Tải bản đầy đủ (.pdf) (54 trang)

Vai trò của đội ngũ giáo viên trong ngành giáo dục phổ thông ở huyên An Phú, tỉnh An Giang, từ năm 2001 đến nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (530.9 KB, 54 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC AN GIANG
KHOA MÁC – LÊNIN
DANH THỊ MỸ HẠNH
LỚP: ĐH5CT
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
NGÀNH GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
VAI TRÒ CỦA ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN
TRONG PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC PHỔ THÔNG
Ở HUYỆN AN PHÚ, TỈNH AN GIANG
TỪ NĂM 2001 ĐẾN NAY
Giảng viên hướng dẫn
Ths. Nguyễn Thị Vân
Long xuyên, 05/ 2008
LỜI CẢM ƠN

Trong thời gian học tập và thực hiện khóa luận tốt nghiệp, tôi đã
nhận được sự hỗ trợ và giúp đỡ tận tình của các cơ quan và cá nhân. Tôi
xin chân thành cám ơn:
- Ban Giám Hiệu, quý thầy cô, cán bộ, công nhân viên trường Đại
học An Giang đã tạo mọi điều kiện thuận lợi để tôi hoàn thành khóa luận
tốt nghiệp đại học.
- Cô Nguyễn Thị Vân đã tận tình hướng dẫn, động viên, giúp đỡ
trong suốt thời gian tôi thực hiện khóa luận tốt nghiệp.
- Các thầy, cô trong khoa Mác – Lênin đã vun đắp kiến thức và tạo
điều kiện cho tôi nghiên cứu khoá luận này.
- Các cơ quan, ban ngành của huyện An Phú đã cung cấp những tài
liệu thiết thực và bổ ích, góp phần thuận lợi cho tôi hoàn thành khóa luận.
Sinh viên.
Danh Thị Mỹ Hạnh.

MỤC LỤC


I. PHẦN MỞ ĐẦU Trang
1. Lí do chọn đề tài...................................................................................................... 1
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................................. 2
2.1. Mục đích nghiên cứu....................................................................................2
2.2 Nhiệm vụ nghiên cứu.................................................................................... 2
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu........................................................................... 3
4. Phương pháp nghiên cứu......................................................................................... 3
5. Đóng góp của khóa luận.......................................................................................... 3
5.1. Về lí luận...................................................................................................... 3
5.2 Về thực tiễn................................................................................................... 3
6. Kết cấu của khóa luận..............................................................................................3
II. NỘI DUNG KHÓA LUẬN.
Chương 1: Cơ sở lí luận về vai trò của đội ngũ giáo viên phổ thông trong sự
nghiệp.
1.1. Khái niệm giáo viên phổ thông và đặc điểm lao động của giáo viên phổ
thông.....................................................................................................6
1.1.1. Khái niệm giáo viên phổ thông............................................................... 6
1.1.2. Đặc điểm lao động của giáo viên phổ thông.......................................... 8
1.1.2.1. Hoạt động dạy học của giáo viên phổ thông là hoạt động đòi hỏi có
trí tuệ và sự sáng tạo cao..............................................................................................8
1.1.2.2. Lao động của giáo viên phổ thông không chỉ là lao động trí óc mà còn lao
động chân tay........................................................................................................ 9
1.2.1.3. Giáo viên phổ thông không chỉ có trí tuệ mà phải có phẩm chất đạo
đức tốt, có lòng yêu thương con người...................................................................... 10
1.2. Vai trò của đội ngũ giáo viên phổ thông trong sự nghiệp phát triển giáo
dục – đào tạo.............................................................................................................11
1.2.1. Đội ngũ giáo viên phổ thông là nguồn nhân lực quan trọng trong sự
nghiệp giáo dục và đào tạo.........................................................................................12
1.2.2. Đội ngũ giáo viên phổ thông góp phần quyết định chất lượng giáo
dục và đào tạo............................................................................................................ 13

1.2.3. Đội ngũ giáo viên phổ thông góp phần đào tạo nhiều thế hệ tương lai
của đất nước...............................................................................................................15
Chương 2: Vai trò của đội ngũ giáo viên trong phát triển giáo dục phổ thông ở
huyện An Phú, tỉnh An Giang từ năm 2001 đến nay.
2.1. Vị trí địa lí, đặc điểm tự nhiên, điều kiện kinh tế - xã hội huyện An Phú,
tỉnh An Giang........................................................................................................... 18
2.1.1. Vị trí địa lí, đặc điểm tự nhiên...............................................................18
2.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội...................................................................... 19
2.1.2.1. Điều kiện kinh tế........................................................................... 19
2.1.2.2. Điều kiện xã hội............................................................................ 20
2.2. Vai trò của đội ngũ giáo viên trong phát triển giáo dục phổ thông ở
huyện An Phú, tỉnh An Giang từ năm 2001 đến nay............................................21
2.2.1. Đội ngũ giáo viên phổ thông huyện An Phú là lực lượng quan trọng
trong cuộc vận động “Nói không với tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong
giáo dục”.................................................................................................................... 21
2.2.2. Đội ngũ giáo viên phổ thông huyện An Phú góp phần giáo dục, nâng cao
đạo đức, lối sống cho học sinh...................................................................................23
2.2.3. Đội ngũ giáo viên phổ thông huyện An Phú không ngừng đổi mới nội dung và
phương pháp giảng dạy, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục........................................25
2.3. Những kết quả đạt được và những hạn chế từ vai trò của đội ngũ giáo
viên trong phát triển giáo dục phổ thông ở huyện An Phú, tỉnh An Giang từ
năm 2001 đến nay.................................................................................................... 27
2.3.1. Những kết quả đạt được ......................................................................... 27
2.3.2. Những hạn chế ........................................................................................30
2.4. Một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy hơn nữa vai trò của đội ngũ
giáo viên trong phát triển giáo dục phổ thông ở huyện An Phú, tỉnh An Giang
trong thời gian tới.................................................................................................... 33
2.4.1. Rà soát và đánh giá đúng thực trạng về số lượng và chất lượng giáo viên
phổ thông................................................................................................................... 33
2.4.2. Đổi mới mạnh hơn nữa về nội dung và phương pháp dạy và học ở các

bậc học ...................................................................................................................... 34
2.4.3. Tăng cường nguồn đầu tư ngân sách và đầu tư có hiệu quả cho hệ thống
giáo dục và đào tạo ở các bậc học..............................................................................36
2.4.4. Thực hiện tốt chính sách ưu đãi cho cán bộ trí thức, giáo viên, học sinh
vùng sâu, vùng xa...................................................................................................... 38
III- PHẦN KẾT LUẬN........................................................................................... 41
BẢNG PHỤ LỤC..................................................................................................... 43
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................47

Khoá luận tốt nghiệp đại học sư phạm SVTH: Danh Thị Mỹ Hạnh
PHẦN MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài:
Trong xu thế phát triển của thời đại, các quốc gia trên thế giới đang
phấn đấu hết mình để đưa nền kinh tế - xã hội của đất nước phát triển đạt trình
độ cao nhất. Để đáp ứng được tình hình đó, mỗi quốc gia cần phải trang bị cho
mình một nguồn nhân lực dồi dào. Nguồn nhân lực chịu tác động bởi nhiều
nhân tố: Giáo dục và đào tạo, sức khỏe và dinh dưỡng, môi trường…. Nhưng
giáo dục và đào tạo là nhân tố cốt lõi, là cơ sở của các nhân tố khác và đồng
thời cũng là cơ sở quan trọng nhất cho sự phát triển nền kinh tế - xã hội bền
vững. Có thể nói, giáo dục và đào tạo là con đường, biện pháp tối ưu nhằm
nâng cao trình độ về mọi mặt cho sự phát triển của mỗi quốc gia. Chính vì thế,
để phát triển đất nước thì điều cần thiết các quốc gia phải chú trọng phát triển
sự nghiệp giáo dục và đào tạo. Và trong sự nghiệp đó, mỗi quốc gia cần có sự
quan tâm đặc biệt đến nguồn lực, vai trò của đội ngũ giáo viên. Bởi vì, đội ngũ
giáo viên chính là lực lượng quan trọng hàng đầu trong sự nghiệp giáo dục và
đào tạo, đồng thời, họ cũng là một nguồn lực góp phần phát triển kinh tế - xã
hội của đất nước.
Việt Nam - một đất nước đang phát triển theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Sự nghiệp phát triển của đất nước Việt Nam luôn gắn với những mục
tiêu cụ thể là làm cho nhân dân ngày càng được ấm no, hạnh phúc và ngày

càng được nâng cao về trí tuệ, về phẩm chất đạo đức. Sự nghiệp đó không thể
thực hiện được nếu như thiếu vai trò của giáo dục và đào tạo, và cũng không
thể thực hiện được nếu như thiếu vai trò của đội ngũ giáo viên. Vì thế, Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng ta đã khẳng đinh: “Giáo dục và đào tạo
cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động
lực thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” [35; 94 - 95].
Đảng ta đặc biệt coi trọng vai trò của giáo dục và đào tạo, cũng như vai
trò của đội ngũ giáo viên. Điều này được ghi nhận trong Văn kiện Hội nghị lần
thứ tư Ban chấp hành Trung ương khóa VII, Văn kiện Hội nghị lần thứ hai Ban
chấp hành Trung ương khóa VIII, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc của
Đảng lần thứ VIII, IX và đã đuợc khẳng định lại trong Văn kiện Đại hội đại hội
đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ X: “Ưu tiên hàng đầu cho việc nâng cao
chất lượng dạy và học, nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên và tăng cường cơ
sở vật chất của nhà trường, phát huy khả năng sáng tạo và độc lập suy nghĩ của
học sinh, sinh viên. Coi trọng bồi dưỡng cho học sinh, sinh viên khát vọng
Trang 1
Khoá luận tốt nghiệp đại học sư phạm SVTH: Danh Thị Mỹ Hạnh
mãnh liệt xây dựng đất nước giàu mạnh, gắn liền lập nghiệp bản thân với
tương lai của cộng đồng, của dân tộc, trau dồi cho học sinh, sinh viên bản lĩnh
và lối sống của thế hệ trẻ Việt Nam hiện đại. Triển khai thực hiện hệ thống
kiểm định khách quan, trung thực chất lượng Giáo dục và Đào tạo” [35; 207].
An Giang là một tỉnh thuộc đồng bằng sông Cửu Long, có những thuận
lợi trong việc phát triển kinh tế - xã hội, song cũng gặp không ít khó khăn trên
con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa, mà trước hết là công nghiệp hóa,
hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn. Để tháo gỡ một phần khó khăn của tỉnh,
cần phát huy nguồn lực con người, nhất là nguồn nhân lực có trí tuệ cao. Muốn
phát huy nguồn nhân lực đó, trước hết tỉnh cần đẩy mạnh phát triển giáo dục và
đào tạo, phát huy vai trò của đội ngũ giáo viên, xem đây là nhiệm vụ quan
trọng và cấp thiết nhất hiện nay.
An Phú là một huyện đầu nguồn sông Cửu Long thuộc tỉnh An Giang,

với diện tích tự nhiên là 208,97 km
2
. Huyện có nhiều cửa khẩu biên giới thuận
lợi cho việc giao lưu phát triển kinh tế. Các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội
của huyện phát triển tương đối ổn định, nhưng nhìn chung thì chất lượng phát
triển các lĩnh vực đó chưa cao so với cả nước. Đặc biệt là lĩnh vực giáo dục và
đào tạo, mặc dù hiện nay giáo dục và đào tạo của huyện đã có nhiều tiến bộ
đáng ghi nhận, nhưng vẫn còn bộc lộ nhiều mặt hạn chế nhất định. Trong đó,
giáo dục phổ thông vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế, nhất là sự hạn chế về việc
phát huy vai trò của đội ngũ giáo viên trong việc nâng cao chất lượng giáo dục
phổ thông của huyện. Sự hạn chế đó là mối quan tâm hàng đầu không chỉ riêng
ở huyện An Phú mà trên cả nước ta.
Trước yêu cầu phát triển sự nghiệp giáo dục và đào tạo nói chung và
giáo dục phổ thông huyện An Phú nói riêng và để góp phần khắc phục những
hạn chế, tìm ra những giải pháp hữu hiệu để phát huy vai trò của đội ngũ giáo
viên phổ thông nhằm góp phần thúc đẩy sự phát triển cao hơn trong lĩnh vực
giáo dục phổ thông của huyện. Tôi đã chọn khóa luận: “Vai trò của đội ngũ
giáo viên trong phát triển giáo dục phổ thông ở huyện An Phú tỉnh An Giang
từ năm 2001 đến nay” làm khóa luận tốt nghiệp.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu.
2.1. Mục đích:
Khóa luận nhằm làm rõ vai trò của đội ngũ giáo viên, góp phần phát
triển giáo dục phổ thông ở huyện An Phú, tỉnh An Giang.
Trang 2
Khoá luận tốt nghiệp đại học sư phạm SVTH: Danh Thị Mỹ Hạnh
2.2. Nhiệm vụ:
- Tìm hiểu vai trò của giáo dục và đào tạo và vai trò của đội ngũ giáo
viên phổ thông trong sự nghiệp phát triển giáo dục và đào tạo.
- Làm rõ vai trò của đội ngũ giáo viên trong phát triển giáo dục phổ
thông ở huyện An Phú, tỉnh An Giang từ năm 2001 đến nay.

- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy hơn nữa vai trò của
đội ngũ giáo viên trong phát triển giáo dục phổ thông ở huyện An Phú, tỉnh An
Giang trong những năm tới.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu.
Khóa luận chỉ nghiên cứu vai trò của đội ngũ giáo viên trong phát triển
giáo dục phổ thông ở huyện An Phú, tỉnh An Giang từ năm 2001 đến nay.
4. Phương pháp nghiên cứu.
- Cơ sở phương pháp luận: Chủ nghĩa Mác – Lênin là cơ sở lí luận
chung.
- Phương pháp cụ thể: Phân tích, thống kê, so sánh kết hợp với phương
pháp logic - lịch sử.
5. Đóng góp của khóa luận.
5.1. Về lí luận:
Khóa luận góp phần hệ thống hóa vai trò của đội ngũ giáo viên phổ
thông trong sự nghiệp phát triển giáo dục và đào tạo.
5.2. Về thực tiễn:
- Góp phần làm rõ vai trò của đội ngũ giáo viên trong phát triển giáo
dục phổ thông ở huyện An Phú, tỉnh An Giang từ năm 2001 đến nay.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy hơn nữa vai trò của
đội ngũ giáo viên trong phát triển giáo dục phổ thông ở huyện An Phú, tỉnh An
Giang.
- Kết quả nghiên cứu của khóa luận có thể là nguồn tài liệu để cấp ủy
Đảng và chính quyền địa phương tham khảo trong quá trình phát huy vai trò
của đội ngũ giáo viên trong giáo dục phổ thông ở huyện An Phú, tỉnh An
Giang.
6. Kết cấu của khóa luận.
Trang 3
Khoá luận tốt nghiệp đại học sư phạm SVTH: Danh Thị Mỹ Hạnh
Ngoài phần mở đầu, mục lục, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo,
khóa luận gồm 2 chương.

Chương 1: Cơ sở lí luận về vai trò của đội ngũ giáo viên phổ thông trong
sự nghiệp phát triển giáo dục và đào tạo.
1.1. Khái niệm giáo viên phổ thông và đặc điểm lao động của giáo
viên phổ thông.
1.1.1.Khái niệm giáo viên phổ thông.
1.1.2. Đặc điểm lao động của giáo viên phổ thông.
1.1.2.1. Hoạt động dạy học của giáo viên phổ thông là hoạt động đòi
hỏi có trí tuệ và sự sáng tạo cao.
1.1.2.2. Lao động của giáo viên phổ thông không chỉ là lao động trí
óc mà còn lao động chân tay.
1.1.2.3. Giáo viên phổ thông không chỉ có trí tuệ mà phải có phẩm
chất đạo đức tốt, có lòng yêu thương con người.
1.2. Vai trò của đội ngũ giáo viên phổ thông trong sự nghiệp phát
triển giáo dục và đào tạo.
1.2.1. Đội ngũ giáo viên phổ thông là nguồn nhân lực quan trọng trong
sự nghiệp giáo dục và đào tạo.
1.2.2. Đội ngũ giáo viên phổ thông góp phần quyết định chất lượng
giáo dục và đào tạo.
1.2.3. Đội ngũ giáo viên phổ thông góp phần đào tạo nhiều thế hệ
tương lai của đất nước.
Chương 2: Vai trò của đội ngũ giáo viên trong phát triển giáo dục phổ
thông ở huyện An Phú, tỉnh An Giang từ năm 2001 đến nay.
2.1. Vị trí địa lí, đặc điểm tự nhiên, điều kiện kinh tế - xã hội huyện
An Phú, tỉnh An Giang.
2.1.1. Vị trí địa lý, đặc điểm tự nhiên.
2.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội.
2.1.2.1. Điều kiện kinh tế.
2.1.2.2. Điều kiện xã hội.
Trang 4
Khoá luận tốt nghiệp đại học sư phạm SVTH: Danh Thị Mỹ Hạnh

2.2. Vai trò của đội ngũ giáo viên trong phát triển giáo dục phổ thông
ở huyện An Phú, tỉnh An Giang từ năm 2001 đến nay.
2.2.1. Đội ngũ giáo viên phổ thông huyện An Phú là lực lượng quan
trọng trong cuộc vận động: “Nói không với tiêu cực trong thi cử và bệnh thành
tích trong giáo dục”.
2.2.2. Đội ngũ giáo viên phổ thông huyện An Phú góp phần giáo dục,
nâng cao đạo đức, lối sống cho học sinh.
2.2.3. Đội ngũ giáo viên phổ thông huyện An Phú không ngừng đổi mới
nội dung và phương pháp giảng dạy, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục.
2.3. Những kết quả đạt được và những hạn chế từ vai trò của đội ngũ
giáo viên trong phát triển giáo dục phổ thông ở huyện An Phú, tỉnh An
Giang từ năm 2001 đến nay.
2.3.1. Những kết quả đạt được.
2.3.2. Những hạn chế.
2.4. Một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy hơn nữa vai trò của đội
ngũ giáo viên trong phát triển giáo dục phổ thông ở huyện An Phú, tỉnh
An Giang trong thời gian tới.
2.4.1. Rà soát và đánh giá đúng thực trạng về số lượng và chất lượng đội
ngũ giáo viên phổ thông.
2.4.2. Đổi mới mạnh hơn nữa về nội dung và phương pháp dạy và học ở
các bậc học.
2.4.3. Tăng cường nguồn đầu tư ngân sách và đầu tư có hiệu quả cho hệ
thống giáo dục và đào tạo ở các bậc học.
2.4.4. Thực hiện tốt chính sách ưu đãi cho cán bộ trí thức, giáo viên, học
sinh vùng sâu, vùng xa.
Trang 5
Khoá luận tốt nghiệp đại học sư phạm SVTH: Danh Thị Mỹ Hạnh
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: Cơ sở lí luận về vai trò của đội ngũ giáo viên phổ
thông trong sự nghiệp phát triển giáo dục và đào tạo.

1. 1. Khái niệm giáo viên phổ thông và đặc điểm lao động của giáo
viên phổ thông.
1.1.1. Khái niệm giáo viên phổ thông.
Có thể khẳng định một điều rằng đội ngũ giáo viên là một bộ phận
thuộc tầng lớp trí thức. Do đó, để hiểu được một cách chính xác về khái niệm
giáo viên cũng như giáo viên phổ thông thì trước hết cần phải có sự hiểu biết
về khái niệm “trí thức”. Thật ra, khái niệm “trí thức” bắt nguồn từ tiếng La tinh
“Interlligentia” có nghĩa là sự hiểu biết, sự thông minh. Ngay từ những năm
nửa sau thế kỉ XIX, khái niệm này trở nên thông dụng để chỉ những người có
học thức, học vấn cao, làm nghề lao động trí óc và có lương tri.
Trong từng giai đoạn lịch sử, ở mỗi quốc gia, dưới những góc độ nghiên
cứu khác nhau của các nhà khoa học mà đưa ra những định nghĩa “trí thức”
khác nhau. Nhưng nói chung, trong nhiều định nghĩa “trí thức” đều cho thấy
“trí thức” có một số đặc trưng cơ bản: Là một tầng lớp xã hội, có lao động trí
óc phức tạp, có trình độ học vấn chuyên môn cao, sáng tạo tri thức mới, truyền
đạt và vận dụng tri thức vào đời sống để đẩy mạnh sự phát triển của xã hội.
Như vậy, khẳng định đội ngũ giáo viên là một bộ phận thuộc tầng lớp
“trí thức”, tức là đã khẳng định đội ngũ giáo viên phải có những đặc trưng cơ
bản của tầng lớp “trí thức”. Có nghĩa là đội ngũ giáo viên cũng là một tầng lớp
xã hội, có lao động trí óc phức tạp, có trình độ học vấn chuyên môn cao, sáng
tạo tri thức mới, truyền đạt và vận dụng tri thức vào đời sống để đẩy mạnh sự
phát triển của xã hội.
Tất nhiên, trên đây chỉ là sự nhìn nhận chung về đội ngũ giáo viên với
tư cách là một tầng lớp “trí thức”. Nếu đi sâu vào đặc điểm nghề nghiệp của
đội ngũ giáo viên thì khái niệm về đội ngũ giáo viên sẽ có những nét riêng nhất
định.
Theo từ điển Tiếng Việt, giáo viên là người dạy học. Còn theo Điều 70
Luật Giáo dục năm 2005 ở nước ta thì giáo viên là nhà giáo dạy ở cơ sở giáo
Trang 6
Khoá luận tốt nghiệp đại học sư phạm SVTH: Danh Thị Mỹ Hạnh

dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục nghề nghiệp (nhà giáo giảng dạy ở
giáo dục đại học và sau đại học gọi là giảng viên). Nhà giáo (trong đó có giáo
viên phổ thông) phải có những tiêu chuẩn: Phẩm chất, tư tưởng tốt; đạt trình độ
chuẩn, được đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ; đủ sức khỏe theo yêu cầu nghề
nghiệp; lý lịch bản thân rõ ràng [19; 52 - 53].
Như vậy, nói đến giáo viên là nói đến nghề dạy học. Vậy “dạy học” là
nghề như thế nào? “Dạy học” theo quan niệm dân gian thường gọi là nghề “gõ
đầu trẻ”. Tuy nhiên, “dạy học” không chỉ đơn giản là “gõ đầu trẻ” mà nó là cả
một quá trình vận động hết sức phức tạp của người dạy, đòi hỏi phải có trí tuệ
cao, có lòng yêu nghề, quý trẻ, có lý tưởng phấn đấu vì tương lai của đất nước.
“Dạy học” là một bộ phận của quá trình giáo dục, là quá trình tác động
qua lại giữa giáo viên và học sinh nhằm truyền thụ và lĩnh hội những kinh
nghiệm lịch sử xã hội loài người (kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo) để phát triển
những năng lực và phẩm chất của người học theo mục đích giáo dục [27; 11].
Để thực hiện được quá trình dạy học thì người giáo viên phải có sự chuẩn bị rất
công phu, làm sao để có được một tiết dạy hiệu quả nhất, giúp học sinh không
những nắm vững được kiến thức của bài học mà phải biết vận dụng liên hệ
thực tế bên ngoài xã hội.
Từ những vấn đề được nêu lên ở trên, có thể khẳng định giáo viên có
một số đặc trưng cơ bản: Là một bộ phận của tầng lớp trí thức; thực hiện nhiệm
vụ giảng dạy ở các cơ sở giáo dục; có mục tiêu nghề nghiệp là phát triển những
năng lực và phẩm chất của người học; thực hiện mục đích giáo dục.
Từ những đặc trưng đó, có thể nêu lên khái niệm giáo viên như sau:
Giáo viên là một bộ phận của tầng lớp “trí thức”, thực hiện nhiệm vụ giảng dạy
ở các cơ sở giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục nghề nghiệp
nhằm phát triển những năng lực và phẩm chất của người học theo mục đích
giáo dục.
Như vậy, khái niệm giáo viên phổ thông cũng như khái niệm giáo viên
nhưng được thu hẹp hơn: Giáo viên phổ thông là một bộ phận của tầng lớp “trí
thức”, thực hiện nhiệm vụ giảng dạy ở cơ sở giáo dục phổ thông (giáo dục Tiểu

học, giáo dục Trung học cơ sở, giáo dục Trung học phổ thông) nhằm phát triển
những năng lực và phẩm chất của người học theo mục đích giáo dục.
Tóm lại, giáo viên phổ thông nói riêng, đội ngũ giáo viên nói chung hay
các tầng lớp “trí thức” khác đều là những tầng lớp xã hội, có trí tuệ cao và sử
dụng những trí tuệ đó vào sự nghiệp phát triển chung của đất nước. Trong đó,
Trang 7
Khoá luận tốt nghiệp đại học sư phạm SVTH: Danh Thị Mỹ Hạnh
đội ngũ giáo viên, đặc biệt là giáo viên phổ thông có nhiệm vụ rất thiêng liêng
và cao cả, trực tiếp truyền đạt và hình thành nhân cách cho thế hệ trẻ - thế hệ
tương lai của đất nước.
1.1.2. Đặc điểm lao động của giáo viên phổ thông.
1.1.2.1. Hoạt động dạy học của giáo viên phổ thông là hoạt động đòi
hỏi có trí tuệ và sự sáng tạo cao.
Nghề dạy học là lao động trí óc, có đối tượng là con người, là sự phát
triển nhân cách học sinh. Mỗi học sinh đều có mức xuất phát, có sự phát triển
về mặt tâm lí, thể chất và xã hội khác nhau. Mỗi thầy giáo không chỉ dạy cho
một học sinh mà cùng một lúc phải dạy cho hàng chục em học sinh. Do đặc
điểm đó, lao động của người thầy giáo không những đòi hỏi sự vận dụng trí tuệ
nhiều mặt mà phải có tính sáng tạo cao, phải sử dụng nhiều giác quan, có tính
tự chủ và phản ứng rất nhanh nhạy. Khi soạn bài, nội dung và phương giảng
dạy phải thích hợp với một đối tượng hết sức đa dạng. Đó chính là đặc thù lao
động của nghề dạy học, nó đòi hỏi người thầy giáo phải có trí thức nhiều mặt
[17; 20].
Trong giảng dạy và giáo dục người thầy không những ứng xử nhanh
nhạy, khoa học, mà còn phải không máy móc, không có một quy trình có sẵn,
người thầy phải hết sức sáng tạo cho phù hợp với từng đối tượng cụ thể. Trong
hoạt động soạn bài, người thầy giáo phải tập trung thần kinh nhiều nhất, phải
vận dụng tri thức nhiều nhất trong việc lực chọn nội dung giảng dạy, phương
pháp giảng dạy, hướng dẫn và ra bài tập cho học sinh học tập ở nhà. Hoạt động
giảng bài, đòi hỏi sự tập trung trí tuệ, sự lao động trí óc căng thẳng không kém.

Tạo ra nhiều tình huống sinh động để lôi cuốn sự tích cực học tập của học sinh,
đưa ra hệ thống câu hỏi hay, dễ hiểu, phù hợp với nội dung bài giảng và phải
có phương pháp tác động tích cực để học sinh hăng say tham gia phát biểu xây
dựng bài.
Trong quá trình giảng dạy, người thầy không chỉ truyền đạt cho học sinh
những kiến thức trong sách giáo khoa mà còn phải biết liên hệ thực tế ngoài
cuộc sống. Điều đó đòi hỏi người thầy giáo phải có vốn kiến thức sâu, rộng,
nắm bắt được các hiện tượng ngoài xã hội để liên hệ vào bài giảng, thông qua
đó giáo dục ý thức cho học sinh. Người giáo viên phải có đầu óc sáng tạo, khi
đó họ sẽ không có cảm giác “cháy giáo án”. Biết rằng dự tính trước là việc làm
cần thiết trong mọi hình thức lao động. Nhưng đối với công tác dạy học, do đối
tượng là những con người có thế giới tâm lý muôn hình muôn vẻ và luôn luôn
Trang 8
Khoá luận tốt nghiệp đại học sư phạm SVTH: Danh Thị Mỹ Hạnh
thay đổi, nên bất cứ lúc nào trước mắt người giáo viên cũng có thể xuất hiện
những vấn đề mới. Trong các điều kiện mới đòi hỏi người giáo viên phải quyết
định kịp thời các biện pháp giải quyết. Có người nói: “Muốn sáng tạo thì phải
có cảm hứng của nhà giáo” [17; 76]. Điều đó là hoàn toàn đúng, cảm hứng là
sản phẩm của sự lao động chuẩn bị kỹ càng của người giáo viên. Khi đó cảm
hứng sẽ giúp cho người giáo viên luôn thành công hơn và đi đến sự sáng tạo
cái mới.
1.1.2.2. Lao động của giáo viên phổ thông không chỉ là lao động trí
óc mà còn lao động chân tay.
Trong hoạt động giảng bài trên lớp của giáo viên cần có nhiều hành
động phối hợp nhuần nhuyễn, đòi hỏi giáo viên phải am hiểu tường tận học
sinh, bài giảng, phải có sự chuẩn bị rất công phu từ ở nhà. Giáo viên phải hoạt
động liên tục cả buổi (trừ những phút giải lao giữa các tiết học), trong giảng
dạy yêu cầu giáo viên phải nói to, rõ, ngôn ngữ chuẩn xác, trong sáng. Ở bậc
Tiểu học, giáo viên không thể giảng dạy theo lối thuyết trình mà phải vừa nói,
vừa viết, vừa hướng dẫn học sinh làm theo từng thao tác rất nhỏ công phu, đòi

hỏi giáo viên phải hướng dẫn tỉ mỉ tới từng học sinh. Ở những lớp đầu cấp, học
sinh chưa có nề nếp học tập, nên giáo viên muốn dạy tốt thì phải có tính kiên
trì cao độ, uốn nắn từng thao tác nhỏ, hình thành từng nếp nhỏ ở từng học sinh.
Việc xử lí các tình huống xảy ra trong tiết học rất phong phú, phức tạp, đa
dạng. Càng ở lớp bé giáo viên càng phải vừa dạy dỗ, vừa là “quan tòa” xử lí
các vụ kiện trẻ em: “Thưa cô bạn cấu em”, “thưa cô bạn nói chuyện”,… Giáo
viên phải có khả năng phân phối sự chú ý cao và nghệ thuật khéo léo đối xử sư
phạm [17; 16]. Người thầy giáo phải hao tổn trí não và thể lực thông qua hoạt
động quan trọng là nói, nói trong phần khá lớn thời gian, trong tuần, trong
tháng, trong năm, nói sao cho học sinh hiểu được, nghe được, nói vừa đủ cho
40, 50, 60 học sinh cùng nghe rõ. Đồng thời mỗi lời nói, mỗi câu nói, mỗi ý
phải có đầy đủ ý nghĩa khoa học và giáo dục. Tất nhiên là song song với lời nói
phải có việc biểu diễn, làm mẫu, trong các công tác thực hành thí nghiệm, lao
động sản xuất, lao động kỹ thuật, hoạt động xã hội, rèn luyện thân thể.
Ngoài việc chuẩn bị giáo án, thực hiện tiết dạy sao cho có hiệu quả thì
người giáo viên phổ thông còn phải thực hiện thêm các hoạt động khác cũng
chiếm khá nhiều thời gian, công sức và trí tuệ như ra đề kiểm tra, đề thi, chấm
bài kiểm tra và đặc biệt là hoạt động giáo dục học sinh (làm công tác chủ
nhiệm). Giáo viên thường xuyên phải giải quyết các trường hợp của những em
học sinh cá biệt như: trốn học, lười học, không chuẩn bị bài, đánh nhau, vẽ
Trang 9
Khoá luận tốt nghiệp đại học sư phạm SVTH: Danh Thị Mỹ Hạnh
bậy,…khá mệt óc. Trước hết, giáo viên phải tìm hiểu kĩ học sinh về mặt tâm lí,
hoàn cảnh xã hội, tình trạng sức khỏe. Người thầy giáo không chỉ làm việc với
cả lớp mà phải làm việc với từng em học sinh cụ thể phải tập trung trí tuệ cao,
để tìm hiểu phân biệt, lí giải tìm ra giải pháp thích hợp cho từng em học sinh.
Tìm mọi cách giáo dục để các em không còn sai phạm nữa.
1.1.2.3. Giáo viên phổ thông không chỉ có trí tuệ mà phải có phẩm
chất đạo đức tốt, có lòng yêu thương con người.
Đây là đặc trưng cơ bản mang tính nghề nghiệp đòi hỏi cần phải có

trong mỗi con người thầy giáo. Bởi “nghề dạy học là một nghề lao động
nghiêm túc, không được phép có phế phẩm” [17; 32]. Trong các nghề sản xuất
vật chất, kế hoạch hàng năm có thể dự kiến số “phế phẩm” nhưng trong lao
động của nhà giáo, điều đó không được phép. Một nhà tư tưởng lớn đã nói:
“Nếu người thợ kim làm hỏng một đồ vàng bạc thì anh ta có thể đem ra nấu lại.
Nếu một viên ngọc quý bị hư thì có thể phá bỏ. Nhưng một hạt kim cương lớn
nhất cũng không thể quý hơn một con người sẽ ra đời. Làm hư một con người
là một tội lớn, một lỗi lầm lớn không thể nào chuộc được” [17; 32]. Điều đó
chứng tỏ rằng để tạo ra những thế hệ không hư hỏng, những thế hệ có phẩm
chất tốt đẹp thì bản thân người dạy học cần phải có nhân cách đạo đức tốt.
Thầy giáo dạy người chủ yếu bằng bản thân con người của mình. Đó là tính
biện chứng của lao động sư phạm. Tất nhiên là dạy học, người thầy giáo cần
bảng, cần phấn, cần sách,…nhưng nhân cách của nhà giáo (phẩm chất và năng
lực) rất quan trọng. Nhân cách toàn diện của nhà giáo gồm ba yếu tố: Nắm
vững kiến thức khoa học về bộ môn; có các phẩm chất đạo đức tốt làm gương
cho học sinh; có phương pháp giảng dạy, giáo dục tốt [17; 32].
Bàn về ý nghĩa nhân cách của nhà giáo, Platôn – triết gia cổ Hy Lạp đã
nói: “Nếu như người thợ giầy là một người thợ tồi thì quốc gia sẽ không quá lo
lắng về điều đó, dân chúng sẽ phải xỏ những đôi giầy kém một chút. Nhưng
nếu thầy giáo là người dốt nát, vô luân, thì trên đất nước sẽ xuất hiện cả một
thế hệ kém cỏi và những con người xấu xa” [17; 33]. Một giáo viên phổ thông
không phải chỉ dạy con người nói chung mà dạy từng con người cụ thể. Một
lớp học có hàng chục em học sinh, tất nhiên sẽ có những em học giỏi, có
những em học kém. Đối với những em học kém sẽ rất chậm hiểu, tiếp thu kiến
thức rất kém cỏi. Trong trường hợp này nếu như một người giáo viên không có
lương tâm chắc hẳn sẽ bỏ qua không màng đến. Nhưng một giáo viên đòi hỏi
phải có lương tâm, phải dạy bảo tận tình, giúp đỡ những em học kém làm sao
để hiểu được bài. Về mặt giáo dục đạo đức, người giáo viên chủ nhiệm phải
Trang 10
Khoá luận tốt nghiệp đại học sư phạm SVTH: Danh Thị Mỹ Hạnh

giúp đỡ, chăm sóc để mỗi em đều tiến bộ về nhận thức, về tình cảm, về hành
vi. Yêu cầu này tương ứng với nguyên tắc “chăm sóc từng học sinh” trong xã
hội giáo dục.
Một người thầy giáo dạy ở phổ thông ngoài việc giúp đỡ những em học
kém học tốt hơn còn phải có nhiệm vụ khác không kém phần quan trọng, đó là
việc giáo dục đạo đức cho học sinh, đây là một công việc khó khăn và phức
tạp. Bởi trong lớp học đâu phải học sinh nào cũng ngoan, cũng dễ bảo cả, ít
nhiều cũng phải có vài em bướng bỉnh, hư hỏng về đạo đức. Để giáo dục cho
những trường hợp đó đòi hỏi người thầy giáo phải có lòng yêu thương con
người sâu sắc, tìm hiểu những hiện tượng hư hỏng về đạo đức, các nguyên
nhân của chúng và áp dụng các biện pháp cảm hóa con người. Trong y học nếu
không tìm ra các biện pháp cảm hóa con người thì người thầy thuốc cũng
không thể có giải pháp nào khác. Trong giáo dục phổ thông, tìm ra đuợc
nguyên nhân gây ra sự hư hỏng của học sinh là một việc rất công phu đòi hỏi
phải có sự nỗ lực cao độ của người thầy giáo. Động cơ nào giúp người thầy
giáo có sự nỗ lực cao độ đó. Tất cả là ở lương tâm của người thầy.
Như vậy, để có thể giảng dạy tốt, giáo dục tốt những thế hệ trẻ có ích
cho đất nước, kể cả những thế hệ chưa ngoan thì điều cần thiết là ở người thực
hiện vai trò giáo dục phải có trí tuệ cao, có đầu óc sáng tạo, không ngại khó
khăn gian khổ. Dù biết rằng, trước mắt là nhiệm vụ rất phức tạp đòi hỏi phải
tốn nhiều thời gian, công sức và đặc biệt cần thiết nhất ở người thầy giáo là
phải có lương tâm trong sáng, biết yêu thương con người (nhất là thế hệ trẻ),
biết phấn đấu vì mục tiêu cao đẹp của đất nước, đào tạo ra những thế hệ vững
vàng về trí tuệ, trong sáng về đạo đức góp phần làm cho sự nghiệp giáo dục
của nước nhà luôn được chấn hưng ngày càng mạnh mẽ. Khi đó đất nước sẽ có
thêm một điều kiện rất quan trọng để ngày càng phát triển giàu mạnh hơn, cao
đẹp hơn.
1.2. Vai trò của đội ngũ giáo viên phổ thông trong sự nghiệp phát
triển giáo dục và đào tạo.
Cùng với sự phát triển của khoa học và công nghệ, lao động trí óc sẽ

chiếm vị trí chủ đạo trong quá trình sản xuất, những người lao động trí óc sẽ là
chủ thể lao động xã hội. Vậy lao động trí óc hình thành từ đâu? Chỉ có trong
môi trường giáo dục và đào tạo mới hình thành nên những con người có trí óc,
những con người được xem là nguồn nhân lực, nhân tài của đất nước. Nhận
thức được tầm quan trọng của giáo dục và đào tạo, Đảng ta khẳng định: “Giáo
Trang 11
Khoá luận tốt nghiệp đại học sư phạm SVTH: Danh Thị Mỹ Hạnh
dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu” [35; 95]. Và đề ra nhiều phương hướng
cơ bản để phát triển giáo dục và đào tạo. Mặt khác, Hồ Chí Minh lại nói: “Nếu
không có thầy giáo thì không có giáo dục”. Câu nói của Người đã khẳng định
được vị trí, vai trò rất quan trọng của đội ngũ giáo viên, trong đó, phải kể đến
đội ngũ giáo viên phổ thông.
Như vậy, giáo dục và đào tạo có vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp
phát triển của đất nước. Còn đội ngũ giáo viên lại có vai trò rất quan trọng
trong sự nghiệp phát triển giáo dục và đào tạo. Những vai trò quan trọng của
đội ngũ giáo viên, đặc biệt là giáo viên phổ thông có thể được khái quát thành
những nội dung.
1.2.1. Đội ngũ giáo viên phổ thông là nguồn nhân lực quan trọng
trong sự nghiệp giáo dục và đào tạo.
Nguồn lực con người là rất quan trọng trong sự nghiệp phát triển của đất
nước. Cũng tương tự như vậy, đội ngũ giáo viên phổ thông được xem là nguồn
nhân lực quan trọng trong sự nghiệp phát triển giáo dục và đào tạo. Mục tiêu
của giáo dục và đào tạo là hình thành và phát triển nhân cách con người. Do
đó, trong giáo dục và đào tạo trước hết cần phải có đội ngũ giáo viên là những
con người có nhân cách (có năng lực và phẩm chất đạo đức) để giáo dục rèn
luyện hình thành những mầm mống nhân cách mới. Trên cơ sở đó, phát triển
giáo dục nhằm thực hiện nhiệm vụ nâng cao dân trí, đào nhân lực, bồi dưỡng
nhân tài hay nói cách khác là nhằm phát triển con người bền vững để phát triển
kinh tế - xã hội. Như vậy, toàn bộ sự nghiệp giáo dục và đào tạo là nhằm phát
triển con người, trong đó tri thức phải thành kĩ năng, thái độ, trí tuệ phải thành

trí lực. Nói gọn lại là thành lực lượng vật chất và lực lượng tinh thần.
Nói đến nguồn nhân lực là nói đến số lượng, chất lượng và quản lí
nguồn nhân lực. Theo thống kê của Vụ Kế hoạch – Tài vụ của Bộ Giáo dục và
Đào tạo năm 2001 thì số lượng và chất lượng của đội ngũ giáo viên phổ thông
ở nước ta là tương đối ổn định so với số lượng học sinh phổ thông. Với tổng số
học sinh Tiểu học là 9.751.413 em, thì có 3.487.833 giáo viên Tiểu học. (trong
đó đạt trình độ chuẩn là 84,38%); Với 5.918.153 học sinh Trung học cơ sở, thì
có 224.840 giáo viên Trung học cơ sở (trong đó đạt trình độ chuẩn là 88,99%);
Với 2.199.814 học sinh Trung học phổ thông thì có 74.189 giáo viên Trung
học phổ thông (trong đó đạt trình độ chuẩn là 94,18%) [16; 41].
Như vậy, ở bất kì cấp học, bậc học nào cũng cần đến một nguồn nhân
lực là đội ngũ giáo viên để có thể tổ chức và điều khiển quá trình tiếp thu kiến
Trang 12
Khoá luận tốt nghiệp đại học sư phạm SVTH: Danh Thị Mỹ Hạnh
thức của học sinh, giúp học sinh lĩnh hội tri thức mới, vận dụng kiến thức cũ
vào thực tế cuộc sống bản thân, đồng thời, giáo dục những phẩm chất tốt đẹp
cho học sinh. Chính vì lý do đó, người giáo viên luôn luôn được coi trọng.
Trong những năm gần đây, Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng việc “bảo đảm
đủ số lượng, năng cao chất lượng đội ngũ giáo viên ở tất cả các cấp học, bậc
học”. [35; 97]. Cần tăng cường đào tạo giáo viên đáp ứng nhu cầu của các cơ
sở giáo dục phổ thông. Đồng thời đẩy mạnh chuẩn hóa giáo viên về mọi mặt,
không chỉ chuẩn hóa về trình độ đào tạo mà cần phải tiếp tục đổi mới chương
trình, nội dung, phương pháp đào tạo theo hướng hiện đại hóa. Ngoài ra, cần
kết hợp giữa đào tạo với các chính sách thu hút, tuyển dụng những giáo viên
đủ tiêu chuẩn và sàng lọc những giáo viên không đủ tiêu chuẩn để đảm bảo đủ
giáo viên phổ thông theo định mức, cơ cấu và chất lượng.
Tóm lại, đất nước cần người tài thì giáo dục cũng cần những người giáo
viên giỏi, những người có năng lực thật sự, có phẩm chất đạo đức tốt để có thể
phục vụ cho đất nước. Đó là nguồn nhân lực quan trọng trong bất cứ cấp học,
bậc học nào. Nguồn lực đó đã đóng góp rất lớn cho sự nghiệp phát triển giáo

dục và đào tạo của nước ta trong quá khứ, ở hiện tại và còn đóng góp nhiều
hơn nữa trong sự nghiệp giáo dục và đào tạo của đất nước trong tương lai. Do
đó, Đảng và Nhà nước ta cần phải chú trọng nhiều hơn nữa vấn đề nâng cao cả
về số lựơng và chất lượng đội ngũ giáo viên. Để làm sao phát huy tối đa nguồn
nhân lực đó, làm cho sự nghiệp giáo dục nước nhà càng phát triển, đất nước
càng giàu mạnh “sánh vai với các cường quốc năm châu” như lời Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã khuyên dạy dân tộc ta.
1.2.2. Đội ngũ giáo viên phổ thông góp phần quyết định chất lượng
giáo dục và đào tạo.
Xưa nay, đâu đâu người ta cũng thừa nhận vai trò của người thầy giáo,
có ý nghĩa chủ chốt, quyết định chất lượng quá trình dạy học. Người thầy giáo
là người thay mặt cho xã hội điều khiển quá trình dạy học, họ là nguồn thông
tin, là nguồn tri thức cơ bản, dễ hiểu và lí thú, họ là những tấm gương về đạo lí,
tác phong cho các em học sinh… Như vậy, chất lượng giáo dục và đào tạo có
được nâng lên hay không, phải kể đến một phần lớn ở vai trò của người thầy
giáo.
Ngày 28 tháng 12 năm 2001, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết
định số 201/2001/QĐ – TTg về Chiến lược phát triển giáo dục và đào tạo
2001- 2010, trong phần mục tiêu chung có ghi: “Tạo bước chuyển biến cơ bản
Trang 13
Khoá luận tốt nghiệp đại học sư phạm SVTH: Danh Thị Mỹ Hạnh
về chất lượng giáo dục theo hướng tiếp cận với trình độ, tiến trình của thế giới
phù hợp với thực tiễn của Việt Nam, phục vụ thiết thực cho sự phát triển kinh
tế - xã hội của đất nước, của từng vùng, từng địa phương, hướng tới một xã hội
học tập. Phấn đấu đưa nền giáo dục nước ta thoát khỏi tình trạng tụt hậu trên
một số lĩnh vực so với các nước phát triển trong khu vực” [16; 234]. Mặt khác,
Chính phủ cũng đã định ra các danh hiệu cao quý do Chủ tịch nước kí tặng các
nhà giáo như “Nhà giáo ưu tú” và “Nhà giáo nhân dân”; Bộ trưởng Bộ Giáo
dục và Đào tạo kí tặng các nhà giáo có nhiều thành tích đóng góp nhiều năm
cho sự nghiệp giáo dục và đào tạo huy hiệu “Vì sự nghiệp giáo dục và đào

tạo”.
Không phải hiển nhiên mà các nhà giáo lại được nhận nhiều danh hiệu
cao quý như vậy. Để nhận được những sự khen tặng đó, họ đã đóng góp không
ít sức lực và trí tuệ cho sự nghiệp giáo dục và đào tạo của đất nước. Hiện nay,
đội ngũ giáo viên phổ thông chiếm khá lớn số lượng đội ngũ những người ăn
lương của Nhà nước. Trong khi số cán bộ hành chính sự nghiệp có vài trăm
người, số cán bộ trong các viện và cơ sở nghiên cứu có hơn 50.000 người thì
tổng số đội ngũ giáo viên có trên dưới 800.000 người [15; 252]. Điều đó đã
góp phần rất lớn đến việc nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo ở nước ta.
Chính vì thế mà trong Văn kiện Hội nghị lần thứ hai Ban chấp hành Trung
ương khóa VIII của Đảng đã khẳng định: “Giáo viên là nhân tố quyết định chất
lượng của giáo dục và được xã hội tôn vinh” [33; 38].
Số lượng, chất lượng đội ngũ giáo viên cao hay thấp có ảnh hưởng rất
lớn đến chất lượng giáo dục và đào tạo. Bên cạnh những giáo viên dạy giỏi,
những giáo viên có thành tích xuất sắc đóng góp cho sự nghiệp giáo dục và đào
tạo của đất nước đã được khen thưởng xứng đáng thì hiện nay vẫn còn nhiều
tình trạng đặt ra trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo về việc bồi dưỡng, sử dụng,
đãi ngộ giáo viên: Về số lượng vẫn còn thiếu rất nhiều (khoảng hơn 150.000
giáo viên Tiểu học, Trung học cơ sở và Trung học phổ thông); về chất lượng,
số giáo viên chưa đạt chuẩn còn nhiều, việc bồi dưỡng tổ chức chưa được đều
khắp, nhất là phương pháp giảng dạy bộ môn chưa phát triển, chưa đáp ứng
được yêu cầu nâng cao chất lượng giáo dục ở các trường phổ thông [15; 254].
Để giảm bớt những mặt còn hạn chế về số lượng và chất lượng của đội
ngũ giáo viên phổ thông nhằm góp phần nâng cao chất lượng giáo dục và đào
tạo, ngành Giáo dục và Đào tạo nước ta đã đẩy mạnh công tác bồi dưỡng
thường xuyên cho giáo viên phổ thông chu kỳ 1997 – 2000 theo các Quyết
định số 1734/QĐ – GD – ĐT ngày 25 tháng 07 năm 1997 cho giáo viên Tiểu
Trang 14
Khoá luận tốt nghiệp đại học sư phạm SVTH: Danh Thị Mỹ Hạnh
học, Quyết định số 1733/QĐ – GD – ĐT ngày 27 tháng 05 năm 1997 cho giáo

viên Trung học cơ sở và Quyết định số 1732/QĐ – GD – ĐT ngày 27 tháng 05
năm 1997 cho giáo viên Trung học phổ thông [15; 255 - 256].
Nhờ có vai trò của người thầy giáo, nên chất lượng học tập của học sinh
nước ta đã được nâng lên khá cao. Theo số liệu của Vụ Giáo dục Trung học,
Bộ Giáo dục và Đào tạo thì từ năm 1976 đến năm 2001 nước ta có tổng số 383
học sinh dự thi Olympic Quốc tế, trong đó có 327 em đạt giải (chiếm tỉ lệ 85%
tổng số học sinh dự thi đạt giải) [15; 161].
Trong những năm gần đây thành quả giáo dục nước ta tiếp tục được
nâng lên. Đối với giáo dục phổ thông, Đảng và Nhà nước ta đã đưa ra mục tiêu
phấn đấu đến năm 2010. Cụ thể: “Tăng tỉ lệ huy động học sinh trong độ tuổi
đến trường từ 95% năm 2000 lên 97% năm 2005 và 99% năm 2010. Đạt chuẩn
quốc gia phổ cập Trung học cơ sở ở các thành phố, đô thị, vùng kinh tế phát
triển vào năm 2005, trong cả nước vào năm 2010. Tăng tỉ lệ học sinh Trung
học cơ sở trong độ tuổi từ 74% năm 2000 lên 80% năm 2005 và 90% năm
2010. Đối với Trung học phổ thông, thực hiện chương trình phân ban hợp lí,
đảm bảo cho học sinh có học vấn phổ thông cơ bản theo chuẩn thống nhất,
đồng thời tạo điều kiện cho sự phát huy năng lực của mỗi học sinh giúp cho
các em có những hiểu biết kĩ thuật, chú trọng hướng nghiệp để tạo điều kiện
thuận lợi cho việc phân luồng học sinh sau Trung học phổ thông để học sinh
vào đời hoặc chọn nghề tiếp sau khi tốt nghiệp. Tăng tỉ lệ học sinh trong độ
tuổi vào trường Trung học phổ thông từ 38% năm 2000 lên 45% năm 2005 và
50% năm 2010” [dẫn theo 15; 235 - 236].
Tóm lại, không thể nào có được một thành quả tốt cho lĩnh vực giáo dục
và đào tạo, nếu ở đó không có vai trò của đội ngũ giáo viên hoặc đội ngũ giáo
viên quá ít về số lượng, kém về chất lượng. Vai trò của đội ngũ giáo viên là rất
lớn trong việc nâng cao chất lượng sự nghiệp giáo dục và đào tạo. Chính vì thế
mà tài năng và phẩm giá của họ luôn được lớp lớp học sinh ca ngợi, xã hội trân
trọng và ngưỡng mộ.
1.2.3. Đội ngũ giáo viên phổ thông góp phần đào tạo nhiều thế hệ
tương lai của đất nước.

Bất kì một nhà thiên tài nào đều phải trải qua thời kì giáo dục tại các
trường phổ thông, được sự dạy dỗ, giáo dục của người thầy giáo. Chính vì thế,
vị trí của người thầy giáo là rất quan trọng. Theo Hồ Chí Minh: “Nghề thầy
giáo rất là quan trọng, rất là vẻ vang, ai có ý kiến không đúng về nghề thầy
Trang 15
Khoá luận tốt nghiệp đại học sư phạm SVTH: Danh Thị Mỹ Hạnh
giáo thì phải sửa chữa” [22; 509]. Nhiệm vụ của người thầy giáo là đào tạo ra
nhiều thế hệ tích cực góp phần xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản,
nhiệm vụ của người thầy giáo chung quy lại là phải hoàn thành mục đích của
giáo dục, đó là phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc. Và trong Luật Giáo dục
2005 ở nước ta quy định: “Mục tiêu của giáo dục phổ thông là giúp học sinh
phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ
bản, phát triển năng lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo, hình thành nhân
cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm
công dân; chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao
động, tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. [19; 32].
Người thầy giáo không chỉ hình thành cho học sinh những kĩ năng về
mặt trí tuệ mà phải giáo dục, hình thành cho các em những phẩm chất đạo đức
cần thiết. Để đội ngũ thầy cô giáo hoàn thành nhiệm vụ và xứng đáng với vị trí
của mình, Hồ Chí Minh đã nhắc nhở: Các thầy cô giáo phải trở thành tấm
gương trong sáng, thành kiểu mẫu cho các em noi theo, “phải là kiểu mẫu về
mọi mặt, tư tưởng, đạo đức, lối làm việc”. Muốn vậy, người thầy giáo ngoài tài
năng, học vấn phải có đạo đức cách mạng “Trong giáo dục không những phải
có tri thức phổ thông mà phải có đạo đức cách mạng, có tài phải có đức. Có tài
không có đức, tham ô hủ hóa có hại cho nước, có đức không có tài như ông bụt
ngồi trong chùa không giúp ích gì được cho ai”. [20; 184]. Như vậy, để giáo
dục được nhiều thế hệ có đủ cả đức và tài thì trước hết bản thân người thầy
giáo phải có đủ hai điều kiện đó. Nhiệm vụ đặt ra đối với người thầy giáo là vô
cùng nặng nề, nếu thầy giáo không có trí tuệ, tài năng cũng như không có đạo
đức thì không thể đảm đương được nhiệm vụ, không đào tạo được những thế

hệ công dân, cán bộ có tài cho xã hội.
Những thành tựu về giáo dục và đào tạo là mục tiêu cần thiết mà Đảng
và Nhà nước ta cần đạt được. Để thực hiện được những mục tiêu trong giáo
dục và đào tạo đều phải tính đến công lao to lớn của các thầy, cô giáo. Những
thành tựu đạt được trong giáo dục và đào tạo cũng chính là tâm nguyện của các
thầy, cô giáo, bởi họ là những con người phải thực hiện những mục tiêu của
giáo dục và đào tạo. Không những thế, đội ngũ giáo viên còn phải giáo dục học
sinh trở thành những con người tốt, người giáo viên phải biết quan tâm giáo
dục học sinh trong lao động học tập, lao động khoa học. Vấn đề không phải chỉ
đơn giản là khuyên học sinh chăm học mà phải đi sâu vào tâm lí, tình cảm, tư
duy, tư tưởng của một con người trong quá trình học tập của học sinh.
Trang 16
Khoá luận tốt nghiệp đại học sư phạm SVTH: Danh Thị Mỹ Hạnh
* *
*
Tóm lại, đội ngũ giáo viên nói chung và đội ngũ giáo viên phổ thông nói
riêng có vai trò vô cùng to lớn trong sự nghiệp giáo dục và đào tạo. Đó chính là
một nguồn nhân lực đặc biệt, những con người ngày càng được phát triển cao
về trí tuệ, khỏe mạnh về thể chất, giàu có về tinh thần, trong sáng về đạo đức,
linh hoạt và văn minh. Họ chính là nguồn nhân lực không thể thiếu, là đội ngũ
góp phần quyết định chất lượng, nâng cao hiệu quả giáo dục và đào tạo, là
người đào tạo ra những thế hệ tương lai cho đất nước. Chính vì thế mà trong số
các phương hướng cần thực hiện để góp phần triển khai thắng lợi chiến lược
phát triển giáo dục mà Đại hội lần IX của Đảng ta đã thông qua có phương
hướng rất quan trọng đế cập đến đội ngũ giáo viên: “Tăng cường đào tạo giáo
viên đáp ứng nhu cầu của các cơ sở giáo dục công lập và ngoài công lập. Kết
hợp giữa đào tạo với các chính sách thu hút, tuyển dụng những giáo viên đủ
tiêu chuẩn, sàng lọc những giáo viên không đủ tiêu chuẩn để đảm bảo đủ giáo
viên phổ thông theo định mức, cơ cấu và chất lượng. Tăng cường công tác bồi
dưỡng những sinh viên giỏi trở thành những giảng viên đại học”. [34; 244].


Trang 17
Khoá luận tốt nghiệp đại học sư phạm SVTH: Danh Thị Mỹ Hạnh
Chương 2: Vai trò của đội ngũ giáo viên trong phát triển giáo
dục phổ thông ở huyện An Phú, tỉnh An Giang từ năm 2001
đến nay.
2.1. Vị trí địa lí, đặc điểm tự nhiên, điều kiện kinh tế - xã hội huyện
An Phú, tỉnh An Giang.
2.1.1. Vị trí địa lý, đặc điểm tự nhiên.
Huyện An Phú thuộc tỉnh An Giang, là huyện đầu nguồn sông Cửu
Long, có đường biên giới Việt Nam – Cămpuchia dài 42 km. Phía Đông giáp
huyện Tân Châu, Tây và Bắc giáp Cămpuchia, Nam giáp thị xã Châu Đốc.
Diện tích tự nhiên 208,97 km
2
, chiếm 6% diện tích của tỉnh. Dân số trên
180.000 người, trong đó đa số là người Kinh với 1s73.900 người (chiếm
96,6%), dân tộc Chăm có 6.100 người (chiếm 3,38%), còn lại là dân tộc Hoa
và Khơmer rất ít.
Toàn huyện có 2 thị trấn (An Phú và Long Bình); 12 xã (Đa Phước, Phú
Hội, Khánh Bình, Nhơn Hội, Vĩnh Hội Đông, Phước Hưng, Vĩnh Trường, Phú
Hữu, Vĩnh Lộc, Quốc Thái, Khánh An, Vĩnh Hậu).
Về giao thông rất thuận lợi, đường bộ có Tỉnh lộ 956 và 957, đường
thủy có sông Hậu và sông Châu Đốc và đặc biệt là điểm đầu nối với quốc lộ 21
của Cămpuchia, cách thủ đô PhnômPênh 76 km – là con đường ngắn nhất đi từ
Việt Nam đến Cămpuchia. Tại khu vực cửa khẩu, Chính phủ hai nước đã thống
nhất xây dựng cầu hữu nghị Khánh Bình – Chạy Thum để thông tuyến đường
bộ Việt Nam – Cămpuchia. Phía Cămpuchia, quốc lộ 21 đã xây dựng láng
nhựa hoàn chỉnh, đang đầu tư tụ điểm Casino và một số công trình phục vụ cho
việc phát triển kinh tế cửa khẩu hai quốc gia trên tinh thần hòa bình, hợp tác và
hữu nghị. Đây là những yếu tố quan trọng cho phép huyện đẩy mạnh quá trình

phát triển kinh tế biên giới, mở rộng giao lưu kinh tế với thị trường Cămpuchia
và khu vực.
Địa hình chung của huyện An Phú tương đối bằng phẳng. Phần lớn đất
nằm trong diện tích đất phù sa, bãi bồi, một phần thuộc đất trầm tích lâu năm.
Khí hậu mang tính chất của khí hậu ẩm gió mùa, chia làm hai mùa rõ
rệt: Mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11, mùa khô từ tháng 12 đến tháng 4 năm
Trang 18
Khoá luận tốt nghiệp đại học sư phạm SVTH: Danh Thị Mỹ Hạnh
sau. Nhiệt độ trung bình cả năm là 27
o
C, sự chênh lệch giữa các tháng là không
cao (2 đến 3
o
C). Do địa hình là đồng bằng nên chế độ gió khá đồng nhất, gió
Tây Nam bắt đầu từ tháng 5 đến tháng 10 gây mưa (chiếm 90% lượng nước),
gió Đông Bắc thổi từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau, làm cho thời tiết khô và
không mưa, lượng mưa trung bình là 1.500 mm. Mùa mưa thường trùng với
mùa lũ, do đó mà lượng nước giữa hai mùa có sự chênh lệch khá lớn. Hằng
năm, vào mùa nước nổi, nước trong đồng ruộng ngập sâu từ 1 đến 3 mét. Do
nằm đầu nguồn sông Cửu Long nên hàng năm nước lũ về sớm hơn các huyện
khác, vì vậy phải thường xuyên tu bổ hệ thống đê bao bảo vệ sản xuất vụ hè
thu.
(Nguồn: Ủy ban nhân dân huyện An Phú, tỉnh An Giang – An Phú
tiềm năng và cơ hội đầu tư, năm 2005).
2.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội.
2.1.2.1. Điều kiện kinh tế.
Huyện có diện tích nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản lớn, có nhiều
cửa khẩu biên giới nên thuận lợi trong giao lưu kinh tế quốc tế, đặc biệt với
Cămpuchia và vùng đồng bằng sông Cửu Long.
Kinh tế nông nghiệp chiếm 49% trong cơ cấu kinh tế của huyện. Đất đai

phù sa bồi đắp hàng năm, mạng lưới sông ngòi, kênh mương thủy lợi thuận
tiện, hệ thống đê bao ngăn lũ vững chắc phù hợp cho sản xuất cây lúa và các
loại cây hoa màu, có trên 2.760 ha mặt nước sông, kênh rạch là điều kiện thuận
lợi cho khai thác và nuôi trồng thủy sản.
Huyện An Phú có các cửa khẩu: Khánh Bình, Bắc Đai, Vĩnh Hội Đông
và Đồng Đức, trong đó cửa khẩu Khánh Bình có nhiều ưu thế do có hệ thống
giao thông đường bộ, đường sông thuận tiện, nối liền với các tỉnh biên giới và
thủ đô Cămpuchia, đây là điều kiện thuận lợi để phát huy lợi thế, thúc đẩy kinh
tế biên giới phát triển.
Về nguồn lực, huyện An Phú có nguồn lao động rất dồi dào, tham gia
trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và thương mại, dịch
vụ, đồng thời, còn có một lực lượng lao động chưa có việc làm do chưa được
đào tạo tay nghề và không có đất sản xuất.
Kinh tế huyện An Phú trong những năm qua vẫn duy trì nhịp độ tăng
trưởng khá cao và ổn định, bình quân 10,28%/năm, thu nhập đầu người 6,272
triệu đồng/năm. Toàn huyện có 654 cơ sở công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp,
Trang 19
Khoá luận tốt nghiệp đại học sư phạm SVTH: Danh Thị Mỹ Hạnh
từ chương trình khuyến công và các chính sách ưu đãi của tỉnh đã hỗ trợ hơn 5
tỉ đồng cho các cơ sở mở rộng sản xuất, đổi mới thiết bị và nâng cao chất
lượng sản phẩm, đáp ứng nhu cầu thị trường. Ngoài ra, huyện còn quan tâm
đẩy mạnh phát triển ngành nghề truyền thống địa phương, giải quyết việc làm
cho hơn 20.000 lao động.
Đầu tư cơ bản hoàn chỉnh hệ thống chợ biên giới như: Chợ Khánh Bình,
Khánh An, Đồng Ky, Vĩnh Hội Đông, Nhơn Hội, Phú Hữu, Phước Hưng…đã
phát huy tác dụng. Triển khai xây dựng khu kinh tế cửa khẩu Khánh Bình. Khu
dân cư đô thị Cồn Tiên và khu du lịch Búng Bình Thiên. Hàng hóa xuất nhập
khẩu qua biên giới năm 2003 là 36 triệu USD, năm 2004 xuất khẩu là 52 triệu
USD.
(Nguồn: Ủy ban nhân dân huyện An Phú, tỉnh An Giang – An Phú

tiềm năng và cơ hội đầu tư, năm 2005).
2.1.2.2. Điều kiện xã hội.
Giáo dục và đào tạo: Ngày càng được quan tâm đầu tư để phát triển
nguồn nhân lực phục vụ cho sự phát triển kinh tế. Chất lượng dạy và học ngày
càng được nâng cao. Toàn huyện có 4 trường Trung học phổ thông: Quốc thái,
An Phú, bán công An Phú và Vĩnh Lộc; Có 14 trường Trung học cơ sở trên 14
xã – thị trấn; Có trên 30 trường Tiểu học. Năm 2006 toàn huyện có 31.068 học
sinh, trong đó Mẫu giáo 2.984 học sinh, Tiểu học 15.144 học sinh, Trung học
cơ sở 9.386 học sinh, Trung học phổ thông 3.554 học sinh. Điều kiện về cơ sở
vật chất và giáo viên cơ bản đã đáp ứng tốt nhu cầu dạy và học. Huyện có một
trung tâm giáo dục thường xuyên đào tạo các lớp chứng chỉ A Tin học và Anh
văn, liên kết với trường đại học Mở thành phố Hồ Chí Minh, mở một lớp đại
học Kinh tế Luật có 229 học viên; Một trung tâm dạy nghề ngắn hạn: May
công nghiệp, dệt len, dệt chiếu, kỹ thuật nuôi cá nước ngọt…góp phần giải
quyết việc làm trên địa bàn.
Về y tế: Công tác khám và điều trị bệnh thực hiện tốt, công tác chăm
sóc sức khỏe người dân được nâng cao, làm tốt công tác phòng chống dịch
bệnh, giảm tỉ lệ trẻ em suy dinh dưỡng từ 25% xuống còn 23%. Toàn huyện có
14 trạm y tế, một trung tâm y tế dự phòng và bệnh viện đa khoa An Phú.
Huyện có 370 ca bị nhiễm HIV, chuyển sang AIDS 15 ca, tử vong 10 ca.
Về văn hóa – xã hội: Hội chợ giao thương cửa khẩu Khánh Bình, liên
hoan văn hóa mùa nước nổi Búng Bình Thiên, ngày Hội văn hóa – thể thao
truyền thống huyện An Phú, Hội thi thể thao dân tộc Chăm với các hoạt động
Trang 20

×