Tải bản đầy đủ (.doc) (34 trang)

Tác động của vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam trong thời kỳ CNH – HĐH và một số phương hướng và biện pháp để thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (255.64 KB, 34 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
LỜI MỞ ĐẦU
Vốn là điều kiện hàng đầu của tăng trưởng của mọi quốc gia. Đối với Việt
Nam để đạt được tốc độ tăng trưởng cao và ổn định cần phải có một khối lượng
vốn rất lớn. Vì thế trong bối cảnh nền kinh tế còn kém phát triển, khả năng tích
luỹ thấp thì việc tăng cường huy động các nguồn vốn nước ngoài để bổ xung
cho tổng vốn đầu tư phát triển có ý nghĩa rất quan trọng, trong đó phải kể đến
vốn đầu tư nước ngoài. Vốn đầu tư nước ngoài có vai trò hết sức quan trọng, nó
là nguồn bổ xung vốn cho đầu tư, là một cách để chuyển giao công nghệ, là một
giải pháp tạo việc làm và thu nhập cho người lao động, tạo nguồn thu cho ngân
sách và thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Nhận thức đúng vị trí và vai trò to lớn của vốn đầu tư nước ngoài, chính
phủ Việt Nam đã ban hành chính sách khuyến khích đầu tư nước ngoài vào Việt
Nam, đồng thời tạo mọi diều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài vào
Việt Nam. Chúng ta thực hiện đa dạng hoá và đa phương hoá hợp tác đầu tư với
nước ngoài hai bên cùng có lợi. Việt Nam coi vấn đề huy động và sử dụng có
hiệu quả của vốn đầu tư nước ngoài trong tổng thể chiến lược tăng trưởng và
phát triển kinh tế ở nước ta hiện nay là một trong những nhiệm vụ chiến lược
trọng yếu nhất. Nó góp phần thực hiện có hiệu quả kế hoạch 5 năm (2001-2005),
là bước mở đầu quan trọng trong việc thực hiện chiến lược phát triển kinh tế xã
hội 10 năm 2001-2010 –chiến lược đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá theo
định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nhận thấy vai trò quan trọng của việc đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt
Nam em đã mạnh dạn chọn đề tài: “Tác động của vốn đầu tư nước ngoài vào
Việt Nam trong thời kỳ CNH – HĐH và một số phương hướng và biện pháp để
thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam hiện nay”.
Trong bài viết này em xin được trình bày những vấn đề sau:
Chương I: Tổng quan về đầu tư nước ngoài
Chương II: Tác động của vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam trong
thời kỳ CNH - HĐH
1


Website: Email : Tel : 0918.775.368
Chương III: Một số phương hướng và biện pháp để thu hút vốn đầu tư
nước ngoài vào Việt Nam hiện nay.
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI
I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI
1. Khái niệm chung về đầu tư nước ngoài :
Mọi quá trình sản xuất đều cần phải có hai yếu tố tư liệu sản xuất và sức
lao động. Thiếu hai yếu tố đó thì sẽ không8 tồn tại quá trình sản xuất hàng hoá.
Để có được hai yếu tố cơ bản đó vấn đề đặt ra là cần có vốn đầu tư và thực hiện
hoạt động đầu tư. Vốn đầu tư dùng để sản xuất hàng hoá, mua nhà xưởng, mua
thiết bị .v.v…Vốn có khác nhau về quy mô hay cơ cấu song là điều cần thiết đối
với mọi quá trình sản xuất, mọi quốc gia nhất là đối với những cơ sở mới bắt
đầu hình thành và với những quốc gia còn ở trình độ lạc hậu chưa hoàn thành
quá trình công nghiệp hoá trong đó có Việt Nam.
Vốn đầu tư trong nền sản xuất hàng hoá là vốn tiền tệ được tích luỹ bằng
nguồn vốn của các doanh nghiệp, tiền tiết kiệm của dân và nguồn vốn huy động
từ các nguồn khác, được đưa vào sử dụng trong quá trình sản xuất kinh doanh,
trong hoạt động kinh tế xã hội nhằm đạt hiệu quả kinh tế nhất định. Vốn đầu tư
có thể được huy động từ trong nước cũng như có thể được huy động từ nước
ngoài.Trong điều kiện quốc tế hoá đời sống kinh tế được đẩy mạnh như thời đại
ngày nay thì vốn nước ngoài ngày càng phổ biến và có vai trò không nhỏ. Mặc
dù đứng về lâu dàI thì vốn trong nước luôn đóng vai trò quyết định. Vốn đầu tư
được sử dụng để phục vụ cho một mục đích nhất định căn cứ vào những tiêu
thức nhất định người ta có thể phân chia đầu tư thành nhiều loại trong đó có đầu
tư trực tiếp nước ngoài .
Đầu tư trực tiếp là đầu tư trong đó người bỏ vốn trực tiếp tham gia điều
hành qui trình thực hiện và có thể quyết định toàn bộ hoạt động nếu là xí nghiệp
100% vốn của mình hoặc tham gia quyết định nếu là xí nghiệp liên doanh.Trong
2
Website: Email : Tel : 0918.775.368

đầu tư trực tiếp người có vốn có thể bỏ vốn vào để làm tăng thêm năng lực sản
xuất mới song cũng có thể mua lại một số cổ phần để hy vọng
Trong đầu tư trực tiếp người có vốn bỏ ra có thể là người trong nước mà
cũng có thể là người nước ngoài. Trong trường hợp vốn và người có vốn là
người nước ngoài thì hoạt động đầu tư trực tiếp đó là đầu tư trực tiếp nước
ngoài.
Như vậy đầu tư trực tiếp nước ngoài là đầu tư trực tiếp do nguồn vốn từ
nước ngoài mà chủ thể của nó là tư nhân hay nhà nước hoặc các tổ chức quốc tế
được nước chủ nhà cho phép đầu tư vào những ngành hoặc những lĩnh vực nào
đó của một nước nhằm thực hiện mục tiêu nhất định.
Ở Việt Nam, văn bản pháp luật đầu tiên về đầu tư trực tiếp nước ngoài là
điều lệ về đầu tư nước ngoài kèm theo nghị định số 115/CP ngày 18/4/1977.
Điều lệ này không nêu định nghĩa cụ thể về đầu tư trực tiếp nước ngoài nhưng
trong tư tưởng của các quy phạm thì khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng
giống như khái niệm được ghi nhận sau này trong luật đầu tư nước ngoài năm
1987: “Đầu tư trực tiếp nước ngoài là việc tổ chức, nhân nước ngoàI trực tiếp
đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền nước ngoài hoặc bằng bất kỳ tài sản được
Chính Phủ Việt Nam chấp thuận để hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng
hoặc thành lập xí nghiệp liên doanh hoặc xí nghiệp 100% vn nước ngoài”.
1.1. Đặc điểm của vốn đầu tư nước ngoài.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài có một số đặc điểm sau:
- Hoạt động vốn đầu tư nước ngoài không chỉ đưa vốn vào nước tiếp nhận
đầu tư mà còn có cả công nghệ kỹ thuật, bí quyết kinh doanh, sản xuất, trình độ
quản lý …
- Chủ đầu tư nước ngoài phải đóng một lượng vốn tối thiểu vào vốn pháp
định tuỳ theo quy định của luật đầu tư nước ngoài ở từng nước, để họ có quyền
trực tiếp tham gia điều hành, quản lý. Ví dụ luật đầu tư của Việt Nam quy định:
“Số vốn góp tối thiểu của phía nước ngoài phải bằng 30%vốn pháp định của dự
án .
3

Website: Email : Tel : 0918.775.368
- Quyền quản lý, điều hành doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phụ
thuộc vào vốn góp, nếu đóng góp 100% thì xí nghiệp hoàn toàn do chủ đầu tư
nước ngoài điều hành.
- Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp quyết định
mức lợi nhuận của nhà đầu tư. Lời và lỗ được chia theo tỉ lệ góp vốn sau khi đã
nộp thuế lợi tức cho nước chủ nhà.
- Nguồn vốn đầu tư nước ngoài được sử dụng theo mục đích của chủ thể
đầu tư nước ngoài trong khuôn khổ luất đầu tư nước ngoài của nước sở tại.
Nước tiếp nhận đầu tư chỉ có thể định hướng một cách gián tiếp việc sử dụng
vốn đó vào những mục đích mong muốn thông qua các công cụ: thuế, giá thuê
đất, chính sách để khuyến khích hay hạn chế đầu tư trực tiếp nước ngoài vào
một ngành nào đó.
- Việc tiếp nhận vốn đầu tư nước ngoài không gây nên tình trạng nợ nước
ngoài cho nước chủ thể, bởi nhà đầu tư nước ngoài chịu trách nhiệm trực tiếp
trước hoạt động sản xuất kinh doanh của họ.
1.2. Ưu điểm của hình thức đầu tư nước ngoài .
* Về giá đầu tư trực tiếp nước ngoài .
- Cho phép chủ đầu tư nước ngoài ở một mức độ nhất định (phụ thuộc vào
tỉ lệ góp vốn) tham đầu tư trực tiếp nước ngoàiự vào điều hành quá trình kinh
doanh của xí nghiệp nên họ trực tiếp kiểm soát sự hoạt động và đưa ra quyết
định có lợi nhất cho vốn đầu tư mà họ bỏ ra. Nếu môi trường đầu tư ổn định các
chủ đầu tư nước ngoài thích bỏ 100% vốn đầu tư.
- Giúp cho nhà đầu tư nước ngoài dễ chiếm lĩnh thị trường tiêu thụ và
nguồn cung cấp nguyên liệu của nước chủ nhà.
- Tránh được hàng rào bảo hộ mậu dịch vì thông qua đâù tư trực tiếp mà
họ tạo được các xí nghiệp nằm bên “ trong lòng” các nước thi hành chính sách
bảo hộ mậu dịch.
* Về phía nước tiếp nhận đầu tư.
4

Website: Email : Tel : 0918.775.368
- Giúp tăng cường khai thác vốn của từng chủ đầu tư nước ngoài. Nhiều
nước thiếu vốn trầm trọng nên đối với hình thức đầu tư trực tiếp không quy định
mức đóng góp tối đa của mỗi chủ đầu tư, thậm chí đóng góp càng nhiều càng
được hưởng các chính sách ưu đãi về thuế của nước chủ nhà .
- Giúp tiếp thu được công nghệ tiên tiến và kinh nghiệm quản lý kinh
doanh của các chủ đầu tư nước ngoài.
- Nhờ có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài cho phép nước chủ nhà có điều
kiện khai thác tốt nhất những lợi thế của mình về taì nguyên, vị trí, mặt nước…
1.3. Một số hạn chế của đầu tư nước ngoài .
Bên cạnh những ưu điểm thì hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng
có những hạn chế nhất định:
- Nếu đầu tư vào môi trường bất ổn định về kinh tế và chính trị thì chủ
đầu tư dễ bị mất vốn.
- Nếu nước chủ nhà không có một quy hoạch đầu tư cụ thể và khoa học
dẫn tới sự đầu tư tràn lan kém hiệu quả, tài nguyên thiên nhiên bị khai thác quá
mức và nạn ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Vì hiện nay ở các nước tư bản
phát triển thực hiện sự kiểm soát gắt gao những dự án gây ô nhiễm môi trường,
nên xu thế nhiều nhà tư bản nước ngoài đã và đang chuyển giao những công
nghệ độc hại sang các nuức kém phát triển.
- Mục đích của nhà đầu tư là lợi nhuận nên họ chỉ đầu tư vào nơi có lợi
nhất. Vì thế nhiều khi lượng vốn nước ngoài đã làm gia tăng thêm sự mất cân
đối giữa các vùng nông thôn và thành thị. Sự mất cân đối này sẽ gây nên sự bất
ổn định về chính trị.
- Nước chủ nhà có nguy cơ trở thành nơI tiếp nhận những công nghệ cũ,
lạc hậu của nước ngoài.
2. Vị trí và tác động kinh tế của vốn đầu tư nước ngoài.
* Đầu tư trực tiếp nước ngoài chiếm vị trí ngày càng quan trọng trong
quan hệ kinh tế quốc tế.
5

Website: Email : Tel : 0918.775.368
Đầu tư trực tiếp nước ngoài là hoạt động kinh tế quốc tế, cùng với quá
trình phát triển đầu tư trực tiếp nước ngoài không ngừng mở rộng và chiếm một
vị trí ngày càng quan trọng trong quan hệ kinh tế- quốc tế. Đến nay vốn đầu tư
nước ngoài đã trở thành xu hướng của thời đại và nhân tố quy định bản chất các
quan hệ kinh tế quốc tế.
Thập kỷ 80 vừa qua đã chứng kiến bước phát triển của vốn đầu tư nước
ngoài trên thế giới. Khối lượng vốn tăng với tốc độ nhanh hơn nhiều so với sự
gia tăng của sản xuất và buôn bán quốc tế. Những năm 70 lượng vốn đầu tư trực
tiếp toàn thế giới bình quân hàng năm là 25 tỷ USD, con số này đã tăng lên gấp
đôi trong thời kỳ 1980-1985. Năm 1986 lượng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
trên toàn thế giới là 78 tỷ USD, năm 1987 là 133 tỷ USD, 1990 là 185 tỷ USD.
Tính bình quân hàng năm trong thời kỳ 1985-1990 đầu tư trực tiếp nước ngoài
tăng khoảng 24% tốc độ này tăng hơn 4 lần so với tốc độ tăng kim ngạch xuất
khẩu cũng trong thời kỳ này là 6.1%.Tình hình trên đây cho phép khẳng định
rằng FDI đang trở thành xu hướng phát triển quan hệ kinh tế quốc tế.
Đầu năm 1989 tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trên toàn thế giới lên
tới 200 tỷ USD, chiếm hơn 13% tổng vốn đầu tư trên toàn thế giới là 1500 tỷ
USD. Bước sang thập kỷ 90 này đầu tư nước ngoài đã tăng nhanh trở thành một
nhân tố gây ảnh hưởng to lớn đến sự tăng trưởng kinh tế của nhiều quốc gia.
Hiện nay khối lượng vốn đầu tư ra nước ngoài của các công ty xuyên quốc gia
chiếm khoảng 80% tổng vốn đầu tư nước ngoài trên toàn thê giới. Đây là sự thay
đổi trong chiến lược phát triển của các công ty xuyên quốc gia. Trước xu thế xu
thế hoá nền kinh tế thế giới trong những năm gần đây các công ty xuyên quốc
gia đă đặc biệt tập trung vào chiến lược cắm rễ ở nước ngoài nhằm phát triển các
mạng lưới khu vực trên qui mô lớn.
Tình hình trên đây có những lí do chủ yếu sau:
- Sự phát triển các phương tiện giao thông liên lạc, kỹ thuật bán dẫn đã
đạt tới trình độ cho phép các chủ đầu tư có thể nắm bắt kịp thời chuẩn xác các
thông tin cần thiết để có thể ra các quyết định hợp lý, hạn chế được các tổn thất

6
Website: Email : Tel : 0918.775.368
cho phép và rủi ro trong kinh doanh. Điều này cho phép các chủ thể đầu tư có
thể điều hành hoạt động kinh doanh của họ ở khắp mọi nơi trên thế giới một
cách nhanh chóng và chính xác. Sự phát triển cho phép các chủ đầu tư cung cấp
hàng hoá, dịch vụ đúng hạn, đáp ứng kịp thời nhu cầu thị trường.
- Thể chế chính trị, kinh tế, xã hội của nhiều quốc gia trong những thập kỷ
qua đã có những thay đổi phù hợp với nền kinh tế thị trường mở cửa, với các
thông lệ quốc tế bảo đảm được các lợi ích của chủ đầu tư nước ngoài.
- Tình hình an ninh quốc tế ngày càng có xu hướng ổn định hơn nhất là
sau chiến tranh lạnh. Thế giới đã chuyển từ trạng thái đối đầu sang đối thoại hoà
bình hợp tác, xu thế toàn cầu hoá và khu vực hoá ngày càng phát triển
* Tác động kinh tế của vốn đầu tư nước ngoài:
- Tạo nguồn vốn bổ xung quan trọng
- Chuyển giao công nghệ
- Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
- Thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế
II. LÝ LUẬN VỀ VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI CHO PHÁT
TRIỂN KINH TẾ Ở VIỆT NAM
1. Vốn đầu tư nước ngoài đóng vai trò quan trọng cho phát triển kinh
tế ở Việt Nam.
Việt Nam cũng như hầu hết các nước đang phát triển, trong giai đoạn đầu
của sự phát triển kinh tế, do mức thu nhập thấp nên khả năng tiêu dùng và tích
luỹ vốn đều rất hạn chế dẫn tới việc thu hút đầu tư trong nước không đáng kể.
Trong khi đó nhu cầu của nền kinh tế lại cần những khoản vốn lớn để đầu tư cho
cơ sở hạ tầng, xây dựng các công trình làm nền tảng cho sự phát triển kinh tế. để
bù đắp cho sự thiếu hụt nguồn vốn đầu tư phát triển đất nước thì cần phải thu hút
vốn đầu tư nước ngoài nói chung và FDI nói riêng nhằm tăng dần khả năng đáp
ứng vốn cho quá trình phát triển kinh tế. Do đó việc huy động vốn đầu tư trực
tiếp tạo ra những lợi ích quan trọng trong giai đoạn hiện nay:

7
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Một là: Nó góp phần quan trọng trong việc khắc phục thiếu hụt về vốn ở
nước ta.
Đặc diểm của nền kinh tế nước ta ở vào thập kỷ 70 và đầu thập kỷ 80 là
nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung với nhiều nhược điểm.Trong đó tỉ lệ đầu tư
và tiết kiệm rất thấp thậm chí còn âm.Từ sau đổi mới, tỉ lệ này đã được tăng lên
đáng kể, tuy nhiên nó vẫn còn rất thấp so với nhu cầu đầu tư. Hơn nữa, chúng ta
còn phảI trả khá nhiều nợ nước ngoài trong khi thâm hụt ngân sách còn ở mức
cao. Vì vậy vốn đầu tư nước ngoài trở thành một nguồn vốn cần thiết cho sự
nghiệp đổi mới của nước nhà. Trong suốt thời kỳ 1990-1995 vốn đầu tư nước
ngoài đã đóng góp 30% vốn đầu tư trong nước.
Hai là: Thông qua việc chuyển giao công nghệ và kỹ thuật, vốn đầu tư
nước ngoài đã đóng góp phần tăng năng suất lao động, khả năng sản xuất, kinh
nghiệm quản lý trong một số ngành.
Việt Nam bước vào công cuộc hồi phục và phát triển kinh tế với xuất
phát điểm rất thấp về mặt công nghệ, do đó chất lượng sản phẩm thấp, khó có
thể tạo ra sức cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước, mặt khác trình độ
công nghệ thấp còn dẫn đến ô nhiễm môi trường. Sau khi thực hiện luật đầu tư
nước ngòai, việc đổi mới công nghệ ở nước ta đã thực hiện so với qui mô và tốc
độ nhanh hơn nhiều so với trưóc đó. Nước ta đã tiếp nhận một số kỹ thuật và
công nghệ tiến bộ của nhiều ngành kinh tế như: Thông tin viễn thông, thăm dò
dầu khí, công nghiệp điện tử, sản xuất lắp ráp ô tô, xe máy, hoá chất… Phần lớn
thiết bị đưa vào nước ta thuộc loại trung bình thế giới nhưng vẫn tiên tiến hơn
những thiết bị hiện có của ta. Một số công nghệ chuyển giao trong lĩnh vực dầu
khí, viễn thông thuộc loại hiện đại của thế giới. Đây là sự đóng góp khá quan
trọng của vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, góp phần nâng cao chất lượng
sản phẩm đa dạng mẫu mã, từ đó nâng cao kim ngạch xuất khẩu, cải thiện môi
trường lao động.
Ba là: Bước đầu tạo ra một số công ăn việc làm, góp phần giải quyết khó

khăn về việc làm cho người lao động. Tính đến năm 1997,các xí nghiệp có vốn
8
Website: Email : Tel : 0918.775.368
đầu tư nước ngoài đã tạo việc làm trực tiếp cho hơn 13 vạn lao động và hơn 10
vạn lao động gián tiếp phục vụ cho hợp tác đầu tư. Đồng thời đã thu hút hơn
4000 cán bộ Việt Nam làm việc trong các xí nghiệp này. Nhiều cán bộ đã phát
huy được năng lực, vươn lên đảm nhiệm được những công việc quan trong, có
uy tín đối với các đối tác bên ngoài. Sự đóng góp này tuy còn nhỏ bé song lại
đáng quý trong điều kiện đang thiếu nhiều việc làm ở nước ta.
Bốn là: Tăng thêm nguồn thu từ xuất khẩu, dịch vụ thu ngoại tệ và đóng
góp vào thu ngân sách nhà nước. Trong suốt thời kỳ 1988-1996 đã tạo ra hơn 2
tỷ USD giá tri sản lượng hàng hoá và dịch vụ đóng góp hơn 2tỷ đồng cho ngân
sách. Tuy nhiên con số trên còn nhỏ bởi vì trong giai đoạn này khoảng 30% các
dự án đầu tư đang trong thời gian được miễn thuế
2. Vai trò và ý nghĩa của vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
Thực hiện hoạt động đầu tư trên thế giới cũng như ở Việt Nam đã cho
thấy đầu tư trực tiếp nước ngoài có vai trò hết sức to lớn đối với nước tiếp nhận
đầu tư đặc biệt là ở những nước đang phát triển.
Ngày nay do vai trò quan trọng của FDI nên các nước đang phát triển và
cả những nước phát triển đều ra sưc cạnh tranh để thu hút FDI.
Trước hết FDI đóng vai trò là nguồn cung cấp vốn lớn, góp phần giải
quyết tình trạng thiếu vốn đầu tư- một căn bệnh kinh niên và phổ biến của bất kỳ
một quốc gia chậm phát triển nào, ở Indonesia sau khi ban hành luật đầu tư nước
ngoài đã cung cấp một lượng vốn bình quân trong 27 năm (1967-1994) là 1.15
tỷ USD/năm.
Những năm gần đây, Philipin đang trên đà tăng trưởng kinh tế ở mức cao
và họ cho rằng nếu sử dụng nguồn vốn nước ngoài hợp lý thì có thể khuyến
khích được tính hiệu quả của nền kinh tế. Ở Trung Quốc, đầu tư trực tiếp
nước ngoài đã cung cấp cho đất nước rộng lớn này 87 tỷ USD/năm trong 15 năm
(1979-1994).

9
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Ở Việt Nam tính đến hết năm 1995, vốn FDI đã thu hút là 19,353 tỷ USD
với mức thực hiện khoảng 30%. Tốc độ thu hút vốn FDI ở Việt Nam từ 1988
-1995 bình quân 50%/năm.
Bên cạnh vai trò cung cấp vốn, đầu tư trực tiếp nước ngoài còn mang lại
cho nước tiếp nhận đầu tư công nghệ kỹ thuật tiên tiến góp phần phát triển lực
lượng sản xuất, cơ cấu lại nền kinh tế. Thực tế cho thấy rằng kỹ thuật và công
nghệ nước ngoài đã giúp cho Malaysia từ chỗ là một nước cơ cấu lạc hậu, kỹ
thuật thủ công, phân tán lực lượng sản xuất kém phát triển, đến giữa năm 1980
đã trở thành nước xuất khẩu lớn nhất thế giới về găng tay, cao su, thứ hai trên
thế giới về chất bán dẫn và tinh thể sơ đồ tích phân và thứ ba trên thế giới về
máy điều hoà nhiệt độ. Rõ ràng chỉ có đầu tư nước ngoài với trình độ kỹ thuật
cao phương pháp sản xuất tiên tiến và khả năng thâm nhập thị trường thế giới
của các công ty xuyên quốc gia mới tạo ra được thành công nói trên.
Một thực tế cần đề cập là các nước phát triển muốn lợi dụng đầu tư trực
tiếp nước ngoài để chuyển giao những thiết bị, kỹ thuật lạc hậu cho các nước
chậm phát triển, biến các nước này thành “bãi rác” của mình như một số báo đã
viết, hay như các nhà kinh tế đã phân tích coi đó là “kết cấu hai tầng” của người
Nhật hay thuyết về “quan hệ giữa trung tâm và ngoại vi” của Bắc Mĩ và Tây Âu
nhằm khai thác và sử dụng tối đa các tiềm năng công nghệ của mình. Tuy nhiên
quan hệ về đầu tư trực tiếp nước ngoài là “quan hệ tự nguyện” hoàn toàn theo cơ
chế thị trường nên việc chấp nhận hay không chấp nhận là quyền của nước tiếp
nhận đầu tư. ở Việt Nam để hạn chế tiếp nhận các thiết bị lạc hậu nhà nước đã
quy định nhiều biện pháp để kiểm tra giám sát như định giá đấu thầu chỉ định
tiêu chuẩn kỹ thuật. Ở Trung Quốc có luật quy định về giới hạn khoảng chênh
lệch giữa thời gian sản xuất máy móc với thời gian nhập máy móc đó vào Trung
Quốc.
Cũng phải kể đến một xu hướng nữa trong đầu tư trực tiếp nước ngoài là
trong nhiều trường hợp các nước phát triển cần mang vaò nước chậm phát triển

những công nghệ tiên tiến hơn cả nước mình. Ví dụ ở Nhật Bản, do đồng yên
10
Website: Email : Tel : 0918.775.368
tăng giá nên ngày càng nhiều các công ty Nhật Bản mang nhiều công
nghệ tiên tiến ra nước ngoài để sản xuất hàng hoá rồi nhập khẩu trở lại Nhật Bản
nhằm thu lợi nhuận cao.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng có vai trò là một hình thức đào tạo giúp
các nước tiếp nhận đầu tư kiến thức sử dụng công nghệ hiện đại và học tập kinh
nghiệm quản lý của nước ngoài trong sản xuất kinh doanh, nâng cao trình độ sản
xuất kinh doanh của đất nước, hoà nhập vào sự phân công lao động quốc tế.
Hơn thế nữa, đầu tư trực tiếp nước ngoài còn góp phần đào tạo một đội
ngũ công nhân có trình độ kỹ thuật cao. Bên cạnh đó đầu tư trực tiếp nước ngoài
có vai trò rất quan trọng trong việc tạo ra công ăn việc làm, hạn chế tình trạng
thất nghiệp, nâng cao mức thu nhập cho người lao động.
Ở Việt Nam, số lao động người Việt Nam làm việc trong các xí nghiệp có
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đã tăng từ 65000 năm 1994 lên 90000 vào cuối
năm 1995. Ngoài ra đầu tư trực tiếp nước ngoài còn gián tiếp tạo việc làm và thu
nhập cho hàng chục vạn lao động làm các công ty dịch vụ có liên quan. Về cơ
bản, tiền lương được giải quyết phù hợp với quy định, cao hơn mức lương của
các doanh nghiệp cùng loại thuộc các thành phần kinh tế khác.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài có vai trò quan trọng và có ý nghĩa to lớn đối
với sự phát triển kịnh tế của các nước tiếp nhận đầu tư. Người Malayxia nhận
xét rằng: Trong một chừng mực nhất định đầu tư trực tiếp nước ngoài từ chỗ là
“nhân tố bên ngoài”chuyển thành “ nhân tố bên trong”quyết định phần lớn thị
trường kinh tế, cơ cấu kinh tế. Theo tạp chí kinh tế Viễn Đông thì sau khi có
chính sách mở cửa và luật đầu tư nước ngoài, nền kinh tế của Inđonesia được coi
như “người khổng lồ” của Đông nam á đang ngủ đã tỉnh dậy trở thành một quốc
gia có tốc độ phát triển kinh tế nhanh.
Ở Việt Nam hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài vừa qua đã góp phần
làm chuyển biến nền kinh tế Việt Nam theo hướng của một nền kinh tế công

nghiệp hoá. Đối với Việt Nam vốn FDI đống vai trò như lực khởi động, như
11
Website: Email : Tel : 0918.775.368
một trong những điều kiện đảm bảo cho sự thành công của công cuộc
CNH-HĐH. Một số dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài đã góp phần làm vực dậy
một số doanh nghiệp Việt Nam đang trong điều kiện khó khăn, sản xuất đình
đốn có nguy cơ phá sản. Không những thế, nó còn góp phần hình thành nhiều
ngành nghề sản xuất mới, cũng như nhiều sản phẩm mới. Vì khả năng thu
hồi vốn và có lãi phụ thuộc hoàn toàn vào kết quả sản xuất kinh doanh nên các
nhà đầu tư nước ngoài thường tính toán cân nhắc kỹ lưỡng khi đưa vào Việt
Nam những thiết bị, kỹ thuật, công nghệ tiên tiến, hiện đại hoặc ở mức thấp nhất
cũng còn có khả năng phát huy được hiệu quả nhất định. FDI là một trong
những kênh đưa nền kinh tế Việt Nam hội nhập thế giới tương đối có hiệu quả.
Là khu vực hấp dẫn, tạo ra nhiều việc làm và nâng cao năng lực cho người lao
động Việt Nam. Là môi trường lý tưởng để chúng ta học hỏi, tiếp thu kinh
nghiệm quản lý, khả năng tổ chức sản xuất kinh doanh của nền kinh tế thị
trường hiện đại. Là điều kiện tốt để Việt Nam mở rộng thị trường cả trong và
ngoài nước.
Tóm lại hoạt động FDI đã góp phần thúc đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng
kinh tế của đất nước, khai thác tài nguyên, tạo việc làm góp phần chuyển dịch cơ
cấu kinh tế, sản xuất nhiều hàng hoá và dịch vụ có hàm lượng kỹ thuật cao, đẩy
mạnh xuất khẩu đưa nước ta vào phân công lao động quốc tế, tạo hình ảnh và vị
thế mới uy tín ngày càng tăng của Việt Nam trên trường quốc tế, đặc biệt là
trong xu thế hội nhập khu vực và toàn cầu, yếu tố quyết định để Việt Nam rút
ngắn con đường hội nhập khu vực và thế giới đó là mở rộng và thu hút FDI.
12
Website: Email : Tel : 0918.775.368
CHƯƠNG II: TÁC ĐỘNG CỦA VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI VÀO
VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ CNH - HĐH
I. TÁC ĐỘNG CỦA VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TRONG QUÁ

TRÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ Ở VIỆT NAM
1. Cải thiện cán cân thanh toán quốc tế, tăng cường xuất khẩu tăng
thu cho ngân sách.
Kể từ khi Việt Nam bắt đầu thu hút vốn, cán cân thanh toán có những cải
thiện đáng kể. Điều này phần nào được thể hiện ở lợi ích tài chính đem lại về
doanh thu của các xí nghiệp có vốn FDI, kể từ ngày 26/3/97 là 4838 tr USD
trong đó kim ngạch xuất khẩu chiếm 1/3. Còn nếu cộng cả dầu khí, tỷ trọng xuất
khẩu của FDI khoảng 60-65% điều này có ý nghĩa rất to lớn đến sự phát
triển kinh tế của Việt Nam. FDI còn có tác động tích cực tới đẩy mạnh sản
xuất, tạo ra những năng lực sản xuất mới, đã làm nâng cao chất lượng hàng xuất
khẩu như hàng may mặc, thực phẩm…
2. Tăng thêm việc làm và thu nhập cho người lao động
Thất nghiệp là hiện tượng KT-XH được coi như một tệ nạn đáng lo ngại,
là mối quan tâm của hầu hết các quốc gia trên thế giới.
Từ khi thực hiện luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, chúng ta đã khắc
phục phần nào tỷ lệ thất nghiệp, bước đầu đã tạo thêm việc làm cho người lao
động. Làm việc trong khu vực có vốn FDI người lao động Việt Nam có mức thu
nhập khá cao, tuy thu nhập đó chưa thật đáng kể so với thu nhập của các nước
trong khu vực nhưng đó là kết quả bước đầu cho chúng ta thấy được tầm quan
trọng của FDI đối với việc giải quyết việc làm trong thời gian qua. Tuy vậy vấn
đề giải quyết là vốn trí được giữa đầu tư xây dựng mới và đầu tư chiều sâu, giữa
các ngành có trình độ kỹ thuật cao và vừa phải kết hợp hài hoà giữa hai lợi ích.
GiảI quyết việc làm cho người lao động và nâng cao trình độ kỹ thuật trong
nước, đem lại hiệu quả KT-XH cao.
13

×