Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

tiểu luận Lịch sử đô thị Huế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (153.19 KB, 16 trang )

Bài điều kiện Bùi Minh Hồng – K54A Lịch
sử
Huế xinh đẹp và mộng mơ từ lâu đã được nhiều nhà thơ không tiếc lời
ca ngợi, Bích Khê trong bài thơ “Huế đa tình” đã viết:
Thu về lạnh sắc tà dương
Hoàng cung chừng đã hơi hương bay dồn
Thuận An khuất bóng hoàng hôn
Gió bao giờ thổi lại hồn tràng giang
Nơi đây rụng đổ lá vàng
Lăng vua xa lắm, dặm đàng hạt xanh
Dòng Hương in gái nguyên lành
Lá thuyền du khách thanh thanh tiếng đờn
Vỹ Dạ thôn, Vỹ Dạ thôn
Biết che cần trúc không buồn mà say
Non xa trăng đã tròn đầy
Em ơi để mọc lòng gây lên mùa
Huế chắc phải đẹp lắm, “đa tình” lắm thì nhà thơ mới có thể viết nên
những vần thơ tuyệt diệu đến như vậy. Nhưng không chỉ có vậy, Huế cũng có
một lịch sử hình thành và phát triển lâu đời mà ngày nay vẫn còn là dề tài
đang trăn trở của nhiều nhà nghiên cứu. Trong phạm vi bài viết của mình, em
xin trình bày một số hiểu biết về tiến trình hình thành và phát triển cũng như
những đặc điểm của Phú Xuân- Huế.
I. Quá trình hình thành và phát triển
Đô thị Huế đã có mầm mống từ rất sớm. Thành châu Hoá trước khi
thuộc về quốc gia Đại Việt (1306) đã được người Chăm Pa xây dựng thành
một trung tâm lớn của vùng cực Bắc Vương Quốc. Từ đó, với vị trí "khoá
chặt lấy cửa sông", ở vùng ngã ba sông Hương và sông Bồ- nơi có "Truông
nhà Hồ", có "phá Tam Giang" án ngữ trên con đường Thiên lý dịch trạm Bắc
Nam; nó sớm trở thành một vùng đô thị-lỵ sở của Hoá châu- nơi tranh chấp
dữ dội của các thế lực chính trị Chăm- Việt, suốt các thời Trần, Hồ, Minh, Lê
1


Bài điều kiện Bùi Minh Hồng – K54A Lịch
sử
sơ rồi Lê-Mạc. Hạt nhân của vùng đô thị giữa 3 sông này là thành Hoá Châu
( các dòng nước bao bọc cả bốn bề, giữa có toà thành trăm dặm sừng sững
như đám mây dài phía hữu con sông ấy bày la liệt những trường học, nha
môn, Đô Thừa phủ Triệu Phong). Chung quanh hạt nhân ấy là sự phồn thịnh
của kinh tế- phát triển vượt bậc so với trước, vào thế kỷ XVI, Dương Văn An
đã nhắc đến trong cuốn sách “Ô châu cận lục” nổi tiếng của mình. Đó là hệ
thống các làng nghề nổi tiếng như rượu An Thành, rau Thành Trung, bún
Vân Cù, nón Triều Sơn, kim Mậu Tài, tranh hàng Mã, làng Sình kinh tế
thương nghiệp đã bao trùm cả một vùng: đi buôn thì có 2 làng Độ Khẩu,
Chiêm Ân. Cầu Bao Vinh ngựa xe đông như nước, xóm Lại Ân khách
thương buôn một bán mười. "Chợ Thế Lại: Thuyền bè chen chúc lui tới
những khách giàu sang, gấm vóc phơi bày la liệt những hàng tốt đẹp". Ông
đã hết lời ca ngợi Hoá Châu: " xóm làng trù phú, xuân sang thì mở hội bơi
trãi, gái lịch trai thanh thì hạ tới bày cuộc đấu thăm, dập dìu rộn rã nơi chốn
ca múa. Có người có của, theo thói theo lề Cách ăn uống thì hoang phí vô
cùng Xóm hoá nội biếc, đất tốt dân đông, chợ nọ cầu kia, vật hoa người quý
đều bày la liệt ở hai bờ nam bắc, huyện nha, phủ thự đều đối nhau ở hai bờ tả,
hữu Linh giang". Trung tâm thành Hoá Châu là "một toà thành trăm nhẫn
sừng sững như đám mây dài", "phía hữu con sông ấy la liệt những nha môn,
trường học, đô thừa phủ".
Những yếu tố văn hoá Việt đã phục hồi trở lại, tổng hoà với văn hoá
Chăm hình thành nên văn hoá dân gian của vùng Phú Xuân- Huế. Trung tâm
thành Hoá Châu chính là khu đô thị lỵ sở, nơi tập trung cơ quan đầu não về
chính trị quân sự của vùng biên viễn phía Nam Đại Việt với một không gian
kinh tế phồn thịnh bao quanh nó. Trung tâm ấy tuy chưa phải là vị trí của đô
thị Huế sau này, nhưng di sản đô thị về yếu tố đô (chính trị- quân sự) lẫn yếu
tố thị (kinh tế) của nó là tiền đề nội tại, là nền tảng để cho đô thị Huế ra đời
khi bắt gặp những tác nhân mới.

2
Bài điều kiện Bùi Minh Hồng – K54A Lịch
sử
Sự ra đời của đô thị Huế bắt nguồn từ tiền đề chính trị từ giữa thế kỷ
XVI. Đó là sự phân liệt trong nội bộ chính quyền quân chủ. Các thế lực chính
trị phong kiến ở tầm cỡ quốc gia có nhu cầu xây dựng các trung tâm chính
trị- quân sự riêng. Thế lực họ Nguyễn do mẫu thuẫn với thế lực họ Trịnh
đành phải rời xa Quốc đô Thăng Long để tìm đất "dung thân" mới. Từ đó,
theo chân các chúa Nguyễn, một luồng di dân đông đảo nhất so với trước từ
Đàng Ngoài và Thuận Hoá. Nếu từ giữa thế kỷ XVI, ba huyện Kim Trà, Đan
Điền, Tư Vinh (nay là Thừa Thiên Huế) chỉ có 180 xã (làng) thì đến năm
1716, con số đó đã là 351 đơn vị xã, thôn, phường, sách, châu trong đó có
226 xã (làng) hoàn chỉnh. Kết quả của sự tụ cư lập làng đó, cùng với các
chính sách kinh tế- xã hội thoáng đãng- biết "yên ủi vỗ về", biết "dạy dân
luyện binh" của các Chúa- làm cho Hoá Châu và Thuận Châu trở thành trung
tâm của một xứ Đàng Trong mở rộng theo con đường nam tiến, kinh tế phát
triển vượt bậc, giao thương rộng rãi với nước ngoài, các cảng khẩu xuất hiện.
Trong bối cảnh chính trị- xã hội đó, sự lựa chọn về địa điểm đứng chân của
các Chúa có ý nghĩa quyết định đến việc khai sinh đô thị Huế.
Quá trình lựa chọn nơi đặt lỵ sở của thế lực cát cứ họ Nguyễn kéo dài
hơn 100 năm cũng là quá trình nhích dần vào Nam và đứng chân hẳn bên bờ
sông Hương. Trải qua các địa điểm Ái Tử (1558-1570), Trà Bát (1570-1600)
Dinh Cát (1600-1626) trên đất Thuận Châu, rồi đến Phước Yên (1626-1636),
Kim Long (1636-1687), Phú Xuân (1687-1712), Bác Vọng (1712-1738) và
trở lại Phú Xuân (1738-1775) trên đất Hoá Châu. Đó cũng là quá trình nâng
dần tầm vóc miên đứng chân từ Dinh (1558) đến Phủ (1626) rồi đô Thành
(1744) của Chúa Nguyễn, sau đó là trọng trấn phương Nam của thế lực Lê-
Trịnh (1775-1786) và được Quang Trung chọn làm Kinh đô Phú Xuân của
Vương triều Tây Sơn (1788-1801). Như vậy từ 2 trung tâm đô thị cổ là thành
Thuận Châu và thành Hoá Châu; kịp khi trên mảnh đất Thuận Hoá xuất hiện

thế lực họ Nguyễn- điểm hội tụ địa linh và nhân kiệt- thì hình thành nên các
trung tâm đô thị mới. Thuận Châu tản ra thành các đô thị nhỏ: Ái Tử, Trà
3
Bài điều kiện Bùi Minh Hồng – K54A Lịch
sử
Bát, Dinh Cát; Hoá Châu chuyển dần lên thượng nguồn sông Bồ: Phước Yên,
Bác Vọng và sông Hương: Thanh Hà. Để rồi tất cả các đô thị tạm thời đó quy
tụ về bên sông Hương với Kim Long, Phú Xuân, Thanh Hà.
Cần phải thấy rằng vì đang trong quá trình tìm kiếm vùng "Thượng
Đô" cát địa, hơn nữa thời gian đóng lỵ sở chưa đủ dài, cộng với bối cảnh
chính trị vừa giải quyết thắng lợi cuộc đấu tranh quân sự với họ Trịnh, vừa
củng cố xây dựng lực lượng mọi mặt để tồn tại lâu dài; nên các địa điểm ở
Thuận Châu và Phước Yên, Bác Vọng hoàn toàn mang nặng tính chất chính
trị quân sự, là trung tâm đầu não của thế lực cát cứ mà chưa có sự phát triển
kinh tế tương xứng bao quanh hạt nhân đó. Sự phát triển đô thị, vì thế không
lâu dài như Kim Long, Thanh Hà, Phú Xuân.
Năm 1744, đô thị chính Kim Long chuyển về khu vực làng Phú Xuân
và sự phát triển thành thị của thời kỳ này hoàn chỉnh hơn. Quyết định đưa thủ
phủ trở lại Phú Xuân của chúa Nguyễn Phúc Khoát là một việc làm mang
tính tất yếu. Bởi việc trở lại Phú Xuân lần này, ngoài nguyên do thế mạnh của
vùng đất, còn có một nguyên nhân về mặt tâm linh rất quan trọng. "Chúa cho
rằng lời dấm có nói "Tám đời trở lại Trung đô", bèn đổi y phục, thay phong
tục, công dân đổi mới, châm chước chế độ các đời, định triều phục văn võ
Thế là "văn vật một phen đổi dân đổi mới, châm chước chế độ các đời, định
triều phục văn võ Thế là "văn vật một phen đổi mới". Như vậy, việc đưa
thủ phủ quay về Phú Xuân đã được chúa Nguyễn xem là sự kiện "trở lại
Trung đô". Điều này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng bởi nó không phải là một
sự thay đổi vị trí thủ phủ bình thường mà thực sự là quyết định đô của dòng
họ Nguyễn ở Đàng Trong. Năm năm sau sự kiện này, chúa Nguyễn Phúc
Khoát chính thức lên ngôi "Vương" tại Phú Xuân, đồng thời khiến gọi nơi

phủ ở là điện, đổi chữ "thân" làm chữ "tấu", phàm văn thư vẫn dùng niên hiệu
vua Lê, nhưng với cái thuộc quốc thì xưng Thiên Vương". Phú Xuân vốn
được gọi là Chính dinh, sau khi chúa lên ngôi vương được đổi làm Đô Thành.
4
Bài điều kiện Bùi Minh Hồng – K54A Lịch
sử
Quả thực là "văn vật một phen đổi mới"! Một quốc gia độc lập với
những thể chế riêng đã được chính thức ban hành. Riêng đất Phú Xuân, vốn
chỉ là một thủ phủ nay đã được xác lập với tư cách một Quốc đô.
Tuy nhiên, phải mười năm sau nữa, năm 1754, Võ Vương Nguyễn
Phúc Khoát mới có điều kiện xây dựng lại toàn bộ đô thành Phú Xuân, biến
nó trở thành một vùng đất phồn vinh, hoa lệ bậc nhất của Đàng Trong. Dù
trải qua hai giai đoạn phủ và đô thành nhưng vị trí của nó không cách biệt
nhau là bao. Hạt nhân của đô thị lúc này là "vương phủ hình vuông, có ba lớp
thành bao bọc, có bảy cửa thành ra vào, cửa chính trông thẳng vào trong có
xây vọng lầu. 150 đại bác cỡ nhỏ đặt rải rác quanh thành, 3 khẩu thần công
lớn đặt cách vương phủ không xa, về phía tả, làm tăng thêm vẻ uy nghi
đường bệ. Trong khuôn viên đô thành đó xây dựng nhiều công trình kiến trúc
qui mô bề thế: "Điện Kim Hoa, điện Quan Hoa, các Diêu Trì, các Triêu
Dương, điện Quan Văn, đường Tựu Lạc, đường Chính Quan, đường Trung
Hoà, đường Di Nhiên, đường Sướng Xuân, đường Thuỵ Vân, đình Giáng
Hương, hiên Đồng Lạc, am Nội Viên"
(1)
.
Chung quanh hạt nhân đó là dinh, phủ, nhà xưởng, nhà quân, nhà kho
của vùng đô thị "trên thì phủ thờ ở Kim Long, giữa thì cung phủ hành lang,
dưới thì nhà cửa ở phủ Ao Ở thượng lưu về bờ Nam có phủ Dương Xuân
và Phủ Cam. Ở trên nữa có phủ Tập thượng, điện Trường lạc, hiên Duyệt
võ ở thượng lưu và hạ lưu chính dinh, nhà quân bày như bàn cờ. Những nhà
thuỷ quân lại ở đối ngạn. Xưởng thuyền và kho thóc thì ở các xã Hà Khê,

Thọ Khương trên thượng lưu"
(2)
Các tác gia đã đến Phú Xuân như Alexandre de Rhodes, Thích Đại
Sán, Pierre Poivre, Jean Koffer, Lê Quý Đôn đã nhận xét về Phú Xuân ở thế
kỷ XVII, XVIII như một nơi phồn hoa đô hội:
Lê Quý Đôn trong đoạn mô tả ở Phủ biên tạp lục đã liệt kê hàng chục
điện, đài, các, tạ, đình, hiên và vẽ phát bộ mặt của đô thị khá hoàn chỉnh:
(1)
Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam nhất thống chí, kinh sư, Nguyễn tạo dịch, S, 1960, Tr.18
(2)
Lê Quí Đôn, Toàn tập, T1- Phủ biên tạp lục, KHXH, H,1977, Tr.112
5
Bài điều kiện Bùi Minh Hồng – K54A Lịch
sử
"Ở trên các phủ thờ ở Kim Long giữa thì cung phủ hành lang, dưới thì nhà
cửa ở Phủ Ao. Nguyễn Phúc Khoát xưng vương hiệu, đổi tên đề biển, có hai
điện Kim Hoa, Quang Hoa, có các nhà Tựu Lạc, Chính Quan, Trung Hoà, Di
Nhiên, đài Sướng Xuân, các Dao trì, các Triêu dương, các Quan thiên, đình
Thụy vân, hiên Đồng lạc, am Nội viện, đình Giáng hương, công đường,
trường học và trường súng. Ở thượng lưu về bờ nam có phủ Dương xuân và
Phủ cam. Ở trên nữa có phủ Tập tượng; lại dựng điện Trường lạc, hiên Duyệt
võ, mái lớn nguy nga, đài cao rực rỡ, mà giải võ, tường bao quanh, cửa bốn
bề, chạm khắc vẽ vời, khéo đẹp cùng cực. Các nhà đều lát nền bằng đá, trên
lát ván kiền kiền, những máng xối đều làm bằng kẽm để hứng nước; trồng
xen cây cối, cây vả cây mít đều to mấy ôm. Vườn sau thì núi giả đá quí, ao
vuông hồ quanh, cầu vồng thuỷ tạ, tường trong tường ngoài đều xây dày mấy
thước, lấy vôi và mảnh xứ đắp thành hình rồng phượng, lân hổ, cỏ hoa. Ở
thượng lưu và hạ lưu Chinh dinh đều là nhà quân bày hàng như bàn cờ.
Những nhà của thuỷ quân lại ở đối ngạn. Xưởng thuyền và kho thóc thì ở các
xã Hà-khê, Thọ-khang trên thượng lưu. Còn nhà vườn của các công hầu

quyền quí thì chia bày ở hai bờ phía thượng lưu sông Phú Xuân, cùng hai bờ
sông con bên hữu phủ Cam. Ở thượng lưu hạ lưu phia trước Chinh dinh thì
chợ phố liền nhau, đường cái đi ở giữa, nhà cửa chia khoảng tiếp nhau, đều là
mái ngói. Cây to bóng mát, tả hữu thành hàng. Thuyền buôn bán, đò dọc
ngang, đi lại như mắc cửi. Bài "Sơn minh" của Chu Dũ Tín có câu rằng:
"Thanh ý xuân môn, câu cử giao ảnh; lục hoè thu thị, chu tiếp tương thông"
(Cửa xuân như giải vóc xanh, khe ngòi ánh lộng; chợ thu dưới bóng hoè lục,
thuyền chèo lại qua), tưởng cảnh sắc cũng như thế này thôi".
Ngoài ra, Đô thành Phú Xuân còn được nhiều nhân chứng người nước
ngoài mô tả khá chi tiết và đây là những tài liệu quý giúp chúng ta hiểu rõ
hơn tình hình đô thị Huế trong giai đoạn này.
Năm 1740, thầy tu Favre, thư kí của giám mục De la Baume đã có một
chuyến du hành đến Đàng Trong cùng vị giám mục này. Những ghi chép của
6
Bài điều kiện Bùi Minh Hồng – K54A Lịch
sử
ông về Đàng Trong, đặc biệt là đất Phú Xuân có tính sử liệu rất cao. Dưới
đây là mô tả của ông về đất Phú Xuân sau khi chúa Nguyễn Phúc Khoát tái
lập thủ phủ được hơn một năm:
"Đàng Trong chỉ có một thành phố, mà người ta gọi theo tiếng địa
phương là Huế và theo tiếng Latinh Bồ Đào Nha là Sinoa: tuy nhiên không
phải là trong các dinh khác không có những thị trấn có thể được gọi là thành
phố nếu chỉ tính đến số lượng lớn những người sống trong đó. Nhưng vì sự
quan trọng hay vì sự tôn kính đối với triều đình mà người ta muốn chỉ có một
thành phố. Tôi đã đến thành phố, tức là đến Huế, hay đến Triều Đình. Thành
phố duy nhất này là một tập hợp những công trình kiến trúc được phân chia
thành khu phố tạo thành như những thôn và làng. Thành phố được xây dựng
trong một bình nguyên đẹp, được phân chia từ phía mặt trời mọc đến phía mặt
trời lặn bằng một con sông lớn. Nước sông chảy nhẹ nhàng, trên sông có một
số thuyền chiến, những thuyền lớn và thuyền nhỏ. Trên bờ sông người ta thấy

những cung điện đẹp nhất, vài cái lợp ngói, những cái khác lợp bằng rơm hay
tranh, những cửa hàng giàu có nhất và những quảng trường rộng lớn nhất.
"Phủ của chúa nằm ở phía Bắc của sông lớn, trên một hòn đảo dài
khoảng 1 dặm, tạo thành do một con kênh hình vòng cung. Các quan lớn và
các vương công của triều đình cũng ở trên hòn đảo này. Đảo được gọi là
Vương Đảo. Phủ của chúa chỉ có một tầng, tất cả đều được làm bằng gỗ,
những chiếc cột làm bằng gỗ mun đen bóng và để tự nhiên. Phủ được xây đắp
gần như là một cái thành công có hào, được bao vây chung quanh bằng
những trại lính hình vuông. Bên ngoài còn có những lối đi chung quanh cách
4 bước lại đặt một khẩu súng đại bác bằng gang có hình cỡ bình thường với 6
người lính canh giữ. Vị trí phủ rất rộng và có thể có đến hơn 100 khẩu đại
bác được đặt ở hai phía, hướng mặt trời mọc và hướng nam, nơi có những
cổng vào dẫn đến những trạm gác đầu tiên. Người nước ngoài, nếu không có
một ân huệ đặc biệt thì không bao giờ được vào bên trong phủ. Trong số các
người châu Âu, hiện nay chỉ có một người được phép đi vào khắp nơi ngay
7
Bài điều kiện Bùi Minh Hồng – K54A Lịch
sử
cả vào khu dành cho các cung phi. Đó là đức cha Siebert, giáo sĩ dòng Tên,
thầy thuốc, quan triều đình, nhà toán học và là người trông nom các con chó
nuôi của chúa" .
Chúng ta lại có được những thông tin rất quý của cha Koffler, người đã
từng sống ở Đàng Trong từ năm 1740-1755. Năm 1747 vị thầy tu này đã
được Võ Vương chọn làm ngự y riêng. Những mô tả của Koffler về Phú
Xuân rất phong phú, tỉ mỉ và điều đáng chú ý nhất là Phú Xuân ở giai đoạn
này đã chính thức trở thành đô thành của Đàng Trong. Vì vậy, dù mô tả của
Koffler khá dài dòng nhưng vẫn có sức hấp dẫn rất lớn.
"Phủ chúa được bố trí theo hình vuông, với 3 lớp thành bao bọc. Có
bảy cổng, cổng chính là cổng đẹp nhất mở ra sông, làm thành mặt tiền của
công trình, ở trên có một tháp canh. Cách đó không xa, ở bờ trái, có 3 khẩu

đại bác lớn không bao giờ được dùng nếu không gặp những dịp vui chẳng
hạn như sinh hạ được một hoàng thái tử. Một trăm năm mươi khẩu đại bác
khác nhỏ hơn, bằng sắt hoặc bằng đồng, được đặt chung quanh phủ, cứ giữa
hai cái cột thì có một khẩu. Sau khi đã vượt qua cổng chính, ta thấy mình
đang đứng trong một cái sân rộng nơi 25 đội quân đứng gác thay phiên nhau.
Các đội quân này xếp thành hai hàng vào các dịp thiết triều mà theo luật lệ
của vương quốc, chúa cho tổ chức mỗi tuần hai lần. Sau đó, có một phòng
lớn nơi các quan đứng, các quan võ đứng bên phải, các quan văn bên trái,
mỗi người xếp hàng theo phẩm tước của mình. Chúa được đưa đến trên một
chiếc ngai, rồi ông ngồi trước một cái bàn trên đó người ta đã bày bút, ấn bà
tấm gạc thấm thần sa màu đỏ. Trong bộ máy như thế, ông tiếp những người
muốn nói chuyện với ông.
Khi đi vào bằng các cửa bên, người ta thấy ở một bên có các chuồng,
những nơi nuôi gia súc và chủ yếu là những con gà đá to lớn phía bên kia,
là nhà của các ca nhân của chúa".
Cùng ở khu vực này Koffle còn mô tả có một khu vườn rất đẹp, trồng
rất nhiều loại hoa, trong đó có không ít các loại hoa đưa từ nước ngoài về.
8
Bài điều kiện Bùi Minh Hồng – K54A Lịch
sử
Hoa không chỉ được trồng trong bồn mà còn được đặt trong các chậu gốm,
chậu sứ đắt tiền và được sắp xếp đặt rất công phu và đẹp mắt.
Tại đây còn có nhiều bể lớn nuôi các loại cá quý hiếm, các bể chứa
nước mưa để tưới hoa, các bể đặt những non bộ cầu kỳ v.v
"Chúng ta đến vòng thành thứ hai, nhỏ hơn lớp thành đầu tiên. Nó
được bao chung quanh bằng một hành lang lát gạch, có trang trí cột và lợp
mái để có thể đi dạo ở đây mà không bất tiện khi trời mưa. Từ đấy có 4 cái
cửa cao bằng tường thành và được các binh lính dân miền núi da ngăm đen
canh giữ. Khi đi qua bên kia, người ta đến một cái sân rộng. Những nhân vật
chủ chốt của vương quốc chiếm chỗ những căn nhà đầu tiên. Những căn tiếp

theo được dành cho bà con của chúa. Về phần những người có họ hàng xa với
cháu, họ đều ở bên ngoài phủ.
"Cuối cùng, trước mắt là ngôi nhà dành cho các cung phi, nó không
khác hơn một tu viện nữ tu sĩ bao nhiêu. Nó gồm một hàng cột chung quanh
nhà và một tầng lầu. Bên ngoài chẳng có gì ngoại trừ tường, các cửa và một
hành lang có mái với cột dở. Nhà của từng cung phi đều có mỗi bức tường
ngăn cách. Tất cả các cửa đều mở ra phía hành lang và chỉ được đóng bằng
một cái chốt duy nhất để cho chúa không phải gõ cửa. Trong một khoảng
không gian chừng 8 bước chân nằm tiếp giáp với nhà và ở bên phải có một
cái giường được trang hoàng rất tuyệt dành cho trường hợp chúa muốn nghỉ
ban ngày. Chỉ có một cửa sổ duy nhất mở ra một cái vườn nhỏ có tường vay
quanh, để cho không ai có thể nhìn thấy ông chúa (đây là một điều cấm kị,
nếu phạm vào sẽ đáng bị tội chết), các cung phi trồng nhiều loại hoa trong
vườn này và họ sẽ mang dâng cho chúa của mình khi được ông cho gọi đến.
Ở bên trái là phòng ngủ các cung phi. Một tấm màn che bằng vải lanh mịn rải
rác có những bông hoa bằng vàng, được treo trước giường. Sau đó đến phòng
ngủ của những cô hầu, nhà bếp Tất cả những căn phòng của các bà vợ mà
chúa chung sống được xây đại loại như thế, tuy nhiên các bà có chức vị cao
hơn thì được hưởng những chỗ rộng rãi hơn và được trang hoàng nhiều hơn.
9
Bài điều kiện Bùi Minh Hồng – K54A Lịch
sử
"Từ vòng thành thứ hai này người ta đi vào vòng thành thứ ba nơi có
phủ chúa nói theo đúng ý nghĩa nơi ông chúa ở. Nó gồm 5 công trình mà
công trình quan trọng nhất có 3 tầng bên trên còn có một cái tháp để quan sát
thiên tượng. Từ bên trên cái tháp này, người ta không những nhìn thấy tất cả
kinh thành, mà cả những vùng phụ cận cũng như nhiều chỗ uốn khúc của
sông trải ra trong một khung cảnh tuyệt vời. Trong những công trình uy
nghiêm này, người ta không thấy vôi, cũng không thấy tường, cũng không
thấy đá. Tất cả đều bằng gỗ quý, được gọt đẽo, chạm, đánh bóng rất tinh xảo.

Những cây cột chẳng hạn, đều bằng một loại gỗ màu chanh được sơn son.
Người ta cứ tưởng mình đang ở trong một nhà hát tuyệt mỹ có sàn lát bóng
lộn như pha lê. Ở mỗi cửa lớn của các căn nhà có treo các màn trướng rất
đẹp, được vẻ rất thẩm mỹ. Ở trên nóc và ở các góc mái nhà có những con
rồng bằng đất sét trắng ngậm trong miệng những cái chuông bằng vàng đung
đưa trong gió và kêu leng keng rất ăn nhịp với nhau. Nói tóm lại, tất cả đều
được bài trí, không phải để nhằm mục đích duy nhất để ở, mà là nhằm vào sự
phô trương và tráng lệ, và điều đó thật xứng đáng với một vị chúa.
Ngoài chỗ ở này của ông chúa, còn có 3 phủ khác. Cái phủ xưa nhất là
kho tàng với những tường thành rất chắc chắn trong đó cất giữ những của cải
của tất cả các chúa Đàng Trong. Nó được dựng cách cái phủ mà chúng ta vừa
mô tả khoảng 200 bước chân. Cái phủ thứ hai, dùng làm nhà mùa đông cho
chúa, được xây dựng trên bờ đối diện của sông. Cuối cùng, cái phủ thứ ba là
khuê phòng nơi các bà vợ goá các chúa tiền nhiệm, khóc cảnh goá bụa của
mình cho đến chết".
Những mô tả tỉ mỉ của Koffler khiến chúng ta khá dễ dàng hình dung
được diện mạo của đô thành Phú Xuân dưới thời Nguyễn Phúc Khoát, đặc
biệt là khu vực trung tâm nằm trên Vương đảo. Chúng ta cần nhớ rằng, năm
1755, Koffler đã rời khỏi Đàng Trong, trong khi đó mãi đến năm 1754, Võ
Vương mới "bắt đầu sửa sang đô ấp". Chỉ trong hơn 1 năm, việc xây dựng
chỉnh trang toàn bộ Đô thành chắc chắn chưa thể hoàn tất được. Tuy nhiên,
10
Bài điều kiện Bùi Minh Hồng – K54A Lịch
sử
bộ mặt của Phú Xuân lúc đó theo lời của Koffler đã tráng lệ lắm rồi. Và về
đại thể, chúng ta thấy nó không khác bao nhiêu so với sự mô tả của Lê Quý
Đôn hơn 20 năm sau đó (tức năm 1776).
Xen giữa cấu trúc đô phủ đó là một không gian kinh tế công thương
nghiệp phát triển mạnh hơn trước. Đó là mạng lưới các nghề và làng nghề thủ
công khá phong phú: "Đốc Sơ làm giấy; Võ Trì đúc cuốc mai, rìu, búa: Mậu

Tài khéo làm dây thép, dây thau, An Lưu màu khí giới; Dạ Lê mui thuyền,
mui kiệu Đồng Di, Dương Nỗ, Quân Lỗ sản xuất vải nhỏ; An Cựu dệt lụa
vàng, lụa trắng, Phú Vang thêu gấm, Quảng Xuyên dệt mũ mã vỹ phường
làm nghề dệt hàng tơ ở sau Phủ Cam 3 xã Sơn Điền, Dương Xuân, Vạn
Xuân chia làm 3 ấp, mỗi ấp 10 nhà, mỗi nhà 15 thợ dệt có 2 ty thợ đúc, đều
30 người
(1)
có phường Đúc ở bờ Nam sông Phú Xuân cũng biết đúc súng,
đồng, vạc chảo”. Chính các sản phẩm thủ công đó là hàng hoá cho thị trường
nội địa ở hệ thống chợ ven đô, cho xuất khẩu ở cảng Thanh Hà và cung ứng
cho nhu cầu xa hoa của đô chính Phú Xuân.
Sản xuất hàng hoá phát triển đã mở rộng thị trường địa phương và quan
hệ buôn bán với nước ngoài, cả phương Đông và phương Tây (Nhật Bản, Trung
Quốc, Bồ Đào Nha, Hà Lan, Anh, Pháp). Phú Xuân trở thành một đô thành quy
tụ thợ giỏi, nhân tài ở Đàng Trong và bắt đầu thu hút cả ngoại kiều.
Một số người châu Âu có kỹ thuật giỏi đến Phú Xuân sinh sống (Jean
de la Croix và con là Clémentin de la Croix làm nghề đúc đồng ở phường
Đúc, các vị cố đạo kiêm thầy thuốc, nhà toán học, thiên văn đã làm việc ở
phủ chúa, Từ Tâm Bá người châu Âu làm nghề sửa đồng hồ và kính thiên
văn). Trên mười vị cao tăng người Trung Quốc đã đến lập chùa. Phố thị
người Hoa đã phát triển ở cảng Thanh Hà, phố Lở Bao Vinh).
Có những người như Nguyễn Văn Tú đã ra học nghề ở châu Âu về sửa
chữa và làm được đồng hồ, truyền nghề cho cả nhà.
(1)
Lê Quí Đôn, Toàn tập, T1- Phủ biên tạp lục, KHXH, H,1977, Tr.326,327,332,333
11
Bài điều kiện Bùi Minh Hồng – K54A Lịch
sử
Điều đáng lưu ý là "ăn theo" phần thành đô chính, kết cấu cư dân
không chỉ mang tính tự nhiên mà đã có phố đơn tuyến như Thanh Hà "Ở

thượng lưu, hạ lưu phía trước chính dinh thì phố chợ liền nhau, đường cái đi
giữa, nhà cửa chia khoảnh tiếp nhau, đều là mái ngói. Cây to bóng mát, tả
hữu thành hàng. Thuyền buôn bán, đò dọc ngang, đi lại như mắc cửi"
(1)
. Địa
điểm của phố này kéo dài dọc theo sông Hương từ trước dinh phủ (góc đông
nam kinh thành- đường Trần Hưng Đạo sau này) đến chợ Dinh. Trong bản đồ
"Giáp Ngọ Bình Nam đồ" do Bùi Thế Đạt vẽ năm 1774 dâng Chúa Trịnh, có
hai chữ Hán "Dinh thị" bên tả một ô vuông ghi chữ "Phủ"; ở trong Phủ biên
tạp lục có ghi "Xứ Thuận Hoá, Huyện Hương Trà đò chợ dinh Xuân Dương
đến Dinh cũ, chợ Sãi, Cam Lộ, Phả Lại, hàng năm tiền thuế 64 quan 6 tiền".
Điều đó cho thấy phố lúc này gắn liền với chợ Dinh để đến cuối thế kỷ XVIII
người dân di cư từ Thanh Hà lên đây lập phố buôn bán, tạo nên một khu phố
thị sầm uất ở phía đông đô thành Phú Xuân.
Như vậy là, sự xích lại gần nhau giữa đô chính Kim Long và phố cảng
Thanh Hà cấu thành đô thành Phú Xuân với đầy đủ hai yếu tố đô và thị. Đó
chính là sự kết hợp hữu cơ và gắn bó giữa các tiền đề chính trị, kinh tế và xã hội
(sự tụ cư) cho sự ra đời của một đô thị hoàn chỉnh- tiêu biểu cho đô thị Việt
Nam vào cuối thời Trung Đại trên mảnh đất Thuận Hoá vào đầu thế kỷ XIX.
II. Những đặc điểm chung và riêng so với các đô thị cổ Việt Nam
khác.
Bên cạnh những đặc điểm riêng như trên, Phú Xuân cũng mang những
đặc điểm chung như những đô thị cổ Việt Nam khác.
Trước hết về nguồn gốc, phần lớn đô thị cổ Việt Nam đều do Nhà nước
sinh ra. Phú Xuân cũng hình thành theo con đường như thế.
Điểm chung, dễ nhận nhất của các đô thị cổ Việt Nam, được gói lại ở
ngay trong hai từ tổ hợp thành tên gọi, là phần lớn đều gồm có hai bộ phận
(1)
Lê Quí Đôn, Toàn tập, T1- Phủ biên tạp lục, KHXH, H,1977, Tr.112
12

Bài điều kiện Bùi Minh Hồng – K54A Lịch
sử
“đô” và “thị”. Cũng về mặt từ ngữ, cùng với đô còn có “thành”, “dinh”, “tr
ấn”… và cùng với thị là “phố”, “phường”…
Như thế, ở Việt Nam thời cổ và trung đại có rất ít các đô thị mà sự ra
đời gắn liền với các nguyên nhân và điều kiện kinh tế (là đầu mối giao thông,
trung tâm của những luồng hàng, nơi tập hợp những thợ thủ công…), mà
phần lớn đều được nhà nước quân chủ khai sinh, xuất phát từ nhu cầu hành
chính - chính trị của nó.
Từ mối quan hệ bất bình đẳng, mang tính kiểm soát của phần “đô” đối
với phần “thị” mà ở các đô thị cổ Việt Nam, trong thành phần cư dân, tầng
lớp có quyền hành luôn luôn là các quý tộc, quan lại, đại diện cho tầng lớp
quân chủ. Phần đa số còn lại là các thương nhân và thợ thủ công, những
người đem lại sức sống cho các đô thị thông qua các hoạt động kinh tế của
họ, thì chẳng bao giờ có được một vị thế xứng đáng. Mối quan hệ bất bình
đẳng trên đây đã được phản ánh qua những mệnh lệnh sau:
“Dân phường nhà giáp đường quan
Không được làm gác trông ngang ra đường
Có cần làm chỗ chứa hàng
Chiều cao không được cao bằng kiệu quan!”
Thực ra, ở một vài thời kì và địa điểm nhất định, do những nhu cầu cụ
thể (như cần ngoại viện để tiến hành nội chiến thời Trịnh - Nguyễn thế kỷ
XVII), nhà nước quân chủ cũng đã tạo điều kiện thuận lợi cho khách thương
ngoại quốc do đó gián tiếp khiến cho hoạt động kinh tế, chủ yếu là ngoại
thương của đô thị phát triển. Nhưng chính điều này lại càng dễ thấy tình trạng
phụ thuộc của đô thị đối với nhà nước quân chủ. Rõ ràng là đô thị đã không
thể độc lực, chủ động mở lấy đường tiến hoá, mà phải trông chờ rất nhiều vào
nhà nước.
Thứ hai, về chức năng, đô thị cổ Việt Nam thực hiện chức năng hành
chính là chủ yếu. Trong đô thị có bộ phận quản lý và bộ phận làm kinh tế.

Thường thì bộ phận quản lý hình thành trước theo kế hoạch, rồi dần dần, một
13
Bài điều kiện Bùi Minh Hồng – K54A Lịch
sử
cách tự phát, bộ phận làm kinh tế mới được hình thành. Thậm chí trong nhiều
trường hợp, bộ phận quản lý của đô thị đã hoạt động rồi mà bộ phận làm kinh
tế vẫn không phát triển được hoặc phát triển rất yếu ớt.
Tóm lại, trong hai chức năng chính trị- hành chính và kinh tế của đô thị
cổ Việt Nam, chức năng chính trị- hành chính là chủ yếu, chức năng kinh tế
chỉ là thứ yếu. Bởi thế, khi chức năng chính trị- hành chính suy giảm hoặc
mất đi, đô thị cũng tàn lụi và có thể biến mất.
Thứ ba, về mặt quản lý, tất cả đô thị cổ Việt Nam đều do Nhà nước
quản lý. Nhà nước đặt ra đô thị thì dễ hiểu là nhà nước quản lý và khai thác
nó. Ngay cả một số đô thị hình thành tự phát do ở vào những địa điểm giao
thông và buôn bán thuận tiện như Vĩnh Bình, Vân Đồn, Phố Hiến và Hội An,
thì ngay sau khi hình thành, nhà nước cũng lập tức đặt một bộ máy cai trị
trùm lên để nắm trọn quyền kiểm soát và khai thác.
Ba đặc điểm trên khiến cho đô thị cổ Việt Nam có một lai lịch và diện
mạo trái ngược hẳn so với đô thị phương Tây. Cụ thể là trong khi đô thị cổ
Việt Nam do nhà nước sinh ra thì hầu hết đô thị phương Tây đều hình thành
một cách tự phát nếu có ít nhất một trong ba điều kiện sau: Có vị trí giao
thông thuận lợi, là nơi tập trung đông dân, là nơi tập trung sản xuất thủ công
và buôn bán. Về chức năng, trong khi đô thị cổ Việt Nam thực hiện chức
năng hành chính là chủ yếu thì đô thị phương Tây thực hiện chức năng kinh
tế là chủ yếu. Về mặt quản lý, trong khi đô thị cổ Việt Nam do Nhà nước
quản lý thì đô thị phương Tây là tổ chức tự trị.
Thứ tư, đô thị cổ Việt Nam có quan hệ rất chặt chẽ với nông thôn, chịu
sự chi phối thường xuyên và mạnh mẽ bởi nông thôn.
Tổ chức hành chính của đô thị cổ Việt Nam được sao phỏng theo tổ
chức nông thôn. Đô thị cũng chia thành các phủ, huyện, tổng, thôn. Đời gia

Long, huyện Thọ Xương ở Hà Nội (khu vực Hoàn Kiếm và Hai Bà Trưng
bây giờ) chia làm 8 tổng. Cho đến tận năm 1940, các làng quanh hồ Hoàn
Kiếm vẫn còn chức tiên chỉ, thứ chỉ.
14
Bài điều kiện Bùi Minh Hồng – K54A Lịch
sử
Bên cạnh những đơn vị như phủ, huyện, tổng, thôn, ở đô thị cổ Việt
Nam đã xuất hiện từ rất sớm một loại đơn vị đặc biệt bắt nguồn từ nông thôn
mà đến ngày nay đã trở thành đơn vị hành chính cấp cơ sở của đô thị, đó là
phường. Phường vốn là cộng đồng của những người làm cùng một nghề của
một làng quê; vì những lý do khác nhau, họ đã tách ra một bộ phận vào thành
phố làm ăn, dựng nhà trên cùng một dãy phố, phía trong sản xuất, phía ngoài
bán hàng.
Chất nông thôn của đô thị cổ Việt Nam còn bộc lộ cả ở tính cộng đồng
cũng như tính tự trị của nó nữa. Các đô thị đều có cổng như cổng làng, các
phố nhỏ bên trong cũng vậy. Người trong cùng phố, cùng ngõ phần lớn biết
nhau, gặp nhau chào hỏi. Quan hệ giữa các gia đình trong ngõ không quá
lạnh lung, ít nhiều vẫn còn sự cưu mang lẫn nhau theo kiểu “xòm giềng tối
lửa, tắt đèn có nhau”.
Như vậy, trong khi chịu sự đè nén của nhà nước quân chủ và phải lấy
việc phục vụ các lợi ích của nhà nước quân chủ để làm một lý do tồn tại, các
đô thị cổ Việt Nam, đặc biệt là phần thị của nó, còn có chung đặc điểm là
phải chịu sự níu kéo đa dạng và dai dẳng của nông thôn, trong mối quan hệ
lớn giữa đô thị và nông thôn.
Cuối cùng, sự chi phối mạnh của nông thôn đối với đô thị khiến cho đô
thị Việt Nam truyền thống luôn có nguy cơ bị “nông thôn hoá”. Làng nghề và
làng buôn tồn tại trong nông thôn chính là sự biểu hiện của sự “hoà tan thành
thị trong nông thôn” chứ không phải là “đô thị hoá nông thôn”.
Các đô thị cổ ở Việt Nam, với số lượng không nhiều, với chất lượng
không cao, luôn luôn chịu số phận thua kém trong quan hệ cộng sinh với

nông thôn. Ảnh hưởng của nông thôn đối với đô thị trên tất cả các phương
diện: kinh tế, chính trị, xã hội, văn há, tư tưởng, đều rất lớn và sâu nặng. Giữa
hai xu hướng phát triển là đô thị hoá và nông thôn hoá trong lịch sử Việt
Nam thì xu hướng thứ hai luôn luôn giữ vai trò lấn lướt.
15
Bài điều kiện Bùi Minh Hồng – K54A Lịch
sử
Hiện tượng “nông thôn hoá đô thị” này trái hẳn với tình hình ở phương
Tây, nơi mà đô thị luôn được nông thôn ngưỡng mộ và có sứ mệnh đô thị hoá
nông thôn. Chức năng lịch sử, đồng thời là lý do cho chính sự tồn tại, phát
triển của đô thị, là đô thị hoá: đô thị hoá với chất lượng ngày càng cao các đô
thị, và đô thị hoá nông thôn. Điều này ở các đô thị cổ Việt Nam đã không
thực hiện được. Chẳng những thê nó con trở thành “con mồi” của sự trạng
nông thôn hoá.
Tóm lại, các đô thị cổ việt Nam có một đặc điểm nổi bật, đó là các đô
thị kinh tế thì phát triển mạnh ở những thời kì nhất định, rồi suy thoái dần
hoặc biến mất, còn các đô thị hành chính- kinh tế lại tồn tại lâu dài. Không
những thế, các đô thị cổ Việt Nam đã không có một quá trình phát triển liên
tục từ thấp đến cao. Quá trình đô thị hoá ở Việt Nam diễn ra một cách rất khó
khăn. Đó là vì có những nguyên nhân sâu sa kìm hãm sự phát triển và hạn
chế vai trò của đô thị.
Như vậy, Phú Xuân- Huế, một mảnh đất cố đô tuy ngày nay đã mất
nhiều dấu tích, xong nó vẫn đẹp và lộng lẫy đến là thường. Thời gian đã trôi
qua xong những gì mà mảnh đất cố đô đã để lại cho nhân loại thì không hề ít,
ngày tháng năm, quần thể di tích cố đô Huế được UNESCO công nhận là di
sản văn hoá thế giới. Điều đó không chỉ là niềm tự hào cho những người dân
Huế mà còn là niềm tự hào chung cho toàn thể dân tộc Việt Nam về một nét
đẹp văn hoá không phải ở nơi đâu cũng có.
16

×