Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Tiểu luận: Một số vấn đề xoay quanh dự thảo sửa đổi Luật quốc tịch Việt Nam 1998

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (171.01 KB, 16 trang )

Tiểu luận
Nghiên cứu về Luật quốc tịch
Việt Nam 1998



1


Mục Lục
LỜI NÓI ĐẦU………………………………3
Chương 1 : Đánh giá kết quả thực hiện Luật Quốc tịch việt 1998………………..4
1.1: Mặt tích cực………………………………………………………….4
1.2: Mặt tồn tại……………………………………………………………...5
1.3: Giải quyết hồ sơ xin thôi, xin nhập,xin trở lại quốc tịch Việt Nam, xin
cấp Giấy chứng nhận có quốc tịch Việt Nam, giấy xác nhận khơng có quốc
tịch Việt Nam……………………………………………………………..7
1.4: Sự cần thiết sửa đổi Luật Quốc tịch 1998……………………………..8
Chương 2 : Một số điểm tiến bộ của dự thảo sửa đổi Luật Quốc tịch 1998.
2.1: Nguyên tắc một quốc tịch.
2.2: Đăng ký quốc tịch cho người không quốc tịch.
2.3: Đăng ký nhập,trở lại quốc tịch Việt Nam.
2.3.1 Điều kiện nhập quốc tịch Việt Nam.
2.3.2 Điều kiện trở lại quốc tịch Việt Nam.
Chương 3 : Kết luận.

2


3



LỜI NÓI ĐẦU


L

uật quốc tịch Việt Nam thể hiện mối quan hệ gắn bó của cá nhân với nhà
nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam,làm phát sinh quyền, nghĩa vụ

của công dân Việt Nam đối với nhà nước và trách nhiệm của nhà nước Cộng Hoà
Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam đối với công dân Việt Nam. Đề cao vinh dự và ý thức
trách nhiệm của công dân Việt Nam trong việc hưởng quyền và nghĩa vụ công dân,
kế thừa và phát huy truyền thống đoàn kết,yêu nước của dân tộc Việt Nam, tăng
cường sự gắn bó giữa nhà nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam với mọi
người Việt Nam dù cư trú ở trong hay ngồi nước. Vì sự nghiệp dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,văn minh.
Luật quốc tịch Việt Nam hiện hành được Quốc hội khố X thơng qua ngày
20/05/1998 đã điều chỉnh tương đối toàn diện các quan hệ xã hội trong lĩnh vực
quốc tịch Việt Nam. Sau hơn chín năm thực hiện,nhiều quy định của Luật năm 1998
đã thực sự đi vào đời sống,phát huy vai trò là cơ sở pháp lý quan trọng trong việc
xác định người có quốc tịch Việt Nam,quyết định cho nhập, cho thôi , cho trở lại
quốc tịch việt Nam , thực hiện chính sách bảo hộ của Nhà nước ta đối với công dân
Việt Nam ở nước ngồi, đồng thời góp phần quan trọng vào việc thực hiện chính
sách đại đồn kết dân tộc của Đảng và Nhà nước.
Tuy nhiên Luật quốc tịch Việt Nam năm 1998 cũng bộc lộ một số điểm hạn
chế và bất cập , hiện nay ban soạn thảo đã khẩn trương tiến hành xây dựng dự án
Luật quốc tịch sửa đổi theo đúng quy định của Luật hiện hành. Đã có rất nhiều ý
kiến xoay quanh vấn đề về Luật sửa đổi quốc tịch ,trong đó có ý kiến đồng ý nhưng
cũng có quan điểm trái ngược. Trước tình hình đó Chính phủ và Quốc hội rất cần


4


đến những ý kiến phản hồi từ phía người dân , để đảm bảo Luật quốc tịch Việt Nam
được khách quan và phù hợp hơn với hệ thống pháp luật hiện hành.
Trước thực tế này , nhóm TLP chúng tơi cũng có một vài ý kiến nhằm thể
hiện sự quan tâm của bản thân đối với các vấn đề trọng yếu của quốc gia. Mặc dù
đã có những tìm hiểu và phân tích cụ thể,nhưng với vốn hiểu biết pháp lý và xã hội
chưa hồn thiện,chúng tơi khó tránh khỏi những thiếu sót , rất mong nhận được sự
góp ý của giảng viên và các bạn để tiểu luận của TLP được hồn thiện hơn.
Chân thành cảm ơn!
Nhóm TLP

5


Kết cấu đề tài :
Chương 1 : Đánh giá kết quả thực hiện Luật Quốc tịch việt 1998.
1.1: Mặt tích cực.
1.2: Mặt tồn tại.
1.3: Giải quyết hồ sơ xin thôi, xin nhập,xin trở lại quốc tịch Việt Nam, xin
cấp Giấy chứng nhận có quốc tịch Việt Nam, giấy xác nhận khơng có quốc
tịch Việt Nam.
1.4: Sự cần thiết sửa đổi Luật Quốc tịch 1998.
Chương 2 : Một số điểm tiến bộ của dự thảo sửa đổi Luật Quốc tịch 1998.
2.1: Nguyên tắc một quốc tịch.
2.2: Đăng ký quốc tịch cho người không quốc tịch.
2.3: Đăng ký nhập,trở lại quốc tịch Việt Nam.
2.3.1 Điều kiện nhập quốc tịch Việt Nam.
2.3.2 Điều kiện trở lại quốc tịch Việt Nam.

Chương 3 : Kết luận.

6


CHƯƠNG 1
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ THỰC HIỆN LUẬT QUỐC TỊCH VIỆT
NAM NĂM 1998
1.1 Mặt tích cực :
Sau chín năm đi vào cuộc sống ,Luật quốc tịch Việt Nam 1998 đã thể hiện vai trò
trong quan trọng,là cơ sở pháp lý hình thành mối quan hệ gắn bó của cá nhân với
nhà nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam.Điều đó được thể hiện ở những
điểm cơ bản sau đây:
Một là, Luật Quốc tịch Việt Nam 1998 làm chế định pháp lý quan trọng công
nhận tư cách công dân Việt Nam, tạo cơ sở pháp lý cho mỗi công dân Việt Nam đều
bình đẳng trong việc hưởng quyền và làm nghĩa vụ của mình đối với Tổ quốc.
Hai là, Luật Quốc tịch Việt Nam 1998 đóng vai trị tích cực trong việc bước
đầu thực hiện chính sách đại đồn kết dân tộc của Đảng và Nhà nước ta, tạo ra mối
liên hệ pháp lý giữa công dân và Nhà nước; là nguồn cổ vũ động viên to lớn đối với
đồng bào ta đang sinh sống, học tập, làm việc ở nước ngồi ln hướng về Tổ quốc,
góp sức xây dựng quê hương đất nước; tạo cơ sở pháp lý để người nước ngồi và
người khơng quốc tịch được nhập quốc tịch Việt Nam; tạo điều kiện để một số
người vì nhiều lý do và hoàn cảnh khác nhau được trở lại quốc tịch Việt Nam, ổn
định cuộc sống và hòa nhập với cộng đồng xã hội Việt Nam.
Ba là, Luật Quốc tịch Việt Nam 1998 tạo cở sở pháp lý quan trọng cho việc
thực hiện chính sách của Đảng và Nhà nước ta về bảo hộ các quyền lợi chính đáng
của cơng dân Việt Nam ở nước ngồi, tạo điều kiện thuận lợi cho một bộ phận công
dân Việt Nam đang định cư, làm ăn, sinh sống ở nước ngoài do các hoàn cảnh, điều

7



kiện khác nhau được thôi quốc tịch Việt Nam để nhập quốc tịch nước ngồi, góp
phần ổn định cuộc sống và hòa nhập với cộng đồng xã hội ở nước sở tại.
Bốn là, công tác quốc tịch trong những năm qua đã bám tương đối sát các
nhiệm vụ chính trị, kinh tế,xã hội,đối nội,đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta, phục
vụ đắc lực cho việc thực hiện nhiệm vụ này, cơng tác quốc tịch ở trong và ngồi
nước rất được chú trọng và được coi là một trong những nhiệm vụ quan trọng nhằm
thực hiện chính sách đại đồn kết dân tộc, chính sách hội nhập quốc tế của Đảng và
Nhà nước ta.
Năm là, Luật Quốc tịch Việt Nam 1998 là các văn bản quy phạm pháp luật
hướng dẫn thi hành Luật đã tạo ra cơ chế quản lý,phối hợp giữa Bộ Tư pháp và các
Bộ, ngành ở trung ương và địa phương trong việc triển khai thực hiện các quy định
pháp luật về quốc tịch,tháo gỡ những vướng mắc phát sinh trong quá trình thực
hiện,đồng thời cũng tạo cơ sở pháp lý để các Cơ quan đại diện ngoại giao, Cơ quan
lãnh sự của Việt Nam ở nước ngoài, Ủy ban nhân dân và Sở Tư pháp các tỉnh, thành
phố thuộc trung ương thụ lý, xem xét, giải quyết hoặc trình giải quyết một số lượng
rất lớn hồ sơ quốc tịch.
Sáu là, các thủ tục hành chính giải quyết các việc về quốc tịch (cho thôi,cho
nhập,cho trở lại quốc tịch Việt Nam,cấp các loại giấy chứng nhận,xác nhận về quốc
tịch) được công bố công khai trên Cổng thông tin điện tử của Bộ Tư pháp,Bộ Ngoại
giao và một số Sở Tư pháp đã tạo sự thuận tiện cho người dân,đặc biệt là người
Việt Nam ở nước ngoài dễ dàng tiếp cận,tìm hiểu các quy định của pháp luật Việt
Nam về quốc tịch.

1.2 Mặt tồn tại:
Một là, số lượng các loại hồ sơ về quốc tịch,đặc biệt là hồ sơ xin thôi quốc tịch
Việt Nam rất lớn,hồ sơ phải qua nhiều khâu trung gian(tiếp nhận,xác minh, xem

8



xét,trình giải quyết),do chưa có cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa Cơ quan đại diện
Việt Nam ở nước ngoài với các cơ quan ở trong nước,nên nhiều yêu cầu hồ sơ chậm
được giải quyết,không đảm bảo được thời hạn theo quy định của pháp luật.
Hai là, sự phối hợp của Sở Tư pháp và cơ quan Công an cấp tỉnh tại một số địa
phương trong việc xác minh về nhân thân của những người xin nhập, xin thôi quốc
tịch Việt Nam còn chưa thực sự hiệu quả.
Ba là, do chưa có một hệ thống quản lý được tin học hóa, vì vậy, việc lưu trữ
khơng được đảm bảo gây khó khăn cho cơng tác thống kê số liệu.
Bốn là, sự chủ động trong việc nghiên cứu, áp dụng các văn bản pháp luật về
quốc tịch, cũng như sự sáng tạo và trách nhiệm của một số Sở Tư pháp cịn chưa
cao.
1.3 Giải quyết hồ sơ xin thơi,xin nhập,xin trở lại quốc tịch Việt Nam , xin cấp
Giấy chứng nhận có quốc tịch Việt Nam, Giấy xác nhận khơng có quốc tịch
Việt Nam :
Theo thống kê của Bộ Tư pháp dựa trên báo cáo của Cục Lãnh sự - Bộ Ngoại
giao và báo cáo của Sở Tư pháp các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, tính từ
tháng 1 năm 1999 đến tháng 12 năm 2007 việc giải quyết hồ sơ về quốc tịch đạt kết
quả cụ thể như sau:

Năm

Số

Số

Số

Số


Số lượng

Số

Số

lượng

lượng

lượng

lượng

được

lượng

lượng

cấp

được

được

được

được


bị tước

GCN có

cấp

cấp

nhập

trở lại

QTVN

QTVN

GCN

GXN

QTVN

QTVN

mất

khơng

được

thơi
QTVN

9


QTVN


QTVN

1999

3.579

0

0

0

18

0

3

2000

6.431


1

1

0

67

0

16

2001

3.363

1

1

0

75

0

17

2002


1.553

0

0

0

208

0

6

2003

2.315

3

1

0

193

0

2


2004

5.406

35

0

0

140

0

0

2005

13.346

57

13

0

502

0


0

2006

12.613

46

22

0

405

0

0

2007

12.854

59

13

0

624


0

0

61.460

231

51

0

2.232

0

44

Tổng
cộng

1.4 Sự cần thiết sửa đổi Luật Quốc tịch Việt Nam 1998 :

10


Một là, nguyên tắc một quốc tịch được quy định tại Điều 3 của Luật có phần
cứng nhắc, gị bó, thiếu những quy định đồng bộ, nên khó thực hiện trên thực tế,
đồng thời cũng chưa thực sự phản ánh đúng nguyện vọng của một bộ phận người

Việt Nam định cư ở nước ngoài nhập quốc tịch nước ngoài, nhưng vẫn mong muốn
giữ quốc tịch Việt Nam.Một trong những ý nghĩa to lớn của nguyên tắc một quốc
tịch là nhằm hạn chế sự xung đột về quốc tịch, nhưng ý nghĩa này cũng không đạt
được. Trên thực tế một bộ phận khá lớn người Việt Nam định cư ở nước ngồi vừa
có quốc tịch nước ngồi vừa có quốc tịch Việt Nam, gây ra tình trạng tranh chấp
giữa ta và nước ngồi trong việc bảo hộ cơng dân.
Hai là, Luật năm 1998 chưa có cơ chế hữu hiệu, khả thi để giải quyết vấn đề
quốc tịch cho những người không quốc tịch, những người không rõ quốc tịch đã cư
trú ổn định lâu dài trên lãnh thổ Việt Nam.Do đó, chưa thực hiện được một số chính
sách quan trọng của Luật là ở nước ta mỗi cá nhân đều có quyền có quốc tịch và hạn
chế tình trạng khơng quốc tịch.
Ba là, cơ chế quản lý nhà nước về quốc tịch có nhiều bất cập, hiệu lực, hiệu
quả quản lý chưa cao; việc giải quyết các vấn đề quốc tịch Việt Nam nhìn chung rất
chậm, một số thủ tục cịn rườm rà, không phù hợp với tinh thần cải cách hành chính,
gây phiền hà cho đương sự.
Bốn là, so với bối cảnh ban hành Luật năm 1998, thì hiện nay đất nước ta đã
có nhiều thay đổi quan trọng torng phát triển kinh tế - xã hội; uy tín và vị thế quốc
tế của nước ta ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế.

CHƯƠNG 2

11


MỘT SỐ ĐIỂM TIẾN BỘ CỦA DỰ THẢO SỬA ĐỔI LUẬT
QUỐC TỊCH 1998
Cuối tháng 3/2008 , Bộ Tư pháp đã trình Chính phủ Dự thảo Luật Quốc Tịch (sửa
đổi) (“Dự thảo”).Theo Dự thảo, Luật Quốc tịch gồm 06 Chương 42 Điều và có
nhiều nội dung mới so với Luật Quốc Tịch 1998. Chúng tôi xin giới thiệu 03 nội
dung mới và đáng chú ý nhất của Dự thảo.


2.1 Nguyên tắc một quốc tịch :
Nội dung đáng chú ý nhất của Dự thảo là bãi bỏ nguyên tắc một quốc tịch,
mở rộng diện những người có hai quốc tịch.Theo đó, Điều 3 Luật Quốc tịch 1998
về nguyên tắc một quốc tịch được bãi bỏ. Thay vào đó, Điều 12 của Dự thảo quy
định: “ Người Việt Nam định cư ở nước ngồi mà chưa được thơi, chưa bị tước
quốc tịch Việt Nam hoặc chưa bị mất quốc tịch Việt Nam theo điều ước quốc tế mà
nước Cộng hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam là thành viên thì vẫn là người có quốc
tịch Việt Nam.Quy định này phù hợp với xu hướng hội nhập hiện nay khi mà việc
công nhận nhiều quốc tịch cho công dân được xác định trên cơ sở lợi ích cũng như
nguyện vọng của người Việt Nam định cư ở nước ngồi.Qua đó giải quyết được
những tranh chấp liên quan đến việc bảo hộ công dân giữa Việt Nam và các nước,
đồng thời cũng làm cho các Cơ quan nhà nước Việt Nam thuận tiện khi giải quyết
các vấn đề giao dịch dân sự, kinh tế của những công dân mang hai quốc tịch.Trên
thực tế, người Việt Nam định cư ở nước ngồi đều có hai quốc tịch, một của nước
sở tại, một của Việt Nam vì họ chưa thôi quốc tịch Việt Nam, và ở những nước họ
đang định cư người ta không yêu cầu thôi quốc tịch Việt Nam.Bà con Việt kiều vì
nhiều lý do khác nhau buộc phải nhập quốc tịch nước sở tại để thuận tiện cho cuộc
sống nhưng họ vẫn muốn giữ quốc tịch Việt Nam.
Tuy nhiên có một số nước cho phép cơng dân của họ có hai hoặc nhiều quốc
tịch nhưng chỉ cơng nhận quốc tịch của nước mình khi giải quyết vấn đề phát sinh
12


hoặc các tranh chấp về quốc tịch.Nếu Luật Quốc tịch của nước ta quy định theo
cách như một số nước khác thì có thể sẽ khơng có lợi cho việc thực hiện chính sách
đối với người Việt Nam ở nước ngồi như Nghị quyết số 36 QĐ/TW của Bộ Chính
trị đã xác nhận.Vì vậy, Điều 41 của Dự thảo Luật Quốc tịch Việt Nam (sửa đổi) vẫn
giữ nguyên quy định của Luật năm 1998, theo đó Chính phủ có nhiệm vụ “căn cứ
vào những quy định của Luật này, Chính phủ ký kết với nước ngoài điều ước Quốc

tế nhằm giải quyết các vấn đề phát sinh từ tình trạng hai hay nhiều quốc tịch”.
Dự thảo sửa đổi Luật Quốc tịch Việt Nam 1998 đã mở ra một hướng mới
cho việc trở về quê hương của những kiều bào này. “Một trong những yêu cầu và
mục tiêu của việc sửa đổi Luật Quốc tịch là nhằm thực hiện chính sách đại đoàn kết
dân tộc của Đảng và Nhà nước, đảm bảo yêu cầu hội nhập quốc tế. Chúng ta sửa
luật không những tạo điều kiện cho bà con Việt kiều được hưởng quyền lợi như
người ở trong nước, mà còn bảo đảm được cơ sở pháp lý để chúng ta bảo hộ cơng
dân của mình ở nước ngồi" ( Tiến sĩ Trần Thất – Vụ trưởng Vụ Hành chính Tư
pháp, Bộ Tư pháp , trích Tuổi trẻ cuối tuần, Chủ nhật 24/02/2008).

2.2 Đăng ký quốc tịch cho người khơng có quốc tịch :
Theo quy định tại Điều 8 Luật Quốc tịch việt Nam 1998 thì: “Nhà nước
Cộng Hịa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam tạo điều kiện cho trẻ em sinh ra trên lãnh
thổ Việt Nam đều có quốc tịch Việt Nam”. Như vậy , theo Luật Quốc tịch Việt Nam
1998 thì những người khơng quốc tịch thường trú trên lãnh thổ Việt Nam muốn có
quốc tịch Việt Nam chỉ có một cách duy nhất là nhập quốc tịch Việt Nam. Thực tế
hiện nay , số người không quốc tịch , không rõ quốc tịch cư trú trên lãnh thổ nước ta
khá nhiều và chủ yếu là ở những khu vực miền núi , biên giới xa xôi. Việc làm thủ
tục nhập quốc tịch của những người này là rất khó khăn ,bên cạnh đó thủ tục trình
tự giải quyết cho nhập quốc tịch còn rườm rà,phức tạp.

13


Khoản 1 Điều 40 Dự án Luật Quốc tịch Việt Nam (sửa đổi)quy định: “trong
thời hạn 3 năm kể từ ngày Luật này có hiệu lực ,người khơng quốc tịch và người
không rõ quốc tịch nước nào đang cư trú ổn định trên lãnh thổ Việt Nam,nếu có
nguyện vọng có quốc tịch Việt Nam thì được đăng ký có quốc tịch Việt Nam theo
quy định của Chính phủ”.
2.3 Đăng ký nhập, trở lại quốc tịch Việt Nam :

2.3.1 Điều kiện để nhập quốc tịch Việt Nam:
Giấy chứng nhận trình độ tiếng Việt : Theo quy định tại điểm d, khoản 1,
Điều 8 Nghị định số 104/1998/NĐ – CP, thì người nước ngồi xin nhập quốc tịch
Việt Nam phải có giấy chứng nhận trình độ tiếng Việt (trừ trường hợp được
miễn).Nhưng yêu cầu này gây ra rất nhiều khó khăn, rườm rà và không khả thi, nhất
là đối với những người nghèo sống ở vùng núi, biên giới.Vì vậy trong thời gian qua
Bộ Tư pháp đã thống nhất với các Bộ, ngành tháo gỡ vấn đề này bằng cách cho
phép những đối tượng này được miễn giấy chứng nhận trình độ tiếng Việt.
Giấy cho thơi quốc tịch nước ngồi để nhập quốc tịch Việt Nam: trong thực
tế giải quyết việc cho công dân Campuchia cư trú nhiều năm trên lãnh thổ Việt Nam
xin nhập quốc tịch Việt Nam thì họ xin cấp giấy chứng nhận thơi quốc tịch
Campuchia là rất khó khăn và hầu hết là không xin được.Trong số này cũng có
người tự khai là cơng dân Campuchia nhưng bản thân họ cũng khơng có bất cứ giấy
tờ nào để chứng minh là cơng dân Campuchia nên cơ quan có thẩm quyền ở
Campuchia khơng giải quyết.Vì vậy, Luật sửa đổi tại Điều 19 “Miễn điều kiện nhập
quốc tịch Việt Nam : Các trường hợp quy định tại khoản 3, điều 18 về xin nhập
quốc tịch Việt Nam thì được miễn các điều kiện quy định tại các điểm c, d và đ
khoản 1 Điều 18 của Luật này”.
2.3.2 Điều kiện trở lại quốc tịch Việt Nam:

14


Để tạo điều kiện thuận lợi hơn cho những người đã mất quốc tịch Việt Nam
được trở lại quốc tịch Việt Nam, khoản 1 Điều 20 Dự án Luật Quốc tịch Việt Nam
(sửa đổi) quy định: “Người đã mất quốc tịch Việt Nam theo quy định tại Điều 22
của Luật này có đơn xin trở lại quốc tịch Việt Nam, thì có thể được trở lại quốc tịch
Việt Nam, nếu việc đó khơng làm phương hại đến lợi ích quốc gia của Việt Nam”.
Như vậy, quy định này đã loại bỏ các điều kiện trở lại quốc tịch Việt Nam được quy
định tại các điểm a, b, c, d khoản 1 Điều 21 Luật năm 1998, chỉ giữ lại điều kiện

quan trọng nhất, đó là: việc trở lại quốc tịch khơng làm phương hại đến lợi ích quốc
gia của Việt Nam.

15


CHƯƠNG 3 : KẾT LUẬN
Sau khi nghiên cứu đề tài,chúng tơi có một số kết luận cụ thể như sau:
_Việc bỏ Điều 3 trong dự thảo luật Quốc tịch Việt Nam 1998 là hoàn toàn phù hợp
với xu thế mở cửa và hội nhập quốc tế của nhà nước ta,tạo điều kiện để người Việt
đang sinh sống ở nước ngoài chẳng những hoà nhập tốt với luật pháp nước sở tại
mà vẫn thường xuyên nhận được sự bảo hộ của nhà nước như mọi công dân đang
cư trú trên lãnh thổ.
_Đăng ký quốc tịch Việt Nam cho người khơng có quốc tịch được quy định cụ thể
tại Khoản 1 Điều 40 của dự thảo ,theo đó cho người khơng quốc tịch và không rõ
quốc tịch đang cư trú ở Việt Nam được nhập quốc tịch Việt Nam , tuy tiến bộ
nhưng lại gây nhiều mâu thuẫn vì khơng phù hợp với quy định 103 Hiến Pháp 1992
: chỉ có Chủ tịch nước mới có thẩm quyền cho người nước ngồi nhập quốc tịch
Việt Nam. Theo chúng tôi các nhà soạn thảo Luật Quốc tịch sửa đổi nên cần cân
nhắc lại, đồng thời cần nghiên cứu để quy định rõ một số điều kiện cho việc đăng
ký có quốc tịch đối với những trường hợp này.
_Theo quy định của dự thảo sửa đổi thì các giấy tờ cũng như thủ tục giải quyết các
vấn đề về quốc tịch đã được đơn giản , tạo nên sự liên kết chặt chẽ giữa công dân
Việt Nam ở trong nước với người Việt Nam ở nước ngồi, qua đó thu hút thêm
được tài năng,trí tuệ và nguồn lực để xây dựng Tổ quốc,góp phần củng cố khối đại
đoàn kết toàn dân tộc.

16




×