Tải bản đầy đủ (.doc) (9 trang)

Nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự và kiến nghị nhằm đảm bảo thực hiện quyền tự định đoạt của đương sự.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (148.34 KB, 9 trang )

A. LỜI NÓI ĐẦU:
Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 là một trong những văn bản quan trọng, có ý nghĩa hết sức
to lớn đối với việc bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Tuy nhiên, sau một thời gian
thực hiện Bộ luật này cũng cho thấy còn nhiều vướng mắc và bất cập. Một trong những vấn đề còn
tồn tại, bất cập đó là các quy định của pháp luật về nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự
trong tố tụng dân sự và việc thực hiện nguyên tắc này trên thực tế. Hiện nay, mặc dù tại kỳ họp thứ
09, ngày 29/3/2011, Quốc hội khóa XII đã thông qua Luật số 65/2011/QH12 về sửa đổi, bổ sung
một số điều của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 (có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2012). Tuy
nhiên, việc tiếp tục nghiên cứu làm rõ các quy định của pháp luật về nguyên tắc quyền tự định đoạt
của đương sự trong tố tụng dân sự Việt Nam là một vấn đề cần thiết.
Vì vậy, thấy được tầm quan trọng của vấn đề, nên em đã chọn đề tài: “Nguyên tắc quyền tự
định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự và kiến nghị nhằm đảm bảo thực hiện quyền tự định
đoạt của đương sự.”
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. Những vấn đề lý luận chung về nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự
trong tố tụng dân sự:
1. Giải thích một số khái niệm:
1.1. Khái niệm đương sự trong tố tụng dân sự:
“Đương sự trong tố tụng dân sự là cá nhân, pháp nhân hoặc các chủ thể khác có quyền, lợi
ích tranh chấp hoặc cần phải xác định tham gia vào quá trình Tòa án giải quyết vụ việc dân sự để
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.”
(1)
1.2. Khái niệm nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự:
“Nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự là nguyên tắc cơ bản
của luật tố tụng dân sự Việt Nam, theo đó đương sự được quyền tự do thể hiện ý chí của mình trong
việc lựa chọn thực hiện các hành vi tố tụng nhằm bảo vệ quyền lợi ích, hợp pháp của mình, quyết
định quyền, lợi ích của mình trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự và trách nhiệm của Tòa án
trong việc bảo đảm cho đương sự thực hiện được quyền tự định của họ trong tố tụng dân sự.”
(2)
2. Ý nghĩa của nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự:
- Thứ nhất: Việc Nhà nước ta thể chế hóa quyền tự định đoạt của đương sự là một nguyên


tắc quan trọng trong pháp luật tố tụng dân sự là khẳng định pháp luật thực sự đã ghi nhận và bảo
đảm cho các đương sự có điều kiện, bằng hành vi của mình quyết định quyền, lợi ích hợp pháp của
họ và việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ. Điều 5
BLTTDS năm 2004 quy định: “ Đương sự có quyền quyết định việc khởi kiện, yêu cầu Toà án có
thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự… Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, các đương sự có
quyền chấm dứt, thay đổi các yêu cầu của mình hoặc thoả thuận với nhau một cách tự nguyện,
không trái pháp luật và đạo đức xã hội.”.
- Thứ hai: Bên cạnh việc bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự thì nguyên tắc
này còn có ý nghĩa trong việc xác định rõ trách nhiệm của Tòa án trong việc đảm bảo quyền tự định
đoạt của đương sự. Điều 5 BLTTDS năm 2004 quy định: “…Toà án chỉ thụ lý giải quyết vụ việc
dân sự khi có đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của đương sự và chỉ giải quyết trong phạm vi đơn khởi
kiện, đơn yêu cầu đó…”. Quy định trên đã góp phần giúp Tòa án xác định được trách nhiệm của
mình trong việc thực hiện chức năng xét xử.
- Thứ ba: Việc quy định nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự
khẳng định quan điểm nhất quán của Nhà nước ta đó là đương sự được quyền tự do thể hiện ý chí
của mình bằng việc tự mình lựa chọn các hành vi tố tụng nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của mình.
II. Nội dung nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự
theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004:
1
1. Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc đưa ra yêu cầu giải quyết vụ việc
dân sự:
Theo quy định tại Điều 5 BLTTDS năm 2004 đương sự có quyền tự định đoạt trong việc
đưa ra yêu cầu khởi kiện, yêu cầu giải quyết việc dân sự. Theo Điều 60 BLTTDS năm 2004 bị đơn
có quyền định đoạt trong việc đưa ra yêu cầu phản tố. Và theo Điều 61 BLTTDS năm 2004 người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền tự định đoạt trong việc đưa ra yêu cầu đối với nguyên
đơn, bị đơn.
1.1 Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc khởi kiện vụ án dân sự, yêu cầu giải
quyết việc dân sự:
- Thứ nhất: Về quyền tự định đoạt của đương sự trong việc khởi kiện vụ án dân sự:

Tại Điều 161 BLTTDS năm 2004 quy định “Cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền tự mình
hoặc thông qua người đại diện hợp pháp khởi kiện vụ án ... tại Toà án có thẩm quyền để yêu cầu
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.”. Và theo Điều 162 BLTTDS năm 2004 thì: “Cơ quan
về dân số, gia đình và trẻ em, Hội liên hiệp phụ nữ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có
quyền khởi kiện vụ án về hôn nhân và gia đình trong trường hợp do Luật hôn nhân và gia đình quy
định…Công đoàn cấp trên của công đoàn cơ sở có quyền khởi kiện vụ án lao động trong trường
hợp cần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể người lao động do pháp luật quy định…Cơ
quan, tổ chức trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có quyền khởi kiện vụ án dân sự để yêu
cầu Toà án bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước thuộc lĩnh vực mình phụ trách.”
Với các quy định đó, việc ghi nhận quyền khởi kiện vụ án dân sự, trước hết cho phép cá
nhân, cơ quan, tổ chức có quyền lợi ích bị xâm hại hoặc có tranh chấp yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của mình. Theo đó, đương sự được quyền tự định đoạt trong việc khởi kiện vụ
án dân sự, nộp đơn yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình hay của người khác.
- Thứ hai: Về quyền tự định đoạt trong việc yêu cầu giải quyết việc dân sự:
Thông thường trong các việc dân sự một bên công nhận hay bác bỏ một quyền lợi hay thực
hiện một trách nhiệm dân sự nào đó nên không xuất hiện khái niệm bị đơn và nguyên đơn dân sự mà
được thay thế bằng thuật ngữ “người yêu cầu” và “người bị yêu cầu”. Việc tham gia tố tụng của
người yêu cầu trong việc dân sự cũng chủ động như nguyên đơn trong vụ án dân sự. Tuy nhiên yêu
cầu của họ chỉ giới hạn trong phạm vi yêu cầu Tòa án công nhận hay không công nhận một sự kiện
pháp lý làm phát sinh, thay đổi hay chấm dứt các quyền, nghĩa vụ của họ hoặc công nhận quyền,
nghĩa vụ của họ. Tòa án chỉ thụ lý giải quyết vụ án khi có đơn khởi kiện của các chủ thể. Đây là
phương thức đặc trưng trong việc thực hiện quyền tự định đoạt trong tố tụng dân sự. Với việc khởi
kiện, yêu cầu giải quyết việc dân sự kịp thời, các quyền và lợi ích hợp pháp được bảo vệ, thiệt hại
sớm được khắc phục, ngăn chặn và chấm dứt được hành vi trái pháp luật.
1.2. Quyền tự định đoạt trong việc đưa ra yêu cầu phản tố của bị đơn:
Về quyền yêu cầu phản tố, nếu như nguyên đơn có quyền quyết định việc khởi kiện và nội
dung khởi kiện thì bị đơn cũng có quyền đưa ra yêu cầu phản tố đối với nguyên đơn. BLTTDS năm
2004 đã dành một số điều luật quy định cụ thể về quyền phản tố của bị đơn trong tố tụng dân sự, cụ
thể tại điểm c khoản 1 Điều 60 BLTTDS năm 2004 quy định bị đơn có quyền “Đưa ra yêu cầu
phản tố đối với nguyên đơn nếu có liên quan đến yêu cầu của nguyên đơn hoặc đề nghị đối trừ với

nghĩa vụ mà nguyên đơn yêu cầu;…”. Ngoài ra, BLTTDS năm 2004 cũng quy định cho bị đơn có
quyền bác bỏ yêu cầu của nguyên đơn. Sự bác bỏ có thể chia làm hai loại là bác bỏ yêu cầu theo luật
nội dung và bác bỏ yêu cầu về mặt tố tụng. Với việc quy định quyền phản tố, quyền bác bỏ của bị
đơn đối với yêu cầu của nguyên đơn là sự thể hiện ghi nhận của pháp luật đối với quyền tự định đọat
của đương sự.
1.3. Quyền tự định đoạt trong việc đưa ra yêu cầu của người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan:
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bao gồm hai loại người có quyền lợi nghĩa vụ liên
quan tham gia tố tụng độc lập và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng đứng về
phía nguyên đơn hoặc bị đơn. Theo quy định tại Điều 177 BLTTDS năm 2004 thì: người có quyền
2
lợi nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng độc lập có đủ điều kiện pháp lý khởi kiện vụ án dân sự
nhưng do vụ án dân sự đã phát sinh giữa nguyên đơn, bị đơn và việc họ tham gia vào vụ kiện đó có
nhiều lợi thế đối với họ hơn trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Trong vụ kiện có
sự tham gia của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng độc lập, thì Tòa án có nghĩa
vụ phải xem xét và giải quyết luôn yêu cầu của nguyên đơn chống bị đơn và yêu cầu độc lập của
người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan chống lại cả hai bên đương sự hoặc chống lại một trong hai
bên đó. Còn người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng không độc lập cũng có quyền
cùng nguyên đơn hoặc bị đơn thỏa thuận với bên đương sự kia, không có quyền thừa nhận một phần
hay chấp nhận toàn bộ yêu cầu của bên đương sự kia được.
Đối với người có liên quan trong việc dân sự thì việc tham gia tố tụng của họ cũng giống
như việc tham gia tố tụng của người có liên quan trong vụ án dân sự có thể do họ chủ động hoặc
theo yêu cầu của đương sự khác hoặc theo yêu cầu của Tòa án.
2. Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc thay đổi, bổ sung, rút yêu cầu và
thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ việc dân sự:
2.1. Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc thay đổi, bổ sung, rút yêu cầu:
Khi đương sự thực hiện hành vi khởi kiện, yêu cầu thì họ hoàn toàn có quyền quyết định các
hành vi tố tụng tiếp theo của mình. Tuy nhiên, tùy thuộc vào từng giai đoạn tố tụng mà việc thay
đổi, bổ sung yêu cầu có thể được Tòa án chấp nhận hay không chấp nhận. Trước khi mở phiên Tòa
thì quyền này là quyền tuyệt đối của đương sự. Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 218 BLTTDS năm

2004 thì tại phiên Tòa việc thay đổi yêu cầu chỉ được chấp nhận nếu không vượt quá phạm vi yêu
cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố hoặc yêu cầu độc lập ban đầu. Tại phiên Tòa sơ thẩm, việc thay đổi,
bổ sung yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bị giới hạn là không được vượt quá so với phạm vi yêu
cầu ban đầu. Mục 6, phần III Nghị quyết số 02/2006/NQ-HĐTP quy định “Việc thay đổi, bổ sung
yêu cầu của đương sự tại phiên toà chỉ được Hội đồng xét xử chấp nhận nếu việc thay đổi, bổ sung
yêu cầu của họ không vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố hoặc yêu cầu độc lập
ban đầu được thể hiện trong đơn khởi kiện của nguyên đơn, đơn phản tố của bị đơn, đơn yêu cầu
độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan…”
Đối với việc rút đơn khởi kiện, rút đơn yêu cầu trong mọi giai đoạn tố tụng đều có thể được
Tòa án chấp nhận. Nguyên đơn có thể rút một phần hoặc toàn bộ yêu cầu khởi kiện (điểm b khoản 1
Điều 59 BLTTDS năm 2004). Trước khi mở phiên Tòa xét xử sơ thẩm, nếu nguyên đơn rút đơn khởi
kiện, Thẩm phán ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án (điểm c khoản 1 Điều 192 BLTTDS
năm 2004).Tại phiên Tòa xét xử sơ thẩm, trong trường hợp nguyên đơn rút một phần hoặc toàn bộ
yêu cầu của mình và việc rút yêu cầu đó là tự nguyện thì Hội đồng xét xử chấp nhận và đình chỉ xét
xử đối với phần yêu cầu hoặc toàn bộ yêu cầu nguyên đơn đó rút (khoản 2 Điều 218 BLTTDS năm
2004). Trong trường hợp nguyên đơn rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện, nhưng bị đơn vẫn giữ nguyên
yêu cầu phản tố của mình thì bị đơn trở thành nguyên đơn và nguyên đơn trở thành bị đơn; nếu
nguyên đơn rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện và bị đơn rút toàn bộ yêu cầu phản tố, mà người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan vẫn giữ nguyên yêu cầu độc lập của mình thì người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan trở thành nguyên đơn, người có nghĩa vụ yêu đối với yêu cầu độc lập trở thành bị đơn
(Điều 219 BLTTDS năm 2004).
Người yêu cầu trong việc dân sự cũng có thể rút một phần hoặc toàn bộ yêu cầu của mình.
Tại phiên họp giải quyết việc dân sự, trong trường hợp người yêu cầu rút một phần hoặc toàn bộ yêu
cầu của mình và việc rút yêu cầu đó là tự nguyện thì Tòa án chấp nhận và đình chỉ giải quyết đối với
phần yêu cầu hoặc toàn bộ yêu cầu của người yêu cầu.
Trường hợp nguyên đơn, người yêu cầu rút đơn khởi kiện, đơn yêu cầu trước khi mở phiên
Tòa, phiên họp giải quyết việc dân sự hoặc tại phiên Tòa xét xử phúc thẩm, phiên họp giải quyết
việc dân sự thì để đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp cho cả hai bên đương sự, Điều 269 BLTTDS
năm 2004 quy định Hội đồng xét xử phúc thẩm phải hỏi bị đơn có đồng ý hay không và tuỳ từng
trường hợp mà giải quyết. Theo quy định tại khoản 1 Điều 193, khoản 2 Điều 269 BLTTDS năm

2004 thì việc Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án trong trường hợp nguyên đơn rút đơn
3
khởi kiện không làm mất quyền của nguyên đơn được khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết lại vụ án
dân sự đó nếu thời hiệu khởi kiện vẫn còn.
2.2. Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc thỏa thuận giải quyết vụ việc dân sự:
Trong quá trình Tòa án giải quyết vụ việc dân sự các bên vẫn có quyền thương lượng, hòa
giải với nhau việc giải quyết vụ việc. Điểm a khoản 2 Điều 180 BLTTDS năm 2004 quy định: “Tôn
trọng sự tự nguyện thoả thuận của các đương sự, không được dùng vũ lực hoặc đe doạ dùng vũ lực,
bắt buộc các đương sự phải thoả thuận không phù hợp với ý chí của mình;…”. Mọi sự tác động từ
bên ngoài trái với ý muốn của đương sự đều bị coi là trái pháp luật và không được công nhận. Điều
10 BLTTDS năm 2010 quy định: “Toà án có trách nhiệm tiến hành hoà giải và tạo điều kiện thuận
lợi để các đương sự thoả thuận với nhau về việc giải quyết vụ việc dân sự theo quy định của Bộ luật
này.”. Trong quá trình hòa giải, Tòa án giữ vai trò đặc biệt quan trọng. Nếu các đương sự hòa giải
thành, vụ án sẽ được kết thúc không phải bằng phán quyết mà bằng chính sự thỏa thuận của đương
sự. Do đó, việc hòa giải chỉ bị giới hạn ở một số trường hợp nhất định theo quy định của pháp luật
và nếu để các đương sự hòa giải là trái pháp luật hoặc không phù hợp với pháp luật, đó là các trường
hợp được quy định tại Điều 181 BLTTDS năm 2004. Tuy vậy, theo hướng dẫn tại Mục 2 phần II
Nghị quyết số 02/2006/NQ-HĐTP quy định Tòa án chỉ tiến hành hòa giải đối với “Trường hợp tài
sản của Nhà nước được Nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp nhà nước, góp vốn trong các doanh
nghiệp liên doanh có vốn đầu tư của các chủ sở hữu khác theo quy định của Luật doanh nghiệp,
Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam mà doanh nghiệp được quyền tự chủ chiếm hữu, sử dụng hoặc
định đoạt tài sản và chịu trách nhiệm trước Nhà nước đối với tài sản đó trong hoạt động sản xuất,
kinh doanh, thì khi có yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại đến tài sản đó,...”.
Đối với việc hòa giải ở cấp sơ thẩm, trước khi mở phiên Tòa thì “hòa giải” là một thủ tục tố
tụng bắt buộc đối với những loại việc mà pháp luật quy định hòa giải, trừ trường hợp những vụ án
dân sự không được hòa giải theo quy định tại Điều 181 BLTTDS năm 2004 và những vụ án không
tiến hành hòa giải được được quy định tại Điều 182 BLTTDS năm 2004. Tại khoản 2 Điều 186
BLTTDS năm 2004 quy định trước khi mở phiên tòa các đương sự thỏa thuận được với nhau về vấn
đề giải quyết toàn bộ vụ án dân sự thì Tòa án lập biên bản hòa giải thành.
Nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong việc hòa giải còn thể hiện ở quyền tự

thỏa thuận của đương sự. Trường hợp các đương sự tự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết
vụ án trước khi mở phiên tòa, thì Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án theo quy định tại
điểm đ khoản 1 Điều 192 BLTTDS năm 2004 và hậu quả pháp lý của việc đình chỉ giải quyết vụ án
trong trường hợp này là đương sự không có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết lại vụ án dân
sự đó, nếu việc khởi kiện vụ án sau không có gì khác với vụ án trước về nguyên đơn, bị đơn và quan
hệ pháp luật có tranh chấp. Theo quy định tại Điều 220 BLTTDS năm 2004 tại phiên tòa sơ thẩm,
Hội đồng xét xử phải hỏi các đương sự có thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án hay
không, nếu đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án và thỏa thuận của họ là tự
nguyện, không trái pháp luật và đạo đức xã hội thì Hội đồng xét xử ra quyết định công nhận sự thỏa
thuận của đương sự về việc giải quyết vụ án.
Nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự còn được thể hiện tại giai đoạn phúc thẩm.
Tuy BLTTDS năm 2004 không quy định Tòa án cấp phúc thẩm phải hòa giải trước khi mở phiên tòa
phúc thẩm, nhưng nếu tại Tòa án cấp phúc thẩm các đương sự tự thỏa thuận được với nhau về việc
giải quyết vụ án và thỏa thuận của họ là tự nguyện, không trái pháp luật và đạo đức xã hội thì Hội
đồng xét xử phúc thẩm ra bản án phúc thẩm, sửa bản án sơ thẩm, công nhận sự tự thỏa thuận của các
đương sự (Mục 5.1, phần III của Nghị quyết số 05/2006/NQ-HĐTP)
3. Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc lựa chọn người đại diện, người bảo
vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình và kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án:
3.1. Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc lựa chọn người đại diện, người bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của mình:
Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, trong một số trường hợp để bảo vệ tốt hơn
quyền, lợi ích hợp pháp của mình, đương sự có thể ủy quyền cho người khác thay mình tham gia tố
4
tụng. Người này được gọi là người đại diện theo sự ủy quyền của đương sự…Khoản 3 Điều 73
BLTTDS năm 2004 quy định: “Người đại diện theo uỷ quyền được quy định trong Bộ luật dân sự
là người đại diện theo uỷ quyền trong tố tụng dân sự; đối với việc ly hôn, đương sự không được uỷ
quyền cho người khác thay mặt mình tham gia tố tụng.”. Đương sự có thể ủy quyền cho người đại
diện thực hiện toàn bộ các quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình. Tuy vậy, trong trường hợp cần thiết,
Tòa án có thể triệu tập đương sự cùng tham gia tố tụng với người đại diện của họ. Theo Điều 63
BLTTDS năm 2004 quy định để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, đương sự có quyền

nhờ Luật sư hoặc người khác được Tòa án chấp nhận tham gia tố tụng. Đây cũng là một quy định
thể hiện rất rõ việc thực thi nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự.
3.2. Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc kháng cáo bản án, quyết định của
Tòa án:
Quyền kháng cáo là một quyền tố tụng cơ bản của đương sự được quy định tại điểm o khoản
2 Điều 58 BLTTDS năm 2004. Với ý nghĩa là một quyền của đương sự, pháp luật tố tụng dân sự
cũng đã quy định rất rõ thời hạn kháng cáo của đương sự. Điều 245 BLTTDS năm 2004 quy định
“Thời hạn kháng cáo đối với bản án của Toà án cấp sơ thẩm là mười lăm ngày, kể từ ngày tuyên
án; đối với đương sự không có mặt tại phiên toà thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày bản án được
giao cho họ hoặc được niêm yết; thời hạn kháng cáo đối với quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải
quyết vụ án của Toà án cấp sơ thẩm là bảy ngày, kể từ ngày người có quyền kháng cáo nhận được
quyết định.”. Ngoài việc quy định đương sự có quyền kháng cáo thì theo quy định tại khoản 1 Điều
256 BLTTDS năm 2004 đương sự có quyền thay đổi, bổ sung rút kháng cáo trước khi bắt đầu phiên
tòa hoặc tại phiên tòa nhưng không được vượt quá phạm vi kháng cáo ban đầu, nếu thời hạn kháng
cáo đã hết và Tòa án cấp phúc thẩm sẽ ra quyết định đình chỉ xét xử đối với những phần rút kháng
cáo.
Có thể thấy rằng quyền kháng cáo là một phương tiện pháp lý để đương sự bảo vệ quyền, lợi
ích hợp pháp của mình. Trong kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án, đương sự được quyền tự
định đoạt nội dung kháng cáo.
4. Trách nhiệm của Tòa án trong việc bảo đảm nguyên tắc quyền tự định đoạt của
đương sự trong tố tụng dân sự:
Theo khoản 1 Điều 5 LTTDS năm 2004 quy định “…Toà án chỉ thụ lý giải quyết vụ việc
dân sự khi có đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của đương sự và chỉ giải quyết trong phạm vi đơn khởi
kiện, đơn yêu cầu đó.”. Quy định này, có ý nghĩa là Tòa án chỉ được quyền thụ lý giải quyết vụ việc
dân sự khi có đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của đương sự và chỉ giải quyết trong phạm vi đơn khởi
kiện, yêu cầu của đương sự. Quy định như trên đã chứng tỏ pháp luật tố tụng luôn luôn tôn trọng
quyền tự định đoạt của đương sự, việc thụ lý giải quyết vụ việc dân sự hoàn toàn dựa trên sự định
đoạt của đương sự. Trách nhiệm của Tòa án trong việc đảm bảo nguyên tắc quyền tự định đoạt của
đương sự trong tố tụng dân sự còn được biểu hiện ở phương diện, Tòa án chỉ giải quyết trong phạm
vi đơn khởi kiện, yêu cầu đó. Có như vậy, thì mới đảm bảo được quyền tự định đoạt của đương sự

trong vụ việc dân sự cũng như đảm bảo được việc thực hiện nguyên tắc quyền tự định đoạt của
đương sự trong tố tụng dân sự trên thực tế.
III. Thực tiễn thực hiện nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong tố
tụng dân sự và một số kiến nghị:
1. Thực tiễn thực hiện nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng
dân sự:
1.1. Những kết quả đạt được:
Thực tiễn xét xử trong những năm gần đây cho thấy nguyên tắc quyền tự định đoạt của
đương sự trong tố tụng dân sự ngày càng được quan tâm và coi trọng hơn bao giờ hết. Đánh giá về
những kết quả đạt được của ngành Tòa án trong năm vừa qua, trong Báo cáo tổng kết năm 2009 và
phương hướng nhiệm vụ công tác năm 2010 của ngành Tóa án nhân dân ngày 25 tháng 01 năm
2010, Tòa án nhân dân tối cao đã khẳng định Tòa án nhân dân các cấp đã thụ lý 214.174 vụ việc; đã
5

×