Chàm) rồi định hướng đi đến Sin (Trung Quốc)
11
.” Việc phát
hiện một lượng lớn các hiện vật nguồn gốc Ai Cập, Trung Đông có niên đại
thế kỷ IX-X ở Cù Lao Chàm chắc chắn có liên quan đến hoạt động buôn bán

của thương nhân Tây á thời kỳ này. Cùng với Cù Lao Chàm, các hiện vật có
nguồn gốc Trung Đông còn phân bố rộng khắp Đông Nam á: Thuỷ tinh ở
Famenshi (Trung Quốc), Laempho, Kokhokhao (Thái Lan), Man tai
(Srilanka)…Riêng gốm Islam đã phát hiện được ở Ýt nhất 23 địa điểm phân
bố từ Nhật Bản, Trung Quốc, Philippin, Malaisia, Thái Lan và Việt Nam.
ở đông Địa Trung Hải, sau khi đế quốc Tây La Mã tan rã vào thế kỷ
V, một loạt các thành thị (Congxtantinop, Alexandri…) và những trung tâm
9
Anthony Reid, Charting the Shape of Early modern Southeast Asia sdd…
10
Shigheru Ikuta:…
11
K.Fujimoto: TruyÖn vÒ Ên §é vµ Trung Quèc (ch÷ NhËt), Kansai University Press, 1976, tr 11-85.
kinh tế như Syrie (sản xuất thuỷ tinh, gốm sứ, vải), Phenixy (sản xuất lụa,
lanh), Ai Cập (sản xuất thuỷ tinh, giấy Papirux)…trở nên hưng thịnh, dư
thừa hàng xuất khẩu và có nhu cầu nhập hương liệu, lâm-hải sản phương
Đông. Trong khi đó tuyến đường biển lại bị người A Rập độc quyền hoạt
động, con đường tơ lụa nối với Trung Quốc lại bị giảm sút do sự khống chế
của người Đột Quyết. Trung Quốc sau những nỗ lực bất thành trong việc
duy trì buôn bán với Địa Trung Hải đã quay sang sử dụng mạnh đường bỉên
để buôn bán xuống phía Nam. Hàng hoá Trung đông, Ai Cập cũng theo tàu
buôn Tây á tràn sang Đông Nam á, Trung Quốc, Nhật Bản. Nền thương mại
ChamPa nhờ đó mà bắt đầu hưng thịnh.
Từ thế kỷ VIII sau CN, các thuyền mành Trung Quốc bắt đầu đi dọc
bờ biển Đông xuống các vùng buôn bán ở Đông Nam á, nên thuyền buôn
Tây á đến buôn bán ở khu vực biển Đông ngày càng thưa dần đi. Hàng xuất
khẩu chính của Trung Quốc là tơ lụa và gốm sứ. Sự có mặt của một lượng
lớn gốm Đường thế kỷ VII-X trong các hố khai quật ở Cù Lao Chàm và một
số nơi ở Đông Nam á (Malaisia, Thái Lan…) phản ánh thực tại đó.
Thư tịch cổ cho biết, năm 758, ChamPa đã phát triển những trung tâm

buôn bán ở Kauthara (Nha Trang) và Panduranga (Phan Rang). Những ghi
chép trong hai tấm bia ở Panduranga các năm 1029 và 1035 còn cho biết
thêm rằng ở đây đã thu hót rất nhiều thương nhân ngoại quốc, đặc biệt là
cộng đông Hồi Giáo. Hai tấm bia còn khẳng định Panduranga là cảng chính
trên bờ biển ChamPa từ giữa thế kỷ X về sau. Sức Ðp lớn từ Đại Việt ở phía
Bắc, buộc ChamPa phải tìm kiếm sự hậu thuẫn về chính trị từ Trung Quốc
và hậu thuẫn hải quân từ thương nhân nước ngoài, các quan hệ ngoại giao,
buôn bán, đồng thời cũng chuyển xuống Trung Java, Brunei, Philippin. Sự
dịch chuyển hoạt động thương mại của ChamPa xuống phía Nam làm cho
Cù Lao Chàm ngày một thêm sa sót.
Trần Kỳ Phương-Vũ Hữu Minh, Cửa Đại Chiêm thời
vương quốc Champa thế kỷ IV-XV, trong: Đô thị cổ Hội An,
NXB Khoa Học Xã Hội, Hà Nội-1991.
119. Hàng xuất khẩu của Champa:
Sách Lĩnh ngoại đại đáp cho biết rằng, thuyền buôn của người Chăm
phần nhiều chở nô lệ ra ngoài để bán, ghe thuyền của họ thay vì chở hàng
hoá thì lại chở nô lệ và “giá một đứa bé là ba lạng vàng hay trả bằng gỗ
thơm tương đương với ba lạng vàng”. Theo Đào Duy Anh, người nô lệ chủ
yếu của người Chăm là bằng vào những cuộc đánh phá đất Nhật Nam và
nghề cướp biển.
12
Mét chi tiết đáng lưu ý là vùng rừng núi Quảng Bình cho đến ngày
nay, vẫn là vùng có sản lượng trầm hương nhiều nhất và tốt nhất miền
Trung, mà chúng ta biết rằng một trong những món hàng xuất khẩu quan
trọng và nổi tiếng nhất của người Chăm là trầm méc hương. Vì thế, việc cố
giữ cho được vùng đất phía bắc đèo Hải Vân trong nhiều thế kỷ, chắc chắn
có gắn liền với quyền lợi khai thác trầm hương của vương quyền Champa.
Trầm hương của người Champa là một sản phẩm ưu việt, làm say mê
tất cả các thương nhân Trung Á và Đông Á. Những tài liệu Arab từ thế kỷ
VIII đến thế kỷ XII, đều ca ngợi trầm hương của Champa mà danh từ Arab

12
§µo Duy Anh, LÞch sö ViÖt Nam , t.131.
gi l Canfi, cũn thng nhõn v gii quý tộc Trung Hoa v Nht Bn thỡ rt
quý chung mún hng ny, ngi Nht Bn gi trm hng Champa l Gia-
la-mc (Kyaraboku).
13
Trm hng cú nhiu vựng rng nỳi min trung Vit Nam, trờn dóy
Trng Sn t Ngh Tnh cho n Thun Hi ngy nay. Vỡ l mún hng quý
v l hng xut khu chớnh yu, nờn vic khai thỏc g trm u c vng
quyn Champa kim soỏt cht ch hng nm, dõn chỳng n g thm mt
ln theo k hoch, di quyn kim soỏt ca v i din nh vua c c
n ly mt s lm thu bng hin vt, trc khi ỏnh thu, khụng ai
c s dng s g thm ú.
14
Ngoi hai ngun hng xut khu chớnh l trm hng v nụ l, ngi
Champa cũn xut khu vng, ng voi, sng tờ, i mi, t la, h tiờu, mt
ong, ng mớa, cỏc loi g quý, cỏc loi u, chim v thú vt him lv
nhiu loi lõm th sn khỏc.
Ngoi vic xut cng cỏc ngun hng c sn, quyn li ca vng
quyn Champa cũn t trờn vic thu thu nhng thng thuyn n buụn
bỏn Lõm ấp ph. Ni bn nhng thuyn buụn nc ngoi u li, ngi
Chm u t nhng trm kim soỏt thu, Nhng thuyn buụn nc ngoi
ch hng nhp cng, phi mi quan chc ca nh vua lờn thuyn khỏm xột
hng hoỏ ch n, tt c hng hoỏ u c ghi bng ch trng trờn mt
cun s bng da en, khi hng hoỏ bc d lờn b ri, cỏc quan chc ly mt
phn nm cỏc th hng nộp cho vua, ri mi cho phộp bỏn s cũn li ra
th trng, hng lu thu thỡ b tch thu
15
13
Trần Kỳ Phơng-Vũ Hữu Minh, Cửa Đại Chiêm thời vơng quốc Champa thế kỷ IV-XV, trong: Đô thị cổ

Hội An, NXB Khoa Học Xã Hội, Hà Nội-1991, t.132.
14
Masspéro G, Le Royaume du Champa, dẫn theo: Trần Kỳ Phơng-Vũ Hữu Minh, Cửa Đại Chiêm sđd,
t.133.
15
Masspéro G, Le Royaume du Champa, dẫn theo: Trần Kỳ Phơng-Vũ Hữu Minh, Cửa Đại Chiêm sđd,
t.133.
Trn quc Vng: Chiờm cng Hi An vi cỏi nhỡn v bin
ca ngi Chm v ngi Vit, sỏch: Hi ngh khoa hc v khu ph
c Hi An ln th nht 23-24.07.1985, UBND tnh Qung Nam
Nng 1985.
C dõn Sa Hunh ó cú cỏi nhỡn v bin, giao lu xa v cht ch vi
min cao nguyờn Thng Lo-Kũ rt v min hi o Thỏi Bỡnh Dng,
giao lu vi c dõn ụng Sn v dõn ng Nai theo c ng b v ng
ven bin.
16
tớnh cỏch vn hoỏ ging ca vn hoỏ Chm.
Tỏi to nờn s hng thnh ca nn vn minh Champa l ch ngi
Chm c ó xõy dng c mt c cu kinh t tng hp bao hm ngh nụng
trng lỳa nc (hai mựa) dõu tm tỏm la kộn/nm bụng v vi nhum
nhiu mu, hoa mu, ngh rng khai thỏc lõm th sn: g quý, qu, trm
hngngh th cụng: rốn st, dt vi, la, ch to thu tinh, ỏ ngc,
khai khoỏng (nht l m vng) v lm m ngh vng bc phỏt trin ngh
buụn bỏn ng bin v ng sụng, ng nỳi. C cu kinh t tng hp
ca Champa l s k tc v s phỏt huy trờn mt trỡnh cao vi mt cht
lng mi cỏi c cu cú sn ca phc h vn hoỏ Sa Hunh.
Champa cú hng trm chin thuyn cú lu (lõu thuyn) cng li cú
thng thuyn di hn 20 trng (60m) cao hn mt nc hn 2-3 trng
(6m)trụng nh nh gỏc ch c 6-700 ngi, hng vn hc sn vt. Ghe
bu Champa tham gia tớch cc vo lung giao thụng-buụn bỏn ven bin quc

t phng ụng hu nh liờn tc t c i n trung i: Champa cựng
vi Giao chõu ri i Vit l cỏi gch ni gia th gii vn minh Trung Hoa
vi th gii vn minh ấn , vn minh Trung Cn ụng v vn minh a
16
Trần quốc Vợng: Chiêm cảng Hội An với cái nhìn về biển của ngời Chàm và ngời Việt, sách: Hội nghị
khoa học về khu phố cổ Hội An lần thứ nhất 23-24.07.1985, UBND tỉnh Quảng Nam Đà Nẵng 1985.
Trung Hi. Thuyn buụn v thng nhõn Hoa, ấn, Bat, Arab v th gii
MóLai (Nam hi ch quc trong th tch Trung Hoa) khi i v khi v u
ghộ Champa ly nc ngt v trao i hng hoỏ hai chiu ngay t Tin
Hỏn th ó núi rừ im dng chõn l Tng Lõm (Quyn 28 h). Sau ú cỏc
tờn Lõm ấp, Chiờm B, Chiờm Bt lao tr thnh quen thuc vi th gii.
Theo Tõn ng th a lý chớ, trờn con ng bin t Qung Chõu Trung
Quc n bagad (Arab) thuyn bố quc t bao giờ cng ghộ qua Chiờm Bt
Lao (ca i) Tng Sn, mõn c (Quy Nhn), C ỏt Quc (Kauthara
Nha Trang), Bụn D Lóng Chõu (Pandurraga, Phan Rang) l cỏc cng ca
Champa. Vng, t la, trm hng, ngc, thu tinh ca Champa l
nhng sn phm hng hoỏ trờn th trng th gii
T gia thi ụng Hỏn (th k II), con ng thụng thng b t
Trung Hoa n ụng La Mó qua Trung ỏ thng b cỏc b tộc Tõy Vc ni
dy chng phỏ nờn vic buụn bỏn i li khụng d dng, do vy con ng
bin qua Champa vi s phỏt trin ca k thut hng hi ó ngy cng tr
thnh phng tin giao thụng ch yu.
Ngi Chm cú cỏi nhỡn v bin ỳng n, bit tham d v dn thõn
tớch cc vo lung thng mi quc t trờn bin
17
. Qua cỏc th tc c c
Trung Quc thỡ: Ngi Chm ó sm bit ly hng liu i chỏc vi
ngi ngoi; Lõm ấP cú nỳi vng v ngi Chm ó t chc rng rói vic
khai thỏc ngc; ngi Chm c cũn bỏn c t la cho thuyn buụn cỏc nc
ghộ qua Lõm ấp v ch cm xut khu lỳa go vỡ trong nc khụng lng

thc. Nh th vi cỏi nhỡn v bin ngi Chm ó thit k mt cu trỳc kinh
t sn xut thng phm tng ng, bit khai thỏc th mnh ca t nc
xut khu c lõm th sn (ng voi, hng liu, h phỏch), hi sn (i
17
Trần quốc Vợng: Chiêm cảng Hội An với cái nhìn về biển của ngời Chàm và ngời Việt, sách: Hội nghị
khoa học về khu phố cổ Hội An lần thứ nhất 23-24.07.1985, UBND tỉnh Quảng Nam Đà Nẵng 1985
mi, v bụi) c sn phm th cụng (vi cỏt bỏ, ngc, thu tinh) v sn
phm nụng nghip (t tm, bụng)
18
Cú cng tt. Cú chớnh sỏch kinh t v ngoi thng ỳng nờn mi th
tch Trung Hoa v th gii u ghi l: Thuyn buụn cỏc nc u ghộ cng
Champa. th k VIII-IX l thi k quan h buụn bỏn gia quc Arab
(Empire des Chalifes de Bagdad) v ấn ộ, Champa, Trung Quc phỏt trin
rc r. Uy tớn trờn bin ca Champa rt ln c v hng hi v thng mi.
H Th Liờn: Quan h gia vng quc c Champa vi cỏc nc
trong khu vc, Lun ỏn Tin s Lch s, trng i hc S Phạm H
Ni -2000.
Cng th Panduranga tip tc phỏt trin. S phỏt trin ca nú trong
thi k ng Dng cú th cho phộp chỳng ta ngh n s hỡnh thnh t
nhiờn ca nn kinh t ngoi thng Panduranga nm trong h thng thng
mi bin ụng Nam ỏ thi by giờ. Nhng thụng tin t hai dũng ch Arab
tỡm thy Panduranga (PhanRang) cú niờn i khong 1029-1035 cho thy
hot ng thng mi cú t chc cng ny. Mt nhúm thng nhõn khỏ
ln tp hp buụn bỏn bazaar (t ch ch ca ngi Hi giỏo). Nhng
thng nhõn ny cú l c tip xỳc thng xuyờn vi vua Chm v c
vua Chm trng dng. Nhng bng chng m P.Y.Mauguin (1979) ó a
ra cho thy, trong nhng ngi thuc on s gi Champa sang Trung Quc
vo nm 951 v nhng nm sau ú, cú ngi mang tờn bt u bng ch Pu
hay Bu bin õm t ch Arab Abu. Nm 958, ngi i din chớnh thc ca
18

Trần quốc Vợng: Chiêm cảng Hội An với cái nhìn về biển của ngời Chàm và ngời Việt, sách: Hội nghị
khoa học về khu phố cổ Hội An lần thứ nhất 23-24.07.1985, UBND tỉnh Quảng Nam Đà Nẵng 1985
vua Chăm là một người Hồi giáo có tên là Abu Hasan (P’s Ho San). Ông đã
thay mặt vua Chăm là Indravarman III (917-960) tặng hoàng đế Trung Hoa
nước hoa hồng, cây đèn “ngọn lửa Hi Lạp” và những viên đá quý. Năm 961,
Abu Hasan trở lại Trung Hoa mang theo thư của vị vua mới là Jaya
Indravarman I, kèm theo những tặng phẩm quý được liệt kê ra như gỗ trầm,
ngà voi, vải lụa…đặc biệt có 20 hò Ảrab đựng những món hàng Arab. Tất cả
những tặng phẩm trên có những thứ là của Champa, nhưng nhiều tặng phẩm
như “nước hoa hồng”, “đèn Hi Lạp”, hàng của Arab thì chắc chắn là sản
phẩm thương mại được các thương nhân Hồi giáo Arab đem đến trao đổi ở
các cảng Chăm.
Sự hiện diện của các thương nhân Hồi giáo Arab ở Champa được
khẳng định thêm nhờ vào những chứng cớ của khảo cổ học. Nhiều hiện vật
gốm sứ Islam có men màu xanh biếc, xương trắng, xốp, dày, mềm, men bên
trong màu nâu, có niên đại khoảng thế kỷ IX-X, đã tìm thấy khá phổ biến ở
cảng Đại Chiêm phía Bắc và những vùng quần cư quanh kinh đô Đồng
Dương như Trà Kiệu, Cù Lao Chàm…
Các vua Chăm rất có ý thức trong việc buôn bán với người nước
ngoài, tạo điều kiện, lợi dông và trọng dụng họ. Sau khi Quảng Đông bị phá
huỷ (758), việc làm ăn với thương nhân người Hoa gặp khó khăn. Trên thực
tế, từ 877 đến 951, Champa không có quan hệ bang giao gì với Trung Quốc
vì sự hỗn loạn cuối thời Đường. Trong thời gian đó, họ kịp mở cửa làm ăn
với thương nhân Hồi giáo Arab đang ngang dọc khắp thế giới Đông – Tây.
Khi Quảng Đông được mở lại dưới triều Hậu Chu (951-959) và sau đó là
triều Tống (960-1279), vua Đồng Dương liền xúc tiến lại mối quan hệ giữa
hai nước thông qua những nhà buôn Hồi giáo ở Panduranga.
Tài liệu Trung Hoa còn xác định thêm rằng, từ thời nhà Tống trở đi
(giữa thế kỷ X), tàu Trung Hoa đến cảng Champa đều được một phái viên

×