Tải bản đầy đủ (.doc) (42 trang)

Mối quan hệ giữa đầu tư công và nợ công. Liên hệ với thực tiễn ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (341.93 KB, 42 trang )

Mối quan hệ giữa đầu tư công và nợ công. Liên hệ với thực tiễn ở Việt Nam
MỤC LỤC
Nhóm 10 - Lớp Kinh tế Đầu tư 51E
Mối quan hệ giữa đầu tư công và nợ công. Liên hệ với thực tiễn ở Việt Nam
LỜI MỞ ĐẦU
Trong thời gian gần đây, vấn đề đầu tư công và nợ công đang là tâm điểm
chú ý của hầu hết các quốc gia trên thế giới. Nợ công vượt quá cao so với mức
an toàn ở những nền kinh tế phát triển, đang trở thành chủ đề nóng hiện nay bởi
đó là yếu tố có nguy cơ đe dọa những dấu hiệu phục hồi của nền kinh tế toàn
cầu, làm người ta lo ngại tới viễn cảnh nền kinh tế một lần nữa lại rơi vào tình
trạng suy giảm.
Ở Viêt Nam, vấn đề đầu tư công và nợ công hiện đang làm nóng các kỳ họp
của Quốc hội cũng như làm sôi động dư luận xã hội bởi nó không chỉ liên quan
đến lòng tin của của người dân đối với Nhà nước về việc sử dụng hiệu quả nguồn
vốn đầu tư công mà còn có tác động đến cuộc chiến chống tham nhũng, lãng phí,
đồng thời ảnh hưởng tới cuộc sống của thế hệ tương lai. Vì vậy, vấn đề nợ công
cần được xem xét đầy đủ trong mối quan hệ mật thiết với đầu tư công. Nợ công sẽ
không quá nặng nề khi đầu tư công được cắt giảm hợp lý và có hiệu quả.
Xuất phát từ tính thời sự của vấn đề, nhóm em xin nghiên cứu đề tài “Mối
quan hệ giữa đầu tư công và nợ công. Liên hệ với thực tiễn ở Việt Nam”. Đề
tài trước hết nghiên cứu một số lý thuyết liên quan đến mối quan hệ giữa đầu tư
công và nợ công, sau đó đưa lý thuyết ứng dụng vào nền kinh tế Việt Nam giai
đoạn 2001 – 2011 nhằm phân tích, đánh giá, nhìn nhận từ đó định hướng chính
sách và rút ra một số bài học kinh nghiệm để làm tăng hiệu quả đầu tư công và
giảm gánh nặng nợ công của Việt Nam trong thời gian tới.
Đề tài bao gồm có 3 chương:
• Chương I: Mối quan hệ giữa đầu tư công và nợ công: Những lý luận
chung
• Chương II: Mối quan hệ giữa đầu tư công và nợ công ở Việt Nam
• Chương III: Một số bài học kinh nghiệm và định hướng chính sách về mối
quan hệ giữa đầu tư công và nợ công ở Việt Nam


Nhóm 10 - Lớp Kinh tế Đầu tư 51E
1
Mối quan hệ giữa đầu tư công và nợ công. Liên hệ với thực tiễn ở Việt Nam
LỜI CẢM ƠN
Đầu tư công, nợ công cũng như mối quan hệ giữa đầu tư công và nợ công
luôn là vấn đề được quan tâm hàng đầu của hầu hết các quốc gia trên thế giới.
Việc nghiên cứu, tìm hiểu mối quan hệ giữa đầu tư công và nợ công có ý nghĩa
quan trọng trong việc kiềm chế lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh
tế của mỗi quốc gia. Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tập thể nhóm em xin
chân thành cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của thầy PGS.TS.Phạm Văn Hùng đã
giúp đỡ nhóm em hoàn thành để tài. Đề tài nghiên cứu có thể còn nhiều thiếu
sót, nhóm em rất mong muốn nhận được sự góp ý và bổ sung của thầy và các
bạn để đề tài được hoàn thiện hơn.
Nhóm 10 - Lớp Kinh tế Đầu tư 51E
2
Mối quan hệ giữa đầu tư công và nợ công. Liên hệ với thực tiễn ở Việt Nam
CHƯƠNG 1:
MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẦU TƯ CÔNG VÀ NỢ CÔNG: NHỮNG
LÝ LUẬN CHUNG
I. Đầu tư công
1. Khái niệm
- Theo lý thuyết kinh tế học thì đầu tư công là việc đầu tư để tạo năng lực
sản xuất và cung ứng hàng hóa công cộng và chi tiêu chính phủ là các khoản chi
của chính phủ để cung ứng hàng hóa công cộng như xây dựng đường xá, trường
học, dịch vụ phòng và chữa bệnh, đảm bảo an ninh, quốc phòng, v.v.
- Khái niệm “đầu tư công” còn được hiểu là việc sử dụng nguồn vốn Nhà
nước để đầu tư vào các chương trình, dự án phục vụ phát triển kinh tế - xã hội
không nhằm mục đích kinh doanh. Cách hiểu này hiện chưa phổ biến, nhưng
đang được Dự thảo Luật đầu tư công của Việt Nam đề nghị áp dụng.
- Hiện tại đầu tư công vẫn được quan niệm một cách đơn giản hơn. Đó là đầu

tư công là tất cả các khoản đầu tư do chính phủ và các doanh nghiệp thuộc khu
vực kinh tế nhà nước tiến hành. Cụ thể, đầu tư công là đầu tư bằng nguồn vốn nhà
nước theo quy định của pháp luật hiện hành, bao gồm: Vốn ngân sách nhà nước,
vốn tín dụng do Nhà nước bảo lãnh, vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước,
vốn đầu tư phát triển của các doanh nghiệp nhà nước và các vốn khác do Nhà
nước quản lý.
2. Phân loại
2.1. Theo nguồn vốn đầu tư
- Đầu tư từ ngân sách (phân cho các Bộ ngành Trung ương và phân cho các
địa phương).
- Đầu tư theo các chương trình hỗ trợ có mục tiêu (thường là các chương
trình mục tiêu trung và dài hạn) cũng được thông qua trong kế hoạch ngân sách
hàng năm, nhưng về chủ trương lại thường được quyết định cho thời kỳ dài hơn
1 năm, ví dụ 3-5 năm.
- Tín dụng đầu tư (vốn cho vay) của Nhà nước có mức độ ưu đãi nhất định.
Nhóm 10 - Lớp Kinh tế Đầu tư 51E
3
Mối quan hệ giữa đầu tư công và nợ công. Liên hệ với thực tiễn ở Việt Nam
- Đầu tư của các doanh nghiệp Nhà nước, mà phần vốn quan trọng của
doanh nghiệp có nguồn gốc từ ngân sách Nhà nước.
2.2. Theo hình thức đầu tư
- Đầu tư trực tiếp của Chính phủ nhằm xây dựng cơ sở hạ tầng như đường
sá, cầu cống, hệ thống thủy lợi, đê điều, điện nước, trường học, bệnh viện
- Đầu tư gián tiếp của Chính phủ qua việc cấp vốn, vay nợ thay cho những
công ty, tập đoàn quốc doanh.
3. Đặc điểm
3.1. Nguồn vốn tài trợ đầu tư công
- Ngân sách hàng năm của Nhà nước từ thu thuế để lại để đầu tư
- Phần Chính phủ đi vay để đầu tư. Ở Việt Nam, hiện tại Quốc hội đã đưa ra
hạn mức nguồn vốn Chính phủ được đi vay từ việc phát hành trái phiếu là

45.000 tỷ đồng/ năm
- Nguồn các chính quyền địa phương được vay.Ví dụ, ở Việt Nam, thành
phố Hà Nội được vay tỷ lệ 1:1, các địa phương tỉnh nhỏ khác được vay 30% so
với mức đầu tư của ngân sách hằng năm
- Chính phủ bảo lãnh cho các tổ chức kinh tế vay. Tất cả các nguồn vay đã
được định sẵn và bố trí rõ ràng, đặc biệt là nguồn phát hành trái phiếu Chính
phủ. Ngoài ra, các hình thức hợp tác công tư PPP hoặc BOT trong hạ tầng cũng
sẽ bổ sung một nguồn vốn để đầu tư đáng kể.
3.2. Đầu tư công kém hiệu quả gây ra lạm phát
Hiệu quả đầu tư công thể hiện qua hệ số ICOR (ICOR là hệ số tiêu chuẩn
phản ánh hiệu quả của vốn đầu tư bằng cách đo lường để biết muốn tạo thêm
được một đồng sản phẩm thì cần đưa thêm vào sử dụng bao nhiêu đồng vốn).
ICOR càng cao đồng nghĩa với hiệu quả đầu tư công càng thấp. Khi đó sẽ làm
mất cân đối giá trị giữa tiền và hàng, từ đó dẫn đến lạm phát.
Đầu tư công kém hiệu quả làm nhu cầu về nguyên nhiên vật liệu,,thiết bị,
công nghệ tăng, cung nguyên liệu cho ngành xây dựng trong nước không đáp
ứng đủ nhu cầu làm giá tăng cao. Chính sự kém hiệu quả đó mà đầu tư công trở
thành một trong những tác nhân chính gây ra lạm phát.
4. Vai trò của đầu tư công đối với nền kinh tế - xã hội
Vai trò của đầu tư công vốn rất quan trọng do đóng góp lớn vào tăng
trưởng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo công ăn việc làm; định vị và củng cố nền
kinh tế của đất nước trong mối quan hệ của khu vực và quốc tế. Trong bối cảnh
khủng hoảng kinh tế toàn cầu thì đầu tư công càng nổi bật vai trò duy trì động
Nhóm 10 - Lớp Kinh tế Đầu tư 51E
4
Mối quan hệ giữa đầu tư công và nợ công. Liên hệ với thực tiễn ở Việt Nam
lực tăng trưởng kinh tế và góp phần bảo đảm việc làm và an sinh xã hội thông
qua các gói kích cầu của Chính phủ. Vai trò của đầu tư công được thể hiện trên
các khía cạnh quan trọng sau:
- Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế dựa trên việc đầu tư cho các công trình hạ

tầng, tạo ra cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội then chốt cho sự phát triển của đất
nước. Đây cũng đồng thời tạo những điều kiện thiết yếu cho các thành phần kinh
tế ngoài nhà nước đầu tư và phát triển.
Ngoài ra, đầu tư công tạo điều kiện, định hướng và “mồi” vốn đầu tư xã hội
vào những lĩnh vực cần khuyến khích phát triển, góp phần tái cơ cấu đầu tư xã
hội, giúp Trung ương có thể điều tiết được một cách hợp lý các nguồn đầu tư,
tránh tình trạng cục bộ, địa phương, nơi thừa nơi thiếu.
- Góp phần làm giảm khoảng cách giàu nghèo, giảm bất bình đằng, bất
công trong xã hội bằng các chương trình, dự án kinh tế hỗ trợ các vùng khó
khăn, vùng sâu vùng xa, các dân tộc thiểu số, nâng cao và ổn định đời sống
người dân.
- Đảm bảo ổn định và không ngừng tăng cường quốc phòng, an ninh.
II. Nợ công
1. Khái niệm
Khái niệm nợ công là một khái niệm tương đối phức tạp. Tuy nhiên, hầu
hết những cách tiếp cận hiện nay đều cho rằng, nợ công là khoản nợ mà Chính
phủ của một quốc gia phải chịu trách nhiệm trong việc chi trả khoản nợ đó.
Chính vì vậy, thuật ngữ nợ công thường được sử dụng cùng nghĩa với các thuật
ngữ như nợ Nhà nước hay nợ Chính phủ. Tuy nhiên, nợ công hoàn toàn khác
với nợ quốc gia. Nợ quốc gia là toàn bộ khoản nợ phải trả của một quốc gia, bao
gồm hai bộ phận là nợ của Nhà nước và nợ của tư nhân (doanh nghiệp, tổ chức,
cá nhân). Như vậy, nợ công chỉ là một bộ phận của nợ quốc gia mà thôi.
Theo cách tiếp cận của Ngân hàng Thế giới, nợ công được hiểu là nghĩa vụ
nợ của bốn nhóm chủ thể bao gồm: nợ của Chính phủ trung ương và các Bộ,
ban, ngành trung ương; nợ của các cấp chính quyền địa phương; nợ của Ngân
hàng Trung ương; và nợ của các tổ chức độc lập mà Chính phủ sở hữu trên 50%
vốn, hoặc việc quyết lập ngân sách phải được sự phê duyệt của Chính phủ hoặc
Chính phủ là người chịu trách nhiệm trả nợ trong trường hợp tổ chức đó vỡ nợ.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, nợ công được hiểu bao gồm ba
nhóm là nợ Chính phủ, nợ được Chính phủ bảo lãnh và nợ chính quyền địa

Nhóm 10 - Lớp Kinh tế Đầu tư 51E
5
Mối quan hệ giữa đầu tư công và nợ công. Liên hệ với thực tiễn ở Việt Nam
phương. Nợ Chính phủ là khoản nợ phát sinh từ các khoản vay trong nước, nước
ngoài, được ký kết, phát hành nhân danh Nhà nước, nhân danh Chính phủ hoặc
các khoản vay khác do Bộ Tài chính ký kết, phát hành, uỷ quyền phát hành theo
quy định của pháp luật. Nợ Chính phủ không bao gồm khoản nợ do Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam phát hành nhằm thực hiện chính sách tiền tệ trong từng thời
kỳ. Nợ được Chính phủ bảo lãnh là khoản nợ của doanh nghiệp, tổ chức tài chính,
tín dụng vay trong nước, nước ngoài được Chính phủ bảo lãnh. Nợ chính quyền
địa phương là khoản nợ do Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương (gọi chung là UBND cấp tỉnh) ký kết, phát hành hoặc uỷ quyền phát hành.
2. Phân loại
2.1. Theo nguồn gốc
-Nợ trong nước: các khoản vay từ người cho vay trong nước
-Nợ nước ngoài: các khoản vay từ người cho vay ngoài nước
2.2. Theo hình thức vay nợ
- Phát hành trái phiếu ( trong nước và ngoài nước)
- Vay trực tiếp ( vay thương mại )
- Vốn ODA
2.3. Theo thời gian
- Nợ ngắn hạn: từ 1 năm trở xuống
- Nợ trung hạn: từ trên 1 năm đến 10 năm
- Nợ dài hạn: trên 10 năm
3. Đặc điểm
3.1. Nợ công là khoản nợ ràng buộc trách nhiệm trả nợ của Nhà nước
Khác với các khoản nợ thông thường, nợ công được xác định là một khoản
nợ mà Nhà nước (bao gồm các cơ quan nhà nước có thẩm quyền) có trách nhiệm
trả khoản nợ ấy. Trách nhiệm trả nợ của Nhà nước được thể hiện dưới hai góc
độ trực tiếp và gián tiếp. Trực tiếp được hiểu là cơ quan nhà nước có thẩm

quyền sẽ là người vay và do đó, cơ quan nhà nước ấy sẽ chịu trách nhiệm trả nợ
khoản vay (ví dụ: Chính phủ Việt Nam hoặc chính quyền địa phương). Gián tiếp
là trong trường hợp cơ quan nhà nước có thẩm quyền đứng ra bảo lãnh để một
chủ thể trong nước vay nợ, trong trường hợp bên vay không trả được nợ thì trách
nhiệm trả nợ sẽ thuộc về cơ quan đứng ra bảo lãnh (ví dụ: Chính phủ bảo lãnh
để Ngân hàng Phát triển Việt Nam vay vốn nước ngoài).
3.2. Nợ công được quản lý theo quy trình chặt chẽ với sự tham gia của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền
Nhóm 10 - Lớp Kinh tế Đầu tư 51E
6
Mối quan hệ giữa đầu tư công và nợ công. Liên hệ với thực tiễn ở Việt Nam
Việc quản lý nợ công đòi hỏi quy trình chặt chẽ nhằm đảm bảo hai mục
đích: một là, đảm bảo khả năng trả nợ của đơn vị sử dụng vốn vay và cao hơn
nữa là đảm bảo cán cân thanh toán vĩ mô và an ninh tài chính quốc gia; hai là, để
đạt được những mục tiêu của quá trình sử dụng vốn. Bên cạnh đó, việc quản lý
nợ công một cách chặt chẽ còn có ý nghĩa quan trọng về mặt chính trị và xã hội.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, nguyên tắc quản lý nợ công là Nhà nước
quản lý thống nhất, toàn diện nợ công từ việc huy động, phân bổ, sử dụng vốn
vay đến việc trả nợ để đảm bảo hai mục tiêu cơ bản như đã nêu trên.
3.3. Mục tiêu cao nhất trong việc huy động và sử dụng nợ công là phát triển
kinh tế – xã hội vì lợi ích chung
Nợ công được huy động và sử dụng không phải để thỏa mãn những lợi ích
riêng của bất kỳ cá nhân, tổ chức nào, mà vì lợi ích chung của đất nước. Xuất
phát từ bản chất của Nhà nước là thiết chế để phục vụ lợi ích chung của xã hội,
Nhà nước là của dân, do dân và vì dân nên đương nhiên các khoản nợ công được
quyết định phải dựa trên lợi ích của nhân dân, mà cụ thể là để phát triển kinh
tế – xã hội của đất nước và phải coi đó là điều kiện quan trọng nhất.
3.4. Đánh giá tính ổn định của nợ công
3.4.1. Đánh giá nợ nước ngoài
- Tỷ lệ nợ nước ngoài / xuất khẩu (NPV/X): Đo lường giá trị hiện tại ròng

của nợ nước ngoài liên quan đến khả năng trả nợ của quốc gia lấy từ nguồn thu
xuất khẩu. Ngưỡng an toàn của tỷ lệ này là 150%.
- Tỷ lệ nợ nước ngoài / thu ngân sách Nhà nước (NPV/DBR): Đo lường giá
trị hiện tại ròng của nợ nước ngoài liên quan đến khả năng trả nợ của quốc gia
lấy từ nguồn thu ngân sách Nhà nước. Ngưỡng an toàn của tỷ lệ này là 250%.
- Theo mức ngưỡng của HIPCs, chỉ tiêu NPV/DBR chỉ được sử dụng nếu
như đáp ứng hai điều kiện: Tỷ lệ xuất khẩu/GDP (X/GDP) phải lớn hơn hoặc
bằng 30%; tỷ lệ thu ngân sách Nhà nước/GDP (DBR/GDP) phải lớn hơn 15%.
3.4.2. Đánh giá nợ trong nước
Nợ trong nước được đánh giá qua hai chỉ số là nợ trong nước/GDP và nợ
trong nước/DBR thông qua bảng dưới đây.
Ngưỡng nợ trong nước theo tiêu chuẩn của HIPCs
Tỷ lệ Mức ngưỡng
Nhóm 10 - Lớp Kinh tế Đầu tư 51E
7
Mối quan hệ giữa đầu tư công và nợ công. Liên hệ với thực tiễn ở Việt Nam
Nợ trong nước/GDP 20% - 25%
Nợ trong nước/DBR 92% - 167%
Nguồn: Ngân hàng thế giới (2005)
4. Vai trò, tác động của nợ công
4.1. Nợ công là nguồn vốn bù đắp thâm hụt ngân sách Nhà nước (NSNN)
quan trọng
Để bù đắp thâm hụt NSNN và mở rộng đầu tư phát triển kinh tế, nhiều
nước trên thế giới đã có chính sách huy động vốn trong nước và vay nợ nước
ngoài một cách triệt để và có hiệu quả. Khi hoạch định chính sách vay nợ, các
nước đều chú ý đến những vấn đề sau:
-Căn cứ vào kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội, kế hoạch ngân sách nhà
nước hằng năm, nhu cầu chi tiêu và đầu tư của nhà nước, yêu cầu và nhiệm vụ
của nhà nước trong từng thời kỳ.
-Nhà nước dự kiến mức huy động vốn ngắn hạn, trung hạn và dài hạn

hướng vào các đối tượng ở trong và ngoài nước bằng những hình thức huy động
vốn thích hợp và có chính sách lãi suất căn cứ vào mặt bằng lãi suất thị trường.
-Chính sách vay nợ của nhà nước phải lành mạnh hóa nền tài chính tiền tệ
quốc gia, góp phần ổn định giá trị đồng nội tệ; mở rộng các hoạt động đầu tư
theo định hướng của nhà nước và nâng cao hiệu quả đầu tư; góp phần kiến tạo
một thị trường tài chính năng động.
4.2. Trong dài hạn một khoản nợ chính phủ lớn (tỷ lệ của nó so với GDP
cao) làm cho sự tăng trưởng của sản lượng tiềm năng chậm lại
Trong những năm gần đây, hầu hết các nhà kinh tế đều cho rằng trong dài
hạn một khoản nợ chính phủ lớn (tỷ lệ của nó so với GDP cao) làm cho sự tăng
trưởng của sản lượng tiềm năng chậm lại vì những lý do sau:
-Nếu một quốc gia có nợ nước ngoài lớn thì quốc gia đó buộc phải tăng
cường xuất khẩu để trả nợ nước ngoài và khi đó khả năng tiêu dùng giảm sút.
- Một khoản nợ công cộng lớn gây ra hiệu ứng thế chỗ cho vốn tư nhân:
thay vì sở hữu nhiều cổ phiếu, trái phiếu công ty, dân chúng sở hữu nợ chính
phủ (trái phiếu chính phủ). Điều này làm cho cung về vốn cạn kiệt dẫn đến lãi
suất tăng và các doanh nghiệp hạn chế đầu tư.
- Nợ trong nước tuy được coi la ít tác động hơn vì trên góc độ nền kinh tế là
một tổng thể thì chính phủ chỉ nợ công dân của chính nước mình, tuy vậy nếu nợ
Nhóm 10 - Lớp Kinh tế Đầu tư 51E
8
Mối quan hệ giữa đầu tư công và nợ công. Liên hệ với thực tiễn ở Việt Nam
trong nước lớn thì chính phủ buộc phải tăng thuế để trả lãi nợ vay. Thuế làm
méo mó nền kinh tế, và gây ra tổn thất vô ích về phúc lợi xã hội.
4.3. Khi nợ công liên tục tăng cao, nền kinh tế bị hạ bậc tín nhiệm
Theo báo cáo của các tổ chức chuyên đi đánh giá tín nhiệm các công ty và
quốc gia khác, niềm tin của người dân và giới đầu tư bị lung lay, khi đó nền kinh
tế dễ trở thành mục tiêu tấn công của các thế lực đầu cơ quốc tế.
III/ Mối quan hệ giữa đầu tư công và nợ công
1. Nợ công là nguồn tài chính quan trọng để tài trợ đầu tư công

Nợ công là khoản nợ mà Chính phủ của một quốc gia phải chịu trách nhiệm
trong việc chi trả khoản nợ đó bao gồm nợ trong nước và nợ nước ngoài, còn
đầu tư công hiểu đơn giản là tất cả các khoản đầu tư do chính phủ tiến hành để
thực hiện chức năng của mình và có thể nói ở đây nợ công chính là nguồnvốn tài
trợ quan trọng cho đâù tư công. Nợ công là một phần quan trọng và không thể
thiếu trong tài chính mỗi quốc gia.
Từ những quốc gia đang phát triển đến những cường quốc giàu có với trình
độ phát triển cao thì đều phải đi vay để phục vụ cho các nhu cầu chi tiêu và sử
dụng của chính phủ nhằm các mục đích khác. Khi một chính phủ thực hiện chức
năng của mình cho mục tiêu đầu tư phát triển thì việc thâm hụt ngân sách được
coi là chuyện bình thường,khi thu vượt chi,nguồn lực ngân sách không đủ để
đầu tư từ đó chính phủ phải huy động các nguồn vốn để tài trợ cho chi tiêu,từ đó
xuất hiện các khoản nợ công,đó là việc chính phủ đi vay nợ để bù đắp thâm hụt.
Nợ công 1 phần sẽ được để chi đầu tư phát triển - hay chính là đầu tư công. Đầu
tư công có vai trò quan trọng trong nền kinh tế, thực hiên vai trò dẫn dắt nền
kinh tế, nguồn vốn đầu tư công được sử dụng để xây dựng cơ sở hạ tầng, đầu tư
công công,hay đầu tư vào những khu vực mà tư nhân không sẵn sàng đầu tư.
Với vai trò quan trọng như vậy, nguồn vốn vay nợ công là không thể
thiếu, nó đáp ứng cho mục tiêu đầu tư. Đặc biệt ở những nước đang phát triển,
nhu cầu về vốn đầu tư để phát triển kinh tế là rất lớn bởi ở khu vực này có
nhiều hạn chế về nguồn lực, lao động trình độ thấp,khoa học công nghệ chưa
phát triển, chưa có khả năng tăng trưởng theo chiều sâu thì vốn được coi là
Nhóm 10 - Lớp Kinh tế Đầu tư 51E
9
Mối quan hệ giữa đầu tư công và nợ công. Liên hệ với thực tiễn ở Việt Nam
nhân tố quan trọng nhất để tăng trưởng kinh tế. Với nguồn thu ngân sách còn
thấp thì để bù đắp chi tiêu,đầu tư công, thực hiện vai trò đi đầu trong nền kinh
tế, nguồn vốn nợ công được coi là hữu hiệu nhất. Nợ công làm gia tăng nguồn
lực cho Nhà nước, từ đó tăng cường nguồn vốn để phát triển cơ sở hạ tầng và
tăng khả năng đầu tư đồng bộ của Nhà nước. Với chính sách huy động nợ công

hợp lý, nhu cầu về vốn sẽ từng bước được giải quyết để đầu tư cơ sở hạ tầng,
từ đó gia tăng năng lực sản xuất cho nền kinh tế, đem lại hiệu quả kinh tế cho
cả khu vực công lẫn khu vực tư.
2. Hiệu quả đầu tư công tác động mạnh mẽ đến nợ công
Vay nợ công để thực hiện đầu tư công là một việc bình thường vì nợ công
là một nguồn vốn quan trọng để tai trợ đầu tư công. Tuy nhiên không phải lúc
nào cũng vay nợ để tài trợ đầu tư công, không phải lúc nào con số nợ công cũng
tỉ lệ thuận với đầu tư công. Vay nợ công để đầu tư công có thể gia tăng tài sản
xã hội, tăng năng lực của một quốc gia cũng như tạo đà tăng trưởng kinh tế, tuy
nhiên có thể có những tác động ngược lại như gia tăng gánh nặng nợ nần, tạo áp
lực lạm phát, gây bất ổn vĩ mô, ngân sách nhà nước vì thế mà gặp nhiều khó
khăn. Câu trả lời ở đây chính là mối quan hệ mật thiết giữa đầu tư công và nợ
công, mối quan hệ này được thể hiện rõ ràng thông qua tác động của hiệu quả
đầu tư công đến nợ công.
Đa số các quốc gia đều sử dụng nợ công để đầu tư ngoài việc chi cho an
sinh xã hội - yếu tố không tạo ra hay gia tăng trực tiếp năng lực sản xuất của một
quốc gia. Đầu tư thế nào để thu lại được vốn, chi trả được các khoản nợ, chính là
việc đầu tư có hiệu quả. Và hiệu quả đầu tư công có thể tác động đến nợ công
theo nhiều xu hướng, tăng hoặc giảm, đồng thời nó cũng tác động đến tính chất
của nợ công - làm tăng tính rủi ro và cũng có thể giảm áp lực nợ công, tính
thanh khoản của các khoản nợ.
Hiệu quả đầu tư công được đánh giá bằng nhiều cách trong đó có cách đo
lường thông qua hệ số ICOR như đã nêu ở phần lí thuyết.Với các yếu tố khác
Nhóm 10 - Lớp Kinh tế Đầu tư 51E
10
Mối quan hệ giữa đầu tư công và nợ công. Liên hệ với thực tiễn ở Việt Nam
không thay đổi thì hệ số ICOR càng cao, đầu tư càng không hiệu quả.Đầu tư
không hiệu quả khiến số vốn bỏ ra nhiều nhưng lợi ích về tài chính mang lại
không là bao nhiêu hay nguồn thu lại tư hoạt động đầu tư công thấp.Biểu hiện
của đầu tư không hiệu quả có thể là đầu tư không đúng trọng điểm,lãng phí

nguồn lực,tăng chi phí sử dụng vốn,quản lí –giám sát đầu tư lỏng lẻo,yếu kém…
2.1. Đầu tư công hiệu quả tác động tốt đến nợ công
Gỉa sử loại bỏ tác động của các yếu tố khác đến nợ công, thì khi đầu tư có
hiệu quả sẽ tác động tốt đến nợ công. Khi đầu tư công có hiệu quả đơn giản có
thể hiểu là khi nhà nước bỏ vốn nợ công 1 đồng thì sẽ thu lại được gần 1 đồng,
chi phí vốn để tăng trưởng ở mức thấp, khi đầu tư có hiệu quả tất yếu sẽ tạo ra
tăng trưởng cao, gia tăng tài sản (có thể là tài sản vật chất,tài sản trí tuệ, tài sản
vô hình) từ đó tăng nguồn thu cho ngân sách, đặc biệt là sẽ có thêm một lượng
dự trữ ngoại hối từ hoạt động xuất khẩu. Không những vậy đầu tư công có hiệu
quả còn tạo động lực cho các thành phần khác như thành phần kinh tế ngoài nhà
nước phát triển (đặc biệt là đối với những nước đang phát triển), từ đó tác động
tích cực đến toàn bộ nền kinh tế. Ngân sách tăng cao dẫn tới khả năng trả nợ các
khoản nợ công tăng, tính thanh khoản của nợ công cũng vì thế mà không có gì lo
ngại. Ở đây rủi ro về nợ công sẽ được giaỉ quyết. Tuy nhiên ở đây sẽ xảy ra 2 xu
hướng khi đầu tư công có hiệu quả tác động đến nợ công. Đầu tư công có hiệu
quả sẽ làm giảm nợ công, do số vốn tạo ra được dùng để trả nợ, như vậy các
khoản nợ công sẽ giảm dần nếu nhu cầu vay nợ công không tăng lên.
Ở xu hướng khác, do đầu tư có hiệu quả nên khả năng trả nợ của chính phủ
là hoàn toàn có thể và hoàn toàn không phải lo về gánh nặng nợ nần cũng như
lạm phát. Để thúc đẩy tăng trưởng và sử dụng ngân sách cho những mục tiêu
khác nhằm nâng cao năng lực quốc gia, chính phủ lại tiếp tục để thâm hụt ngân
sách hay dùng nợ công để bù đắp bội chi. Và cứ như thế nợ công có thể gia
tăng,tăng nợ đồng thời với tăng đầu tư công và tăng khả năng trả nợ. Ở đây có
thể coi nợ công là động lực cho toàn xã hội. Và vấn đề tăng nợ công không hề
quan trọng vì nợ công sẽ được trả do đầu tư có hiệu quả. Có thể nói đầu tư công
có hiệu quả sẽ là tăng hoặc giảm nợ công nhưng đều dưới góc độ tích cực và
Nhóm 10 - Lớp Kinh tế Đầu tư 51E
11
Mối quan hệ giữa đầu tư công và nợ công. Liên hệ với thực tiễn ở Việt Nam
hiển nhiên sẽ làm giảm rủi ro của nợ công cũng như độ an toàn cuả nợ công là

điều không đáng lo ngại. Như vậy nếu đầu tư có hiệu quả thì càng cần phải
khuyến khích vay nợ thêm để chính phủ có thể tạo ra nhiều tài sản và lợi ích cho
xã hội hơn, đồng thời số tiền thu được từ nguồn lợi đầu tư của Chính phủ có thể
trả nợ gốc và lãi vay đúng hạn trong tương lai.
2.2. Đầu tư công không hiệu quả làm gia tăng nợ công,tăng rủi ro nợ công
Đầu tư công có thể coi là căn nguyên của nợ công vì đơn giản không phải
chính phủ nào cũng có mức ngân sách cân bằng. Vấn đề ở đây mức thâm hụt ở
mức nào, mức vay nợ ở mức nào. Và có thể nói đầu tư công không hiệu quả
chính là nguyên nhân chủ yếu làm tăng gánh nặng nợ công, mức nợ công liên
tục gia tăng, từ đó làm tăng rủi ro nợ công. Nợ công được tính bao gồm cả nợ
chính phủ và nợ doanh nghiệp nhà nước theo thông lệ quốc tế, chính vì thế, hoạt
động đầu tư không có hiệu quả càng tác động mạnh mẽ đến nợ công.
Rủi ro nợ công có thể xét theo nhiều khía cạnh,bao gồm rủi ro về khả năng
thanh toán nợ, được đánh giá qua các chỉ tiêu:quy mô khoản nợ so với GDP, quy
mô khoản nợ so với tổng thu NSNN, quy mô khoản nợ so với tổng giá trị xuất
khẩu. Rủi ro thứ hai là rủi ro về tỉ giá, được đánh giá qua sự mất giá của đồng
nội tệ so với đồng tiền vay nợ. Rủi ro thứ ba là rủi ro về tính thanh khoản của nợ
công, đánh giá khả năng thanh toán nợ nội địa, nợ nước ngoài trong ngắn, trung
và dài hạn.
Đầu tư công được sử dụng như một công cụ kích cầu. Đầu tư công không
hiệu quả sẽ dẫn tới ra tăng chi phí đầu tư, kéo dài thời gian, do đó kéo theo khả
năng lạm phát tăng cao. Khi lạm phát tăng cao sẽ dẫn tới đồng nội tệ mất giá từ
đó gia tăng chi phí trả nợ, cũng như nợ công vì thế mà tăng nhanh chóng.
Ở các nước đang phát triển, trong điều kiện khu vực kinh tế tư nhân còn
nhỏ, không đủ năng lực để thúc đẩy sự phát triển kinh tế, thì kinh tế nhà nước có
vai trò đặc biệt quan trọng thông qua việc sử dụng chính sách tài khóa mở rộng
và ở đây chủ yếu thông qua đầu tư công. Quy mô đầu tư công ở những nước này
thường rất lớn, nếu đầu tư không tốt tức sử dụng nguồn vốn vay không hợp lí tất
yếu, trong thời gian dài sẽ làm gánh nặng nợ lớn dần lên. Trong trường hợp tốc
độ tăng thu ngân sách không theo kịp với tốc độ tăng của các nghĩa vụ trả nợ,

chính phủ buộc phải sử dụng biện pháp vay mới để trả nợ cũ. Tình trạng này kéo
Nhóm 10 - Lớp Kinh tế Đầu tư 51E
12
Mối quan hệ giữa đầu tư công và nợ công. Liên hệ với thực tiễn ở Việt Nam
dài sẽ dẫn tới nguy cơ mất khả năng trả nợ của chính phủ, nếu tổng số nghĩa vụ
nợ phải trả vượt quá khả năng thu của ngân sách. Hệ lụy tiếp theo có thể là hạn
chế việc tiếp cận nguồn vốn của đầu tư tư nhân và đất đai cho khu vực này và
cuối cùng là hạn chế việc phát huy nguồn lực đang còn rất dồi dào của kinh tế tư
nhân cho phát triển đất nước. Nếu nợ công tăng cao mà không có khả năng trả
nợ thì có thể dẫn đến vỡ nợ. Nếu không trả được nợ công,sẽ dẫn đến lệ thuộc
nước ngoài, lệ thuộc các quốc gia hay những tổ chức tài chính nào đó, bởi mình
không có quyền kiểm soát mà phải nghe theo họ. Thậm chí phải chấp nhận
những việc mà bình thường một quốc gia không thể chấp nhận được.
Đầu tư công chiếm tỷ trọng quá lớn trong ngân sách tất yếu dẫn đến hạn
chế chi tiêu cho dịch vụ công, sự nghiệp văn hóa, giáo dục, y tế; đây là một vấn
đề lớn trong cơ cấu thu, chi ngân sách nhà nước cần được phân tích một cách
nghiêm túc.Trong lúc ngân sách có hạn, để bảo đảm chi tiêu, lại phải phát hành
trái phiếu và vay bên ngoài, thế nhưng lãi suất trái phiếu phải đủ sức thu hút
người mua, còn vay nước ngoài cũng sẽ khó khăn hơn. Bội chi ngân sách cũng
không phải là không có giới hạn. Bội chi ngân sách quá lớn và nợ công quá
nhiều sẽ dẫn đến những hệ quả xấu cho nền kinh tế, để lại nợ nần khó trả cho thế
hệ sau. Nợ công ở các nước đang phát triển chủ yếu dựa trên khả năng chịu
đựng rủi ro tài chính hạn chế của người dân và cùng đó là năng suất lao động
thấp, tăng trưởng chủ yếu dựa vào khai thác tự nhiên và thâm dụng lao động,
vốn. Bởi vậy, điều này không thể đảm bảo một tương lai sáng sủa khi nợ công sẽ
chạm ngưỡng an toàn và ngày càng tăng mạnh mà ở đây đầu tư công quá lớn và
kém hiệu quả đang là một nguyên nhân chủ yếu dẫn đến gia tăng áp lực nợ công.
Khi đầu tư công không hiệu quả,rủi ro nợ công tăng cao,hệ quả là người
tiêu dùng các sản phẩm dịch vụ công đó vừa phải trả một giá cao hơn, vừa phải
trả thuế nhiều hơn. Nói cách khác, chính người dân trong nước phải trả tiền cho

sự kém hiệu quả của đầu tư công,nhất là các doanh nghiệp nhà nước, đồng thời
phải trả thuế để trả nợ công.
Nợ công nhiều, đầu tư công cao nhất là nguồn vốn cấp cho doanh nghiệp
nhà nước càng lớn, càng làm cho tính kém hiệu quả của nền kinh tế tăng lên,
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và nền kinh tế càng xuống thấp.
Nhóm 10 - Lớp Kinh tế Đầu tư 51E
13
Mối quan hệ giữa đầu tư công và nợ công. Liên hệ với thực tiễn ở Việt Nam
Nếu nợ công không được Chính phủ đầu tư hiệu quả và bị thất thoát thì nó
sẽ trở thành "quả bom hẹn giờ" luôn treo lơ lửng bên cạnh nền kinh tế, nó sẵn
sàng bị nổ phá nát nền kinh tế bất cứ lúc nào.
Tóm lại đầu tư công nói chung và hiệu quả đầu tư công nói riêng có quan
hệ mật thiết với nợ công. Đầu tư công ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả sử dụng
vốn nợ công. Tính chất của đầu tư công và nợ công sẽ tác động nhiều mặt đến
nền kinh tế, thay đổi tăng trưởng, chuyển dịch cơ cấu cũng như ảnh hưởng đến
năng lực kinh tế của 1 quốc gia.
CHƯƠNG 2
KIỂM CHỨNG VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẦU TƯ CÔNG VÀ
NỢ CÔNG Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2001-2011
Trong giai đoạn 2001-2011, bối cảnh kinh tế trong nước và ngoài nước có
nhiều biến động. Và theo đó vấn đề nợ công và đầu tư công trở nên “nóng” hơn
bao giờ hết. Mối quan hệ giữa nợ công và đầu tư công được kiểm chứng ở Việt
Nam như thế nào? Vai trò của đầu tư công và nợ công với sự phát triển của nền
kinh tế Việt Nam?
Phần tiếp theo của bài tiểu luận xin được trình bày mối quan hệ giữa nợ
công và đầu công kiểm chứng ở Việt Nam giai đoạn 2001-2011.
I. Khái quát về thực trạng đầu tư công và nợ công ở Việt Nam 10 năm
trở lại đây-giai đoạn 2001-2011
1. Quy mô đầu tư công ngày một lớn
Đầu tư công hiện nay ở nước ta bao gồm bốn nguồn chính: ngân sách nhà

nước, trái phiếu chính phủ, tín dụng đầu tư của Nhà nước và đầu tư của doanh
nghiệp nhà nước.
Giai đoạn 2001-2011, tổng vốn đầu tư xã hội và đầu tư công liên tục tăng.
Tính theo giá so sánh năm 1994, tổng vốn đầu tư tăng từ khoảng 115 nghìn tỉ
đồng năm 2001 lên 400 nghìn tỉ đồng năm 2010, gấp 3.4 lần, bình quân mỗi
Nhóm 10 - Lớp Kinh tế Đầu tư 51E
14
Mối quan hệ giữa đầu tư công và nợ công. Liên hệ với thực tiễn ở Việt Nam
năm tăng hơn 13%. Trong đó khu vực đầu tư công vẫn chiếm tỉ lệ lớn trong tổng
vốn đầu tư xã hội mặc dù tỉ trọng khu vực này có xu hướng giảm dần trong
những năm gần đây. Theo thống kê trong giai đoạn 2001-2005, tổng lượng vốn
dành cho đầu tư công của Việt Nam vào khoảng 286.000 tỷ đồng, chiếm 23%
tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Giai đoạn 2006-2010 con số này tăng lên 739.000
tỷ đồng, chiếm trên 24% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Tính theo giá thực tế, vốn
đầu tư khu vực công tăng từ 101.9 nghìn tỉ đồng năm 2001 lên tới 287.5 nghìn tỉ
đồng năm 2009, bình quân mỗi năm tăng 13.8%. So sánh tốc độ tăng trưởng vốn
đầu tư và tốc độ tăng GDP tính bình quân hằng năm trong giai đoạn này có thể
thấy tốc độ tăng vốn đầu tư trong khu vực công đều cao hơn so với tốc độ tăng
GDP ( khoảng 2 lần).
2. Nợ công ngày một tăng
Không chỉ đầu tư công mà nợ công ở Việt Nam giai đoạn 2001-2011 cũng
tăng với 1 tốc độ khá nhanh.
Ở Việt Nam, Luật Quản lý nợ công năm 2009 quy định, nợ công bao gồm
nợ chính phủ, nợ được Chính phủ bảo lãnh và nợ chính quyền địa phương. Nợ
chính phủ không bao gồm khoản nợ do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phát
hành nhằm thực hiện chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ. Nợ được Chính phủ
bảo lãnh là khoản nợ của doanh nghiệp, tổ chức tài chính, tín dụng vay trong
nước, nước ngoài được Chính phủ bảo lãnh. Nợ chính quyền địa phương là
khoản nợ do ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương ký kết, phát
hành hoặc ủy quyền phát hành.

Theo tạp chí The Economist tính tới thời điểm 8h10’ ngày 1/9/2011 theo
giờ Việt Nam, có các số liệu sau:
- Tổng nợ công của Việt Nam: 44,795 tỷ USD (2009), 50,294 tỷ USD
(2010), 56,061 tỷ USD (2011).
- Nợ công tính trên bình quân mỗi người Việt Nam: 516,62 USD (2009),
574,28 USD (2010) và 633,95 USD (2011).
- Nợ công/GDP: 50,7% (2009), 51,7% (2010) và 50,9% GDP (2011) .
Nhóm 10 - Lớp Kinh tế Đầu tư 51E
15
Mối quan hệ giữa đầu tư công và nợ công. Liên hệ với thực tiễn ở Việt Nam
Tỷ lệ nợ so với GDP của Việt Nam
Như vậy, trong vòng 10 năm từ 2001 đến nay, quy mô nợ công đã tăng
gấp gần 5 lần với tốc độ tăng trưởng nợ trên 15% mỗi năm. Và hiện tại Việt
Nam đang ở trong nhóm nước có mức nợ công trên trung bình, nếu tiếp tục với
tốc độ này thì chỉ trong vòng 5 năm nữa, đến năm 2016, nợ công
của

Việt
Nam sẽ vượt quá 100% GDP như hai nước thành viên EU mới lâm vào
khủng hoảng nợ
công

gần
đây là Hy Lạp (133,6%), Ailen (129,2%). Nợ công
đạt trên 100% GDP là một con số không nhỏ đối với một nền kinh tế đang
phát triển và quy mô nhỏ, phụ thuộc nhiều vào xuất khẩu sản phẩm nông
nghiệp thô và công nghiệp nhẹ như Việt Nam.
II. Kiểm chứng mối quan hệ giữa nợ công và đầu tư công ở Việt Nam
giai đoạn 2001-2011
Có thể nhận thấy rõ mối quan hệ thuận giữa nợ công và đầu tư công ở Việt

Nam trong giai đoạn 2001-2011(trừ năm 2008, 2011), hai biến số này đều tăng
với tốc độ không nhỏ mặc dù mức độ tăng khác nhau. Đây là 1 điều hợp lí với 1
nước đang phát triển như nước ta và thực tế đã cho thấy nợ công và đầu tư công
có quan hệ khá mật thiết.
1. Nợ công ở Việt Nam chính là nguồn vốn quan trọng để tài trợ đầu tư công
Trong những năm qua Việt Nam theo đuổi mô hình tăng trưởng dựa vào
vốn đầu tư, với tỉ lệ vốn đầu tư xã hội trên GDP vào loại cao nhất khu vực Đông
Á và Đông Nam Á. Tỉ trọng đóng góp của nhân tố vôn đầu tư cho tăng trưởng
Nhóm 10 - Lớp Kinh tế Đầu tư 51E
16
Mối quan hệ giữa đầu tư công và nợ công. Liên hệ với thực tiễn ở Việt Nam
kinh tế Việt Nam luôn ở mức cao, ở mức hơn 50%. Trong đó đầu tư công vẫn là
nhân tố quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Với nhu cầu đầu tư phát triển
lớn như vậy việc Việt Nam đi vay nguồn vốn nợ công là một điều dễ hiểu vì
thực tế tỷ lệ tiết kiệm nội địa của nước ta những năm gần đây chỉ khoảng 27%
GDP. Tỷ lệ tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế chiếm trong vốn đầu tư liên tục giảm
(từ 87,4% năm 2006 đến năm 2009 còn 68%), trong khi nhu cầu đầu tư toàn xã
hội mỗi năm khoảng 40% GDP. Nợ công trở thành một nguồn tài chính quan
trọng bù đắp thâm hụt ngân sách để chi đầu tư cho các mục tiêu tăng trưởng
kinh tế và phát triển bền vững.
Về cơ cấu nợ công, nợ công ở nước ta gồm 2 nguồn là nợ trong nước và
nợ nước ngoài, vốn nợ công nước ngoài chiếm tỉ trọng khá cao, trung bình
khoảng 24-25%GDP. Trong đó phải kể đến vốn ODA, chiếm khoảng 85% tổng
vốn vay nợ công nước ngoài. ODA cũng chính là nguồn vốn quan trọng dành
cho đầu tư công để phát triển cơ sở hạ tầng. Số liệu do Bộ Tài chính công bố cho
thấy rằng giai đoạn 2005-2011 trên 70% nguồn vốn ODA được sử dụng cho đầu
tư công và cung ứng vốn thực hiện các dự án sản xuất kinh doanh của các tập
đoàn kinh tế nhà nước.
Bảng : Cơ cấu nợ công của Việt Nam năm 2006 – 2010
Đơn vị 2006 2007 2008 2009 2010 Bình

quân
Nợ chính
phủ
Tỷ
USD 23,7 24,1 31,2 37,8 45,3 32,4
Nợ chính
phủ
%GDP
39,0 33,8 36,5 40,4 44,6 38,9
Nợ chính
phủ
% Nợ
công 85,0 68,0 76,2 79,2 82,1 78,1
Nợ nước
ngoài của
chính phủ
Tỷ
USD 14,6 17,3 18,9 23,9 25,1*
20
Nhóm 10 - Lớp Kinh tế Đầu tư 51E
17
Mối quan hệ giữa đầu tư công và nợ công. Liên hệ với thực tiễn ở Việt Nam
Nợ nước
ngoài của
chính phủ
% Nợ
chính
phủ
61,6 71,6 60,7 60,0 55,4%** 61,9
Nợ nước

ngoài
của khu
vực công
%
GDP 26,7 28,3 25,1 29,3 N/A
Nợ nước
ngoài
củ
a khu
vực công
% Nợ
công
58,2 56,9 52,4 57,5 N/A
Nguồn: Bộ Tài Chính, Bản tin nợ nước ngoài số 6
Chú thích: *, **: Số liệu 6 tháng đầu năm 2010
2. Đầu tư công kém hiệu quả là nguyên nhân làm tăng rủi ro của nợ công
ở Việt Nam
2.1. Đầu tư công là căn nguyên làm phát sinh nợ công ở Việt Nam
Chính sách tài khóa Việt Nam cho phép thâm hụt ngân sách vì mục tiêu đầu
tư phát triển. Trong những năm qua, thâm hụt ngân sách hằng năm là trên 5% và
có năm lên mức 8%GDP. So sánh với nhiều nước đang phát triển khác, đây là
một mức thâm hụt khá cao. Nhà nước Việt Nam thực hiện chính sách tài khoá
liên tục tăng thu để bù đắp cho chi tiêu công không ngừng tăng lên. Thu ngân
sách đã tăng từ khoảng 21% so với GDP năm 2001 trên 28% trong những năm
2006 – 2008. Chi ngân sách cũng đã tăng tương ứng từ 25% năm 2001 lên trên
31% từ năm 2005, và đạt tới mức gần 35% năm 2007. thâm hụt ngân sách là căn
bệnh kinh niên nhiều năm nay, trong bối cảnh của khủng hoảng tài chính toàn
cầu lại trở trên trầm trọng hơn. Điều đáng lo ngại là việc chấp nhận thâm hụt
ngân sách dường như đã trở thành nếp nghĩ của những cơ quan có thẩm quyền ra
quyết định về ngân sách.

Nhóm 10 - Lớp Kinh tế Đầu tư 51E
18
Mối quan hệ giữa đầu tư công và nợ công. Liên hệ với thực tiễn ở Việt Nam
Thâm hụt ngân sách ở 1 số nước
Nguồn: Ngân hàng Thế giới, Natixis, UB Ngân sách QH Mỹ (2010)
Phần thâm hụt ngân sách dành cho đầu tư phát triển được bù đắp bằng vay
nợ. Ngoài chi đầu tư trong cân đối ngân sách, đầu tư công còn được lấy từ các
nguồn vay trong và ngòai nước khác. Các khoản vay này tạo thành nợ công của
chính phủ.
Mối quan hệ cơ bản giữa nợ công và đầu tư công ở Việt Nam, đó là nợ
công là nguồn vốn quan trọng để tài trợ đầu tư công và ngược lại đầu tư công là
căn nguyên phát sinh nợ công. Tuy nhiên điều này chưa thể nói hết được những
con số về nợ công và đầu tư công trong những năm gần đây. Nợ công là một
điều bình thường ở bất kì một quốc gia nào ngay cả ở Mỹ, Nhật với tỉ lệ nợ công
chiếm tỉ lệ hơn 100%GDP. Nhưng ở Việt Nam con số nợ công chỉ chiếm
khoảng 40-50% lại có tính chất hòan toàn khác, thực tế nợ công ở nước ta đang
kề cận ngưỡng an toàn và nguy cơ vỡ nợ có thể xảy ra bất kì lúc nào. Vấn đề
chính là việc sử dụng nguồn vốn vay như thế nào để đảm bảo khả năng trả nợ.
Đầu tư công, hoạt động chủ yếu sử dụng vốn vay nợ công chính là yếu tố ảnh
hưởng trực tiếp đến tính chất của nợ công.Với Việt Nam có thể nói hiệu quả đầu
tư công tác động mạnh mẽ đến nợ công.
Như trên đã đề cập, đầu tư công ở Việt Nam liên tục tăng trong giai đoạn
2001-2011, đặc biệt là giai đoạn 2004-2007, lí giải cho điều này một phần là do
kết quả tăng trưởng ấn tượng gần 9% năm 2007, cùng sự kiện nước ta gia nhập
Nhóm 10 - Lớp Kinh tế Đầu tư 51E
19
Mối quan hệ giữa đầu tư công và nợ công. Liên hệ với thực tiễn ở Việt Nam
WTO, thị trường chứng khoán đang trong giai đoạn phát triển, cơ hội hội nhập
của nước ta hoàn toàn mở rộng, chính vì thế chính sách tăng trưởng nhờ vốn đầu
tư tiếp tục được sử dụng. Nhu cầu đầu tư tăng kéo theo đầu tư công tăng, hệ quả

là các dự án đầu tư liên tiếp được phê duyệt. Tuy nhiên kết quả đầu tư công lại
là một câu chuyện khác, thực tế tỉ lệ đầu tư công chiếm khoảng 20-25%GDP
nhưng tỉ lệ tăng trưởng những năm gần đây có xu hướng giảm dần. Giai đoạn
2004-2007 tốc độ tăng trưởng GDP bình quân là 8.04%/năm thì đến giai đoạn
sau tốc độ tăng trưởng của nước ta bình quân chỉ từ 5-7%,năm 2010 là
6.78%,2011 chỉ dừng lại ở con số khoảng 5.9%.
Tại sao với tỉ lệ vồn đầu tư trên GDP thuộc loại cao nhất khu vực mà tỉ lệ
tăng trưởng ở nước ta lại không ở mức cao tương đương với số vốn bỏ ra như
vậy? Nguyên nhân chủ yếu chính là do từ hiệu quả đầu tư công. Mà ở đây hiệu
quả đầu tư công tác động trực tiếp đến tốc độ tăng trưởng và kéo theo là gánh
nặng nợ của Việt Nam, làm gia tăng nợ công. Nói cách khác hiệu quả đầu tư
công là 1 trong những nguyên nhân làm tăng rủi ro nợ công.
2.2. Hiệu quả đầu tư công làm tăng rủi ro nợ công
2.1.1. Dẫn chứng về hiệu quả đầu tư công tác động đến nợ công ở Việt Nam
*Hệ số ICOR cao
Có thể đánh giá hiệu quả đầu tư công ở 2 góc độ: hiệu quả kinh tế xã hội và
hiệu quả kinh tế. Về hiệu quả kinh tế,hiệu quả đầu tư công ở Việt Nam còn thấp.
Để đánh giá hiệu quả kinh tế thước đo được sử dụng là hệ số suất đầu tư - ICOR
(hệ số sử dụng vốn). Nhiều nghiên cứu cho thấy chỉ số ICOR của khu vực nhà
nước cao gấp hơn 2 lần so với khu vực kinh tế ngoài nhà nước.
Giai đoạn 2001-2009 hệ số ICOR của khu vực ngoài nhà nuớc trung bình là
4.3 trong khi khu vực nhà nước con số lớn hơn 8. Điều này có nghĩa trong giai
đoạn này 1 đồng vốn bỏ ra của khu vực nhà nước nhưng chỉ thu được 0.125
đồng doanh thu trong khi ở khu vực có vốn đầu tư nước ngoài 1 đồng vốn bỏ ra
thu được tương ứng khoảng 0.8 đồng doanh thu. Các số liệu thống kê chính thức
cho biết rằng khu vực kinh tế nhà nước chiếm 70% tổng vốn đầu tư quốc gia
nhưng chỉ đóng góp khoảng 30% vào tổng sản lượng quốc gia. Các khu vực tư
Nhóm 10 - Lớp Kinh tế Đầu tư 51E
20
Mối quan hệ giữa đầu tư công và nợ công. Liên hệ với thực tiễn ở Việt Nam

và khu vực đầu tư nước ngoài chỉ sử dụng 30% vốn đầu tư quốc gia nhưng lại
đóng góp đến 70% tổng sản lượng. Hiệu quả sử dụng nguồn vốn của khu vực
kinh tế nhà nước kém hơn khoảng bốn lần so với các khu vực kinh tế khác, năng
suất lao động kém hơn và thu nhập lao động bình quân cũng thấp hơn, trong khi
khu vực này ngoài những ưu đãi mang tính chính sách về nguồn vốn, về lãi suất
còn được hưởng các đặc quyền, các ưu thế kinh tế vượt trội mà các khu vực
khác không có. Nguyên nhân ở đây một phần là do khu vực kinh tế nhà nước
gánh chịu trách nhiệm đầu tư vào cơ sở hạ tầng, lĩnh vực xã hội, vùng sâu, vùng
xa mà các khu vực kinh tế khác không muốn đầu tư, tác động của vốn đầu tư
đến tăng trưởng kinh tế còn có độ trễ thời gian, nhưng ở đây không thể phủ nhận
những nguyên nhân khác do yếu kém quản lí trong đầu tư công gây ra. Hệ quả
của đầu tư công không hiệu quả chính là phải gia tăng vốn đầu tư, kéo dài thời
gian, chi phí, làm tăng thâm hụt ngân sách,với nguồn ngân sách hạn hẹp của
nước ta thì con đường duy nhất chính là vay nợ, tốc độ tăng nợ công cũng vì thế
mà tăng theo.
Hiện nay nợ công nước ngoài ở nước ta chiếm tỉ trọng khoảng 60-70%
trong tổng nợ công. Lâu nay trong các khoản vay nước ngoài của Việt Nam đa
số có lãi suất thấp vì thế nhà nước có xu hướng tận dụng khoản vay này để đầu
tư. Trong tổng nợ 2009, vay ODA chiếm tỉ trọng 74.67%, vay ưu đãi chiếm
5.41%, vay thương mại là 19.92%. Sang năm 2010, vay nợ với lãi suất thấp 1-
2.99% chiếm khoảng 65% tổng dư nợ. Các chủ nợ chủ yếu của Việt Nam vẫn là
WB, Nhật, Pháp, ADB với lượng trái phiếu chính phủ nắm giữ lên hơn 2 tỉ USD
năm 2010. Thực tế cho thấy điều kiện vay nợ ngày một ngặt nghèo hơn, lãi suất
vay nợ có xu hướng tăng do Việt Nam đã gia nhập nhóm nước có thu nhập trung
bình và cũng ít nhiều do bị giảm mức tín nhiệm quốc gia. Ở đây chúng ta đã vẫn
tiếp tục phải sử dụng nguồn vốn vay ODA này trong khi lãi suất ngày một tăng,
sẽ không có vấn đề gì nếu chúng ta có khả năng trả nợ nhưng trên thực tế khả
năng trả nợ của nên nước ta đang thực sự khó khăn mà nguyên nhân ở đây chính
là việc sử dụng vốn vay không hiệu quả hay đầu tư công không hiệu quả. Như ở
trên có thể thấy hệ số ICOR của khu vực nhà nước luôn ở mức cao trên 8.

Nhóm 10 - Lớp Kinh tế Đầu tư 51E
21
Mối quan hệ giữa đầu tư công và nợ công. Liên hệ với thực tiễn ở Việt Nam
Những dẫn chứng cho công tác quản lí đầu tư không hiệu quả có thể kể đến từ
cơ cấu đầu tư, phân cấp đầu tư, quản lí đầu tư…đều không hợp lí trong giai đoạn
này.
*.Cơ cấu đầu tư công giữa các lĩnh vực còn nhiều bất cập, chưa thể hiện rõ
được vai trò trụ cột của nền kinh tế
Trong giai đoạn 2000-2009, đầu tư cho các ngành thuộc lĩnh vực kinh tế
luôn chiếm trên 73% vốn đầu tư của Nhà nước. Hơn nữa, ngay trong lĩnh vực
kinh tế, vốn nhà nước đầu tư vào những ngành công nghiệp then chốt như cơ
khí, chế tạo máy móc, công nghệ cao lại thấp, trong khi đó đầu tư cho một số
ngành khai khoáng hoặc ngành đóng tàu thủy dường như lại được quan tâm
nhiều hơn. Đầu tư vào các lĩnh vực khoa học, công nghệ then chốt chưa đủ mức,
chưa tạo ra được sự bứt phá của một số lĩnh vực công nghệ cao để tác động
mạnh đến sức cạnh tranh và hiệu quả của nền kinh tế. Bên cạnh đó, đầu tư cho
quản lý nhà nước, an ninh - quốc phòng, Đảng, đoàn thể có xu hướng tăng liên
tục từ 5,2 % (so với GDP) năm 2000 lên 7,7% năm 2009 (năm 2008 là cao nhất
với 8,7%). Đầu tư cho bộ máy quản lý nhà nước, các đoàn thể xã hội tăng không
ngừng, trái với chủ trương tiết kiệm chi tiêu hành chính. Đây là kẽ hở cho hiện
tượng lãng phí và tham nhũng.
Cơ cấu theo ngành trong 10 năm qua, khoảng trên 40% tổng số vốn đầu tư
công dành cho các ngành kết cấu hạ tầng: Điện, nước, vận tải, thông tin. Nông -
lâm nghiệp và thủy sản, mặc dù là những ngành hoạt động của đại đa số dân cư
nhưng không được nhà nước chú trọng đầu tư, biểu hiện là tỷ trọng của ngành
này trong đầu tư công đã giảm từ 12,2% năm 2000 xuống còn 5,9% vào năm
2009. Như vậy, xét về cả tốc độ tăng tỉ trọng trong tổng đầu tư nhà nước thì
những ngành lớn, quan trọng, có thế mạnh trong sự phát triển lâu dài của đất
nước như nông, lâm nghiệp, thủy sản, giáo dục,đào tạo, khoa học lại là những
ngành ít được quan tâm đầu tư phát triển. Đầu tư công vẫn tập trung vào một số

ngành mà khu vực tư nhân có khả năng và sẵn sàng đầu tư, trong khi đầu tư vào
phát triển nguồn lực con người còn chưa được chú trọng và chưa tương xứng.
Điều này dường như đang đi ngược lại những nguyên tắc cơ bản cho đầu tư
Nhóm 10 - Lớp Kinh tế Đầu tư 51E
22
Mối quan hệ giữa đầu tư công và nợ công. Liên hệ với thực tiễn ở Việt Nam
công. Theo đó, chức năng chính của nhà nước phải là xây dựng các nền tảng
phát triển và tăng trưởng, đồng thời tập trung vào các lĩnh vực mà khu vực tư
nhân không thể hoạt động hoặc hoạt động không hiệu quả.
*.Phân cấp đầu tư công
Việc đầu tư công được phân bổ theo 2 cấp ngân sách là: Trung ương và các
tỉnh cũng còn nhiều hạn chế. Tỉ lệ đầu tư cho 2 cấp này là khoảng 60% : 40%
trong năm 2002 và sau đó vốn cho cấp Trung ương giảm xuống còn 50% và
không thay đổi nhiều từ năm 2002 cho đến nay. Tới đây, việc phân bổ vốn phục
vụ đầu tư công ở các địa phương có thể sẽ có sự cân đối lại, chẳng hạn như
những địa phương có động lực tăng trưởng, nếu được phân bổ vốn lớn thì sẽ đạt
được hiệu quả tăng trưởng tốt hơn. Nhưng trên thực tế trong giai đoạn này,
nguồn vốn nợ công được phân bổ chưa hợp lí. Nhưng quy hoạch đầu tư công
được “vẽ” bởi những đơn vị, địa phương không có chức năng điều phối. Vì căn
bệnh bao biện trong đầu tư phát triển mà lâu nay, chúng ta đã biến ngân sách
thành chiếc bánh mà ngành nào, địa phương nào cũng muốn tranh thủ chia phần.
Mặc dù trong chiến lược phát triển kinh tế dài hạn có định hướng phát triển
vùng và các vùng kinh tế lớn đều có quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội dài
hạn, nhưng trên thực tế, nhà nước đã không sử dụng trực tiếp đầu tư công để
thúc đẩy sự phát triển vùng theo những định hướng đã vạch ra. Thậm chí việc
thống kê vốn đầu tư theo vùng cũng khó làm được bởi các dự án không có số
liệu tính theo địa giới vùng. Đây là nguyên nhân của sự đầu tư chồng chéo, trùng
lặp ở một số vùng có điều kiện phát triển thuận lợi, trong khi đó ở những vùng
khác ít có điều kiện hơn thì sự thiếu hụt đầu tư lại thể hiện rõ rệt
*.Tình trạng lãng phí trong việc sử dụng đồng tiền vay nợ của đầu tư công

Tình trạng lãng phí trong việc sử dụng đồng tiền vay nợ của đầu tư công
ngày càng đáng báo động. Tình trạng phổ biến ở mọi ngành, mọi nơi là đầu tư
dở dang, kéo dài, dự án đầu tư chậm đưa vào hoạt động, chi phí đầu tư ngày
càng tăng. Sự dàn trải, kém hiệu quả của đầu tư công thể hiện rõ nhất qua hàng
loạt các cảng biển, sân bay, khu kinh tế ven biển và khu kinh tế cửa khẩu. Thống
kê cho thấy, tại 24 tỉnh, thành duyên hải có 266 cảng biển, trong đó chỉ có 9
Nhóm 10 - Lớp Kinh tế Đầu tư 51E
23
Mối quan hệ giữa đầu tư công và nợ công. Liên hệ với thực tiễn ở Việt Nam
cảng có khả năng cải tạo, nâng cấp để tiếp nhận tàu 50.000 DWT - là loại tàu
trung bình trên thế giới. Chính phủ cũng đã phê duyệt 15 dự án khu kinh tế ven
biển với tổng diện tích 662 nghìn ha (2% diện tích tự nhiên của Việt Nam), ước
tính cần 2.000 tỷ USD (bằng toàn bộ đầu tư cả nước trong 50 năm nữa) để đầu
tư. Ở miền Trung, với chiều dài bờ biển khoảng 600km, đã có trên 15 cảng
biển,như vậy cứ khoảng 30-40km lại có 1 cảng biển. Tuy nhiên, các cảng biển
này lại không hoạt động hết công suất, hiệu quả chỉ mới thể hiện trên báo cáo
nghiên cứu khả thi; cảng nào cũng được coi là cảng nước sâu nhưng lại không
thể đón những tàu trên 30.000 tấn (trong khi các cảng nước sâu có thể đón
những tàu có trọng tải hàng trăm nghìn tấn). Việc có quá nhiều cảng trong một
cự ly ngắn khiến hoạt động của các cảng bị chồng chéo, không phát huy được
tiềm năng thực sự.
Hiện nay nước ta có 15 khu kinh tế, 28 khu kinh tế cửa khẩu với tổng diện
tích đất và mặt nước quy hoạch lên tới 1.162.249 héc ta. Ngoài ra còn có 194
khu công nghiệp với tổng diện tích gần 46.600 ha, cùng với 1.643 cụm công
nghiệp với gần 73.000 ha do UBND cấp tỉnh phê duyệt quy hoạch đến năm
2020. Với tỷ lệ lấp đầy diện tích các khu công nghiệp 50-60% thì cần ít nhất 10-
15 năm nữa và số vốn đầu tư cần ít nhất là 50 tỷ USD để lấp đầy 100% diện tích
hiện có. Theo báo cáo tổng kết nhiệm kỳ chính phủ vừa qua, tổng nguồn vốn
đầu tư toàn xã hội 5 năm ( 2006-2010) huy động gấp 2,5 lần so với giai đoạn
2001-2005, đạt 42,7% GDP, còn tổng vốn đầu tư công chiếm 43,5% tổng vốn

đầu tư toàn xã hội. Điều đáng quan tâm ở đây là hiệu quả sử dụng vốn đầu tư lại
giảm tỉ lệ thuận với tiến trình phân cấp đầu tư cho các bộ, ngành, địa phương đã
không kèm 1 cơ chế giám sát, kiểm tra hiệu quả.Việc phân trách nhiệm cho
người quyết định đầu tư và người thực hiện đầu tư chưa rõ ràng. Có những công
trình đầu tư mà chủ đầu tư chưa kịp làm gì đã bán lại cho đối tượng khác để thu
1 lượng phí, không loại trừ việc mua đi bán lại này qua nhiều trung gian,khiến
vốn để thi công công trình ngày một giảm.
*.Thực trạng hiệu quả đầu tư công thấp từ phía doanh nghiệp Nhà nước
(DNNN)
Nhóm 10 - Lớp Kinh tế Đầu tư 51E
24

×