Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

tiểu luận Nghề thủ công truyền thống chạm khắc đá ở xã Ninh Vân, huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình từ năm 1986 đến nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (179.5 KB, 27 trang )

Bài tiểu luận Đỗ Thị Thiện - K54B Lịch
sử

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài :
Nghề thủ công Việt Nam vốn có truyền thống từ lâu đời, gắn liền với
sản xuất nông nghiệp lúa nước. Nó gúp phần tạo nên bản sắc kinh tế, văn hoỏ
riờng trong cộng đồng làng xã Việt Nam. Chạm khắc đá cũng là một trong số
rất nhiều nghề thủ công truyền thống Việt Nam như thế, đã và đang còn tiếp
tục phát triển ở xã Ninh Vân , Hoa Lư, Ninh Bình.
Nghề chạm khắc đá ở Ninh Vân là hoạt động kinh tế mang ý nghĩa lịch
sử văn hoá, đã và đang góp phần tạo nên một diện mạo mới cho kinh tế địa
phương trong thời kỳ đổi mới, tỡm hiểu về nghề này chúng ta sẽ tìm hiểu sâu
sắc, toàn diện hơn về lịch sử của nghề truyền thống của Hoa Lư cũng như
nghề thủ công ở nhiều nơi khác trong cả nước.
Là một làng nghề thủ công truyền thống nhưng cho đến nay nghề
chạm khắc đá ở Ninh Vân vẫn chưa thực sự được sự quan tâm tìm hiểu một
cách khoa học. Nghiên cứu nghề thủ công chạm khắc đá một cách hệ thống,
hoàn chỉnh từ quá trình hình thành đến các hoạt động tổ chức sản xuất , tiêu
thụ là việc làm thiết thực. Nhằm đánh giá những giá trị kinh tế, văn hoá, xã
hội của nghề trong lịch sử của huyện, tỉnh, đất nước. Đồng thời có thể thấy từ
các sản phẩm thủ công những giá trị nghệ thuật độc đáo, nét tài hoa khéo léo
của thợ thủ công, nghệ nhân.
Nghiên cứu vấn đề này còn là nguồn tư liệu quan trọng phục vụ cho
giảng dạy, học tõp mụn lịch sử ở nhà truờng ở các cấp học, giáo dục tư tưởng,
tình cảm, truyền thống cho thế thệ trẻ ở địa phương.
Nghiên cứu nghề thủ công truyền thống chạm khắc đá là việc làm có
ý nghĩa khoa học và thực tiễn vì vậy em đã chọn đề tài “ Nghề thủ công
truyền thống chạm khắc đá ở xã Ninh Vân, huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình từ
năm 1986 đến nay”.
Bài tiểu luận Đỗ Thị Thiện - K54B Lịch


sử

PHẦN NỘI DUNG
Chương 1
VÀI NÉT VỀ XÃ NINH VÂN VÀ NGHỀ THỦ CÔNG
CHẠM KHẮC ĐÁ TRƯỚC 1986
1. Vài nét về xã Ninh Vân
Ninh Vân là một vùng đầm phá ngập mặn, dấu vết núi đá bị súng biển
bào mòn ở nhiều núi như: Núi Ngang, Núi Am, Núi Vang,… vùng núi xã
Ninh Vân lại gần kề với vùng đồng bằng của tỉnh Ninh Bình , những khu vực
này đã phát hiện được nhiều hiện vật thời Hùng Vương dựng nước. Năm 1972
và 1991 đã phát hiện thấy rỡu đỏ cú vai ở núi Phong Phú và núi Dưỡng (Ninh
Giang, Hoa Lư) thuộc hậu kỳ đá mới, sơ kỳ đồ đồng cách đây 4000-5000
năm, một số quả núi phía Nam Ninh Vân tiếp giáp với cụm di tích lịch sử, văn
hoá ba đền (Kê Thượng , Kê Hạ , Miêu Sơn) cũng tìm thấy rỡu đỏ cú vai, mũi
tên đồng ở núi Hang Một, đồi Quang Sơn. Điều này chứng tỏ lúc đó đồng
bằng châu thổ Sông Hồng dần dần được hình thành, con người đã chuyển
xuống sinh sống ở đồng bằng ven biển.
Ninh Vân nằm ở phía Nam huyện Hoa Lư, cách thị xã Ninh Bình
khoảng 6 km về phía Nam, thuộc vùng đồng chiêm trũng, ven núi đá. Phía tây
Nam xã Ninh Võn cú dãy núi đá voi chạy dọc theo hướng Tây Bắc – Đông
Nam dài khoảng 2000 m (từ thôn Hải Nham, Ninh Hải đến xã Yên Bình, Tam
Điệp): phía Tây Nam giáp 2 xó Yờn Sơn, Yên Bình; phía Đông, Đông Nam
giáp Ninh An (Hoa Lư), Khánh Thượng, (Yờn Mô). Phía Bắc giáp Ninh
Thắng, Ninh Hải (Hoa Lư).
Núi đá xã Ninh Vân trữ lượng lớn chiếm 450 ha, đá núi Ninh Vân nói
riêng và ở khắp vùng Hoa Lư, Ninh Bình nói chung là loại đỏ cú màu xanh
(đá xanh), với trữ lượng lớn hàng tỷ m
3
. Đây chính là nguồn nguyên liệu cơ

bản của nghề thủ công truyền thống chạm khắc đá ở Ninh Vân.
Bài tiểu luận Đỗ Thị Thiện - K54B Lịch
sử

Thời Pháp thuộc đã xác định đá ở đây tốt và tiến hành khai thác. Xã Ninh
Vân nằm bên cạnh quốc lộ 1A có ga Cầu Yên trên tuyến đường xe lửa Bắc Nam
thuận tiẹn cho giao lưu phát triển kinh tế, văn hoá với các địa phương trông cả
nước. Về đường thuỷ Ninh Vân có nhiều sông ngòi nhất là sông Hệ bắt nguồn từ
hạ lưu sông Bến Đang đến xóm Vạn Lê chia thành 2 nhóm đổ về ghềnh và đổ về
Cầu Yên là những con đường giao thông thuận lợi cho việc vận chuyển vật liệu
và các sản phẩm của nghề với các địa phương khác.
2. Nghề thủ công chạm khắc đá truyền thống ở Ninh Vân trước năm 1986
Đồng bằng bắc bộ là cái nôi của rất nhiều nghề thủ công truyền thống
Việt Nam với nhiều làng nghề và nghề nổi tiếng như ở Hải Dương, Hưng
Yên, Hà Nội, Nam Định, Hà Nam, …
Nghề thủ công truyền thống chạm khắc đá thuộc nhóm nghề thủ công
mỹ nghệ của Việt Nam. Trên phạm vi cả nước nghề chạm khắc đá truyền
thống được điểm đến, có không nhiều ở các địa phương.
Đối với Ninh Bình thì nghề chạm khắc đá cũng đó cú từ lâu đời.Nhưng chưa
có công trình nào xác định được thời gian xuất hiện của nghề này. Từ thế kỷ
X đã có kinh đô Hoa Lư được mệnh danh là “ kinh đô đỏ” với những núi non,
tường thành, công trình kiến trúc cũng như sản phẩm bằng đá nổi tiếng như.
Năm 1980 tìm thấy cột kinh đá – do Đinh Liễn là con trai của vua Đinh
cho chạm khắc để “sỏm hối”.
Tác phẩm Long sàng (sập rồng) bằng đá ở cửa đền thờ vua Đinh là sản
phẩm bằng đá nổi tiếng và độc đáo. Các nhà khoa học cho rằng đõt là tác
phẩm đỏ cú niờn đaij khá sớm (khoảng thời Lý - Thế kỉ XI trở đi).
Những sản phẩm bằng đá ở núi Thiờn Tụn – tương truyền rằng khi
đương thời vua Đinh vẫn vào đây để tế lễ long trọng trước khi đánh dẹp hay
đi giao bang, nó còn mang dấu ấn nghệ thuật chạm khắc thời Đinh và tiền Lờ

khỏ rừ: đụi rồng đá ở hai bên tả và hữư tượng thần Thiờn Tụn Trấn Vũ …
Bài tiểu luận Đỗ Thị Thiện - K54B Lịch
sử

Như vậy chúng ta tìm thấy nghề chạm khắc đá ra đời ở Ninh Vân dựa
trên cơ sở điều kiện tự nhiên, xã hội: xuất phát từ yêu cầu của lao động sản
xuất và đời sống con người về vật chất, tinh thần, kết hợp điều kiện tự nhiên
sẵn có của địa phương, nguồn nguyên liệu đỏ nỳi dồi dào, người thợ thủ công
Ninh Vân sớm lưu giữ và phát triển được nghề truyền thống của cha ông.
Từ năm 1954 đến 1986, hợp tác xã Thạch Sơn được thành lập và sản
xuất các mặt hàng bằng đá. Tại đây các thợ thủ công cũng bầu ra một ban chủ
nhiệm điều hành tổ chức và quản lí toàn bộ công việc của hợp tác xã với nhà
nước. Từ việc tổ chức khai thác nguyên vật liệu (đá tại núi của xã) đến kế
hoạch sản xuất, phân phối sản phẩm.
Ngoài ra hợp tỏc xó cũn tổ chức đào tạo nghề, bồi dưỡg nâng cao tay
nghề cho thợ đá.
Các sản phẩm của hợp tác xã nhằm phục vụ cho sản xuất nông nghiệp
như con lăn, cối giã, cối xay đá. Một số sản phẩm trang trí xây dựng nhà cửa ,
đỡnh, chựa…
Những người thợ thủ công Ninh Vân vẫn lấy nông nghiệp làm hoạt
động chủ yếu, ngoài ra một số ít thợ lành nghề thường xuyên, còn lại chủ yếu
vào lúc mùa vụ nông nhàn, họ tập trung nhau trong một số gia đình(vốn là
nghề cha truyền con nối) đảm nhận tổ chức sản xuất.
Sau khi đất nước hoàn toàn được giải phóng (1975), nghề chạm khắc
đá ở Ninh Vân có điều kiện khôi phục sản xuất. Các sản phẩm của nghề chạm
khắc đá Ninh Vân thời kì này phong phú, đa dạng hơn về số lượng và loại
hình. Bao gồm cỏc nhóm sản phẩm như: các sản phẩm phục vụ sản xuất gồm
có cối giã các loại, mỏng đỏ, các sản phẩm phục vụ đời sống vật chất và tinh
thần như: Chậu cảnh bằng đá, lư hương, ấm chén, tượng thờ Đảng và nhà
nước quan tâm chú trọng hơn đến sự phát triển của nghề chạm khắc thủ công

truyền thống thì nghề chạm khắc đá ở Ninh Võn cú những bước khởi sắc.
Bài tiểu luận Đỗ Thị Thiện - K54B Lịch
sử

Chương 2
NGHỀ CHẠM KHẮC ĐÁ Ở NINH VÂN TỪ 1986 ĐẾN NAY
Bước vào thời kì đổi mới công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và
nông thôn đã đặt ra những đòi hỏi thách thức lớn với các nghề thủ công
truyền thống nói chung và nghề chạm khắc đá ở Ninh Vân nói riêng. Những
đòi hỏi đó thể hiện rõ ở các mặt: tổ chức quản lí sản xuất, đội ngũ thợ thủ
công, trang thiết bị, sản phẩm và thị trường tiêu thụ chạm khắc đá. Đồng thời
cũng tạo ra những cơ hội thuận lợi mới cho nghề chấn hưng, phát triển.
1- Về tổ chức quản lý.
Tổ chức sản xuất là một vấn đề cần thiết đối với sự phát triển kinh tế.
Nếu như giai đoạn trước đổi mới 1954 -1986 tổ chức hợp tác xã là mới mẻ,
phù hợp, qua hình thức này Đảng và nhà nước có thể huy động được lực
lượng quần chúng lao động trực tiếp đảm đương lấy nhiệm vụ cải biến quan
hệ sản xuất cũ. Biện pháp này không những có ý nghĩa to lớn về mặt kinh tế
mà còn có ý nghĩa về mặt xã hội. Những kết quả mà tổ chức hợp tác xã mang
lại ở thời gian đó là có thật. Nhưng sang giai đoạn sau 1986 đã bộc lộ nhiều
hạn chế không còn phù hợp. Vì hợp tác xã không phát huy hết khả năng của
người lao động, mà vô hình chung lại tạo cơ sở cho thói dựa dẫm và ỷ nại
trong cơ chế quan liêu. Vì vậy mà việc thay đổi cơ cấu tổ chức sản xuất tiểu
thủ công nghiệp là một tất yếu đáp ứng những đòi hỏi của xã hội trong giai
đoạn này.
Ở Ninh Vân, trong hai làng, làng Hệ và làng Xuân Vũ hầu như gia đình
nào cũng có thợ chế tác đá tập trung hành nghề trong các cơ sở, các doanh
nghiệp tư nhân địa phương. Hoạt động sản xuất chạm khắc đá diễn ra hầu như
quanh năm kể cả lúc mùa vụ nông nghiệp, theo hướng ngày càng chuyên môn
hoá. Nhịp độ hoạt động của các cơ sỏ chế tác đá (hay còn gọi là lỏn đỏ) nhiều

Bài tiểu luận Đỗ Thị Thiện - K54B Lịch
sử

khi cả ngày và đêm do số lượng lớn hàng đá kí nhập hợp đồng với các tổ chức
cỏ nhõn ở các nơi trong và ngoài nước.
Hình thức tổ chức hợp tác xã Thạch Sơn ở Ninh Vân dần không còn phù
hợp với cơ chế thị trường năng động. Năm 1993, hợp tác xã Thạch Sơn
chuyên làm đá mỹ nghệ giải thể.Thay vào đó là các hình thức sản xuất như:
các cơ sở hộ gia đình, tổ hợp sản xuất và các doanh nghiệp tư nhân lớn hình
thành, làm thay đổi đời sống kinh tế - xã hội Ninh Vân. Tính đến cuối năm
2006 toàn xó cú 30 cơ sở sản xuất chạm khắc đá của các hộ gia đình, 10 tổ
hợp sản xuất và 7 doanh nghiệp tư nhân. Các doanh nghiệp gồm có: Doanh
nghiệp Hoàn Hảo, Doanh nghiệp Đoàn Khánh, Doanh nghiệp Tiến Đạt,
Doanh nghiệp Tiến Đạt, Doang nghiệp khánh tín, Doanh nghiệp Hệ Dương,
Doanh nghiệp Ninh Vân, Doanh nghiệp Thụy Thành.
Với các hình thức tổ chức kinh tế tư nhân, trong tiểu thủ công nghiệp nói
chung và trong nghề chạm khắc đá nói riêng là người trực tiếp điều hành mọi
hoạt động trong quá trình sản xuất, hàng thủ công chạm khắc đá từ khâu
nguyên liệu đến việc sản xuất tạo sản phẩm của người thợ thủ công trực tiếp
chạm khắc đá, đến phân phối tiêu thụ sản phẩm trên thị trường và trả công
cho người lao động (lương). Đây là ưu thế hơn hẳn so với thời kỳ bao cấp, do
công cuộc đổi mới đã và đang mang lại trog sản xuất của các nghề thủ công
truyền thống nói chung và nghề chạm khắc đá nói riêng.
Sự tồn tại các hình thức tổ chức quản lý sản xuất này đều dưới sự quản
lý trực tiếp của uỷ ban nhân dân xã Ninh Vân. Như vậy nghề chạm khắc đá
Ninh Võn với các loại hình tổ chức mới, góp phần phát huy sức lao động và
tinh thần sáng tạo của người thợ thủ công. Cũng từ đây vai trò chính quyền
nhà nước được phát huy, không bị gạt ra khỏi sản xuất, mà quản lý việc đóng
thuế cũng như bảo vệ quyền lợi cho các hộ sản xuất, thợ thủ công. Đây cũng
là ưu điểm nổi bật trong quản lý kinh tế của uỷ ban nhân dân xã Ninh Vân,

mà không phải địa phương nào cũng làm được.
Bài tiểu luận Đỗ Thị Thiện - K54B Lịch
sử

Tuy vậy, sự song song tồn tại của các loại hình sản xuất này dễ dẫn đến
tình trạng sản xuất lao động, giá cả của sản phẩm, thị trường tiêu thụ sản
phẩm … mặc dù đã được sự can thiệp của uỷ ban nhân dân xã.
2. Thợ thủ công
Như chúng ta đã biết ở nghề thủ công truyền thống, đặc biệt trong các
làng nghề có một sức sống mạnh mẽ và trường tồn cùng lịch sử dân tộc hàng
vài thế kỷ đến hàng chục thế kỷ. Bởi chúng được đảm bảo bằng một số nhân
tố quan trọng như: nhu cầu của người tiêu dùng trên thị trường đối với hàng
thủ công truyền thống, kỹ thuật truyền thống và kinh nghiệm lâu đời của các
làng nghề ở nước ta, vị trí địa lý và môi trường của làng nghề, một nhân tố
quan trọng nữa đó là trình độ của nghệ nhân và đội ngũ thợ lành nghề.
Cần phải khẳng định rằng, vai trò của nghệ nhân đối với nghề và làng
nghề thủ công truyền thống là rất to lớn. Không có nghệ nhân thì không có
làng nghề, hay ít nhất cũng không có làng nghề lừng danh chớnh tài năng của
các nghệ nhân, với “đụi bàn tay vàng” của họ đã tạo nên những sản phẩm quý
giá tinh xảo và độc đáo, những sản phẩm sống mãi với thời gian, góp phần
làm vẻ vang cho dân tộc và cho mỗi làng nghề. Nghệ nhân và thợ cả đã giữ
cho làng nghề tồn tại, đã tạo ra những nhóm thợ mà truớc hết là con cháu của
họ, những người trong gia đình,dòng tộc rồi đến các con em trong làng theo
phương phỏp” vừa học vừa làm” cứ như vậy các thế hệ thủ công nối tiếp, đan
xen nhau, đời sau nối tiếp đời trước.
Một đặc điểm của nghề thủ công của gia đình từ ông bà, anh em, con
cháu đều cùng làm nghề, mỗi người một việc, cho nên cùng một lúc trong
làng nghề đó vài ba thế hệ cùng sản xuất kinh doanh.
Nghề chạm khắc đá ở Ninh Vân tồn tại theo nối gia truyền, từ đời trước
đến đời sau trong gia đình họ tộc là chính, thứ đến là sự truyền nghề (có mức

độ nhất định) trong xóm giềng. Đó chính là quá trình bảo lưu những bí quyết
kinh nghiệm, tất cả công đoạn chu trình chế tác các sản phẩm đá.
Bài tiểu luận Đỗ Thị Thiện - K54B Lịch
sử

Sau đại hội VI của trung ương Đảng, khi nền kinh tế nước ta chuyển
sang kinh tế thị trường, bảo đảm các thành phần kinh tế được tham gia hoạt
động và từ sau khi tỉnh Ninh Bình được tái lập (1992) cũng như nhiều nghề
truyền thống khác, nghề chạm khắc đá ở Ninh Vân được phục hồi và phát
triển ngày càng mạnh nhờ thông qua các giải pháp chính sách phát triển kinh
tế tiểu thủ công nghiệp cụ thể của địa phương. Các thợ thủ công, nghệ nhân
chạm khắc đá Ninh Vân đang làm việc với nhịp độ sôi động hơn bao giờ hết.
Làng Xuân Vũ, làng Hệ hầu như đa số các hộ gia đình ở đây đều có người
biết nghề chạm khắc đá. Họ có thể làm việc ngay tại cơ sở của nhà mình, hay
trong làng xã, hoặc có thể đến trực tiếp nơi đặt hàng ở các địa phương trong
tỉnh và các tỉnh ngoài. Theo số liệu thống kê năm 2000 nghề chạm khắc đá ở
Ninh Vân là làng nghề có số lao động tham gia đông nhất, trong các nghề thủ
công truyền thống của tỉnh, cả xó cú khoảng 2200 lao động biết làm nghề (lao
động chủ yếu là nam giới). Vì đõy là nghề đòi hỏi sức lao động nhiều mà chỉ
có nam giới mới đáp ứng được.
Trong đó thợ thủ công làm tại các hộ gia đình trung bình khoảng 10
người, phần lớn là con em của chính gia đình đó và số ít là người trong làng
xóm. Tại các tổ hợp sản xuất và các doanh nghiệp, thu hút số lượng lớn thợ
thủ công và người dân trong xã đên làm việc. Lao động sử dụng trong một
doanh nghiệp trung bình 10 – 50 người. Lao động thuê ở thời điểm cao nhất là
có tới hàng trăm người, ở thời điểm thấp nhất khoảng 20 người.
Người dân trong xã có thể học nghề, giúp phu việc từ nhỏ (tuỳ theo việc
của sản phẩm). Độ tuổi có thể làm nghề từ 16 đến 65 tuổi, tuy nhiên trình độ
văn hoá của người thợ nhìn chung còn thấp, chủ yếu là hết cấp II, số không
nhiều học hết cấp III. Song trong nghề họ lại thể hiện mình là người hết sức

tài hoa, từ khâu chọn đỏ nỳi đến những kĩ thuật chạm khắc đá tinh xảo.
“Những thợ đá Ninh Vân, họ rất giỏi để phân loại, để chọn đá dùng làm hàng,
trong quả núi họ chia ra từng cấp từng bậc, biết độ rắn chắc hay mềm của
Bài tiểu luận Đỗ Thị Thiện - K54B Lịch
sử

từng cấp, từng tầng… Nếu tính từ chõn nỳi trở lên thì có thể chia ra lớp 9
thước, lớp 5 thước, lớp 4 thước, những lớp đá này thường là mềm dễ khai thác
và khi làm hàng ít bị hư hỏng. Phía trên thường là đá rắn hơn, khó khai thỏc”.
Qỳa trình làm đá người ta chỉ cần nhìn bằng mắt, tay để gõ, tai lắng nghe để
phát hiện ra mỏch đỏ, gõn đỏ, tiếng rạn nứt, cũng như cường độ rắn hay mềm.
Nhờ những biện pháp, chính sách đúng đắn và cơ chế quản lý mới đã
khuyến khích và tạo điều kiện cho người thợ thủ công Ninh Võn phát huy tinh
thần hăng say lãnh đạo, yêu nghề, năng động, sáng tạo điều kiện cho mọi tài
năng của họ.
Cũng như các nghề thủ công truyền thống Việt Nam, số ít thợ chế tác đá
Ninh Vân xưa và nay chỉ chuyên làm nghề chạm khắc đá. Đại đa số họ là
nông dân kiêm thợ thủ công và chủ yếu làm nghề trong lúc nông nhàn. Vì
vậy, thời gian gần đây để nâng cao chõt lượng đội ngũ thợ làm đá hiện có và
bồi dưỡng thợ làm đá kế cận cho tương lai. Trung tâm giáo dục cộng đồng xã
Ninh Vân thành lập(2002), đã mở các lớp truyền dạy nghề cho con em địa
phương và người nơi khác đến có nhu cầu học nghề. Do đó đội ngũ thợ thủ
công của nghề ngày càng mở rộng hơn rất nhiều. Năm 2002, Ninh Võn đó mở
một lớp dạy nghề chạm khắc đá với khoảng 100 học viên, vừa học vừa hành.
Giáo viên là một số thợ chạm khắc đá địa phương, phối hợp với cán bộ điêu
khắc có uy tín trong cả nước.Thời gian học nghề là 24 tháng theo chương
trình của Bộ xây dựng.
Với truyền thống sẵn có và đội ngũ thợ thủ công ngày một nhiều, nghề
chạm khắc đá Ninh Võn đó và đang có tiềm năng ngáy càng phát triển lớn mạnh.
3. Về vấn đề vốn sản xuất

Vốn là một trong những vấn đề quan trọng trong bất cứ một loại hình sản
xuất nào, của lĩnh vực kinh tế nào, công nghiệp, nông nghiệp hay tiểu thủ công
nghiệp - dịch vụ. Để bảo đảm cho hoạt động sản xuất kinh doanh được duy trì có
hiệu quả đòi hỏi các thành phần kinh tế cần phải có một số vốn nhất định.
Bài tiểu luận Đỗ Thị Thiện - K54B Lịch
sử

Chúng ta nhận thấy một thực tế, thời kỳ trước đổi mới với cơ chế bao
cấp, trong các hợp tỏc xó sản xuất theo kế hoạch, đến nay bước vào thời kỳ đổi
mới, sản xuất của các hộ gia đình, tổ hợp sản xuất, doanh nghiệp tự đảm nhận
trách nhiệm trong mọi khâu sản xuất. Điều này đã tạo nên cho họ những thuận
lợi, song họ cũng gặp những khó khăn về vấn đề nguồn vốn cho sản xuất.
Nghề thủ công chạm khắc đá ở Ninh Vân cũng như các nghề truyền
thống khác trong tỉnh đã được chú trọng phát triển. Do đó người làm nghề có
được những thuận lợi nhất định trong việc hưởng chính sách tài chính và tín
dụng. Trong “báo cáo quy hoạch phát triển nghề nông thôn đến năm 2010”,
của sở nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Ninh Bình năm 2003 đã chỉ
ra: “ Có chính sách ưu tiên đúng mức cho phát triển mở rộng ngành nghề sản
xuất kinh doanh có hiệu quả. Tăng mức vốn cho vay và tạo điều kiện thuận
lợi về thủ tục cho vay đối với người sản xuất và các tổ chức kinh tế ở nông
thôn, không phải thế chấp tài sản để vay vốn tại các cơ sở tín dụng. Hộ nông
dân được vay 30 triệu đồng, các hợp tác xã sản xuất nghề thủ công được vay
tối đa 500 triệu đồng không phải thế chấp tài sản.
Các cơ sở ngành nghê nông thôn không đủ điều kiện đảm bảo tài sản
vay bằng cầm cố, thế chấp thì được vay vốn theo quy định về hoạt động bảo
lãnh bằng tài sản của bên thứ ba”.
Đối với người thợ đá Ninh Võn, cỏc nguồn vốn bao gồm: nguồn vốn
chủ yếu do người chủ tổ chức sản xuất tự có. Ngoài ra còn huy động các
nguồn vốn khác như: vốn tự vay để mở rộng sản xuất nghề truyền thống của
địa phương.

Thông qua ba loại hình sản xuất chính của nghề chạm khắc đá ở Ninh
Vân, chúng ta có thể thấy số vốn hoạt động như sau: Đối với sản xuất của một
hộ gia đình vốn trung bình là 50 triệu đồng, cao nhất là 100 triệu đồng. Đối
với một tổ hợp số vốn tối thiểu là khoảng 100 triệu đồng, cao nhất là 500 triệu
đồng. Với một doanh nghiệp số vốn tối thiểu là 500 triệu đồng.
Bài tiểu luận Đỗ Thị Thiện - K54B Lịch
sử

Trong thực tế, nguồn vốn cho nghề chạm khắc đá Ninh Vân chưa được huy
động tốt, chưa tranh thủ được nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài, kể cả cá nhân
việt kiều.
4- Cơ sở vật chất của nghề chạm khắc đá
Do đặc trưng của nghề, có thể nói về quy mô cơ sở vật chất để làm
nghề, phát triển nghề thủ công truyền thống chạm khắc đá ở Ninh Vân đơn
giản hơn nhiều so với các nghề thủ công khác. Đối với cả 3 loại hình sản xuất
hộ gia đình, tổ hợp sản xuất hay trong các doanh nghiệp, họ cần có các “ bói”
hay còn gọi là những khoảng đất trống, với những tường bao thấp, có mái che
bằng bạt, cũng có thể không có mái che. Tại đây các thợ thủ công trực tiếp
chế tác sản phẩm chạm khắc đá, thậm chí không cần đến nhà xưởng kho chứa
hay cửa hàng giới thiệu sản phẩm.
Dù sản xuất trong quy mô to hay nhỏ, hộ gia đình hay doanh nghiệp, thợ
chạm khắc đá Ninh Vân thường sử dụng các dụng cụ chế tác truyền thống để
tạo sản phẩm,gồm có:
- Bỳa các loại, to nhỏ khác nhau, búa phẳng, búa băm có hàng rãnh răng
ở bề mặt bỳa, bỳa bằng gỗ lim, gỗ nghiến gọi là vồ.
- Đục nhọn các loại, to nhỏ, dài ngắn được làm bằng thép, hiện nay rèn
bằng thép sợi xoắn dùng trong xây dựng.
- Chét (nêm) bằng thép với nhiều kích cỡ.
- Xà beng
- Đục bạt (đục lưỡi dẹt, được mài vát một bên lưỡi) gồm các loại đục bạt

phẳng và đục bạt có răng để tạo các hàng gờ rãnh nổi đều trên bề mặt
sản phẩm đá.
- Ve (để tạo vét bề mặt sản phẩm đá) có 2 loại ve: ve trơn và ve răng (có
hàng răng nhỏ đều trên lưỡi.
- Cưa (loại cưa tay có lưỡi bằng thép, tựa như lưỡi cưa để cưa thép).
- Khoan tay mũi thép, hoặc mũi khoan kim cương
Bài tiểu luận Đỗ Thị Thiện - K54B Lịch
sử

- Dùi, đục nẹm, nạo bằng thép.
- Bút cạo (tưạ như bút khắc kim loại, nay thường là bằng thép hợp kim).
- Đá mài và máy mài (quay tay) để mài các dụng cụ chạm khắc đá và
mài một số sản phẩm đá.
- Giấy giáp, keo gắn, sơn đen hoặc một số hoá chất.
Ngoài ra hiện nay cũn cú thờm cỏc dụng cụ phương tiện hiện đại phối
hợp gồm mắy cắt (cưa)các loại, khoan máy các loại, máy mài và đỏnh búng
sản phẩm, máy tiện, cần cẩu và xe cơ giới. Đặc biệt nguồn điện được đưa vào
sản xuất, trong việc sử dụng các loại máy móc thiết bị mới, góp phần nâng
cao hiệu quả lao động của thợ thủ công.
So với thời kỳ trước đổi mới công cụ lao động của người thợ đá Ninh
Vân ngày càng được cải tiến và hiện đại hoá dần.
Để đầu tư trang thiết bị, dụng cụ làm nghề của một thợ chạm khắc đá ở
Ninh Vân hiện nay mất khoảng 4 triệu đồng.
5. Nguồn nguyên liệu cho chạm khắc đá ở Ninh Vân
Ngay trên địa bàn Ninh Vân có rất nhiều nỳi đỏ. Đú chớnh là nguồn
nguyên liệu rất dồi dào cho nghề chạm khắc đá từ xưa đến nay. Ngoài ra do
yêu cầu của khách hàng đặt về chất lượng, kích thước màu sắc đá cho sản
phẩm xanh, trắng, hồng, đá còn được láy ở núi nhồi (Thanh Hoá), Quỳ Hợp
(Nghệ An), Sơn Mai (Hà Tây), Thái Nguyên, Hoà Bình.
Đỏ núi ở Ninh Võn cú màu xanh tạo nên sản phẩm đẹp. Tuy nhiên, đá

núi ở đây có độ rắn chắc cao hơn nhiều so với đá trắng, đá vàng, đá xanh nhạt
ở nhiều nơi cho nên việc khai thác đá nguyên liệu ở đây mất khá nhiều công
sức, giá thành sản phẩm khá cao so với các loai đỏ khỏc nhập từ tỉnh ngoài.
Có những khi vực đá xanh ở địa phương xưa kia đã được khai thác một phần,
gần đây, tỉnh và trung ương đã quản lý dùng vào việc xây dựng, chế tác các
công trình, sản phẩm bằng đá có độ rắn, bền, chịu lực đặc biệt cao.
Bài tiểu luận Đỗ Thị Thiện - K54B Lịch
sử

Để khai thác nguồn đá nguyên liệu của địa phương phải bắt đầu từ việc
thăm dò nguyên liệu. Người ta phải tiến hành thám sát kỹ nơi cần khai thác,
xem thể và hình của những tảng phiến đá núi, qua đó có kế hoạch cụ thể trước
khi bắt tay vào khai thác. Những người thợ giỏi, giàu kinh nghiệm có thể
đoán định độ dày mỏng khác nhau của các tảng, phiến đá căn cứ vào các
“mạch gõn”hay cỏc đường thớ đá (hay mạch râu đá). Nguồn đỏ nỳi cần khai
thác đều là ở trên cao hay dưới thấp phớa chõn nỳi, có thuận tiện hay khó
khăn còn phụ thuộc vào thế và hình của nó, tuỳ thuộc vào sự lựa chọn của
người khai thác đá. Công việc này nhiều khi còn phụ thuộc vào yếu tố may rủi
nữa nhất là đối với việc khai thác hoàn toàn bằng phương pháp thủ công trước
kia.
Căn cứ vào kích cỡ của sản phẩm cần chế tác to nhỏ ra sao, người thợ
sẽ xác định những lớp, tảng, phiến cần khai thác.
Sau đó việc dọn lối vận chuyển đá từ chỗ khai thác ra điểm tập kết ở
bói đỏ được chú ý tiến hành trong suốt quỏ trỡnh, thời gian khai thác đá núi.
Khi lối vận chuyển đá được hình thành và đi vào khai thác, người ta gọi là
một “ trổ đỏ”. Bãi đá thường được tạo ra ở nơi thuận tiện đương vận chuyển,
giao thông như gần các bến sông, hay có đường thông ra đường cái, phần lớn
các trổ đỏ cú độ dốc lớn theo độ dốc của núi để có thể bắn, kích cho lăn các
tảng đá vừa được búc tỏch xuống dưới chõn nỳi nơi bói đỏ. Sự lựa chọn trổ đá
chủ yếu là dựa vào thế và hình tự nhiên của cỏc vỏch sườn núi để đỡ tốn công

sức tạo trổ.
Trải qua các công đoạn búc tỏch cỏc tảng, phiến đá đã được lựa chọn
bằng cách xác định đường gân đá (rõu đá) chạy dọc từ trên mặt đỏ nỳi.Xưa
kia, việc khai thác đá hoan toàn theo lối thủ công, người thợ dùng búa đánh
đục lỗ “chột” để búc tỏch cho nến rất tốn công sức, thời gian. Ngày nay, công
việc này được làm bằng khoan máy chạy bằng điện, hiệu quả hơn, đỡ vất vả,
ít công sức. Người thợ đá tiến hành búc tỏch tảng đa lớn ra thành những phiến
Bài tiểu luận Đỗ Thị Thiện - K54B Lịch
sử

đá nhỏ, gần với những hình khối cần làm, sơ chế đá nguyên liệu rồi sau đó
vận chuyển đến nơi chế tác.
Trước đõy, công việc vận chuyển đá từ nơi khai thác đến nơi chế tác
rất nặng nhọc, vất vả. Hầu hết khối lượng đá nguyên liệu được vẫn chuyển
bằng đường thuỷ. Các phiến đá được đẩy và kéo đi theo trục con lăn từ bãi đá
ở chõn nỳi tới cỏc bố ở bến nước gần đấy để chở tới nơi chế tác ra sản phẩm.
Ngày nay, công việc vận chuyển bằng xe cơ giới, đá được đưa lên,
xuống xe bằng cần cẩu các loại, nhanh và tiện lợi, hiệu quả cao.
Tuỳ theo công việc của năm, song tính trung bình với mỗi hộ gia đình
tiêu thụ khoảng gần 100m
3
đá nguyên liệu một năm. Sản xuất của các tổ hợp
và doanh nghiệp trung bình tiêu thụ khoảng gần 200 m
3
/năm. Đấy là tín hiệu
đáng mừng đối với việc phát triển nghề chạm khắc đá ở Ninh Vân, đồng thời
cũng đặt ra vấn đề về quản lý, bảo vệ nguồn tài nguyên đá và môi trường ở
địa phương cần phải được quan tâm hơn nữa.
6. Kỹ thuật chế tác và chạm khắc đá
Sau khi hoàn thành những công việc trên, người thợ bắt tay vào chế

tác các sản phẩm đá theo những công đoạn chủ yếu sau:
- Trước hết là tạo phom sản phẩm : căn cứ vào mẫu sản phẩm đá cần
chế tạo họ đục (cắt) phiến đá theo những hình cơ bản, sơ bộ, chẳng hạn chế
tạo phom một kho tượng đá, đầu tiên cần xác định kích thước của toàn bộ sản
phẩm tỷ lệ giữa các bộ phận: đầu, mình, chân tay, độ rộng dài …với những
điểm lồi lõm của sản phẩm cú kớch thước lớn như các tượng đài, trụ cột đá
lớn…được tạo theo cách lắp ghép từng mảng miếng với nhau thành tổng thể
công trình. Tức là, sản phẩm được cấu tạo bởi nhiều tầng lớp xếp chồng khớt
lờn nhau, có thể chốt khoá bằng các mộng.
Tạo phom sản phẩm là tạo ra hình dáng sơ bộ, phác thảo sơ bộ hình
dỏnh của sản phẩm. Tuy vậy, đõy là công đoạn rất quan trọng quyết định cơ
bản chất lượng và giá trị sản phẩm. Sau đó mỗi phom sản phẩm, người thợ sẽ
Bài tiểu luận Đỗ Thị Thiện - K54B Lịch
sử

vẽ hình hoạ đường nét theo mẫu(hay theo tưởng tượng)lên bề mặt của phom.
Công việc này đòi hỏi người thợ, nghệ nhân phải khéo tay, lành nghề, không
phải ai cũng đảm đương được.
Khi đã hoàn thành vẽ trên bề mặt của phom đá, người thợ tiến hành
đục thô sản phẩm. Búa dung để đục đá phổ biến là búa gỗ, có tiết diện lớn,
đục vừa khỏi bị chệch tay trượt ra khỏi vựng cán đục vừa không làm toè cán
đục thép. Sau đục thô từ phom đá đã trở thành một sản phẩm có hình dáng
giống như sản phẩm. Công việc đục đỏ thô sản phẩm đá cơ bản là phác thảo
những nột chớnh, tốn nhiều sức lực mà vẫn phải có độ chính xác, vì nếu sai,
đục lệch, đục sâu quá mức thì rất khó khắc phục. Đõy là công việc tích cực và
thận trọng
Tiếp theo người thợ tiến hành đục tinh sản phẩm để hoàn chỉnh tạo ra
những hỡnh, nột tinh xảo sắc nét giống như sản phẩm nguyên mẫu. Việc đục
tinh sản phẩm diễn ra một cách nhẹ nhàng hơn so với đục thô nhưng yêu cầu
tỷ mỷ, sự khéo léo, nghệ thuật của người thợ. Họ dùng các dụng cụ như : bát

bướm, đục vụm, đục nhọn, nạo, ve… sắc bén để đục tinh. Đõy là công đoạn
cuối cùng trong quy trình chạm khắc đá
Để cho sản phẩm được đẹp hơn thợ chạm khắc đá có thể tạo “da” (nên
bề mặt của sản phẩm) bằng cách đánh bong cho sản phẩm, sau đó dung hoá
chất để tạo màu đen, nõu… cho bề mặt đá. “Da” sản phẩm có thể là da sá,
bằng cách dung búa băm gừ lờn bề mặt. Độ thụ sỏp của sản phẩm phụ thuộc
vào kích cỡ của các răng trên bề mặt của búa băm.
Sản phẩm coi như được hoàn thành, đảm bảo kỹ thuật, mỹ thuật độc đáo
của chạm khắc đá
Ngoài ra chúng ta còn thấy những kỹ năng đặc biệt trong chạm khắc đá ở
Ninh Vân như : chạm “thụng phong ”và chạm “lốo kộp”, chế tác ảnh trên đá.
- Các sản phẩm chạm “thụng phong ” và chạm “lốo kộp ” là những tác
phẩm kỳ công của nghệ nhân và thợ lành nghề
Bài tiểu luận Đỗ Thị Thiện - K54B Lịch
sử

Chạm lốo kộp khác với chạm thông phong là : chạm lốo kộp có thể
hiện các lớp hoa văn chông xen vào lẫn nhau, còn chạm thông phong thi có
thể chạm một hay nhiều lớp hoa văn lồng nhau và giữa các chi tiết hoa văn đỏ
có những khoảng trống (thông phong) từ bề mặt bên này sang bề mặt bên kia
của bức đá sản phẩm. Để chạm thông phong (tức chạm lồng), nghệ nhân phải
chạm cả từ hai phía bề mặt của bức chạm. Với “chạm kép ” nghệ nhân chỉ
chạm từ một phía kết hợp với các động tác đục moi, nạo vét để tạo các hoa
văn như: tùng, cỳc, trỳc mai, các vật tứ linh; long ly, quy phượng, ngựa cỏ,…
Có đường nét lập thể hay “bỏn lập thể ”, tức là các hình nổi, sinh động trong
tác phẩm
Đối với sản phẩm đá chạm thông phong, cũng tựa như các sản phẩm
bằng gỗ chạm thông phong cả hai bề mặt đều thể hiện những hình khối nổi
của các sự vật, thành những sản phẩm điờu khắc.
Qui trình chạm thông phong hay chạm lốo kép đá như sau:

Trên bề mặt của phom sản phẩm, nghệ nhân vẽ khá chi tiết cỏc hỡnh
hoạ trước khi bắt tay vào chạm khắc. Các chi tiết đường nét, hình khối hoặc
diềm, “nhụ” hoặc “lặn ” được thể hiện trên bức vẽ theo quy ước nhất định.
Thông thường việc chạm khắc các hình khối nổi được tiến hành trước và qui
trình chạm khắc những hình khối chìm hơn được tiến hành sau, theo trình tự
“chỡm sõu dần ” phụ thuộc nhiều vào tay nghề, “úc chế tác ”hay trình độ điờu
khắc của nghệ nhân. Bởi vì, các đường nét hình khối, các chi tiết chạm khắc
“thụng phong ” hay “lốo kép ” rất sinh động, theo độ nụng sõu, chìm nổi,
khuất lộ rất biến hoá, khác nhau đến “khụn lường”. Có những mảng chạm,
nghệ nhân phải luôn hình dung sẵn trong đầu tất cả mọi chi tiết nụng sõu, lồi
lõm. Điều này không hề đơn giản vì nếu nghệ nhân không giàu kinh nghiệm,
tưởng tượng yếu và sơ xuất nữa thì sẽ hỏng và hỏng tất cả vì đục chạm sai
lệch, tạo ra diện mạo sản phẩm ngô nghê, vô hồn.
Bài tiểu luận Đỗ Thị Thiện - K54B Lịch
sử

Đõy chính là trình độ tay nghề, óc thẩm mỹ của nghệ nhân chạm khắc
đá, góp phần lớn nhất để tạo nên giá trị văn hóa phi vật thể. Công việc chạm
“thụng phong” chạm “lộng ” chạm “lốo kộp ” đá công phu hơn so với chạm
khắc gỗ. Mặt khác nếu để ra sơ xuất thì rất khó mà khắc phục được. Vì vậy
một nghệ nhân chạm khắc “lốo kộp ”, chạm “thụng phong ” đá phải là nghệ
nhân tinh xảo, lão luyện, mà số nghệ nhân này ở nước ta rất hiếm.
- Chế tác ảnh trên đá. Đõy là phương pháp trổ hoạ trên đá, tựa như vẽ,
truyền thần không phải bằng bút mực hay bút màu. Nói chung đõy là phép trổ
hoạ tranh ảnh trên đá.
Quy trình trổ hoạ tranh ảnh trên đá bao gồm “
+ Xẻ, mài nhẵn bề mặt phom đá sản phẩm làm nền tranh ảnh
+ Đánh bong bằng giấy ráp mịn, rồi cọ bằng nỉ lên bề mặt nền. Trong
quá trình đánh bong có kết hợp thoa các lớp chất để tạo màu nền
+ Phóng tác tức vẽ theo kiểu phóng hoạ, truyền thần những nét cơ bản

và chi tiết những bức tranh, ảnh cần chế tác trên bề mặt đá nề đá đánh bong,
Dụng cụ vẽ thường là bút chì và một số dụng cụ khác.
+ Dùng đục trổ để trổ hình theo hình đả vẽ sẵn, theo cách “mau” và
“thưa” tương ứng với nguyờn lớ “sỏng - tối”, cũng tương ứng với “nổi –
chỡm” trong tạo hình hội hoạ. Những chỗ trổ “mau” sẽ tạo khoảng sáng hơn
trên nền đá sẫm so với những khoảng trổ thưa và những mảng trổ có màu
“sẫm tối ”, gây sự “tương phản ánh sỏng” để tạo hình với những mảnh miếng,
sắc độ chìm nổi khác nhau
Trong nhiểu trường hợp, sự phân biệt sáng - tối trên mỗi bức hoạ ngoài
độ thưa hay mau của các vết trổ còn phụ thuộc vào những vết rộng hay hẹp,
nông hay sâu của các vết trổ. Đõy là cách thức trổ tạo hình của nghệ nhân.
Các dụng cụ đục trổ to nhỏ, tù nhọn khác nhau do nghệ nhân chế tạo tuỳ
thuộc vào kích cỡ, đặc điểm của sản phẩm tranh ảnh bằng đá để áp dụng có
chỉnh sửa
Bài tiểu luận Đỗ Thị Thiện - K54B Lịch
sử

Trong nhiều tác phẩm tranh ảnh bằng đỏ, có kết hợp giữa trổ và nạo,
khắc, chạm, xoi, tuỳ theo mẫu mà có sẵn hay theo ý tưởng của nghệ nhân để
chế tác.
Hiện nay, trên địa bàn làng Xuân Vũ làng Hệ có khá nhiều cơ sở chế
tác tranh, ảnh bằng đá, cung cấp theo nhu cầu khách hành đến từ nhiều nơi
khắp trong nước và có cả khách hành nước ngoài
Ngày nay bên cạnh những kỹ thuật, công cụ chế tác đá truyền thống
còn có việc các thợ thủ công học tập một số kỹ thuật sản xuất mới cùng với
các công cụ hiện đại, sử dụng điện nên sản phẩm mỹ nghệ đá Ninh Vân ngày
càng phong phú, nhiều và đẹp hơn.
7. Các sản phẩm của nghề thủ công truỳờn thống chạm khắc đá Ninh Vân
- Nhóm sản phẩm phục vụ sản xuất, là những sản phẩm bằng đá quen
thuộc gắn bó với người dân địa phương, vì có tác dụng rất hữu ích, không thể

thiếu được trong đời sống của họ gồm có : cối giã, tai cối giã gạo, con lăn trục
lúa đá tảng các loại, máng đá
- Nhóm sản phẩm chạm khắc đá phục vụ đời sống, với chủng loại phong phú
: cầu đá, chậu cảnh bằng đá, giếng đỏ, cây đốn đá, bàn ghế đá, hộp đỏ các
loại, phù điờu đá, tranh đá, ảnh đỏ…
- Nhóm các sản phẩm phục vụ cho việc trùng tu tôn tạo các khu di tich lịch
sử, danh thắng, đền thờ, miếu, khánh đá, tường thờ, tượng tứ linh, bia đá,
tượng các con thỳ…
- Nhóm tượng đài: tượng Trần Hưng Đạo ở Kinh Môn Hải Dương là công
trình xuất sắc của bác Nguyễn Xuân Lương, tượng Bác Hồ ở Quảng Trường
thành phố Nghệ AN, tượng đài mẹ Suốt ở Quảng Bỡnh…
năm
ngành nghề
Bài tiểu luận Đỗ Thị Thiện - K54B Lịch
sử

Chương 3
TÁC ĐỘNG CỦA NGHỀ CHẠM KHẮC ĐÁ TRUYỀN THỐNG
ĐỐI VỚI ĐỊA PHƯƠNG
1. Làm thay đổi cơ cấu kinh tế ở xã Ninh Vân
- Nghề thủ công chạm khắc đá được xác định là nghề mũi nhọn, trong
phát triển kinh tế xã hội ở xã Ninh Vân. Đõy còn là nghề thủ công truyền
thống chỉ duy nhất có ở Ninh Võn trờn toàn tỉnh Ninh Bình. Cũng như nhiều
nghề thì nghề chạm khắc đá Ninh Vân đã trải qua nhiều bước thăng trầm vào
những năm tháng đổi mới. Ngày nay, nghề đang có nhiều điều kiện tốt để hồi
sinh, phát triển.
Đặc biệt, nó đã góp phần làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế của xã theo tỷ
trọng hướng về phát triển tiểu thủ công - dịch vụ. Thông qua các báo cáo tổng
kết từ 1996 – 2003 của xã Ninh Vân chúng ta nhận thấy điều đó
1996 2000 2001 2002 2003

Nông nghiệp 39 % 40 % 39,8 % 36,26 % 37,2 %
TTCN-dịch vụ 61% 60 % 62,2 % 63,74 % 62,8 %
2. Giải quyết việc làm và tăng thu nhập nâng cao đời sống nhân dân
Ninh Vân là vùng đất nằm trong khu đồng chiêm trũng ven núi của
huyện Hoa Lư. Người dân sinh sống chính bằng nghề trồng trọt cây lương
thực và chăn nuôi gia súc, gia cầm. Để nâng cao thu nhập và giải quyết việc
làm trong lúc nông nhàn, các nghề phụ đã ra đời. Tiêu biểu trong số đó là
nghề chạm khắc đá. Nghề này thu hút nhiều lao động tham gia học nghề và
làm nghề.
Bài tiểu luận Đỗ Thị Thiện - K54B Lịch
sử

Năm 1998, mới chỉ có 120 lao động, nhưng đến năm 2000 đã có sự tham
gia của 1200 lao động. Đõy là nghề có số lao động đông nhất trong các nghề
thủ công toàn tỉnh
Tình hình phát triển nghề truyền thống chạm khắc đá Ninh Vân năm
2000
Tổng số hộ
Số hộ
tham gia
ngành
nghề
Số lao
động tham
gia
Số vốn sản
xuất (triệu
đồng)
Gia trị thu
được từ

ngành
nghề
Tiền lương
bình quân
sản xuất
ngành
nghề
1.800 1.420 2.200 8.000 7.600 350.000
(Theo số liệu thống kê của sở nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Ninh
Bình)
Nếu như trước đõy ở Ninh Vân, đặc biệt ở hai làng, làng Hệ và làng
Xuân Vũ. Người dân chỉ chuyên sống nhờ vào hạt thóc và khoản thu ít ỏi từ
chăn nuôi gia súc nhỏ, gia cầm. Bây giờ họ đã tạo cho mình được một nghề
phụ, việc giải quyết thời gian nhàn rỗi, góp phần tăng thêm thu nhập cho gia
đình. Do vậy đời sống kinh tế của người dân tằn lên rõ rệt
Thống kê thu nhập bình quân đầu người xã Ninh Vân (đơn vị : đồng)
Năm 2000 2001 2002 2003
Thu nhập bình
quân(người/năm
)
3.498.000 3.596.700 4.523.490 4.960.000
(Theo số liệu thống kê UBND xã Ninh Vân 2000-2003)
Có thể nói trong thu nhập trên chủ yếu là nguồn thu nhập từ nghề
chạm khắc đá. Tuy nó khụng thay thế được nông nghiệp nhưng cũng góp
phần không nhỏ trong cơ cấu kinh thế xã hội
Ngày nay, đến Ninh Vân chũng ta sẽ nhận thấy một điều: đó là sự khác biệt
giữa nông thôn và thành thị đang được thu hẹp lại nhiều so với các địa
phương khác trong huyện.
Bài tiểu luận Đỗ Thị Thiện - K54B Lịch
sử


Qua thực tế sản xuất của làng nghề và nghề chạm khắc đá ở Ninh Vân, ta
có thể khặng định, nền kinh tế địa phương trong giai đoạn mở cửa đã phát
triển mạnh mẽ, nghề thủ công nói chung và nghề chạm khắc đá ở Ninh Vân
nói riêng đã đáp ứng được nhu cầu trong thời đổi mới, tạo ra sự chuyển biến
tích cực ở nông thôn
Năm 2003, Ninh Vân bước vào thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế -
xã hội với nhiều thuận lợi, do được kế tiếp thành quả của các năm trước đó.
Kinh tế tiểu thủ công nghiệp có đóng góp đáng kể trong thắng lợi chung ấy.
Trong báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm
2003 của uỷ ban nhân dân xã cho thấy:
“Năm 2003, khu vực tiểu thủ công nghiệp phát triển toàn diện cả về
quy mô sản xuất và vốn đầu tư. Tạo được nhiều việc làm ổn định, đem lại
nguồn thu nhập ổn định trong cơ cấu kinh tế của xã hội và nhiều hộ gia đình.
Tiếp tục có mức thu nhập khá nhờ đầu tư và phát triển ngành nghề đúng nhu
cầu thị trường. Trong đó phát triển mạnh và đều là lĩnh vực chạm khắc đỏ”
Bảng giá trị thu nhập từ tiểu thủ công nghiệp - dịch vụ.
Đơn vị tính: VNĐ
2002 2003
Đá mỹ nghệ 10.000.000.000 10.500.000.000
Đá vật liệu xây dựng 1.968.000.000 2.160.000.000
Thêu ren 937.500.000 1.680.000.000
Các dịch vị tổng hợp 10.348.000.000 11.722.000.000
Cùng với sự phát triển của nghề chạm khắc đá ở Ninh Vân, trong
những năm gần đây đã tạo nguồn thu nhập đáng kể cho trực tiếp người làm
nghề nói riêng và nhân dân địa phương nói chung. Mức độ thu nhập của
người thợ do chủ cơ sở chế tác trả, phụ thuộc vào hai yếu tố: trình độ tay nghề
và khối lượng sản phẩm được giao nhận khoán. Đối với người thợ chạm khắc
đá tay nghề trung bình thu nhập từ nghề khoảng 1,5 đến 2 triêu đồng/ tháng,
thợ có tay nghề cao hơn khoảng 2- 2,5 triệu đồng / tháng.

Bài tiểu luận Đỗ Thị Thiện - K54B Lịch
sử

Nhìn chung, thu nhập từ nghề chạm khắc đá của người thợ Ninh Vân
cao hơn nhiều so với thu nhập từ sản xuất nông nghiệp và các nghề phụ nông
nghiệp khác. Một phần vì diện tích đất canh tác lúa và hoa màu hiện còn thấp.
3. Một số hạn chế.
Bên cạnh những tác động tích cực, với sự phát triển mạnh mẽ của nghề,
đặc biệt trong mấy năm gần đây đã tạo nên xu hướng tâm lý trong lớp trẻ tuổi,
mải học nghề, hành nghề để có thu nhập cao mà sao nhãng việc học văn hoá,
nhiều thanh niên bỏ học làm nghề. Họ coi như mỡnh đó có việc làm và khoản
thu nhập tương đối, và dường như rất yên tâm với tương lai của mỡnh. Chớnh
vì thế, nhìn chung trình độ văn hoá của con em làm nghề còn thấp, chủ yếu
mới hết THCS, một số học hết PTTH. Đây là hạn chế lớn cần phải kịp thời
được sự quan tâm của các cấp chính quyền cơ sở địa phương.
Sự phát triển của nghề mang lại nguồn thu nhập cho nhân dân địa phương,
làng quê Ninh Vân đang ngày một “ thay da đổi thịt”, đời sống được nâng lên
một bước, nhưng lại ít nhiều ảnh hưởng đến phẩm chất đạo đức, tinh thần
đoàn kết trong xóm làng, cá nhân, vị kỷ. Do người ta ít nhiều mải chạy đua
kiếm lời lãi, cạnh tranh trong nghề kể cả những lúc “ sẵn” hay “ hiếm” việc
làm. Các tệ nạn xã hội, phong tục tập quán lạc hậu vẫn tồn tại, tuy nhiên
không trầm trọng như nhiều nơi khác.
Về sản xuất, kinh doanh trong nghề chạm khắc đá mỹ nghệ Ninh Vân
được phục hưng, bước đầu phát triển. Tuy vậy, việc sản xuất các sản phẩm đá
chưa được chú ý phát triển theo kế hoạch, quy hoạch chung. Trong sản xuất
chỉ chú ý làm ra các sản phẩm, mặt hàng đá lớn theo đơn đặt hàng, chưa chú ý
sản xuất nhiều mặt hàng thủ công mỹ nghệ phục vụ thương mại du lịch để
một mặt tận dụng thế mạnh của địa phương, mặt khác thu hút được nhiều lao
động vào sản xuất, phát triển kinh tế gia đình và kinh tế địa phương.
Nghề chạm khắc đá ở Ninh Võn đó được chấn hưng và phát triển, tuy vậy

nghề vẫn chưa thực sự phát triển vững chắc, chưa tương xứng với tiềm năng
Bài tiểu luận Đỗ Thị Thiện - K54B Lịch
sử

của địa phương và nhu cầu của xã hội. Do rất nhiều nguyên nhân cả khách
quan và chủ quan. Ngoài ra ta thấy sản phẩm chạm khắc đá được tạo ra bởi sức
lao động khá nặng nhọc chủ yếu là của nam giới, thời gian tạo ra một tác phẩm
tương đối dài, giá thành sản phẩm còn cao… Đõy chớnh là yếu tố tạo nên
những hạn chế nhất định ngay trong làng nghề chạm khắc đá ở Ninh Vân, làm
cho nghề khó phát triển rộng rãi như các nghề thủ công truuyền thống khác.
Cùng với những vấn đề trên, công tác chính trị tư tưởng, an ninh trật tự, các
vấn đề xã hội cũng đặt ra, cần được chú ý, quan tâm, giải quyết kịp thời trên
địa bàn xã Ninh Vân.
4. Một số hiện vật bằng đá trong cụm di tích lịch sử văn hoá đền Kê
Thượng, Kê Hạ và Miễu Sơn ở xã Ninh Vân, Hoa Lư, Ninh Bình.
Nét chung của cả ba di tích trên là đền làm lộ thiên(tức không có
mái che),đều dựa vào núi, đều dùng vật liệu là đá mà tạo thành. Trong khuôn
viên thờ cỳng,cỏc đồ thờ tự như; nhang án, bát hương, long ngai… cũng làm
toàn bằng đá. Đánh giá chung về sự đặc biệt này, báo khoa học và đời sống số
37 ra ngày 14/9/1995 đã viết: “ từ cổng tường,cột trụ đến khánh bàn thờ, bát
hương, cuốn thư, con rồng,con hổ đều bằng đá. Không ở đâu có đền 100%
bằng đá như ở đõy”.
41. Đền Kê Thượng.
- Khu vực ban thờ phía trên:
+ Một nhang án bằng đá dài 1,9 mét, rộng 1,4 mét, cao 0,72 một, chõn
nhang làm theo hình đá quý.
+ Một cỗ ngai bằng đá cao 0,66 mét, kích thước đáy 0,46 x0,32 mét.
+ Hai rồng bằng đá dài 0,78 mét, rộng 0,46 mét, dày 0,06 mét kiểu rồng
“yờn ngựa” thời Mạc.
- Khu vực ban thờ phía dưới:

+ Một sập bằng đá dài 1,6 mét, rộng 1 mét, dày 0,27 mét phía dưới chạm
nổi hình lưỡng long chầu nguyệt, hai bên mặt hình long mã thời hậu Lê.
Bài tiểu luận Đỗ Thị Thiện - K54B Lịch
sử

+ Hai rồng bằng đá dài 1,83 mét, cao 0,76 mét, dày 0,27 mộtkiểu rồng
“yờn ngựa” thời Mạc.
+ Hai cỗ ngai vàng đá kích thước như nhau cao 1,04 một, đỏy 0,54 x
0,36 mét.
+ Hai đài bằng đá, hình trụ cao 0,23mét, đường kính miệng 0,17 mét
(mất nắp).
+ Một nhang án bằng đấco 1,1 mét, dài 1,54 mét, rộng 0,75mét mặt trước
chạm hình tứ linh, mặt trên ghi chữ Hán “Mậu Thõn niờn tu tạo”(làm năm
Mậu Thân).
4.2. Đền Kê Hạ.
- Một khánh bằng đá dài 1,92 mét, chỗ cao nhất 1,07 mét, dày 0,1 mét.
- Một con hổ bằng đá cao0,75 mét, chỗ rộng nhất 0,54 mét, tư thế ngồi,
chân trước đắp hình con rắn.
- Sáu con hổ bàng đá kích thước bằng nhau, cao 0,65 mét, chỗ rộng
nhất 0,38 mét, tư thế ngồi.
- Hai rồng bằng đá, dài 1,7 mét, cao 0,6 mét, dày 0,06 mét thời Hậu Lê.
- Một mâm mịch bằng đá, dài 0,46 mét, rộng 0,27 mét, cao 0,25 mét,
phía trước có đề chữ Hán “làm cúng tiến vào năm Giáp Tuất ở đên Kờ Hạ
thụn Cụn Lăng”.
- Một nhang án dài 1,9 mét, rộng 0,91 mét, cao 0,26 mét, mặt
trướccạhm lưỡng long chầu nguyệt thời Hậu Lê.
- Một nhang án bằng đá dài 1,41 mét, rộng 0,67 mét, cao 1 mét mặt
trước chạn tứ linh và đường triện, thời Nguyễn.
- Một cỗ ngai bằng đá cao 0,9 mét, kích thước 0,57x 0,49 mét, chạm tứ
linh.

- Một bát hương bằng đá, hình trụ cao 0,42 một,đường kớnh miệng 0,3
x 0,19 mét, mặt trước chạm lưỡng long chầu nguyệt, thời Nguyễn.
4.3. Đền Miễu Sơn
Bài tiểu luận Đỗ Thị Thiện - K54B Lịch
sử

- Một nhang án bằng đá, dài 1,5mét, rộng 0,8 một, cao1,1một, mặt trước
và hai mặt bên chạm hình tứ linh,mặt bờn phớa phải có khắc chữ Hán ghi việc
tu sửa nhang án.
- Một cỗ ỷ bằng đỏ cú kích thước dài 1 mét, rộng 0,6 mét, cao 0,18
mét.
- Một cỗ ngia bằng đá cao 0,46 mét, kích thước 0,46x 0,32 mét.
- Hai rồng đá kích thước như nhau, dài 0,8 mét, cao 0,5 mét, dày 0,12
mét kiểu rồng “yờn ngựa” thời Mạc.
- Một mâm bồng bằng đá cao 0,41 mét, đường kính mặt trên 0,5 mét,
đường kính mặt đáy 0,3 mét.
- Một tắc tải bằng đá, dài 0,45 mét, rộng 0,22 mét, cao 0,18 mét, xung
quanh chạm hoa lá cách điệu.
- Ba đài bằng đá, cao 0,22 một(cả nắp), đường kính miệng 0,11 mét.
- Một bát hương đá, hình trụ, cao 0,3 mét, đường kính miệng 0,29 mét,
đường kinh đáy 0,3, mặt trước cạhm lưỡng long chầu nguyệt.
- Một bát hương bằng đá hình chữ nhật, cao 0,36mét, dài 0,32 mét, rộng
0,18 mét, mặt trước chạm hình chim phượng, mặt sau ghi chữ Hán “Quuý
Dậu niên, lục nguyệt Nhật” (Thang 6 năm Quý Dậu).
- Một bát hương đá hình chữ nhật, cao 0,35 mét, đường kính miệng 0,26
mét, bốn mặt chạm hình mặt rồng hổ phù. Một bát hương bằng đá, hình chữ
nhật, cao 0,3mét, đường kính miệng 0,18x 0,15 mét, chạm hoa lá cách điệu,
mặt trước khắc chữ Hán “ cung tiến” (cung kính tiến cúng), mặt sau khắc chữ
“Bớnh Thõn niờn” (năm Bớnh Thõn).


×