Tải bản đầy đủ (.doc) (60 trang)

“ Hoàn thiện và phát triển hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu bằng phương thức Nhờ thu và Chuyển tiền tại Sở giao dịch I – Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (402.82 KB, 60 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
LỜI MỞ ĐẦU
Trong các năm vừa qua, hoạt động kinh tế đối ngoại của Việt Nam đã và
đang phát triển mạnh mẽ. Cùng với sự phát triển của quá trình giao lưu thương
mại, hoạt động xuất nhập khẩu cũng có những bước tiến đáng kể. Song song với
quá trình xuất nhập khẩu, hiệu quả của hoạt động Thanh toán Quốc tế của các
Ngân hàng thương mại đã ảnh hưởng một cách trực tiếp đến lợi ích của các bên
tham gia hoạt động này.
Tuy nhiên, hoạt động Thanh toán Quốc tế bằng phương thức Nhờ thu và
Chuyển tiền vẫn còn một số vấn đề khiến các doanh nghiệp còn thấy e ngại khi
áp dụng. Chính vì vậy, việc kiện toàn và nâng cao hiệu qủa sử dụng của hai
phương thức này đang là yêu cầu thường xuyên và cấp bách đối với mỗi Ngân
hàng thương mại.
Vì vậy, sau một thời gian học tập và nghiên cứu, em chọn đề tài “ Hoàn
thiện và phát triển hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu bằng phương thức
Nhờ thu và Chuyển tiền tại Sở giao dịch I – Ngân hàng Đầu tư và Phát triển
Việt Nam” làm đề tài luận văn tốt nghiệp.
Bản luận văn ngoài phần mở đầu và kết luận nội dung chính gồm 61
trang, được chia thành ba chương:
Chương 1: Phương thức Nhờ thu và phương thức Chuyển tiền trong
Thanh toán Quốc tế của Ngân hàng Thương mại.
Chương 2: Thực trạng hoạt động Thanh toán Quốc tế bằng phương
thức Nhờ thu và phương thức Chuyển tiền tại Sở giao dịch I – Ngân hàng Đầu
tư và Phát triển Việt Nam
Chương 3: Các giải pháp góp phần hoàn thiện và phát triển hoạt động
Thanh toán Quốc tế bằng phương thức Nhờ thu và Chuyển tiền tại Sở giao
dịch I – Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam

Website: Email : Tel : 0918.775.368
CHƯƠNG I
PHƯƠNG THỨC NHỜ THU VÀ PHƯƠNG THỨC CHUYỂN TIỀN


TRONG THANH TOÁN QUỐC TẾ CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
I. NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ HOẠT ĐỘNG THANH TOÁN
QUỐC TẾ
1.Vài nét về Ngân hàng thương mại
Các nước nền kinh tế thị trường vận hành theo cơ chế thị trường , mô hình
ngân hàng phổ biến là hệ thống ngân hàng hai cấp: Ngân hàng Trung Ương
( Ngân hàng Nhà Nước) làm chức năng phát hành tiền tệ , quản lý Nhà nước về
mọi hoạt động tiền tệ , tín dụng ngân hàng và các Ngân hàng thương mại, các tổ
chức trung gian tài chính khác.
Có thể hiểu một cách chung nhất, Ngân hàng thương mại ( NHTM ) là
doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ mà nhiệm vụ chủ yếu và thường xuyên là nhận
tiền gửi, sử dụng số tiền này để cho vay và cung ứng các dịch vụ thanh toán.
Hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại thường rất đa dạng và
phong phú. Trong đó quan trọng nhất là hoạt động tín dụng. Hoạt động này có ý
nghĩa trọng yếu đối với hoạt động Ngân hàng nói riêng và hoạt động của nền
kinh tế nói chung. Nếu tín dụng ngân hàng không tạo được tiền để mở ra những
điều kiện thuận lợi cho quá trình sản xuất và những hoạt động của nó thì trong
nhiều trường hợp sản xuất không thực hiện được. Hơn thế nữa, các đơn vị sản
xuất có thể gánh chịu tình trạng ứ đọng vốn luân chuyển trong thời kỳ nhàn rỗi,
nhưng lại không đủ vốn để thúc đẩy nhu cầu sản xuất kinh doanh trong những
kỳ cao điểm mang tính thời vụ.
Ngoài ra các ngân hàng thương mại còn đóng vai trò rất quan trọng trong
việc thực hiện chính sách tiền tệ của Ngân hàng Trung Ương, chúng phục vụ
như một kênh dẫn để thông qua đó , tiền cung ứng sẽ được tăng lên hoặc giảm
xuống nhằm đạt được những mục tiêu quan trọng của chính sách là đưa ra một
khối lượng tiền cung ứng phù hợp để ổn định giá cả, tăng trưởng kinh tế lành

Website: Email : Tel : 0918.775.368
mạnh và tạo được nhiều việc làm.
Quá trình hình thành và phát triển của các Ngân hàng Thương mại luôn

gắn liền với hoạt động thu hút vốn nhàn rỗi trong dân cư và các tổ chức thông
qua chức năng trung gian tài chính, sau đó dùng vốn này để thực hiện cho vay:
cho vay thương mại , cho vay tiêu dùng, cho vay đầu tư… hoặc để mua chứng
khoán của chính phủ, trái khoán của chính quyền địa phương… Tức là nó đóng
vai trò điều hoà vốn từ nơi thừa đến nơi thiếu.
Theo cách này , những trung gian tài chính có thể giúp thúc đẩy nền kinh
tế năng động và hiệu quả hơn. Ngân hàng Thương mại là một trung gian tài
chính được mọi người thường xuyên giao dịch nhất vì đây là nơi có sẵn tiền và
chi phí giao dịch nhỏ nhất.
Trong nền kinh tế thị trường, các NHTM thường thực hiện những hoạt
động kinh doanh chủ yếu:
Để có thể tồn tại và phát triển trong bối cảnh các NHTM cạnh tranh gay
gắt với nhau, đòi hỏi tất yếu các Ngân hàng phải mở rộng dịch vụ của mình như
tín dụng thuê mua, dịch vụ thẻ tín dụng, tham gia vào thị trường đôla châu Âu…
Tuy nhiên xét một cách khái quát hoạt động kinh doanh của NHTM bao gồm:
Hoạt động tín dụng:
NHTM một mặt thu hút các khoản tiền nhàn rỗi trong xã hội, bao gồm
tiền của các doanh nghiệp, các hộ gia đình, cá nhân và các cơ quan Nhà nước.
Mặt khác, nó dùng chính số tiền đã huy động được để cho vay đối với các thành
phần kinh tế trong xã hội, khi chúng có nhu cầu bổ sung vốn.
Trong nền kinh tế thị trường, NHTM là một trung gian tài chính quan
trọng để điều chuyển vốn từ người thừa sang người thiếu.
Thông qua sự điều khiển này, NHTM có vai trò quan trọng trong việc
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tăng thêm việc làm, cải thiện mức sống của dân cư,
ổn định thu chi Chính phủ.
Chính hoạt động này đã làm cho NHTM có thể góp phần quan trọng vào
việc điều hoà lưu thông tiền tệ, ổn định sức mua đồng tiền, kiềm chế lạm phát.
Nhờ thực hiện việc đi vay và cho vay, NHTM có được nguồn thu chủ lực,

Website: Email : Tel : 0918.775.368

không những đủ sức duy trì bộ máy hoạt động, đóng thuế cho Nhà nước mà còn
có lãi, đảm bảo sự phát triển không ngừng của bản thân Ngân hàng.
Từ đó có thể kết luận, đây chính là hoạt động cơ bản nhất của Ngân hàng.
Hoạt động thanh toán:
Nếu như mọi khoản chi trả của xã hội được thực hiện bên ngoài ngân
hàng thì chi phí để thực hiện chúng sẽ rất lớn, bao gồm: chi phí in, đúc, bảo
quản, vận chuyển tiền của Ngân hàng, chi phí tiếp nhận, bảo quản, vận chuyển
tiền của người trả và người nhận.
Với sự ra đời của NHTM, phần lớn các khoản chi trả về hàng hoá và dịch
vụ của xã hộ đều được thực hiện qua Ngân hàng với những hình thức thanh toán
thích hợp, thủ tục đơn giản và kỹ thuật ngày càng tiên tiến.
Nhờ tập trung công việc thanh toán của xã hội vào Ngân hàng, nên việc
giao lưu hàng hoá, dịch vụ trở nên thuận tiện, nhanh chóng, an toàn và tiết kiệm
hơn.
Không những vậy, do việc thực hiện chức năng thanh toán, NHTM có
điều kiện huy động tiền gửi của xã hội, trước hết là của các doanh nghiệp tới
mức tối đa, tạo nguồn vốn cho vay và đầu tư, đẩy mạnh hoạt động kinh doanh
của Ngân hàng.
Trong những năm gần đây, đã có những đổi mới quan trọng do các Ngân
hàng đã và đang trang bị máy vi tính và các phương tiện kỹ thuật để đưa vào sử
dụng những hình thức chuyển tiền mới như chuyển tiền điện tử, mạng SWIFT
và mạng hoá hệ thống máy tính trong ngân hàng… do đó thẻ tín dụng có thể
được sử dụng để rút tiền ở nhiều nơi.
Đầu tư:
Hoạt động đầu tư hay còn gọi là hoạt động chứng khoán giúp NHTM sử
dụng và khai thác tối đa các nguồn vốn đã huy động. Đồng thời, nó cũng đem lại
nguồn thu nhập quan trọng cho NHTM.
NHTM có thể đầu tư vốn mua chứng khoán ngắn hạn của Chính phủ.
Những chứng khoán này vừa mang lại thu nhập cho NHTM vừa góp phần vào
việc cân bằng thu chi Ngân sách thường xuyên, đồng thời góp phần điều hoà lưu


Website: Email : Tel : 0918.775.368
thông tiền tệ trong nền kinh tế quốc dân.
NHTM có thể còn được phép đầu tư vốn mua cổ phiếu và trái phiếu của
các doanh nghiệp, qua đây những NHTM lớn tham gia vào việc thành lập và
quản lý các doanh nghiệp.
Tuy nhiên, NHTM chỉ được đầu tư chứng khoán ở một giới hạn nhất định,
không được để hoạt động này lấn át hoạt động cho vay.
Các hoạt động khác:
Ngoài ra, hiện nay các NHTM còn thực hiện các hoạt động khác như:
giao dịch hối đoái, kinh doanh vàng bạc, kim loại đá quý, dịch vụ uỷ thác, dịch
vụ bảo quản an toàn vật có giá, dịch vụ tư vấn, dịch vụ bảo lãnh.
2.Hoạt động thanh toán quốc tế của NHTM
Thanh toán là quá trình chu chuyển tiền tệ phục vụ cho chu chuyển kinh
tế. Trong thanh toán có hai hình thức là thanh toán không dùng tiền mặt còn gọi
là thanh toán chuyển khoản và thanh toán tiền mặt.
Trong nền kinh tế hiện nay, các hoạt động thanh toán của NHTM ngày
càng đóng vai trò không thể thiếu, đặc biệt là hoạt động Thanh toán Quốc tế.
Thanh toán Quốc tế trong ngoại thương là chỉ việc chi trả tiền hàng hoá
dịch vụ đối với nước ngoài phát sinh từ các hoạt động trao đổi hàng hoá dịch vụ
theo hệ thống giá cả quốc tế, được thực hiện theo những quy định nhất định,
hoặc theo tập quán thương mại quốc tế.
Cụ thể hơn đó chính là sự dịch chuyển các luồng tiền giữa các quốc gia
ngược chiều với các luồng hàng hoá dịch vụ.
Thanh toán Quốc tế có những vai trò chủ yếu là :
Thứ nhất, đối với sự phát triển kinh tế đối ngoại:
Những mối quan hệ kinh tế thường xuyên giữa các nước đã làm phát sinh
những quyền lợi và nghĩa vụ trong quan hệ thương mại và tiền tệ của nước này
với nước khác, do đó tất yếu phải dẫn tới sự xuất hiện của Thanh toán Quốc tế.
Trong quan hệ thanh toán giữa các nước, các vấn đề có liên quan đến quyền lợi

và nghĩa vụ đôi bên được qui định lại thành những điều kiện gọi là điều kiện
Thanh toán Quốc tế như:

Website: Email : Tel : 0918.775.368
Điều kiện về thời gian.
Điều kiện về địa điểm.
Điều kiện về tiền tệ.
Điều kiện về phương thức thanh toán.
Nghiệp vụ Thanh toán Quốc tế là sự vận dụng tổng hợp các điều kiện
Thanh toán Quốc tế. Những điều kiện này được thể hiện trong điều kiện
thanh toán của các hiệp định trả tiền ký kết giưã người mua và người bán. Trong
các điều kiện kể trên, phương thức Thanh toán Quốc tế là điều kiện quan trọng
nhất. Phương thức thanh toán tức là chỉ người bán dùng bằng cách nào để thu
tiền về, người mua dùng cách nào để trả tiền. Trong buôn bán , người ta có thể
lựa chọn những phương thức thanh toán khác nhau để thu tiền về hoặc để trả
tiền. Nhưng xét cho cùng, việc lựa chọn phương thức thanh toán nào cũng phải
xuất phát từ yêu cầu của người bán là thu tiền nhanh, đầy đủ và từ yêu cầu của
người mua là nhập hàng đúng số lượng, chất lượng, chủng loại và đúng hạn.
Thanh toán Quốc tế là khâu cuối cùng của quá trình lưu thông hàng hoá
và dịch vụ. Nó phản ánh sự vận động có tính độc lập tương đối của giá trị trong
quá trình chu chuyển tư bản và hàng hoá giữa các quốc gia do sự không công
bằng, đồng thời giữa sản xuất, tiêu thụ, đầu tư vốn, vay nợ, viên trợ dưới hình
thức chuyển tiền hoặc thanh toán bù trừ.
Thanh toán Quốc tế đóng vai trò hết sức quan trọng bởi lẽ thông qua
Thanh toán Quốc tế, giá trị hàng hoá xuất nhập khẩu mới được thực hiện và nhờ
có hoạt động Thanh toán Quốc tế mà các khoản về tín dụng , đầu tư hay mọi
giao dịch đối ngoại mới có thể thực hiện được. Thanh toán nội bộ một quốc gia
đã phức tạp, Thanh toán Quốc tế còn phức tạp và khó khăn hơn nhiều do sự ảnh
hưởng của các yếu tố tiền tệ, tín dụng, Ngân hàng và sự khác biệt ngôn ngữ tập
quán, cũng như khả năng kiểm soát toàn bộ quá trình từ sản xuất, lưu thông đến

thanh toán. Nếu nghiệp vụ thanh toán không theo kịp với nhu cầu kinh tế thì nó
sẽ là nhân tố kìm hãm sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế.
Trong điều kiện mở cửa của nền kinh tế với thế giới bên ngoài, mỗi quốc
gia có vai trò như một chủ thể kinh tế thị trường và họ cạnh tranh với nhau để

Website: Email : Tel : 0918.775.368
phát triển. Tự bản thân quá trình cạnh tranh này đã làm nảy sinh ra các nhu cầu
về hợp tác và phân công lao động để nhằm giải quyết các nhu cầu về tiền vốn,
công nghệ , nhân lực , tài nguyên, thị trường tiêu thụ… Tham gia vào quá trình
hợp tác và phân công lao động Quốc tế, các quốc gia có điều kiện tốt nhất để
phát triển kinh tế do chủ thể tận dụng được những thành qủa khoa học , kỹ thuật
công nghệ của thế giới, giải quyết những khó khăn về tiền vốn, nhân lực, tài
nguyên, và thị trường tiêu thụ hàng hoá. Thực tế cho thấy các quốc gia phát triển
đều là những nước tham gia mạnh mẽ vào phân công lao động quốc tế.
Việt Nam trên con đường đổi mới và mở cửa nền kinh tế, với tinh thần
Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước dựa trên nguyên tắc hợp tác cùng có
lợi, đang nỗ lực tạo lập một môi trường thuận lợi cho quá trình hợp tác và phân
công lao động Quốc tế, trong đó tập trung vào cơ sở hạ tầng, dịch vụ thông tin,
dịch vụ ngân hàng….Chính sách kinh tế hướng ngoại này đòi hỏi chúng ta phải
tổ chức hoạt động ngân hàng đối ngoại , đặc biệt là khâu Thanh toán Quốc tế,
đảm bảo mọi điều kiện thuận lợi cho các hoạt động đối ngoại của Việt Nam.
Thứ hai, đối với hoạt động kinh doanh của NHTM:
Đối với hoạt động Ngân hàng, việc hoàn thiện và phát triển hoạt động
Thanh toán Quốc tế có vị trí và vai trò hết sức quan trọng, nó không chỉ là một
dịch vụ thuần tuý mà còn được coi là một mặt không thể thiếu được trong hoạt
động kinh doanh của NHTM, nó bổ sung và hỗ trợ cho các mặt hoạt động khác
của Ngân hàng.
Hoạt động Thanh toán Quốc tế giúp cho Ngân hàng mở rộng ra nhiều dịch
vụ như kinh doanh ngoại tệ, nghiệp vụ bảo lãnh và các dịch vụ khác nhằm để
đáp ứng tốt các nhu cầu của khách hàng trên cơ sở đó để nâng cao uy tín và tạo

niềm tin cho khách hàng.
Việc mở ra các quan hệ ngoại thương ngày càng rộng rãi đòi hỏi phải mở
rộng và hoàn thiện không ngừng các quan hệ Tiền tệ- Tín dụng- Thanh toán và
Ngân hàng nhằm đóng vai trò như là người mở đầu, người điều chỉnh, người
tham gia các quan hệ kinh tế nói trên, tạo điều kiện để Ngân hàng hoà nhập vào
nền kinh tế rộng lớn của Thế giới đang diễn ra một cách năng động, đa dạng và

Website: Email : Tel : 0918.775.368
sâu sắc.
Trong Thanh toán Quốc tế, rất nhiều phương tiện và phương thức Thanh
toán Quốc tế đã được áp dụng nhằm mục đích đạt được chất lượng thanh toán
cao nhất.
Hiện nay để thực hiện các hoạt động chi trả thường xuyên giữa cac quốc
gia thường sử dụng các loaị ngoại tệ, nhất là các loại ngoại tệ mạnh . Để thực
hiện việc thanh toán này thường phải sử dụng các phương tiện thanh toán khác
nhau như: Hối phiếu, Lệnh phiếu, Séc và các loại thẻ tín dụng, trong đó phương
tiện dùng chủ yếu trong thanh toán Quốc tế đó là : Hối phiếu và Séc.
-Sec (Cheque): Séc là một tờ mệnh lệnh trả tiền vô điều kiện cho một
khách hàng của ngân hàng trích một số tiền nhất định từ các tài khoản của mình
mở ở ngân hàng đó để trả cho người cầm, hoặc trả theo lệnh của người ấy, bằng
tiền mặt hay chuyển khoản.
Séc là phương tiện thanh toán thanh toán được hình thành trên cơ sở tín
dụng ngân hàng. Séc ra đời từ chức năng làm phương tiện thanh toán của tiền tệ
và được sử dụng rộng rãi trong nhuững nước có hệ thống Ngân hàng phát triển
cao. Hiện nay séc là phương tiện chi trả được dùng hầu như phổ biến trong giao
lưu thanh toán nội địa của tất cả các nước.Séc cũng được sử dụng rộng rãi trong
thanh toán Quốc tế về hàng hoá, cung ứng lao vụ, du lịch và về các chi trả mậu
dịch khác. Tuy nhiên. do séc được sử dụng phổ biến trên toàn thế giới đòi hỏi
phải có một bộ luật quốc tế thống nhất về sử dụng séc. Năm 1930, nhiều nước
như Đức, Pháp, Ý , Đan Mạch, Hà Lan,Thụy Điển, Áo, Bồ Đào Nha, đã họp tại

Giơ-ne-vơ để kí một công ước Quốc tế về séc. Công ước này cho đến nay vẫn
xem là luật điều chỉnh các quan hệ liên quan dến việc phát hành và sử dụng séc.
Các bên liên quan đến séc
Người phát ra séc để trả nợ gọi là người phát hành séc.
Ngân hàng thanh toán là người trả tiền
Người nhận tiền là người hưởng lợi tờ séc
Sơ đồ lưu thông qua hai ngân hàng :

Website: Email : Tel : 0918.775.368
Sơ đồ 1.1: Sơ đồ lưu thông Séc qua hai Ngân hàng:
Chú thích:
Giao hàng
Phát hành séc thanh toán
Nhờ ngân hàng thu hộ tiền ghi trên tờ séc
Ngân hàng bên bán gửi séc tới ngân hàng bên mua thu hộ tiền trên séc
Ngân hàng trả tiền cho người hưởng
Quyết toán séc giữa ngân hàng và người mua
Đặc điểm của séc là có tính thời hạn, séc chỉ có giá trị thanh toán khi nó
còn thời hạn hiệu lực
-Hối phiếu ( Bill of Exchange )
Cũng giống như séc, hối phiếu đã và đang thanh toán từ xa xưa, sử dụng
như một phương tiện trong tín dụng. Hối phiếu và séc có những chức năng khác
nhau. Ai ký séc người đó có tiền, còn ai ký hối phiếu thì lại là người cần tiền.
Hối phiếu là một tờ lệnh trả tiền vô điều kiện được lập bằng văn bản do
một người ký phát cho ngươì khác, yêu cầu người này khi nhìn thấy hối phiếu,
hay đến một ngày cụ thể nhất định hoặc đến một ngày có thể xác định trong
tương lai phải trả một số tiền nhất định cho một người nào đó hoặc theo lệnh của
người này trả cho người khác hoặc trả cho người cầm phiếu.
Hối phiếu là phương tiện thanh toán được sử dụng rộng rãi trong Thanh
toán Quốc tế, nhất là trong lĩnh vực thương mại. Để đảm bảo tính thống nhất

trong việc sử dụng hối phiếu, trên thế giới có 3 nguồn luật điều chỉnh lưu thông

Ngân hàng phục
vụ bên bán
Ngân hàng phục
vụ bên mua
Người bán Người mua
(5)
(1)
(4)
(2)
(6)(3)(5)
Website: Email : Tel : 0918.775.368
hối phiếu:
+ Công ước Giơnevơ 1931 ban hành: Luật thống nhất về hối phiếu ULB
( Uniform Law for Bill of Exchange )
+ Luật hối phiếu của Anh năm 1882 ( Bill of Exchange Act of 1882 )
+ Luật thương mại thống nhất của Mỹ năm 1962 :UCC ( Uniform
Commercial Code of 1962 )
Ba nguồn luật áp dụng từng khu vực khác nhau nhưng đều lấy chung khái
niệm hối phiếu của BEA 1882 vì tính chặt chẽ của nó, theo đó các nội dung hối
phiếu gồm :
+ Lệnh trả tiền vô điều kiện : Không quy định phải thực hiện một điều
khoản nào trước khi thanh toán .
+ Hối phiếu được lập thành văn bản, luật không ấn định số văn bản được
lập. Thực tế người ta thường lập 2 hoặc 3 bản để đề phòng thất lạc, người trả
tiền sẽ thanh toán cho tờ hối phiếu đến đầu tiên mà không lệ thuộc số thứ tự các
bản .
+ Ngày kí hối phiếu : Đây là thời điểm xác định nhiều vấn đề quan trọng
như : Tại thời điểm đó người kí phải có đủ năng lực pháp lí không ? Thời

điểm tính thời hạn trả tiền đối với hối phiếu kì hạn, thời điểm kiểm tra tính
thống nhất về thời gian bộ chứng từ hàng hoá …
- Các bên liên quan việc lập và thanh toán hối phiếu :
+ Người kí phát : Là ngưòi bán hàng, chủ nợ. Người kí phát có
trách nhiệm pháp lí chính đối với hối phiêú cho tới khi nó được chấp nhận, có
trách nhiệm thanh toán cho người giữ hối phiếu, hoặc đền bù cho ngưòi kí hậu
nếu hối phiếu bị trừ chối thanh toán
+ Người kí hậu : hối phiếu được chuyển nhượng để lưu thông trên thị
trường theo thủ tục kí hậu . Khi chuyển nhượng cho người khác, người đang giữ
hối phiếu phải kí hậu coi như là một lời đảm bảo thanh toán.
+ Ngưòi nắm giữ cổ phiếu : Là người thụ hưởng hoặc người được kí hậu
hối phiếu về quyền sở hữu nó, hoặc là người cầm hối phiếu. Người giữ hối phiếu
là người có vị trí cao nhất để làm cho tờ hối phiếu có hiệu lực.

Website: Email : Tel : 0918.775.368
+ Người trả tiền hối phiếu: Là người mua hay người thứ ba được sự chỉ
định của người mua ( thường là ngân hàng )
Hối phiếu có 3 đặc trưng quan trọng:
+ Tính trừu tượng của hối phiếu : Trên hối phiếu không cần phải ghi nội
dung quan hệ tín dụng, nguyên nhân sinh ra việc lập hối phiếu, mà cần phải ghi
rõ số tiền phải trả là những nội dung có liên quan đến việc trả tiền . Hiệu lực
pháp lý của hối phiếu cũng không bị ràng buộc do nguyên nhân gì sinh ra hối
phiếu.
+ Tính bắt buộc trả tiền của hối phiếu: Người trả tiền hối phiếu phải trả
tiền theo đúng nội dung ghi trên tờ hối phiếu. Người trả tiền không thể viện
những lý do riêng của mình đối với người phát phiếu, người ký hậu mà từ chối
trả tiền , trừ trường hợp hối phiếu được lập trái với đạo luật chi phối nó.
+ Tính lưu thông của hối phiếu: Hối phiếu có thể được chuyển nhượng
một hay nhiều lần trong thời hạn của nó, thông qua thủ tục ký chuyển nhượng ở
mặt sau của tờ hối phiếu (Ký hậu hối phiếu- Endorsement ).

-Kỳ phiếu ( Promissory Note ) : Là loại văn bản cam kết trả tiền vô điều
kiện do người lập phiếu phát ra hứa trả một số tiền nhất định cho người hưởng
lợi theo lệnh của người này trả cho người khác qui định trong kỳ phiếu đó.
Điểm khác cơ bản giữa hối phiếu và kỳ phiếu , kỳ phiếu do người nhận nợ
phát hành. Do đặc điểm thụ động này mà trong Thanh toán Quốc tế người ta ít
dùng đến hình thức này.
Các điều luật dùng để điều chỉnh kỳ phiếu cũng áp dụng tương tự như hối
phiếu, tuy nhiên kỳ phiếu có một số đặc điểm sau:
+ Kỳ hạn thanh toán được ghi rõ trên kỳ phiếu.
+ Mỗi kỳ phiếu có thể do nhiều người ký phát để cam kết thanh toán.
+ Người ký phát là người nhận nợ, nên kỳ phiếu thường phải có sự đảm
bảo khả năng thanh toán của các ngân hàng co uy tín.
+ Kỳ phiếu chỉ lập một bản.
- Thẻ tín dụng:
Đây là một phương tiện thanh toán hiện đại được hình thành trên cơ sở xu

Website: Email : Tel : 0918.775.368
thế hiện đại hoá công nghệ ngân hàng.
Thẻ tín dụng là phương tiện phục vụ thanh toán cá nhân trong việc
nắm giữ tiền mặt, hoặc thay thế cho việc luân chuyển một lượng tiền mặt
nơi này sang nơi khác .
Ở các nước phát triển hiện nay đã sử dụng phổ biến các loại thẻ tín dụng,
thẻ thanh toán… để rút tiền mặt tại các máy rút tự động( DAB, ATM ) hoặc có
thể sử dụng thẻ để thanh toán tiền hàng hoá dịch vụ. Các loại thẻ này sử dụng
trên cơ sở hệ thống thanh toán tự động bằng máy tính điện tử khi khách hàng
tiến hành rút tiền mặt, máy tính tự động hạch toán làm tăng giảm số dư tài khoản
tiền gửi mở tại ngân hàng.
Trong Thanh toán Quốc tế, các NHTM thường sử dụng các phương thức
sau:
Phương thức thanh toán là toàn bộ quá trình, cách thức nhận tiền trong

các giao dịch mua bán hàng hoá, cung ứng lao vụ… giữa người xuất khẩu và
nhập khẩu. Trong quan hệ thương mại quốc tế nói riêng và kinh tế đối ngoại nói
chung, người ta có thể lựa chọn giữa nhiều phương thức thanh toán khác nhau.
Mỗi phương thức đều có những ưu nhược điểm của nó, mà từ đó làm xuất hiện
mâu thuẫn về quyền lợi giữa người mua và người bán trong các vấn đề như :
Điều kiện đảm bảo việc thanh toán, thời gian thanh toán. Vì vậy trong qúa trình
bảo đảm việc thanh toán, thời gian thanh toán. Vì vậy trong quá trình ký kết hợp
đồng, việc lựa chọn phương thức thanh toán thích hợp cũng là một vấn đề được
hai bên bàn bạc kỹ lưỡng để đi tới thống nhất.
Trên thế giới hiện nay, phổ biến sử dụng các phương thức thanh toán sau:
- Phương thức chuyển tiền: Phương thức chuyển tiền là phương thức
thanh toán trong đó người chuyển tiền yêu cầu Ngân hàng phục vụ mình thông
qua Ngân hàng đại lý hoặc chi nhánh ở nước ngoài của trả một số tiền nhất định
cho người thụ hưởng.
- Phương thức nhờ thu: Là phương thức thanh toán mà qua đó tổ chức
xuất khẩu sau khi đã hoàn thành nghĩa vụ gửi hàng giao chứng từ hàng hoá sẽ uỷ
thác cho Ngân hàng phục vụ mình thu hộ số tiền trên cơ sở hối phiếu do mình

Website: Email : Tel : 0918.775.368
lập ra ở người nhập khẩu thông qua Ngân hàng phục vụ người nhập khẩu. Người
nhập khẩu sau khi nhận được giấy báo nhờ thu của Ngân hàng phải tiến hành
ngay việc chi trả tiền để nhận lại chứng từ hàng hoá và đi lấy hàng.
- Phương thức tín dụng chứng từ ( L/C ): Là một sự thoả thuận mà trong
đó một Ngân hàng ( Ngân hàng phát hành L/C) đáp ứng những yêu cầu của
khách hàng ( Người yêu cầu mở L/C) cam kết hoặc cho phép nhờ thu khác
( Ngân hàng ở nước xuất khẩu ) chi trả hoặc chấp nhận những yêu cầu của nhà
xuất khẩu ( Người hưởng lợi ) theo đúng những điều kiện và chứng từ thanh
toán phù hợp với nội dung thư tín dụng.
Sau đây sẽ đi vào phân tích sâu hơn phương thức Chuyển tiền và Nhờ thu.
II. PHƯƠNG THỨC THANH TOÁN NHỜ THU VÀ PHƯƠNG

THỨC CHUYỂN TIỀN TRONG THANH TOÁN QUỐC TẾ CỦA NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI
1. Phương thức Chuyển tiền
Chuyển tiền ( Remittance ) là phương thức mà trong đó một khách hàng (
Người nhập khẩu, người trả tiền, người mắc nợ…) uỷ nhiệm cho ngân hàng
phục vụ mình chuyển một số tiền nhất định trả cho một người khác ( Có thể là
người xuất khẩu, chủ nợ…)
Đây là phương thức đơn giản nhất, việc thanh toán dựa trên những giao
dịch trực tiếp giữa hai bên chuyển và nhận tiền, ngân hàng chỉ đóng vai trò trung
gian. Quá trình thanh toán được xem là hoàn tất khi ngân hàng đã chuyển tiền
tới tay người hưởng lợi. Trước thời điểm này số tiền vẫn thuộc sở hữu người
chuyển tiền.
Phương thức chuyển tiền diễn ra nhanh chóng, tuy nhiên việc trả tiền phụ
thuộc rất nhiều vào thiện chí của người mua, quyền lợi người bán không được
đảm bảo. Vì vậy trong quan hệ thương mại quốc tế, phương thức này chỉ áp
dụng đối với những nhà kinh doanh xuất nhập khẩu có quan hệ lâu dài, thân
thiết và tin cậy, những khoản tiền nhỏ: hoa hồng, chi phí lao vụ.
Các loại thanh toán Chuyển tiền: Gồm hai loại:
* Chuyển tiền bằng thư M/T ( Mail Transfer ) : Chuyển tiền bằng thư chi

Website: Email : Tel : 0918.775.368
phí thấp hơn chuyển tiền bằng điện nhưng tốc độ chậm hơn.
* Chuyển tiền bằng điện báo T/T ( Telegraphic Transfer ): Chuyển tiền
bằng điện tốc độ nhanh nhưng chi phí cao. Ngày nay khi tham gia mạng SWIFT
thì hầu hết các chuyển tiền được thực hiện trên mạng SWIFT.
Các bên liên quan trong phương thức chuyển tiền:
* Người chuyển tiền: Là người phát hành lệnh cho ngân hàng phục vụ
mình chuyển tiền thanh toán ra nước ngoài.
* Ngân hàng chuyển tiền: Là ngân hàng phục vụ và thực hiện lệnh của
người chuyển tiền.

* Ngân hàng nhận tiền: Có nhiệm vụ nhận số tiền được chuyển và trả số
tiền đó cho người hưởng lợi , ngân hàng nhận tiền có thể là ngân hàng đại lý của
ngân hàng chuyển tiền, hoặc là ngân hàng phục vụ cho người hưởng lợi.
* Người nhận tiền, người hưởng lợi.
Quá trình thực hiện thông qua 4 bước theo sơ đồ khái quát sau đây:
Sơ đồ 1.2: Sơ đồ quy trình nghiệp vụ Chuyển tiền:



Chú thích:
Giao dịch thương mại: Sau khi ký kết hợp đồng ngoại thương , nhà xuất
khẩu tiến hành cung ứng hàng hoá , dịch vụ cho bên dịch vụ.
Bên nhập khẩu sau khi kiểm tra hàng hoá, chứng từ , viết lệnh yêu cầu
ngân hàng phục vụ chuyển tiền cho người hưởng lợi theo nội dung đã thoả
thuận.
Ngân hàng chuyển tiền viết thư hoặc điện báo yêu cầu ngân hàng đại lý
chuyển tiền cho người hưởng lợi . Nếu ngân hàng chuyển tiền và ngân hàng

Người chuyển
tiền
Người hưởng
lợi
Ngân hàng
chuyển tiền
Ngân hàng đại

(4)
(2)
(1)
(3)

Website: Email : Tel : 0918.775.368
nhận tiền là khác nhau thì phải có quan hệ tài khoản thanh toán bù trừ với nhau
Thanh toán cho người hưởng lợi.
Hoạt động này có những ưu nhược điểm sau:
Ưu điểm của phương thức Chuyển tiền:
Phương thức này có nhiều ưu điểm như đơn giản, nhanh chóng. Việc
chuyển tiền không phải thông qua các thủ tục rườm rà, chứng từ phức tạp.
Ngân hàng khi thực hiện phương thức này không bị ràng buộc bất kỳ
trách nhiệm nào đối với cả bên mua và bên bán nên rất ít khi bị rủi ro.
Nhược điểm:
Bên cạnh những ưu điểm trên , phương thức này lại có những nhược điểm
sau:
- Độ an toàn trong thanh toán mậu dịch không cao, tuỳ từng trường hợp
mà việc thanh toán ảnh hưởng xấu tới hiệu quả kinh doanh của cả bên mua lẫn
bên bán:
- Nếu người mua chuyển tiền trước khi nhận hàng thì không những bị ứ
đọng vỗn mà còn đứng trước những rủi ro về hàng hoá.
-Trường hợp chuyển tiền sau khi nhận hàng: Người mua có lợi và người
bán chịu thiệt thòi. Việc chuyển tiền phụ thuộc thiện chí người mua, còn người
bán ở tình thế bị động vì không có gì đảm bảo là sẽ nhận được tiền thanh toán
Hiện nay, phương thức này thường được áp dụng trong các trường hợp:
Phương thức chuyển tiền ngày nay rất ít được sử dụng trong thanh toán
xuất nhập khẩu do những nhược điểm cố hữu của nó. Mà phương thức này
thường được sử dụng trong quan hệ trả nợ, tiền đặt cọc. Nếu được sử dụng để
thanh toán xuất nhập khẩu thì hai bên mua và bán có quan hệ tín nhiệm nhau rất
cao.
2. Phương thức thanh toán Nhờ thu ( Collection of payment )
Nhờ thu là phương thức thanh toán trong đó người bán sau khi hoàn thành
nghĩa vụ giao hàng hoặc cung ứng một dịch vụ cho khách hàng uỷ thác cho ngân
hàng phục vụ mình thu hộ số tiền ở người mua trên cơ sở hối phiếu do mình lập

ra.

Website: Email : Tel : 0918.775.368
Nghiệp vụ này được thực hiện theo quy trình như sau:
Sơ đồ 1.3: Sơ đồ quy trình nghiệp vụ Nhờ thu.
Chú thích:
Bước 1: Bên bán tiến hành chuyển hàng, tập hợp chứng từ, ký phát hối
phiếu nhờ ngân hàng phục vụ mình thu hộ.
Bước 2: Ngân hàng phục vụ bên bán gửi nhờ thu tới ngân hàng bên mua.
Bước 3: Ngân hàng bên mua thông báo cho người mua về chứng từ hàng
hoá và điều kiện của nó. Người mua có trách nhiệm trả tiền hoặc chấp nhận hối
phiếu để nhận chứng từ đi tiếp nhận hàng hoá.
Bước 4: Ngân hàng bên mua chuyển tiền đã thu được cho ngân hàng bên
bán để tiến hành trả tiền cho người bán.
Các loại Nhờ thu:
Căn cứ vào nội dung bộ chứng từ thanh toán và điều kiện nhận hàng mà
người xuất khẩu gửi đến ngân hàng, có thể chia phương thức Nhờ thu thành hai
loại:
- Nhờ thu trơn ( Clean Collection ) : Nhờ thu phiếu trơn là phương thức
thanh toán trong đó người bán uỷ thác cho ngân hàng thu hộ tiền ở người mua
căn cứ vào hối phiếu do mình lập ra, còn chứng từ hàng hoá thì gửi thẳng cho
người mua không qua ngân hàng.
Như vậy, với loại nhờ thu này, việc nhận hàng của người mua hoàn toàn
tách rời khâu thanh toán. Ngân hàng lúc này chỉ có trách nhiệm thu hộ tiền hàng
cho người bán mà khong phải khống chế bộ chứng từ cũng như kiểm tra nó.
Nhờ thu trơn có ưu điểm là:

Ngân hàng bên
bán
Ngân hàng bên

mua
Người bán

Người mua
Giao hàng
(1)
(2)
(4)
(4)
(4)
(3)
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Phương thức này rất đơn giản đối với người xuất khẩu tuy nhiên lại có
thể bị người nhập khẩu chiếm dụng vốn, kéo dài thời gian trả tiền, thậm chí còn
có thể bị người nhập khẩu không trả tiền.
Còn đối với người nhập khẩu thì có thể kéo dài thời gian trả tiền, chiếm
dụng vốn của người xuất khẩu. Khi gặp những bất lợi trong vụ mua bán, người
nhập khẩu thậm chí có thể từ bỏ hợp đồng. Tuy nhiên nếu hối phiếu của người
xuất khẩu đến trước bộ chứng từ thì phải thanh toán ngay nên có thể gặp trường
hợp người xuất khẩu thu tiền mà không chuyển hàng hoặc có chuyển như ng
hàng không đủ qui cách phẩm chất.
- Phương thức nhờ thu kèm chứng từ ( Documentary Collection ) :
Nhờ thu kèm chứng từ là phương thức nhờ thu trong đó người bán uỷ thác
cho ngân hàng thu hộ tiền ở người mua không những căn cứ vào hối phiếu mà
còn căn cứ vào bộ chứng từ hàng hoá gửi kèm theo với điều kiện là nếu người
mua trả tiền hoặc chấp nhận trả tiền hối phiếu thì ngân hàng mới trao bộ chứng
từ cho người mua để nhận hàng.
Như vậy khác với nhờ thu phiếu trơn, trong nhờ thu kèm chứng từ, người
bán uỷ thác cho ngân hàng ngoài việc thu hộ tiền còn có việc nhờ ngân hàng
khống chế chứng từ hàng hoá đối với người mua. Với cách khống chế này,

quyền lợi của người bán có thể được đảm bảo hơn. Khác biệt nổi bật của
phương thức này đối với nhờ thu hối phiếu trơn là ở chỗ: Đã có sự gắn liền ( kết
hợp) giữa việc thanh toán và chứng từ hàng hoá. Trong khi bên mua chưa đồng ý
chấp nhận trả tiền, ngân hàng sẽ không giao bộ chứng từ hàng hoá. Như vậy,
ngoài việc thu hộ tiền hàng ngân hàng còn thay mặt người bán khống chế hàng
hoá, dịch vụ cung ứng.
+Tuỳ theo cách thức trả tiền của người nhập khẩu mà uỷ thác thu kèm
chứng từ có thể chấp nhận trả tiền theo chứng từ (Documents against
Acceptance- Viết tắt là D/A ) hoặc là trả tiền trao chứng từ ( Documents against
Payment – Viết tắt là D/P ).
Nếu là D/A thì người nhập khẩu phải ký tên chấp nhận trả tiền trên hối
phiếu do người xuất khẩu ký phát thì mới được ngân hàng trao bộ chứng từ hàng

Website: Email : Tel : 0918.775.368
hoá để đi nhận hàng.
Nếu là D/P thì nhà nhập khẩu phải trả ngay số tiền theo tờ hối phiếu trả
tiền ngay do người xuất khẩu lập thì mới được quyền lấy bộ chứng từ hàng hoá
từ ngân hàng. Lúc này hàng hoá đã thuộc quyền sở hữu của nhà nhập khẩu.
Nhờ thu kèm chứng từ có các ưu nhược điểm sau:
* Với phương thức này, người xuất khẩu có thể khống chế được quyền
định đoạt của người nhập khẩu thông qua ngân hàng cuả mình. Nhờ đó quyền
lợi của người bán được đảm bảo hơn.. Tuy nhiên khi dùng phương thức nay,
người bán phải thông qua ngân hàng mới khống chế được quyền định đoạt hàng
hoá của người mua chứ chưa khống chế được việc trả tiền của họ. Thêm vào đó,
việc trả tiền còn quá chậm, từ lúc giao hàng đến lúc giao hàng đến lúc nhận tiền
có khi kéo dài vài tháng hoặc nửa năm.
* Đối với người nhập khẩu với hình thức này có thể kéo dài việc trả tiền
bằng cách chưa nhận chứng từ hoặc không trả tiền khi có bất lợi. Tuy nhiên
người nhập khẩu lại không có quyền định đoạt hàng hoá khi chưa thanh toán
hoặc chấp nhận thanh toán.

Phương thức Nhờ thu hiện nay thường được áp dụng trong các trường
hợp:
Hình thức Nhờ thu được áp dụng phổ biến trong thanh toán xuất nhập
khẩu hàng hoá hoặc thanh toán về các dịch vụ liên quan tới xuất nhập khẩu như
cước phí vận tải, bảo hiểm tiền bồi thường…
Cũng có thể áp dụng hình thức này khi hàng được thanh toán theo phương
thức tín dụng chứng từ nhưng chứng từ không phù hợp với điều khoản thư tín
dụng nên có thể chuyển sang phương thưc Nhờ thu
Nói chung hình thức thanh toán Nhờ thu chỉ nên áp dụng trong trường
hợp người mua và người bán có quan hệ quen thuộc hoặc giữa công ty mẹ và
công ty con, giữa chi nhánh với chi nhánh.
Như vậy, hình thức Nhờ thu và Chuyển tiền trong Thanh toán Quốc tế của
Ngân hàng Thương mại mặc dù có một số nhược điểm nhưng nó vẫn đóng một

Website: Email : Tel : 0918.775.368
vai trò quan trọng để có thể được áp dụng trong một số trường hợp nhất định. Vì
thế các Ngân hàng thương mại cần quan tâm hơn nữa đến các phương thức này
để có thể có những sự lựa chọn tối ưu trong các giao dịch cụ thể. Thực tế của
các phương thức thanh toán này sẽ được khảo sát ở Chương 2 sau đây.

Website: Email : Tel : 0918.775.368
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG THANH TOÁN QUỐC TẾ BẰNG
PHƯƠNG THỨC NHỜ THU VÀ PHƯƠNG THỨC CHUYỂN TIỀN CỦA
SỞ GIAO DỊCH – NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM
I. VÀI NÉT VỀ SỞ GIAO DỊCH I- NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ
PHÁT TRIỂN VIỆT NAM ( SGD I- NHĐT&PTVN)
1. Sơ lược về quá trình hình thành và phát triển của SGD1-
NHĐT&PTVN
Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam ( NHĐT&PTVN ) là một trong

bốn ngân hàng quốc doanh lớn nhất Việt Nam với 100 chi nhánh tại các tỉnh
thành phố, gần 5000 cán bộ, quan hệ đại lý với hơn 500 ngân hàng trong và
ngoài nước, cùng với 45 năm hình thành và phát triển, Ngân hàng Đầu tư và
phát triển Việt Nam đã góp phần không nhỏ vào sự phát triển kinh tế nói chung
và sự lớn mạnh của hệ thống ngân hàng VN nói riêng.
Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam với tư cách là một NHTM của
Nhà nước được thành lập để thực hiện chức năng nhiệm vụ Nhà nước giao. Vì
vậy cùng với sự phát triển của nền kinh tế, Ngân hàng đã có những bước thay
đổi có tính chất lịch sử nhằm đáp ứng được những nhiệm vụ mới đề ra. Ngày
26/4/1957, theo quyết định số 177- TTg của Thủ tướng Chính phủ, Ngân hàng
Kiến thiết Việt Nam trực thuộc Bộ Tài Chính được thành lập với nhiệm vụ chính
là cấp phát vốn xây dựng đầu tư cơ bản theo kế hoạch Nhà nước.
Năm 1981, với mục đích nâng cao hiệu quả kinh tế trong quản lý vốn xây
dựng đầu tư cơ bản, Chính phủ ra quyết định 259- CP chuyển Ngân hàng Kiến
thiết trực thuộc Bộ Tài Chính sang trực thuộc Ngân hàng Nhà nước, Ngân hàng
Đầu tư và Xây dựng Việt Nam được thành lập. Nhiệm vụ của Ngân hàng là cho
vay vốn đầu tư cho các công trình XDCB không do NSNN cấp và cho vay vốn
lưu động đối với các tổ chức kinh doanh trong lĩnh vực XDCB, bên cạnh hoạt
động cho vay từ nguồn vốn do Ngân sách cấp.
Năm 1990 cùng với quá trình đổi mới của nền kinh tế đất nước, Ngân

Website: Email : Tel : 0918.775.368
hàng đổi mới theo mô hình đa năn và chính thức lấy tên là Ngân hàng Đầu tư và
phát triển Việt Nam ( NHĐT&PTVN ) với chức năng nhiệm vụ sau:
- Huy động vốn trung dài hạn để cho vay dự án đầu tư phát triển.
- Nhận vốn ngân sách cấp để cho vay các dự án thuộc chỉ tiêu kế hoạch
Nhà nước.
- Kinh doanh lĩnh vực tiền tệ tín dụng, dịch vụ ngân hàng chủ yếu trong
lĩnh vực xây lắp phục vụ đầu tư phát triển.
Từ năm 1995 hoạt động cấp phát vốn đầu tư xây dựng được giao hoàn

toàn cho Tổng Cục đầu tư và phát triển của NHTM bên cạnh nghiệp vụ cho vay
đầu tư XDCB theo kế hoạch Nhà Nước.
Ngày 28/3/1996 theo quyết định 186- TTg cho phép Ngân hàng hoạt
động như một doanh nghiệp Nhà nước kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ.
Quyết định này chính thức đưa NHĐT&PT chính thức trở thành một bộ phận
trong hệ thống NHTM, tạo điều kiện cho Ngân hàng đa dạng hoá sản phẩm, dịch
vụ cũng như các hình thức huy động vốn để đa dạng hoá sản phẩm, dịch vụ cũng
như các hình thức huy động vốn để tăng khả năng cạnh tranh, củng cố vị thế của
mình trên thị trường góp phần tăng trưởng kinh tế và ổn định kinh tế vĩ mô.
Đến nay, sau 45 năm xây dựng và trưởng thành gắn liền với các giai đoạn
lịch sử của đất nước, NHĐT&PTVN trở thành Ngân hàng có uy tín lớn trong
nước và quốc tế, ngày càng khẳng định vị thế một trong bố NHTM chủ chốt của
nền kinh tế, góp phần thúc đẩy sự phát triển chung của nền kinh tế cũng như sự
phát triển và thành đạt của các doanh nghiệp VN nói riêng.
SGD I là đại diện pháp nhân của NHĐT&PTVN , hạch toán nội bộ trong
hệ thống Ngân hàng Đầu tư và Phát triển, trụ sở đặt tại tầng 1 và tầng 2 toà nhà
số 53 phố Quang Trung, Hà Nội.
Sở giao dịch I được thành lập theo thông báo 572 TCBB/ĐT ngày
26/12/1990 của vụ tổ chức cán bộ Ngân hàng Nhà nước về tổ chức bộ máy Ngân
hàng ĐT & PT và theo quyết định349 QĐ/NH5 ngày 16/10/1997 của thống đốc
Ngân hàng Nhà nước về điều lệ phê chuẩn tổ chức hoạt động của
NHĐT&PTVN.

Website: Email : Tel : 0918.775.368
Các chức năng chủ yếu của Sở giao dịch I:
SGD I được huy động vốn trung và dài hạn , ngắn hạn bằng VNĐ và
ngoại tệ từ nguồn trong và ngoài nước dưới các hình thức chủ yếu sau:
Nhận tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi không kỳ hạn, có kỳ hạn, tiền gửi thanh
toán của tất cả các tổ chức, dân cư.
- Phát hành các chứng chỉ tiền gửi, tín phiếu, kỳ phiếu, trái phiếu dưới

tên Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam và các loại giấy tờ có giá khác.
Vay vốn của các Tổ chức tín dụng trên các thị trường.
Các nghiệp vụ tín dụng và các nghiệp vụ ngân hàng chủ yếu Sở giao dịch
I thực hiện là:
Cho vay ngắn trung dài hạn theo cơ chế tín dụng hiện hành.
Chiết khấu các hình thức có giá.
Các nghiệp vụ bảo lãnh.
- Trực tiếp thực hiện hoặc làm đại lý cho thuê tài chính theo sự uỷ
nhiệm của Tổng giám đốc hoặc Công ty cho thuê Tài chính Ngân hàng Đầu tư
và Phát triển Việt Nam.
Mua bán, chuyển đổi ngoại tệ và các dịch vụ ngoại hối.
Dịch vụ thanh toán trong và ngoài nước.
Tham gia đấu thầu mua trái phiếu, tín phiếu chính phủ, trái phiếu Ngân
hàng Nhà nước tổ chức khi được Giám đốc cho phép.
Dịch vụ tư vấn cho khách hàng.
SGD I là nơi thử nghiệm đầu tiên cho những cơ chế chính sách, dịch vụ
mới của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt nam. Từ khi thành lập SGD không
ngừng phát triển góp phần không nhỏ vào sự thành công cũng như mở rộng uy
tín về hệ thống ngân hàng.
2. Tình hình hoạt động của SGD I trong năm
Năm 2002 là một năm có nhiều biến động đối với nền kinh tế toàn cầu nói
chung và nền kinh tế đất nước nói riêng.Trước tình hình đó, NHĐT&PTVN đã
có định hướng hoạt động phát triển cho toàn ngành như tích cực cơ cấu lại tài
sản Nợ – Có theo hướng bền vững, xử lý nợ quá hạn tồn đọng, chú trọng phát

Website: Email : Tel : 0918.775.368
triển dịch vụ Ngân hàng và huy động vốn…
Với tinh thần nỗ lực phấn đấu theo định hướng của ngành , năm 2002,
SGD đã đạt được những kết quả chính sau:
Công tác nguồn vốn- huy động vốn:

Tính đến ngày 31/12/2002, tổng tài sản đạt 9.512.447 triệu VNĐ, tăng so
với 31/12/2001 là 1.684.118 triệu VNĐ( tăng 21.5%), thị phần huy động vốn
vẫn giữ vững được ở mức 7% trong điều kiện cạnh tranh ngày càng gay gắt giữa
các Ngân hàng trên địa bàn, với 3 văn phòng giao dịch và 8 quỹ tiết kiệm. Kết
quả huy động vốn như sau:
+Tổng nguồn vốn huy động từ các loại tiền gửi đạt 7.626.796 triệu đồng,
tăng 975.940 triệu so với năm 2001( tăng 14,6%)
Công tác tín dụng:
+Tổng dư nợ tín dụng đạt 5.660.368 triệu đồng, tăng 436.542 triệu đồng
so với cuối năm 2001.
+ Tín dụng trung hạn trung, dài hạn Thương mại đạt 2.265.679 triệu đồng,
tăng 452.570 triệu đồng so với năm 2001.
+ Tín dụng ngắn hạn 830.339 triệu đồng, giảm 480.090 triệu đồng so với
cuối năm 2001.
+ Cho vay uỷ thác, ODA trong năm 2002 đạt 432.392 triệu đồng, tăng
44.437 triệu đồng so với 2001 ( tức là tăng 11,5%)
Công tác khách hàng:
Tìm kiếm khách hàng mới, đặc biệt là các khách hàng tiền gửi. Duy trì và
củng cố quan hệ, cập nhật thông tin khách hàng, nắm bắt được yêu cầu của
khách hàng. Tuyên truyền đưa tin về hoạt động của SGD trên các phương tiện
thông tin đại chúng. Nghiên cứu thực hiện phân loại doanh nghiệp khách hàng
để đưa ra các chính sách hợp lý.
Hoạt động dịch vụ:
Thu ròng từ hoạt động dịch vụ trong các năm tăng lên nhanh chóng. Năm
2000, doanh thu từ hoạt động này là 13.511 triệu đồng. Đến năm 2001đã tăng
lên đến 18.755 triệu đồng. Các dịch vụ như: bảo lãnh, thanh toán trong nước, chi

Website: Email : Tel : 0918.775.368
trả kiều hối , kinh doanh ngoại tệ đã có tăng trưởng và phát triển mạnh.
Công tác quản trị điều hành:

+ Tuân thủ đúng, đầy đủ các quy định của pháp luật cũng như các quy
định của ngành, của hệ thống.
+ Chấp hành đầy đủ chế độ thông tin báo cáo kịp thời, chính xác.
+ Thực hiện đúng chế độ phân cấp uỷ quyền.
+ Hàng tháng có sơ kết, đề ra mục tiêu giải pháp cho tháng, quý sau, phát
động phong trào thi đua, khen thưởng…..
Công tác đào tạo, phát triển nguồn nhân lực:
+ Tạo điều kiện cho cán bộ học hỏi, nâng cao trình độ. Hiện nay Sở đã
có nhiều thạc sĩ cũng như các cán bộ theo học cao học và nghiên cứu
sinh….
+ Cử cán bộ đi học tập các khoá nghiệp vụ để phục vụ yêu cầu công tác
như: Các chuẩn mực kế toán Quốc tế, văn thư lưu trữ…
+ Các cán bộ được thi tuyển một cách nghiêm túc chặt chẽ và đã tuyển
chọn được ngày càng nhiều cán bộ nam, nâng ngày càng lớn tỷ lệ nam nữ.
3.Khái quát về tình hình hoạt động Thanh toán Quốc Tế của SGD I-
NHĐT&PTVN
Cùng xu thế phát triển mạnh hoạt động xuất nhập khẩu của các doanh
nghiệp, đầu năm 1999 phòng Thanh toán Quốc tế trước đây trực thuộc Trung
Ương đã tách ra thành trực thuộc SGD I. Bước đầu phòng đã gặp rất nhiều khó
khăn do trình độ và kinh nghiệm còn hạn chế, máy móc thiết bị lạc hậu, thêm
vào đó, bản thân các doanh nghiệp hoạt động xuất nhập khẩu cũng chưa có
những cán bộ am hiểu về Thanh toán Quốc tế cũng như ưu nhược điểm của từng
phương thức thanh toán nay. Tuy nhiên, trong quá trình hoạt động, được sự chỉ
đạo sát sao của ban lãnh đạo Ngân hàng cộng với ý thức phấn đấu , học hỏi của
các cán bộ trong phòng, nghiệp vụ Thanh toán Quốc tế không ngừng được mở
rộng.
Với sự nỗ lực đó , một mặt không ngừng nâng cao chất lượng phục vụ
khách hàng như tư vấn miễn phí cho khách hàng khi mở L/C, giảm thiểu các thủ

Website: Email : Tel : 0918.775.368

tục không cần thiết gây phiền hà cho khách hàng khi thực hiện các dịch vụ
Thanh toán Quốc tế, mặt khác Ngân hàng còn không ngừng nâng cao trình độ
cho cán bộ thông qua các lớp bồi dưỡng ngắn, dài hạn về ngoại ngữ, nghiệp vụ
Thanh toán Quốc tế, tăng số lượng cán bộ của phòng lên 10 người để xử lý công
việc được nhanh hơn, không ngừng đầu tư phát triển hệ thống Thanh toán Điện
tử, củng cố và mở rộng các quan hệ đại lý với các Ngân hàng nước ngoại trong
khu vực và trên Thế giới.
Nội dung thực hiện chính của phòng là thực hiện các hoạt động thanh toán
Quốc tế và thực hiện Bảo lãnh nước ngoài. Trong đó hoạt động thanh toán theo
phương thức Tín dụng chứng từ vẫn chiếm ưu thế do những ưu điểm của
phương thức này như an toàn hơn cho cả người mua và người bán do có sự đảm
bảo của ngân hàng…. nên được một số lượng khách hàng đông đảo yêu cầu. Sau
đây là một số số liệu về doanh số của hoạt động Thanh toán Quốc tế và doanh số
của thanh toán theo phương thức Tín dụng chứng từ mà phòng đã đạt được:
Bảng 2.1: Doanh số Thanh toán xuất nhập khẩu của SGDI:
Nội dung
Số phát sinh tăng
Năm2000 Năm 2001 Năm 2002
Sốmó
n
Doanh
số
( 1000
USD)
Số
món
Doanh
số
( 1000
USD)

Số món
Doanh
số
(1000U
SD)
I. L/Cnhập
khẩu
570 150,000 850 165,000 1,200 290,000
II. L/C xuất
khẩu
385 16,000 550 35,000 800 75,000
Doanh số
TTQT
470,000 555,000 680,000
Doanh số
XNK
260,000 360,000 400,000
Nguồn: Báo cáo thường niên năm 2000,2001,2002 của SGDI – NHĐT&PTVN
Như vậy, trong năm 2000, doanh số Thanh toán Quốc tế Sở đã đạt được là
470,000,000 USD và đến năm 2001 đạt được 555,000,000 USD, tăng 18%. Còn

×