I – VIỆT NAM – INĐÔNÊXIA
1.1. Việt Nam thuộc địa nửa phong kiến
Hai hiệp ước Hácman (1883). Patơnot (1884) được kí kết dưới áp lực
quân sự tư bản Pháp đã đánh đấu sự sụp đổ hoàn toàn của nhà nước phong
kiến độc lập Việt Nam và sự đầu hang của triều Nguyễn trước chủ nghĩa tư
bản Pháp. nhưng trong triều đình Huế vẫn còn một số người yêu nước, do
tình thế trước mắt buộc phải ngồi im, nhưng bên trong vẫn nuôi chí hành
động ki có thời cơ. Nhưng mọi sự cố gắng của nhân dân Việt Nam trong
giai đoạn này đều không thu được kết quả, và đến những năm cuối của thế
kỉ XIX thực dân Pháp về căn bản đã hoàn thành công cuộc bình định Việt
Nam về quân sự, và trong bối cảnh đó đã có thể bắt tay vào khai thác thuộc
địa Việt Nam một cách quy mô.
Pháp đã thiết lập bộ máy hành chính cai trị chặt chẽ, với cơ quan
quyền lực tối cao là” hội động tối cao Đông Dương”, với chính sách nham
hiểm “ chia để trị” và: dùng người Việt trị người Việt”. Hỗ trợ cho nó là bộ
máy quân sự, cảnh sát, nhà tù. Trước tình hình đó là cho đất nước Việt Nam
có sự sáo trộn về mọi mặt: về kinh tế đã làm cho kinh tế Việt Nam ngày
càng nghÌo nàn lạc hậu và lệ thuộc chặt vào nền kinh tế Pháp” quan viên
thăm dò, giới cầm quyền thực dân đã quyết định chính sách khai thác thuộc
địa Đông Dương với tinh thần cơ bản là: thuộc địa Đông Dương phải được
đặc biệt dành riêng cho thị trường Pháp. Nèn sản xuất ở thuộc địa này chỉ
được thu gọn gì mà nước pháp không có. Công nghiệp nếu được khuyến
khích thì cũng chỉ trong giới hạn nhằm bổ xung cho công nghiệp chính
quốc”
[ 1]
Thực dân Pháp đẩy mạnh khai thác trên quy mô lớn từ đầu thế kỉ XX
đã làm cho cơ cấu kinh tế Việt Nam có những chuyển biến quan trọng.
Phương thức bóc lột mới theo lối tư bản chủ nghĩa đã được du nhập vào
Việt Nam, bắt đầu xâm nhập các khu vực kinh tế nôn nghiệp, công thương
nghiệp. Đồng thời phương thức bóc lột cũ theo lối phong kiến cổ truyền
1
cng c thc dõn Phỏp c tỡnh duy trỡ mang li li ích cho chỳng. Sự
kt hp gia hai phng thc búc lt ú ó din n s hỡnh thnh phng
thc búc lt thuc a bo m siờu li nhun ti cao cho thc dõn Phỏp v
phong kin tay sai. Trong bi cnh ú, xó hi Vit Nam t u th k XX
cng bt y thay i khỏ nhanh: nhõn dõn lao ng b bn cựng hoỏ, xó hi
phõn hoỏ ngy cng sõu sc, nụng thụn v thnh th u cú nhng chuyn
bin rừ rt. Nhng bin i v c cu xó hi tt yu cú nh hng n tớnh
cht ca u tranh cỏch mng ca nhõn dõn ta ang v s diờn ra.
2. Inụnờxia
Sang th k XVI, cũng nh nhiu nc trong khu vc, t nc
inụnờxia cú nhiu bin i quan trng. Trong nm 1521, vng triu
Magiapahit b cỏc vng quc H giỏo lt . S kin ny ỏnh du nhng
mõu thun gay gt gia cỏc vuụng quc phong kin hi giỏo v cỏc vng
quc phong kin ấn giỏo. Trong iu kin chia r ú thc dõn chõu u
vi nhng chin thuyn v sỳng ng ó tin hnh xõm lc Inụnờxia tri
qua gn 3 th k
(1)
xõm chim t ai, hoc bng v lc hay "thng lng"
vi sc ép quõn s, chớnh tr v kinh t, H Lan ó hon thnh vic thit
lp ch thuc a ca mỡnh Inụnờxia.
Trong quỏ trỡnh xõm lc v ụ h, chớnh sỏch thng tr Inụnờxia
ca thc dõn H Lan tht tn khc. Trong bui u ca ch thuc a,
nht l t gia th k XVII, vic ra chớnh sỏch thng tr v khai thỏc
Inụnờxia c giao cho Cụng ty ụng ấn H Lan.
duy trỡ c quyn v buụn bỏn hng liu, Cụng ty ụng ấn ó
tin hnh mt cỏch dó man nhng cuc "vin chinh hụng ghi"
(2)
ụng b
Inụnờxia. Trong cỏc cuc "vin chinh hụng - ghi" ny. Cụng ty ụng ấn
va cp búc va git ngi. Cụng ty ó tn cụng, tra tn, bt giam v git
ch ngi dõn cỏc o thuc ụng Giava, ch vỡ h vi phm nh cỏc iu
l ca Cụng ty. C dõn o Ban a hu nh b quột sch.
(
1)
Chính xác là đến năm 1904
(
2)
"Hông - ghi" là một loại tàu chạy nhanh, thờng dùng ở hải phận Môlucu.
2
Chế độ bóc lột thực dân của Công ty Đông Ên là tiến hành chiếm
đoạt ruộng đất và cưỡng bức nông dân nép phần thu hoạch với một giá trị
rất thấp (nép hàng bắt buộc). Chính sách nội trị của Công ty Đông Ên dùa
vào việc khai thác các tổ chức phong kiến sẵn có. Dưới chế độ kinh tế và
chính trị này, nông dân phải chịu đựng hai hình thức bóc lột: hình thức của
các nhà vua và hình thức của công ty. Ở các vùng thuộc quyền của Công ty
Đông Ên, các quan hệ giai cấp cũ không thay đổi. Người nông dân vô cùng
cực khổ vì bên cạnh đòi hỏi của Công ty về số tô tối đa, họ còn bị các vua
và quý téc ở các vua và quý téc ở các tiểu vương quốc bóc lột không thương
tiếc.
Sau khi Công ty Đông Ên của Hà Lan giải tán (1/1/800), chính phủ
Hà Lan trực tiếp cai trị và bóc lột Inđônêxia.
Đất nước Inđônêxia rộng lớn, đông dân, nhiều đảo lại giàu có, sức
lực của người Hà Lan lúc đó không đủ khả năng bảo vệ sự độc quyền thuộc
địa của mình trước sự xâm nhập của thực dân phương Tây. Do đó, ngay từ
đầu thế kỷ XIX, họ đã phải "mở toang cửa" thuộc địa cho các nước tư bản
thực dân khác. Năm 1819, ghé đậu ở Giava chỉ có 43 chiếc tàu bôn Hà Lan,
nhưng số tàu buôn của Anh lại đến 62 chiếc và của Mỹ là 53 chiếc.
Công ty Đông Ên của Hà Lan bị tan rã vì kìm hãm sức sản xuất, bần
cùng hóa kinh tế của nhân dân, không đáp ứng được những đòi hỏi của chủ
nghĩa tư bản công nghiệp. Tuy nhiên, sự thống trị trực tiếp của chính phủ
Hà Lan không cải thiện gì mấy cho Inđônêxia. Chính sách thuộc địa của tư
bản Hà Lan vẫn sử dụng các phương pháp cũ và có sửa đổi Ýt nhiều cho
phù hợp với tình hình.
Năm 1824, công ty cổ phần "Hội thương mại Nêđêclan" ra đời, một
tổ chức mạnh và có thế lực trong việc bóc lột, khai thác Inđônêxia.
Để bù lại số thiệt hại về kinh tế, tài chính do chi phí trong việc đàn áp
các cuộc khởi nghĩa Đipônêgôrô từ năm 1825 đến năm 1830, và cuộc khởi
nghĩa của nhân dân Bỉ chống Hà Lan từ năm 1930 đến năm 1939, chính phủ
3
Hà Lan đã tích cực vơ vét, bóc lột nhân dân Inđônêxia bằng thực hiện "chế
độ cưỡng bức trồng trọt". Chế độ này được duy trì trong thời gian những
năm 1830 - 1870.
"Chế độ trồng trọt" là sự kết hợp giữa gia chính sách thực dân kiểu
V.O.C (Công ty Đông Ên), kiểu Đanđenxơ và kiểu Raphơlơ. Tất cả những
gì tệ hại nhất trong các chính sách trên đã được kết hợp lại. Theo chế độ
này, nhân dân không có quyền tự do gì cả. Họ bắt buộc phải trồng một loại
cây gì đó cho thị trường châu Âu (mía, cà phê, chàm, vải, thuốc lá) và phải
nép thu hoạch của mình cho chính phủ thực dân theo giá do chính phủ quy
định. Theo chế độ trồng trọt, người nông dân Inđônêxia phải trồng các loại
cây đem lợi nhuận cao cho tư bản châu Âu trên diện tích từ 1/3 đến 2/3 số
ruộng đát của họ và có khi trên tất cả ruộng đất của họ nữa. Lao động cần
thiết để trồng các loại cây trên nhiều hơn lao động dùng cho trồng lúa rất
nhiều. Các loại thuế ruộng đất, cả thuế đánh vào đất dùng để trồng trọt các
loại cây trên đều tăng lên. Nông dân thường phải bán gạo, dù gạo không đủ
dùng, để nép những khoản thuế còn thiếu. Trong vòng 40 năm bóc lột bằng
chế độ trồng trọt, bọn thực dân Hà Lan đã cướp được từ nông dân Inđônêxia
800 triệu đồng tiền Hà Lan, tức là bằng số tiền chúng đã làm giàu trong 200
năm dưới thời Công ty Đông Ên. "Chế độ cưỡng bức trồng trọt đã làm chậm
quá trình tan vỡ của quan hệ phong kiến nông dân Inđônêxia.
Khi chủ nghĩa tư bản chuyển từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang giai
đoạn độc quyền, Hà Lan, một mặt, đẩy mạnh sự xâm lược những vùng đất
còn lại của Inđônêxia, mặt khác, lo củng cố thuộc địa của mình. "Chế độ
trồng trọt" bóc lột nhiều nhược điểm, không có lợi cho tư bản Hà Lan, nên
thực dân Hà Lan tiến hành một số cải cách kinh tế, chính trị, xã hội khác.
Năm 1870, chính quyền thực dân ban bố "Luật mía đường", và "Luật
ruộng đất". Đây là luật đảm bảo cho tư bản tư nhân Hà Lan có quyền được
tậu ruộng đất, hạn chế tư bản nước ngoài mua ruộng đất ở Inđônêxia. Luật
này đã hoàn toàn dọn đường cho tư bản Hà Lan tham gia bóc lột theo lối
4
thực dân. Chính sách bóc lột của tư bản thương mại đã chuyển sang chính
sách bóc lột của tư bản công nghiệp, vai trò của các ngân hàng ở Inđônêxia
ngày càng lớn. Trong vòng 25 năm (1870 - 1895), nhiều đồn điền, công ty,
xí nghiệp và ngân hàng Hà Lan được thành lập ở Inđônêxia. Việc xây dựng
các cơ sở hạ tầng để phục vụ cho khai thác tài nguyên của Inđônêxia ngày
càng được đẩy mạnh. Sản lượng đường, chè, thuốc lá… tăng gấp 3 - 19 lần
và phần lớn là hàng hóa xuất khẩu. Số tiền thuế chính phủ thu được tăng
nhanh chóng. Trước năm 1870, mỗi năm chỉ thu được 12 - 15 triệu
Phơloran, năm 1875 lên 42 triệu, 1890 đạt 89 triệu.
Việc thi hành chính sách "mở cửa" đã dẫn tới việc tư bản nước ngoài
đầu tư ào ạt vào Inđônêxia để khai thác. Chỉ từ năm 1900 đến 1914, tổng
đầu tư nước ngoài, chủ yếu là của Hà Lan (chiếm 3/4) đã tăng lên hai lần và
đạt con sè 750 triệu USD Mỹ. Nhờ đầu tư lớn mà tư bản Hà Lan thu được
những lợi nhuận khổng lồ từ các đồn điền, nhà máy, hầm mỏ, đường giao
thông. Nếu trong những năm 70 - 80 của thế kỷ XIX, trị giá xuất vượt hơn
trị giá nhập của Inđônêxia chỉ khoảng 50 triệu guyđơ (guiders) thì những
năm 1911 - 1915, trị giá chênh lệch giữa xuất và nhập hàng năm lên tới 250
triệu (gấp 5 lần).
Về chính trị, Chính phủ Hà Lan trực tiếp cai trị Inđônêxia thông qua
viên Toàn quyền thay mặt cho nha vua và Quốc hội h1 Hà Lan. Cùng với
Toàn quyền, một Đại hội đồng, mà các thành viên đều là người Hà Lan nắm
mọi quyền trong nước. Để làm cơ sở xã hội cho mình, chính quyền thực dân
đã giữ lại bọn thống trị phong kiến địa phương cùng với quyền lợi vốn có
của chúng, đặc biệt là ruộng đất. Do việc ban hành các luật ruộng đất,xóa
bỏ "chế độ cưỡng bức trồng trọt" địa chủ địa phương trở nên giàu có. Nhiều
kẻ đã tư sản hóa, thực hiện kiểu bóc lột tư bản như làm trung gian cho vay
lãi giữa ngân hàng và nông dân.
Về văn hóa - xã hội cũng có những biến đổi. Vì bị bóc lột nặng nề,
nông dân bị bần cùng hóa, công nhân mòn mỏi sức lực. Tất cả tình hình đó
5
dẫn tới thu nhập của thực dân Hà Lan ở Inđônêxia giảm sút nghiêm trọng.
Để xoa dịu mâu thuẫn giữa người Inđônêxia với chế độ thực dân, cũng như
để khai thác, bóc lột được nhiều hơn, năm 190, Chính phủ Hà Lan phải ban
bố và triển khai cái gọi là "chính sách luân lý" ở Inđônêxia. Với chính sách
này, người Hà Lan đã lập nên những "ngân hàng nhân dân" để giúp cho
nông dân phát triển sản xuất, đã chú ý tới vệ sinh phòng dịch và mở mang y
tế ở nhiều nơi, đã cung cấp một phần ngân sách để phát triển giáo dục. Tuy
thế, "chính sách luân lý" của người Hà Lan chỉ đem lại những kết quả nhỏ
bé, vì mục đích chính, mối quan tâm chính của họ ở Inđônêxia là lợi Ých
kinh tế. Một số trường học được mở ra là để đào tạo đội ngò công chức, tay
sai cho chính quyền thực dân và thường là chỉ dành cho con em các quan
chức địa phương. Theo thống kê, năm 1940, trong tổng số dân 60 triệu
người ở Inđônêxia, chỉ có khoảng 88.000 người được đến các trường tiểu
học và 240 người tốt nghiệp trung học, còn số bác sĩ, kỹ sư, luật sư thì đến
mức chỉ đếm được trên đầu ngón tay.
II. SỰ GIỐNG VÀ KHÁC NHAU TRÊN CON ĐƯỜNG CỨU NƯỚC CỦA
INĐÔNÊXIA VÀ VIỆT Nam.
2.1. Giống nhau:
Thứ nhất: Trong bối cảnh chung của một nước thuộc địa, cả
Inđônêxia và Việt Nam, đến diễn ra quá trình xuất hiện của các khuynh
hướng của nước khác nhau để đi đến chọn cho mình một con đường cứu
nước riêng phù hợp với dân téc và đất nước mình.
Với Inđônêxia cũng đã trải qua rất nhiều khuynh hướng cứu nước
khác nhau để tìm tới chọn con đường giải phóng của Đảng dân học do
Xucacnô đứng đầu sáng lập
→ Giữ thế kỷ XVII, khi Hà Lan đã kiểm soát được các vùng đông
Inđônêxia, khi Hà Lan đã kiểm soát được các vùng đông Inđônêxia, thì
nhân dân đã nổi dậy khắp nơi. Đặc bịêt là ở Mađuara, trong đó nông dân là
chủ yếu, đã theo Tơrumô Giôgiơ đứng lên đấu tranh chống bạo quyền.
6
→ Trong thời kì Công ty Đông Ên xâm lược, nhân dân Inđônêxi tiếp
tục nổi dậy chống Hà Lan. Năm 1633 có phong trào nổi dậy của CaKiali ở
Ambon, năm 1741 dưới danh nghĩa bảo vệ đạo hồi, chiếm đồn luỹ của
Công ty Đông Ên.
→ Sang thế kỷ XIX cuộc đấu tranh chống Hà Lan của nhân dân
Inđônêxia càng quyết liệt hơn. Đáng chú ý nhất là cuộc khởi nghĩa
Dip pônôgơrô (1825 - 1830). Đây là cuộc khởi nghĩa lớn nhất đầu thế kỉ của
Inđônêxi.
Nh vậy, trong qúa trình xâm lược và thống trị Inđônêxi thực dân Hà
Lan đã gặp phải sự phản kháng quyết liệt, thậm trí với quy mô lớn của nhân
dân ở đất nước nghìn đảo này, nhưng những cuộc khởi nghĩa để đều bị thất
bại. Trước sự thất bại của các cuộc khởi nghĩa vũ trang chống Hà Lan giành
độc lập dân téc của một số vương lầu quý téc, nông dân và nhiều tầng líp
nhân dân khác trong mấy thế kỷ không thành công đã yêu cầu một con
đường cứu nước khác phù hợp.
→ Sang đầu thế kỉ XX, phong trào công nhân ở Inđônêxi có bước
phát triển mới, nhiều tổ chức công nhân ra đời. Sự kiên mở đầu là sự thành
lập công đoàn hỏa xa lấy tên là S.S. Bông vào năm 1905, năm 1908, công
đoàn của công nhân xe lửa (V: S.T.P) ra đời. Tháng 5 năm 1914, tại
Xêmơran, nhóm I.S.D.V – Một tổ chức chính trị của những người tri thức
cách mạng Inđônêxi và Hà Lan được thành lập, nhằm truyền bá chủ nghĩa
Mác vào Inđônêxia. Và cách mạng tháng Mười Nga bùng nổ và thắng lợi
năm 1917, ánh sáng cách mạng đã dội vào Inđônêxia qua các thuỷ thủ trên
tầu…Tất cả những tình hình trên đã dẫn tới sự ra đời của Đảng cộng sản
Inđônêxi (P.K.I) vào ngày 23.5.1920.
→ Năm 1908, Usada và các tri thức Inđônêxi đã lập ra tổ chức dân
téc chủ nghĩa đầu tiên: “Buđi Utomo” (“Chí Thiện xã”hay “hương trị xã”).
Buđi Utoman chưa phải là một liên minh bao trùm toàn Inđônêxi,
nhưng nó không phải là tổ chức của một nhóm. Những đại biểu của người
7
Giava, người Mađuara, người Xunđa và các dân téc khác trên đất nước
Inđônêxi đều tham gia tổ chức này.
→ Năm 1912, Đảng Ên Độ được thành lập (Khi Hà Lan thống trị
Inđônêxia, đất nước này có tên là “Ên Độ thuộc Hà Lan” cho nên chữ “Ên
Độ” ở đây nghĩa là chỉ Inđônêxia). Đảng chính trị được thành lập ở
Inđônêxia… Thoạt đầu đòi quyền cho người dân Inđônêxia, và cao hơn là
đưa ra yêu cầu đòi quyền độc lập cho Inđônêxi. “Chủ nghĩa dân téc toàn
Inđônêxia” là tư tưởng của những người lãnh đạo Đảng.
→ Năm 1911, Đảng SareKat Is Lam (Liên minh hồi giáo) là Đảng
chính trị đầu tiên ra đời. Số Đảng viên tham gia ngày càng đông đảo. Năm
1913 Đảng kết nạp 80.000 Đảng viên .
Nh vậy có thể thấy giai cấp tư sản Inđônêxia mà trước hết là tầng líp
tri thức tư sản là những người đi tìm trong phong trào cứu nước, giải phóng
dân téc, những năm đầu thế kỉ XX. Chính họ, chứ không phải giai cấp
phong kiến hoặc nông dân, nhận thấy trong hoàn cảnh đất nước nghìn đảo,
lại nhiều dân téc, téc người, có nhiều tôn giáo – lại bị một tên thực dân tàn
bạo cai trị… thì con đường giải phóng dân téc cứu nước, cứu người dân ra
khỏi lầm than không phải là con đường bạo động khởi nghĩa nhất là khởi
nghĩa đơn lẻ.
→ Năm 1927 một nhóm người dân téc chủ nghĩa cấp tiến do
Xucácnô và Kusaman lãnh đạo đã lập ra Đảng dân téc Inđônêxia (Perseri
katan National Indonesia – PNI). Đảng này nỗ lực tập hợp tất cả các tổ chức
dân téc chủ nghĩa hiện có để tiến hành một phong trào bất hợp tác theo mô
hình của Găng đi, đòi độc lập cho Inđônêxia.
Còn về phía Việt Nam: Thì quá trình hình thành con đường cứu nước
cũng diễn ra khá phong phú và quyết liệt.
→ Từ năm 1858 trên mặt trận Đà Nẵng ngay khi chiến sự xảy ra, đã
có nhiều đội quân nông dân kéo đến phối hợp với quân triều định đánh giặc.
8
→ Trong năm 1862, phong trào nhân dân chống pháp dân cao ở các
hyện và thị trấn thuộc hai tỉnh Gia Định và Định Tường…
→ Tại trụ sở ngày 18 tháng 7 năm 1885, Tôn Thất Thuyết lấy danh
nghĩa Vua Hàm Nghi xuống chiến cần vương, nêu lại sự biến kinh thành,
vạch rõ tội ác của thực dân Pháp và kêu gọi văn thân, sĩ phu cùng nhân dân
cả nước kiên quyết đứng lên đánh Pháp đến cùng. Phong trào Tây Bắc và
Hạ Lưu Sông Đà từ 1883 dưới sự lãnh đạo của hai văn nhân yêu nước
Nguyễn Quang Bích và Nguyễn Văn Giáp, phong trào Bãi Sậy(1883 –
1892) chủ yếu trong các huyện Văn Lâm, Văn Giang, Khoái Chân, Yên Mĩ
tỉnh Hưng Yên, khởi nghĩa Ba Định (1886 – 1887) là vùng đất thượng thọ,
Mậu Thịnh và Mỹ Khê thuộc Huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hoá, khởi nghĩa
Hùng Lĩnh (1886 – 1892) thuộc huyện Vĩnh Léc Thanh Hoá, khởi nghĩa
tiêu biểu nhất của phong trào Cần Vương, kéo dài 12 năm… chấm dứt thất
bại khởi nghĩa Hương Khê. Cuộc khởi nghĩa tiêu biểu nhất, đồng thời cũng
chấm dứt phong trào của Văn Thân, sĩ phu hưởng ứng chiếu Cần Vương.
→ Phong trào nhân dân tự động chống Pháp diễn ra cùng lúc với
phong trào Cần Vương, nên Ýt nhiều có quan hệ và chịu ảnh hưởng của
phong trào Cần Vương.
→ Vào cuối thể kỉ XX đầu thế kỉ XX, phong trào dân téc và cải cách dân
chủ theo khuynh hướng tư sản trở thành trào lưu phổ biến và nổi bật ở nhiều nước
Châu Á…trước tình hình để những sĩ phu đã tiếp nhận và gây thành phong trào
yêu nước theo khuynh hướng chính trị mới này là những nho sĩ được đào tạo
trong nền khoa cử tiêu biểu là Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh.
Phan Bội Châu với phong trào tư sản theo khuynh hướng bạo động:
Chủ trương dùng bạo động đánh đuổi thực dân Pháp khôi phục độc lập dân
téc đến 1904, Phan Bội Châu thành lập “Duy Tân Hội”mục đích của hội là
“Cốt sao khôi phục được nước Việt Nam. Lập nên một chính phủ độc lập,
ngoài ra có chủ nghĩa gì khác.
9
Phan Châu Trinh với phong trào tư sản theo khuynh hướng cải cách.
Do sớm tiếp thu ảnh hưởng của tư tưởng dân chủ tư sản phương tây qua
“Tân Thư” của Trung Quốc. Phan Châu Trinh là nhà yêu nước, nhà dân chủ
sớm nhất tiêu biểu cho xu hướng cải cách ở nước ta. Sự nảy sinh của xu
hướng cải cách theo khuynh hướng dân chủ tư sản không phải dùa trên cơ
sở kinh tế – xã hội có tính chất tư sản dân téc đang nảy nở, mà dùa trên cơ
sở văn hoá dân téc đứng trước sự phá sản của chế độ phong kiến. Trong
nước và trong lúc phương Đông đang chuyển biến từ phong kiến sang tư
sản, và dùa trên cơ sở tinh thần độc lập dân téc của nhân dân ta. Nói chung,
phong trào dân chủ tư sản ở Việt Nam chưa phải do động cơ kinh tế, mà là
do động cơ yêu nước.
→ Sang đầu thế kỉ XX thì phong trào đấu tranh vò trang chống Pháp
tiếp tục dâng lên mạnh mẽ. Mà chụi sự chi phối trực tiếp hoặc gián tiếp của
Việt Nam quang Phục Hội – thành lập vào tháng 9 năm 1914, khởi nghĩa
của binh lính Thái Nguyên 1917 đứng đầu là Trịnh Văn Cấn (Đội Cấn),
phong trào hội kín ở Nam Kì, đấu tranh vò trang của đồng bào dân téc thiểu
số từ 1914 đến 1918 nổ ra hàng loạt các cuộc khởi nghĩa của người Thái ở
dọc biên giới Việt Lào, người Mông ở Lai Châu, tại Tây Nguyên thì đồng
bào nhiều vùng cũng nổi dậy chống Pháp, đặc biệt là sự xuất hiện của
phong trào công nhân cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX công nhân đã đấu
tranh dưới nhiều hình thức: Bỏ trèn, đập phá công cụ, giết bọ chỉ huy…
Sau chiến tranh thế giới I, phong trào cũ cũng có những bước phát
triển mạnh mẽ cả về số lượng và chất lượng, năm 1920 công nhân Sài Gòn
– chợ lớn lập ra Công Hội Đỏ cho Tôn Đức Thắng đứng đầu.
→ Năm 1919 – 1925, giai cấp tư sản dân téc nhân đà làm ăn thuận lợi
từ trong chiến tranh muốn vươn lên giành lấy vị trí khá hơn trong nền kinh
tế Việt Nam dẫn đến lấy vị trí khá hơn trong nền kinh tế Việt Nam dẫn đến
1919, tư sản gây ra phong trào “ Chiến lương hàng nơi hoá, bãi từ hàng
ngoại hoá”, ngoài ra các tầng líp tiền tư sản tri thức cũng thể hiện lòng yêu
10
nước của mình bằng nhiều cách, tập hợp nhau lại và tiến hành đấu tranh có
tổ chức dẫn đến nhiều tổ chức ra đời. Tâm tâm xã 1923 Việt Nam nghĩa
1925, hội phục Việt (1925), Đảng thanh niên (1926), Đảng An Nam độc lập
(1926).
→ Năm 1925 Việt Nam cách mạng thanh niên được thành lập, chuẩn
bị điều kiện cho sù ra đời của chính Đảng vô sản ở Việt Nam, truyền bá chủ
nghĩa Mác – Lênin, tháng 7 năm 1925 Tân Việt cách mạng Đảng thành lập
hoạt động trong điều kiện Việt Nam cách mạng thanh niên đã phát triển
mạnh mẽ, tháng 12 năm 1927 Việt Nam quốc dân đảng được thành lập đây là
đảng mang khuynh hướng dân chủ tư sản tiêu biểu cho bộ phận tư sản dân
téc Nguyễn Thái Học, Phạm Tuấn Tài, Nguyễn Khác Nhu và Phó Đức Chính
sáng lập.
→ Nửa sau 1929 thì ba tổ chức cộng sản lần lượt ra đời, tháng 6 năm
1929 với sự ra đời của Đông Dương Cộng Sản Đảng. Tháng 7 năm 1929
thành lập Đông Dương Cộng Sản Liên Đoàn.
Như vậy chỉ trong vòng không đầy 4 tháng (từ tháng 6 đến tháng 9
năm 1929) ở Việt Nam ba tổ chức cộng sản đã lần lượt ra đời, đánh dấu
bước trưởng thành vượt bậc của giai cấp công nhân, và hoạt động của nó đã
thúc đẩy phong trào công nhân, phong trào yêu nước lên cao, là bước chuẩn
bị tiến đến thành lập Đảng cộng sản duy nhất. Ngày 3.2.1930 thành lập
Đảng cộng sản Việt Nam đứng lên giành quyền độc lập, tự chủ.
Thứ hai: bước vào đầu thế kỉ XX, ở Inđônêxia và Việt Nam nói riêng
và ở Đông Nam Á nói chung, phong trào dân téc theo xu hướng tư sản đã
bùng lên dưới nhiều hình thức khác nhau. Sở dĩ phong trào dân téc bùng lên
ở Inđônêxia – Việt Nam và các nước trong khu vực chính là do những yếu
tố nội tại ngày càng chín muồi (sự bóc lột tàn khốc của chế độ thực dân, sự
ra đời và trưởng thành của những giai cấp mới…) và do những nhân tố từ
bên ngoài tác động vào đó là:
11
- Cuộc Duy Tân mậu Tuất (1898) ở Trung Quốc do Khang Hữu vi và
Lương Khải Siêu khởi xướng.
- Cuộc cách mạng Tân Hội (1911) ở Trung Quốc mà cái cốt lõi của tư
tưởng cách mạng là chủ nghĩa Tam Dân của Tôn Văn.
- Cuộc vận động Duy Tân của minh trị ở Nhật Bản năm 1868.
- Phong trào tư sản chống Tây Ban Nha ở Philippin những năm cuối
thế kỷ XX.
- Cao trào đấu tranh của nhân dân Ên Độ (1905 – 1908) dưới sự lãnh
đạo của Đảng Quốc Đại.
Các phong trào nêu trên hình thức khác nhau nhưng có điểm chung là
đều truyền đến nhân dân Inđônêxia – Việt Nam tinh thần dân chủ và khơi
dậy ở họ ý thức dân téc.
2.2. Sự khác nhau:
Thứ nhất: Ở Inđônêxia khuynh hướng vô sản ban đầu thắng thế tuy
nhiên đảng cộng sản đã mắc phải sai lầm nên đã phải chuyển quyền lãnh
đạo vào tay tư sản dân téc do xucácnô đứng đầu. Còn ở Việt Nam là sự
thắng thế tuyệt đối của đảng cộng sản Việt Nam do chủ tịch Hồ Chí Minh
lãnh đạo, đại diện cho giai cấp công nhân và những người dân lao khổ Việt
Nam, thể hiện cụ thể như sau:
→ Ở Inđônêxia:
Đảng cộng sản Inđônêxia ra đời sớm nhất ở Đông Nam Á, có uy tín
với nhân dân và nhanh chóng đứng ra lãnh đạo phong trào, giải phóng dân
téc ở nước này. lẽ ra đảng phải tận dụng những thuận lợi đó để phát huy sức
mạnh của giai cấp, phát huy sức mạnh của dân téc, vạch ra đường lối đúng
phù hợp với dân téc, phù với đất nước để dẫn cách mạng đến thành công.
Nhưng Đảng lại mắc sai lầm nghiêm trọng triền miên để mất đi lòng tin của
giai cấp, mất đi vai trò đã có ngay từ khi ra đời trong việc đảm nhiệm sứ
mệnh giải phóng dân téc ở Inđônêxia sai lầm đó thể hiện.
- Không củng cố được mới tình rộng lớn của quần chúng đối với Đảng.
12
- Không làm được nhiệm vụ đoàn kết dân téc.
- Mắc bệnh cộng sản tư khuynh.
- Không chú ý đứng mực đến công tác xây dựng Đảng trong quá trình
cách mạng.
- Không tận dụng và kết hợp các hình thức đấu tranh chỉ chú ý và
nhấn mạnh đến đấu tranh vò trang.
Trong khi kẻ thù không từ một thủ đoạn nào, mà đất nước Inđônêxia
lại phân tán về mặt địa lý, đa dân téc, nhiều tôn giáo như đất nước này, mà
Đảng muốn giành độc lập thì nhiệm vụ trước mắt là phải tập hợp giai cấp
quần chúng, Đảng phải có xu hướng chống thực dân để tạo ra sức mạnh của
Đảng thì Đảng cộng sản không làm được nhiệm vụ này, không nắm được
thực tiễn của Inđônêxia.
Đảng cộng sản đưa ra chủ chương “một đòn đánh cả” tiêu diệt
phương tây, giải phóng đất nước, lật đổ chính quyền phản động. Thanh toán
phú nông, thanh toán tư sản dân téc thì đó là sai lầm, là chủ trương tư
khuynh của Đảng cộng sản.
Với Inđônêxia tồn tại nhiều tôn giáo mà trước hết là đạo hồi, không
những thâm nhập quần chúng mà còn là lực lượng chống đế quốc từ rất
sớm. Lẽ ra phải đoàn kết tôn giáo thì Đảng cộng sản lại nóng vội quyết định
đối lập với chủ nghĩa hồi giáo làm cho lịch sử dân téc chống lại Đảng…Tư
tưởng nóng vội của Đảng là muốn sớm đi đến đích cuối cùng, do đó Đảng
chống lại mọi thứ, thậm chí không tin vào nhân dân, tất cả các tầng líp trung
gian. Những sai lầm này đã dẫn đến tổn thất nặng nề của Đảng, làm cho
Đảng cộng sản bị dân áp đặt ngoài vòng pháp luật, và gần như chấm dứt vai
trò lãnh đạo của Đảng đối với phong trào giải phóng dân téc, làm cho uy tín
và vai trò của Đảng dân téc của xucácnô lên cao.
Nh vậy, vào những năm 20 của thế kỉ XX, cách mạng Inđônêxia có
những chuyển biến mới. Thì do đường lối sai lầm của Đảng cộng sản.
Trong điều kiện Inđônêxia lúc bấy giê mà con đường vô sản do Đảng cộng
13
sản lãnh đạo chất dứt. Và cách mạng giải phóng dân téc Inđônêxia lùa chọn
con đường cứu nước theo khuynh hướng tư sản do Đảng dân téc chủ xướng.
Năm 1924 một nhóm người dân téc chủ nghĩa cấp tiến do xucácnô và
xusamo lãnh đạo đã lập ra Đảng dân téc Inđônêxia (PNI), Đảng này lỗ lưck
tập hợp tất cả các tổ chức dân téc chủ nghĩa theo mô hình cuả Găngđi để đòi
độc lập cho dân téc. Tư tưởng Mahacnism (xuất xứ từ tên gọi của người dân
ở tây Giara hay dùng để đặt tên cho con cái: Marhacn (Unar Hucn)
Xucácnô dùng cái tên bình dân đó đặt cho học thuyết của mình với ý muốn
là học thuyết của ông phù hợp với quyền lợi của người lao động. Trong
những năm 1926 – 1933 học thuyết đó có những điểm chính sau:
- Xu hướng chống đế quốc – Tù do rõ rệt.
- Con đường đi đến độc lập dân téc là cơ sở bất hợp tác với thực dân
đế quốc trong tất cả các lĩnh vực kinh tế – chính trị – xã hội.
- Nhiệm vụ của con đường bất hợp tác là giái dục cho dân chúng tin
vào khả năng sức mạnh của chính mình và đoàn kết các lực lượng chống
thực dân trong một mặt trận chung thống nhất. Sau này xucácnô đã mô hình
hoá tư tưởng Mahacnism này dưới dạng 5 nguyên tắc trong bài phát biểu
của mình vào ngày 1.6.1945 được gọi là sự ra đời của Panchasila, chủ nghĩa
dân téc thống nhất trên toàn lãnh thổ Inđônêxia.
+ Chủ nghĩa quốc tế hay chủ nghĩa nhân văn tức là từ bỏ chủ nghĩa
Xovanh để đoàn kết hữu nghị với tất cả các dân téc.
+ Nền dân chủ phù hợp có những truyền thống của xã hội Inđônêxia.
+ Xã hội thịnh vượng, niềm tin vào thượng đế (mỗi người đều có
quyền thờ một vị thần riêng của mình).
Là cơ sở cho nền độc lập tương lai của Inđônêxia. Đảng dân téc ra
đời nắm gọn cơ giải phóng dân téc có uy tín trong quần chúng, đã tổ chức cuộc
đấu tranh giành độc lập dùa trên phong trào bất hợp tác với chính quyền thực dân.
→ Ở Việt Nam
14
Đầu thế kỉ XX những điều kiện cứu nước và những tác động của tình
hình quốc tế ở với xuất hiện một trào lưu mới trong việc xác định con
đường cứu nước. Lúc này các sỹ phu yêu nước không gương cao ngọn cờ
quân chủ dù là quân chủ lập hiến (phong trào cần vương) mà hướng về cao
trào dân chủ: Vũ Quang phục hồi – thể hiện tư tưởng con đường cứu nước
mới trong tôn chỉ của mình đánh đuổi giặc Pháp, khôi phục Việt Nam,
thành lập nước cộng hoà dân quốc Việt Nam, giặc Pháp, đầu thế kỉ 20 con
đường cứu nước do tư sản đang dần thay thế con đường dân chủ phong kiến
tuy có nhiều màu sắc, khuynh hướng khác nhau.
* Con đường cứu nước của Phan Bội Châu.
Đầu tiên ông lấy phương thức bạo động vũ trang để giành độc lập,
tuy nhiên ông cũng coi cuộc vận động Duy Tân, cải cách chính trị, kinh tế,
xã hội để tự cường, hỗ trợ cho nhau, từ bỏ phong kiến chuyển sang cách
mạng tư sản và giữa hai giai đoạn này của mình là cách mạng dân téc, cách
mạng chính trị, cách mạng xã hội nhằm đánh đuổi giặc Pháp, đánh đổ ngôi
vua, thiết lập dân quyền, thi hành tự do dân chủ. Tuy nhiên Đảng đã phạm
phải sai lầm trong tổ chức. Nhìn chung đầu thế kỷ XX – ngọn cờ phong
kiến chấm dứt và cuộc đấu tranh giải phóng dân téc của nhân dân ta chuyển
sang con đường dân chủ tư sản xong giai cấp tư sản dân téc không đủ mạnh
trong xu hướng cách mạng thế giới cho nên con đường cứu nước do tư sản
trong phong trào giải phóng dân téc Việt Nam không thể đi đến thắng lợi và
đo đó cuộc khủng hoảng về con đường cứu nước Việt Nam trầm trọng – bối
cảnh đó sự xuất hiện của Nguyễn Ái Quốc và truyền bá chủ nghĩa Mác –
Lênin vào Việt Nam và sự kết hợp nó với phong trào yêu nước đã dẫn tới sự
ra đời của Đảng cộng sản. Con đường cứu nước mới do Nguyễn Ái Quốc
lùa chọn, Đảng khẳng định, nhân dân tin theo mở ra mét trang sử mới trong
cuộc đấu tranh giải phóng dân téc.
* Hồ Chí Minh và việc xác định con đường cứu nước:
15
Khác với các bậc tiền bối Hồ Chí Minh sớm nhận thức được tính
chất, yêu cầu của đất nước. Tuy rất khâm phục các bậc tiền bối nhưng
người nhận thấy không thể đi theo con đường cứu nước phong kiến và tư
sản. Người đã từ chối con đường Đông Du của Phan Bội Châu mà quyết
định sang Pháp, sang Phương Tây để tìm con đường cứu nước và trải qua
hơn 10 năm bôn ba ở phương Tây thậm chí ở các nước thuộc địa Nguyễn Ái
Quốc nhận thấy ở đâu nhân dân cũng khổ cực. Từ đó Nguyễn Ái Quốc hình
thành ý thức đoàn kết các dân téc dù da vàng, trắng hay đen – là cơ sở để
người tiếp nhận luận cương về vấn đề dân téc và thuộc địa của Lênin.
Và có thể thấy hai sự kiện lớn có tác động đến lùa chọn con đường
cứu nước của Hồ Chí Minh sau khi đã thâm nhập vào thực tiễn cuộc sống
của nhân dân lao động thế giới – đó là tiếng vang và ảnh hưởng của cách
mạng tháng 10 Nga mở ra con đường giải phóng. Từ những nhận thức cảm
tình tự nhiên ban đầu về cách mạng tháng 10 Nga dần dần Hồ Chí Minh đã
hiểu sâu sắc về cuộc cách mạng này và xem đó là con đường giải phóng
cách mạng triệt để nhất, cần thiết nhất cho các dân téc bị áp bức tựa như
người đi đường đang khát nước mà có nước uống, đang đói mà có cơm ăn”
luận cương về vấn đề dân téc và thuộc địa của Lênin và người đã khẳng
định “luận cương về vấn đề dân téc và thuộc địa của Lênin làm tôi rất cảm
động, phấn khởi, tin tưởng, sáng tỏ biết bảo”. “ Tôi vui mừng đến phát khóc
lên, ngồi một mình trong buồng mà nói to lên như nói trước đông đảo quần
chúng”. Vì luận cương đã chỉ rõ cho phương hướng – cách thức giải quyết
các vấn đề cấp bách của thời đại sau cách mạng tháng 10 đó là sự cần thiết
kết hợp phong trào cách mạng chính quốc với phong trào cách mạng ở
thuộc địa để đấu tranh chống tư bản thực dân và phong kiến.
Sự kiện đánh dấu bước chuyển biến quan trọng trong tư tưởng Hồ
Chí Minh: Bỏ phiếu tán thành thành lập và lập gia sáng lập đảng cộng sản
và người đã trở thành người đảng viên đảng cơ sở đầu tiên của Việt Nam.
Nh vậy quá trình tìm đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc đã hoàn thành.
16
Con đường đó chính là con đường cách mạng cộng sản và đấu tranh giải
phóng dân téc được nhân dân Việt Nam đón nhận vì nó hoàn toàn phù hợp
với điều kiện lịch sử trong nước cũng như thế giới lúc bấy giê.
Thứ hai: Cuộc đấu tranh đòi độc lập của nhân dân Inđônêxia dưới sự
lãnh đạo của Đảng dân téc diễn ra theo con đường hoà bình. Còn Việt Nam
cuộc đấu tranh diễn ra theo con đường bạo lực cách mạng dưới sự lãnh đạo
của Đảng cộng sản Việt Nam (Đảng của giai cấp công nhân và quần chúng
lao khổ Việt Nam) thể hiện như sau:
→ Ở Inđônêxia:
Ngay từ buổi đầu phương pháp hoà bình trang tư tưởng của tư sản
Inđônêxia, cuộc đấu tranh đó bắt đầu từ phục hưng văn hoá. Tư tưởng nhân
văn đã tràn vào Inđônêxia và tác động đến các tầng líp nhân dân mà trước
hết là tầng líp tri thức. Những cuộc tranh luận diễn ra giữa các nhóm phải
trong truyền thống những người có tư tưởng truyền thống thấy được sức
mạnh vĩ đại bắt nguồn từ qúa khứ của nền văn hoá dân téc, muốn khởi động
và sử dụng sức mạnh của nền văn hoá dân téc để giành độc lập. Nhóm
những người theo xu hướng đổi mới lại nhấn mạnh đến việc hiện đại hoá
nền văn hoá dân téc theo xu hướng phương tây, nhưng chỉ xem việc hiện
đại hoá như một công cụ đấu tranh chống Hà Lan để giành lại nền độc lập
đã mất họ cho rằng, để chống lại người phương tây, giành thắng lợi thì phải
sử dụng chính vũ khí của người phương tây. khác với hai nhóm cực đoan
nói trên, nhóm thứ ba lại muốn kết hợp cả phương tây hiện tại và văn hoá
Inđônêxia truyền thống để thúc đẩy nền văn hoá mới của Inđônêxia. Thế
nhưng nhóm này không để lại dấu Ên sâu sắc trong lịch sử giải phóng dân
téc Inđônêxia, bởi vì chưa lúc nào họ có một quan điểm dứt khoát, rõ ràng
và sắc bén.
Một điểm đáng lưu ý trong phong trào đấu tranh cứu nước của nhân
dân Inđônêxia là sự xuất hiện vào năm 1900 người phụ nữ Giava tài giỏi
Raden Adgiang Cardini. Bà chủ trương phát triển giáo dục cho phụ nữ. Các
17
bức thư của bà xuất bản năm 1911, đã khơi dậy tinh thần và nghị lực của
người dân Inđônêxia, và điều đó đã dẫn đến việc mở rộng các ngôi trường
mang tân Cáctini dành cho các nữ sinh cả bù và bác sĩ Wardim Sudira
Usada đều xem việc mở mang nền giáo dục phương tây là một biện pháp
cứu nước.
Đảng Ên Độ và Đảng sare kat Iskim ra đời với mục tiêu chính trị dần
được nâng lên từ nước độ thấp lên mức độ cao. Tại đại hội ở Surahaya
(1.1913), Omar Said Tjokro Aminoto – thủ lĩnh của Đảng đã bày tỏ rằng,
phong trào này không nhằm chống lại sự thống trị của Hà Lan và sẽ theo
đuổi mục đích của mình một cách hợp hiếm
Nhưng đến Đại hội năm 1916, mục tiêu này không còn dừng ở đó.
Đại hội đã thông qua một nghị quyết đòi quyền tự trị trên cơ sở liên hiệp
với Hà Lan. Tư tưởng của Sareket Islam là chủ nghĩa dân téc Hồi giáo, do
đó, xu hướng cải cách Hồi giáo liên kết với xu hướng giải phóng dân téc
ngày càng biểu hiện rõ. Trong bối cảnh đó, chủ nghĩa xã hội bắt đầu ảnh
hưởng tới Inđônêxia, trong đó có Sareket Islam. Đảng này chịu ảnh hưởng
nhiều nhất của nhóm cộng sản trong Hội Dân chủ xã hội Ên Độ, do người
cộng sản Hà Lan – Sneevliet lập ra năm 1914. Dưới ảnh hưởng của tư
tưởng cộng sản, Đảng Sacerat Islam tiến hành Đại hội vào 10.1917 đã lên
án chủ nghĩa tư bản, thông qua những nghị quyết đòi quyền tự trị cho
Inđônêxia, đòi quyền bầu cử cho nhân dân.
Trước cuộc đấu tranh đòi quyền tự trị và bình đẳng ngày càng phát
triển của nhân dân và các đảng phái chính trị, tháng 12.1916, nghị viện Hà
Lan đã phải ban hành đạo luật thành lập Hội đồng nhân dân ở Inđônêxia.
Hội đồng này được thành lập với gần một nửa số đại biểu dành cho người
Inđônêxia tăng lên đến 30, nhưng Hà Lan đặt ra quy định mới khiến cho
người Inđônêxia không bao giê quá bán trong Hội đồng.
Từ sự trình bày ở trên, cho thấy giai cấp tư sản Inđônêxia mà trước
hết là tầng líp trí thức tư sản là những người đi tiên phong trong phong trào
18
cứu nước, giải phóng dân téc, những năm đầu thế kỷ XX. Chính họ, chứ
không phải giai cấp phong kiến, hoặc nông dân, nhận thấy trong hoàn cảnh
đất nước nghìn đảo, lại nhiều dân téc, téc người, có nhiều tôn giáo, lại bị
một tên thực dân tàn bạo,… thì con đường giải phóng dân téc, cứu người
dân ra khỏi lầm than không phải là con đường bạo động khởi nghĩa, nhất là
khởi nghĩa đơn lẻ. Những phong trào khởi nghĩa trước đó đã chứng minh
điều đó. Các trí thức tư sản đã nhận thấy tình trạng thấp kém của dân téc
trong hoàn cảnh thuộc địa, sự phân tán trong ý thức dân tộc… do đó, họ đã
cổ suý tinh thần dân téc, chủ nghĩa dân téc, nâng cao trình độ hiểu biết của
dân chúng, tập hợp dân téc Inđônêxia thành một khối để hướng tới mục tiêu
đấu tranh giành độc lập dân téc từ thấp đến cao. Đó là bước khởi đầu trong
việc lùa chọn con đường đi tới độc lập hoàn toàn của giai cấp tư sản
Inđônêxia. Tuy nhiên, trong giai đoạn này, chủ nghĩa dân téc còn đóng
khung trong “chủ nghĩa dân téc Hồi giáo”.
Cho đến chủ nghĩa của Xucacnô cũng dùa trên tư tưởng hòa bình và
học thuyết của Xucacnô đã nhấn mạnh đến chính sách bất hợp tác với thực
dân Hà Lan. Chóng ta rất dễ nhận thấy rằng người Inđônêxia chịu ảnh
hưởng rất lớn của tư tưởng hay chủ nghĩa Găng đi của Ên Độ. Trong nửa
đầu thế kỉ XX thì chủ nghĩa Găng đi tử nên nổi tiếng, trong khi Êy đất nước
Inđônêxia có nét giống về xã hội, dân téc, tôn giáo hao hao như Ên Độ, và
hơn nữa là cuộc đấu tranh vò trang trong thế kỉ trước không thành công nên
mô hình của Găng đi được người dân Inđônêxia chấp nhận.
Ở Việt Nam: có thể nói con đường cách mạng giải phóng của nhân
dân Việt Nam kiên định đi theo chủ tịch Hồ Chí Minh và phải thực hiện bạo
lực cách mạng để giành độc lập dân téc. Điều này thể hiện rõ trong cương
lĩnh chính trị đầu tiên của đảng do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo với nội dung
cơ bản nh sau:
Cương lĩnh của Đảng nêu rõ “Chủ trương làm tư sản dân quyền cách
mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”.
19
Trong giai đoạn đầu làm cách mạng tư sản dân quyền cách mạng thực
hiện nhiệm vụ đánh đổ ách thống trị của đế quốc Pháp và vua quan phong
kiến, tư sản phản cách mạng làm cho nước Việt Nam hoàn toàn độc lập,
dựng lên chính phủ công nông binh; tổ chức quân đội công nông; tịch thu
hết sản nghiệp của đế quốc, tịch thu ruộng đất của đế quốc và bọn phản
cách mạng đem chi cho dânh cày nghèo, tiến hành “ cách mạng ruộng đất”.
Thực hiện khẩu hiệu “ dân cày nghèo có ruộng”.
Các nhiệm vụ và mục tiêu cách mạng nêu trên bao hàm cả nhiệm vụ
chống đế quốc và chống phong kiến, mục tiêu giành độc lập dân téc và
giành dân chủ, nhưng nổi bật là chống đế quốc và tay sai phản cách mạng,
giành độc lập tự do cho toàn thể dân téc.
Lực lượng cách mạng đánh đổi đế quốc và vua quan phong kiến, tư
sản phản cách mạng là công nhân và nông dân, “ công nông là gốc cách
mệnh”. Cách mạng đồng thời “ phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản. Còn đối
với phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư sản Việt Nam và chưa lé rõ mặt phản
cách mạng thì phải lợi dụng, Ýt ra cũng làm cho họ trung lập”.
Cách mạng Việt Nam là một bộ phân của cách mạng vô sản thế giới,
đứng về phía mặt trận cách mạng gồm các dân téc thuộc địa bị áp bức và
giai cấp công nhân trên thế giới.
Cương lĩnh khẳng định sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam -
đội tiên phong của giai cấp công nhân, Đảng lấy chủ nghĩa Mác – Lênin
làm nền tảng tư tưởng – là nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng Việt
Nam. Đảng phải có trách nhiệm thu phục cho được đại bộ phận giai cấp
mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng, phải thu phục
cho được đại đa số dân cày và phải dùa vững chắc vào hàng dân cày nghèo
và tầng líp yêu nước khác, đoàn kết họ, tổ chức họ đấu tranh chống đế quốc
và tay sai phản cách mạng.
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam tuy còn
sơ lược, nhưng đã nêu được những nội dung cơ bản của đường lối cách
20
mạng tư sản dân quyền Việt Nam thể hiện sự đúng đắn, có bước phát triển
sáng tạo trong việc vận dụng lí luận Mác – Lênin về mối quan hệ giữa vấn
đề dân téc và vấn đề giai cấp, và về cách mạng giải phóng dân téc thuộc địa,
nhuần nhuyễn về quan điểm giai cấp, thấm được tính dân téc và tính nhân
văn, nêu cao tư tưởng độc lập tự do.
Và thực tế đã chứng minh qua một loạt giai đoạn lịch sử tập dượt để
tiến tới sự thắng lợi trong cách mạng tháng 8 năm 1945.
- Phong trào cách mạng 1930 – 1931 với đỉnh cao là Xô Viết Nghệ
Tĩnh đỉnh cao là ngày 12 tháng 9 năm 1930 phong trào phát triển mạnh
cuộc đấu tranh vò trang, làm cho hệ thống chính quyền của đế quốc, phong
kiến bị tê liệt và tan rã ở nhiều nơi.
- Ngay cả trong thời kì đấu tranh nghị trường công khai hợp
pháp (1936 – 1939) thì tinh thầnh có trong hoạt động luôn được
nhân dân tu luyện. Thể hiện trong sự kiện quyết của Đảng và báo
trong cuộc đấu tranh chống bọ Tơ rơtkit.
- Trong giai đoạn 1939 – 1940 thì hàng loạt các cuộc bạo động binh
biến diễn ra nh: Binh biến đô lương t41, khởi nghĩa Nam Kì , khởi nghĩa
Bắc Sơn …
- Và đỉnh cao là cách mạng tháng 5 – 1945 đã đánh đuổi Pháp – Nhật
bằng chính những vũ khí thô sơ của người dân Việt Nam.
Thứ ba: Ở Inđônêxia có phong trào đấu tranh hợp tác rất rõ rệt còn
Việt Nam thì không thể hiện:
Song song với cuộc đòi độc lập của những người bất hợp tác là cuộc
đấu tranh của những người hợp tác. Hai phương pháp khác nhau, nhưng
điều có mục đích chung là đòi độc lập.
Năm 1936, những người trong hội đồng nhân dân (Volksraad) thuộc
nhóm chủ trương con đường hợp tác đã soạn thảo “kiến nghị Xutacgiô”
trình bày ước muốn hợp tác với chính phủ Hà Lan để tiến hành những cải
cách từng bước trong khoảng 10 năm giải quyết vấn đề độc lập cho
21
Inđônêxia trong khuôn khổ Điều I của Hiến pháp Hà Lan. Điều đó có nghĩa
là Inđônêxia sẽ được bình đẳng như những vùng lãnh thổ của Vương quốc
Hà Lan. Tất nhiên, chính quyền Hà Lan đã bác bỏ bản kiến nghị này. Sự
kiện này đã thúc đẩy những người chủ trương hợp tác và những người chủ
trương bất hợp tác trong cuộc đấu tranh đòi độc lập gắn bó với nhau và hỗ
trợ cho nhau.
Như vậy có thể thấy điểm khác nhau cơ bản trong hai con đường cứu
nước của hai dân téc Inđônêxia và Việt Nam đó là một bên Inđônêxia với
ngọn cờ dân téc độc lập thuộc về giai cấp tư sản dân téc và chủ trương đi
theo con đường hoà bình, bất bạo động. Còn một bên là Việt Nam với ngọn
cờ lãnh đạo cách mạng thuộc về giai cấp vô sản với con đường cách mạng
bạo động. Dù có điểm giống và khác nhau nh trên thì hai đất nước, hai dân
téc cũng đã tìm ra được hướng đi đúng đắn phù hợp với dân téc mình, đất
nước mình.
22
23
KẾT LUẬN
Như vậy có thể thấy bằng những con đường khác nhau bởi trong điều
kiện hoàn cảnh đất nước khác nhau với sự khác biệt về xã hội, kinh tế, văn
hoá, tư tưởng, nhưng cuối cùng cả nhân dân Inđônêxia và Việt Nam đến
thành công trong con đường giải phóng dân téc giành độc lập cho dân téc
mình với sự ra đời của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà và nước cộng hoà
Inđônêxia vào năm 1945 đã đánh dấu sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ
và mới ở Đông Nam Á. Khẳng định quyền độc lập tự chủ và quyền con
người của nhân dân hai nước, có cả mạnh mẽ phong trào đấu tranh giành
độc của nhân dân các dân téc bị áp bức trong khu vực và trên thế giới.
24
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ai đích: “ XH Inđônêxia và cách mạng Inđônêxia”, NXB sự thật – Hà
Nội 1959.
2. Cách mạng Inđônêxia nhiệm vụ cấp bách của Đảng, Inđônêxia – Nhà
xuất bản sự thật – Hà Nội 1946.
3. Các tổ chức tiền thân của Đảng (văn kiện) – ban nghiên cứu lịch sử
Trung ương xuất bản – Hà Nội 1977.
4. Ngô Văn Doanh: “Inđônêxia chặng đường lịch sử”.
5. Lê Duẩn “Một vài đặc điểm của cách mạng Việt Nam”, NXB Sự thật
Hà Nội, 1960.
6. Trần Bá Đệ “Lịch sử Việt Nam từ 1858 đến nay”, NXB Đại học Quốc
gia Hà Nội.
7. Võ Nguyên Giáp “Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng
Việt Nam” – NXB Chính trị quốc gia, 1997.
8. Vũ Dương Ninh “Chuyên đề lịch sử thế giới”.
25