Tải bản đầy đủ (.doc) (82 trang)

SỐ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG THU HÚT VỐN ĐẦU TƯNƯỚC NGOÀI VÀ NÂNG CAO TÁC ĐỘNG TÍCH CỰC CỦA ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI KHU CN VÙNG KT TRỌNG ĐIỂM PHÍA BẮC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.21 MB, 82 trang )

MỤC LỤC
Danh mục viết tắt
1.1.2.1.Những tác động tích cực 5
1.1.Thuận lợi 28
1.2.Khó khăn: 30
Thúc đẩy phát triển công nghiệp của địa phương và của vùng 52
Tạo việc làm cho người lao động 53
Tác động tràn của vốn ĐTTTNN tại vùng KTTĐ Bắc Bộ đối với doanh nghiệp 56
3.1.1. Việt Nam với chiến lược phát triển các khu công nghiệp - khu chế xuất 64
3.5.1. Khi đổi mới và tăng cường công tác xúc tiến đầu tư, cần chú trọng tạo thuận lợi để thu hút
các công ty xuyên quốc gia và thúc đẩy phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ 77
3.5.2. Nâng cao năng lực tiếp thu công nghệ của các doanh nghiệp Việt Nam 78
3.5.3. Tăng cường công tác thông tin và dự báo kinh tế hỗ trợ doanh nghiệp nâng cao năng lực
cạnh tranh 78
Danh mục tài liệu tham khảo 80
SV: Nguyễn Xuân Thuỷ Lớp: Kinh tế Đầu tư 48B - QN
Danh mục viết tắt
KCN Khu công nghiệp
KCX Khu chế xuất
KCNC Khu công nghệ cao
KTTĐ Kinh tế trọng điểm
ĐTTTNN Đầu tư trực tiếp nước ngoài
ĐTNN Đầu tư nước ngoài
BQL Ban quản lý
CNH-HĐH Công nghiệp hóa-hiên đại hóa
CNĐP Công nghiệp địa phương
SXCN Sản xuất công nghiệp
QD Quốc doanh
DN Doanh nghiệp
TNC Công ty xuyên quốc gia
FDI Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài


KT-XH Kinh tế - xã hội
SV: Nguyễn Xuân Thuỷ Lớp: Kinh tế Đầu tư 48B - QN
CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
CÁC KHU CÔNG NGHIỆP Ở VIỆT NAM
1.1.Khái niệm và đặc điểm khu CN
1.1.1. Khái niệm khu CN và đặc điểm của khu công nghiệp .
1.1.1.1. Quá trình hình thành KCN trên Thế giới và khái niệm KCN ở Việt
Nam
Khu công nghiệp( Industrial Zone ) là một kiểu tổ chức lãnh thổ công nghiệp
ra đời từ cuối thế kỉ XIX và đầu thế kỉ XX ở một số nước tư bản phát triển như Mĩ,
Đức, Anh , Ý .
Các nước tư bản cho rằng để thực hiện được mục tiêu “ cực đại hoá lợi nhuận
và cực tiểu hoá chi phí” thì việc phân bố và hình thành KCN phải tập trung vào khu
vực nhất định . Họ xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng (đường giao thông, đường
ống dẫn nước, đường dây điện, đường dẫn khí và các đường dây liên lạc…) sau đó
xây dựng các xí nghiệp để bán nhằm mục đích tập trung và đầu tư tích tụ tư bản.
Sau chiến tranh thế giới lần thứ 2, các KCN phát triển mạnh về số lượng, quy mô,
loại hình và phạm vi hoạt động. Các KCN không chỉ được xây dựng ở Châu Âu,
Châu Mĩ mà còn được xây dựng ở các châu lục khác như Châu Á, Châu Phi, Châu
Úc. Riêng khu vực châu Á hiện nay có khoảng trên 3200 KCN đang hoạt động và
xây dựng.
Trong xu thế toàn cầu hoá ngày càng diễn ra mạnh mẽ, các nước đang phát
triển đã nhanh chóng nhận ra sự khó khăn. Thực tế đó làm xuất phát nhu cầu thu hút
nguồn vốn từ các nhà đầu tư nước ngoài có tiềm năng lớn. Tuy nhiên, ý tưởng này
gặp trở ngại là bản thân các nước phát triển ko đủ sức tạo ra một môi trưởng đầu tư
thông thoáng, hấp dẫn trên toàn quốc để thu hút các nhà đầu tư. Do đó, các nước
này đã tập trung phát triển, liên kết vào một khu vực nhất định. Đó là nguồn gốc
khách quan cho ra đời các KCN tập trung. Tại đây, ngoài các yếu tố tự nhiên thuận
lợi như gần các đầu mối giao thông, gần nguồn nguyên liệu…Chính phủ còn cho

xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng tương đối đồng bộ, áp dụng các thủ tục hành
chính đơn giản … làm tăng thêm tính hấp dẫn đối với các nhà đầu tư, đặc biệt là các
SV: Nguyễn Xuân Thuỷ Lớp: Kinh tế Đầu tư 48B - QN
1
nhà đầu tư nước ngoài. Như vậy, KCN thực sự là nơi gặp gỡ và thoả mãn các nhu
cầu, lợi ích của các nhà đầu tư và nước nhận đầu tư.
Cùng với sự phát triển của ngành công nghiệp, mô hình KCN cũng ngày càng
đa dạng và phong phú. Tuỳ thuộc vào trình độ phát triển và yêu cầu của mỗi quốc
gia, trong những giai đoạn nhất định mà có các quan niệm khác nhau vể KCN. Ví
dụ như Trung Quốc và một số nước phương Tây quan niệm KCN như khu hành
chính kinh tế, ở đó có đầy đủ các phân khu chức năng: hành chính, dịch vụ, sản xuất
thương mại, khu vui chơi giải trí…hoặc như ở Thái Lan, Philippin quan niệm KCN
như một thành phố công nghiệp vì ngoài việc cung cấp cơ sở hạ tầng, các tiện nghi,
tiện ích công cộng hoàn chỉnh và xử lí nước thải, các KCN còn bao gồm khu
thương mại, trường học, bệnh viện, dịch vụ ngân hang, khu vui chơi giải trí, nhà ở
cho công nhân…Tuy vậy, các mô hình KCN đã hình thành có thể được khái quát
thành hai mô hình chính:
Thứ nhất, các KCN là khu vực lãnh thổ có giới hạn nhất định, ở đó tập trung
các doanh nghiệp công nghiệp và dich vụ sản xuất công nghiệp, không có dân cư
sinh sống như các khu công nghiệp ở Indonexia, Maylaxia và một số các nước khác.
Thứ hai, KCN là khu vực lãnh thổ rộng va có nền tảng là sản xuất công
nghiệp, đan xen với nhiều hoạt động dich vụ, kể cả dịch vụ sàn xuất công nghiệp,
dich vụ sinh hoat, khu thương mại, khu vui chơi giải trí, văn phòng, nhà ở… Thực
chất, mô hình này là khu hành chính kinh tế đặc biệt như các khu công nghiệp
batam ( Indonexia), các công viên công nghiệp ở Đài Loan và một số nước Tây Âu.
Ở Việt Nam, vào thập niên 60, 70 của thế kỉ XX, được sự trợ giúp của Trung
Quốc, Cộng hoà Dân chủ Đức, Liên Xô… Một số KCN đã được xây dựng ở các
tình phía Bắc như KCN Việt Trì, KCN Thái Nguyên, KCN Thượng Đình Hà Nội…
Ở phía Nam có các khu công nghiệp Biên Hoà, KCN Trà Nóc… đây là các KCN
ban đầu ban đầu hình thành theo mô hình cũ, có đặc điểm là chưa có tường bao

riêng và hệ thống xử lí nước thải. Chỉ từ năm 1991 trở lại đây, các KCN theo mô
hình mới được hình thành và phát triển. Khởỉ đầu là KCN Tân Thuận tại thành phố
Hồ Chí Minh, đến nay đã trải qua 19 năm phát triển. Các KCN đã góp phần thúc
đẩy công nghiệp phát triển, tăng trưởng kinh tế, hình thành các trung tâm công
nghiệp gắn liền với phát triển đô thị, đẩy nhanh quá trình chuyển dich cơ cấu kinh tế
SV: Nguyễn Xuân Thuỷ Lớp: Kinh tế Đầu tư 48B - QN
2
theo hướng CNH – HDH, góp phần giải quết công ăn việc làm cho lao động địa
phương, đào tạo cán bộ quản lí, công nhân lành nghể, tạo điểu kiện để xử lí các tác
động tới môi trường một cách tập trung. Các KCN thực sự đóng vai trò tích cực
trong công cuộc CNH – HDH.
Theo luật đầu tư năm 2005, định nghĩa về KCN, KCX như sau: “ Khu công
nghiệp là khu chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản
xuất công nghiệp, có ranh giới địa lí xác định, được thành lập theo quy định của
Chính Phủ”.
Như vậy, KCN của Việt Nam được hiểu theo nghĩa hẹp (mô hình 2), chỉ là nơi
tập trung các cơ sở sản xuất và dịch vụ phục vụ sản xuất công nghiệp.
Trong giai đoạn đầu, mô hình này là tương đối thích hơpj, nó phù hợp với khả
năng của công ty phát triển hạ tầng, tuy nhiên qua một quá trình phát triển mô hình
này đã bộc lộ khá nhiều bất cập: các KCN hoặc biệt lập với khu dân cư hoặc nằm
quá gần các trục quốc lộ và thường không được phát triển đồng bộ với hệ thống kết
cấu hạ tầng ngoài hang rào KCN nên gặp rất nhiều khó khăn trong các vấn để cung
ứng lao động, cung cấp các tiện ích công nghiệp và phục vụ đời sống, bảo vệ môi
trường và thu hút đầu tư. Mô hình này chưa đáp ứng được yêu cầu công cuộc công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước cũng như quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và
cần được hoàn thiện trong thời gian tới.
1.1.2. Đặc điểm các KCN.
Cho đến nay, các KCN đã được phát triển mạnh mẽ ở hầu hết các quốc gia, đặc
biệt là các nước đang phát triển. Tuy có sự khác nhau về quy mô, địa điểm va
phương thức xây dựng cơ sở hạ tầng nhưng các KCN vẫn có các đặc điểm chung.

Các đặc điểm chủ yểu của các KCN ở VIệt Nam là:
- Về tính chất hoạt động: KCN là nơi tập trung các doanh nghiệp sản xuất công
nghiệp và các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ mà không có dân cư, là nưoi xây
dưng để thu hút các đơn vị sản xuất sản phẩm công nghiệp hoặc các đơn vị kinh
doanh dịch vụ gắn liền với sản xuất công nghiệp. Theo điều 6, quy chế KCN, KCX
ban hành kèm Nghị định 36Cp thì doanh nghiệp KCN có thể là các doanh nghiệp
Việt Nam thuộc mọi thành phần kinh tế, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
SV: Nguyễn Xuân Thuỷ Lớp: Kinh tế Đầu tư 48B - QN
3
hoặc các bên tham gia hợp tác kinh doanh, các doanh nghiệp này được quyền kinh
doanh các lĩnh vực:
+ Sản xuất, gia công, lắp ráp các sản phẩm công nghiệp để xuất khẩu và tiêu
dung trong nước; phát triền và kinh doanh bằng sáng chế, bí quyết kỹ thuật, quy
trình công nghệ.
+ Nghiên cứu triển khai khoa học công nghệ để nâng cao chất lượng và tạo
sản phẩm mới.
+ Dịch vụ hỗ trợ sản xuất công nghiệp.
+ Xây dựng và kinh doanh các công trình kết cấu hạ tầng.
- Về tổ chức quản lí: mỗi KCN đều thành lập hệ thống ban quản lí KCN cấp
tỉnh tại các tỉnh, thành phố trực thuộc TW để trực tiếp thực hiện các chức năng quản
lí nhà nước đối với hoạt động sản xuất, kinh doanh trong khu công nghiệp KCN. Ở
tầm vĩ mô, quản lí các KCN còn gồm có nhiều Bộ như Bộ kế hoạch và đầu tư, Bộ
Thương mại Bộ công nghiệp, Bộ xây dựng.
- Về cơ sở hạ tầng kĩ thuật: các KCN đều xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng
tạo điều kiện cho hoạt động sản xuất kinh doanh như đường, hệ thống điện nước,
điện thoại…Thông thường việc phát triển cơ sở hạ tầng trong KCN do một công ty
xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng đảm nhiệm. Ở Việt Nam, những công ty này là
các doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài hoặc doanh
nghiệp trong nước thực hiện. Các công ty phát triển cơ sở hạ tầng KCN sẽ xây dựng
các kết cấu hạ tầng sau đó cho phép cho các doanh nghiệp thuê lại.

1.1.2.Những tác động của các KCN trong quá trình phát triển.
Quá trình phát triển các KCN đã và đang tạo ra các lợi ích to lớn không thể
phủ nhận đối với nền kinh tế mỗi quốc gia, đặc biệt là Việt Nam. Tuy vậy, bên cạnh
những lợi ích mang lại, quá trình phát triển các KCN cũng để lại không ít những
tiêu cực trong mỗi bước đi. Do đó, để có một cái nhìn toàn diện khi xem xét quá
trình phát triển các KCN, ta cần nhìn nhận những tác động trên cả hai phương diện:
tích cực và tiêu cực.
SV: Nguyễn Xuân Thuỷ Lớp: Kinh tế Đầu tư 48B - QN
4
1.1.2.1.Những tác động tích cực.
- KCN là nơi tiếp nhận và tập trung nguồn vốn, công nghệ và kinh nghiệm
quản lí từ các nhà đầu tư nước ngoài để mở rộng sản xuất, nâng cao sức cạnh tranh.
Với ưu điểm về vị trí địa lí, kết cấu hạ tầng, các ưu đãi về tài chính và thủ tục hành
chính là môi trường hấp dẫn đối với các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài. Đặc
biệt khi các nước phát triển luôn thiếu hụt các nguông lực để phát triển kinh tế thì
việc hợp tác với nhà đầu tư nước ngoài chính là chìa khoá để bổ sung, tiếp thu hai
nguồn lực là vốn và công nghệ.
- Các KCN được xây dựng và phát triển tạo ra nguồn hàng hoá dồi dào phục
vụ nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu, tăng thu ngoại tệ vào ngân sách, đẩy
nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, góp phẩn chuyển dich cơ cấu kinh tế và đẩy
nhanh tốc độ CNH-HDH, tạo điều kiện để phát triển ngành công nghiệp theo quy
hoạch và có kế hoạch, sử dụng hiểu quả vốn đầu tư, tiết kiệm chi phí sản xuất và đất
đai.
- KCN phát triển thúc đẩy các vùng kinh tế mới của đất nước, tạo lập và thúc
đẩy các quan hệ liên kết tích cực, trực tiếp và gián tiếp giữa các cơ sở kinh doanh và
ngoài KCN để tạo ra những xung lực mới cho phát triển kinh tế toàn đất nước. Sự
liên kết này tạo cho các KCN khả năng tận dụng các nguồn lực trong nước, các
nguồn lực được sử dụng kém hiệu quả ở nơi khác. KCN là nơi tập trung nhân tài,
vật lực của quốc gia và được xây dựng tập trung thành những điểm nổi bật trong bộ
mặt kinh tế cả nước. KCN là đẩu tầu tăng trưởng kéo theo sự phát triển của vùng

lân cận và các vùng khác của đất nước. Tác động lan toả của KCN với các vùng lân
cận giúp tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế.
- Tạo ra nhiều việc làm, tăng thu nhập cho người lao động, góp phần chuyển
đổi cơ cấu lao động. Các KCN ra đời kéo theo sự phát triển các ngành công nghiệp
và các ngành dịch vụ khác. Điều đó giúp tạo thêm nhiều việc làm cho người lao
động. Vì vậy, phát triển KCN tạo nhiều hơn chỗ làm cho người lao động là một
trong những mục tiêu quan trọng của những nước đang phát triển.
- KCN là môi trường tốt nhất để đào tạo nguồn nhân lực phục vụ cho sự
nghiệp CNH – HDH đất nước. KCN là nơi mà người lao động và các nhà quản lí có
điều kiện học hỏi và nâng cao tay nghề, tiếp thu và nắm bắt công nghệ hiện đại,
SV: Nguyễn Xuân Thuỷ Lớp: Kinh tế Đầu tư 48B - QN
5
kinh nghiệm quản lí tiên tiến, tính kỉ luật lao động và tác phong công nghiệp. Ở đó,
họ phải biết tự giác tham gia vào quá trình đào tạo và tự đào tạo để luôn luôn thích
ứng của yêu cầu phát triển mỗi doanh nghiệp. Mặt khác, để đáp ứng được yêu cầu
của các doanh nghiệp trong KCN buộc các nhà quản lí phải nâng cấp khả năng để
luôn đáp ứng được các đòi hỏi của nhà đầu tư. KCN còn là kênh lớn và trực tiếp
nhất để thực hiện chuyển giao công nghệ, kinh nghiệm quản lí tiên tiến của nước
ngoài để phát triển kinh tế.
- KCN là nơi xử lí nước thải tập trung, phục vụ mục tiêu phát triển công
nghiệp bền vững, điển hình là các KCN Biên Hoà 2, KCN Bắc Thăng Long, KCN
Dung Quất.
- KCN đóng vai trò rất quan trọng trong chính sách kinh tế đối ngoại của
quốc gia. Có thể nói KCN là nơi đi đầu trong việc phát triển kinh tế đối ngoại và
thường thể hiện xu hướng của chính sách đối ngoại của toàn nền kinh tế.
1.1.2.2.Những tác động tiêu cực.
Mặt trái trong việc phát triển các KCN cũng luôn tồn tại song song với
những vai trò mà các KCN mang lại. Những tác động tiêu cực cơ bản trong quá
trình phát triển các KCN là:
- Sự tập trung các KCN ở những vùng lãnh thổ nhiều tiểm năng tạo ra sự mất

cân đối giữa các vùng miền trong cả nước. Điều này làm gia tăng khoảng cách phát
triển giữa các vùng, mất đi tính bển vững của sự phát triển.
- Sự tập trung nhiều đơn vị sản xuất làm tăng nguy cơ ôi nhiễm môi trường
nếu hệ thống xử lí nước thải ko tốt,
- Do sự tập trung hoá các cơ sở sản xuất vào khu vực nhất định tao ra sự di
cư tự nhiên lao động tử các vùng nông thôn ra các đô thị và KCN làm sức ép về nhà
ở, các công trình công cộng dẫn tới hiện tượng tắc nghẽn giao thông, mất trật tự xã
hội và gia tăng tệ nạn xã hội nếu không có biện pháp quản lí tốt.
- Sự phát triển các KCN làm cho nguồn tài nguyên thiên nhiên trong nước
cạn kiệt, nhất là các tài nguyên khan hiếm như đất, nước, khoáng sản…nếu không
có biện pháp khai thác và bảo tồn hợp lí.
SV: Nguyễn Xuân Thuỷ Lớp: Kinh tế Đầu tư 48B - QN
6
- Các KCN nếu không được quản lí tốt và không có hiệu quả sẽ trở thành
gánh nặng nợ nần cho quốc gia.
- Phát triển KCN đồng nghĩa tăng các nhà đầu tư nước ngoài và nhân tố quốc
tế bên cạnh những tác động tích cực cũng mang theo những pha trộn văn hoá, sự
xâm nhập các luồng tư tưởng chính trị khác nhau làm phức tạp thêm tình hình xã
hội trong nước, gây khó khăn trong việc bảo tồn các giá trị văn hoá dân tộc.
1.2. Vai trò của khu CN
1.2.1. Vai trò của các khu công nghiệp trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế
Toàn cầu hoá kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ và gắn liện với nó là ngày càng
có nhiều nước hội nhập và hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế khu vực và thế giới, ở
nước ta, tư duy về hội nhập kinh tế quốc tế cũng được hình thành và phát triển tích
cực qua các kì Đại hội Đảng. Quan điểm “sẵn sàng mở rộng quan hệ kinh tế với tất
cả các nước, các công ty nước ngoài trên cơ sở hai bên cùng có lợi và không có điều
kiện chính trị ràng buộc, nhưng phải chủ động phòng ngừa, tránh bị lệ thuộc”(Đại
hội Đảng khoá VI,1986) đã nâng cao thành “đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ
quốc tế” (Đại hội Đảng khoá VII, 1991), “trên cơ sở phát huy nội lực, thực hiện
nhất quán, lâu dài chính sách thu hút các nguồn lực bên ngoài; tích cực chủ động

thâm nhập, mở rộng thị trường quốc tế” (Đại hội Đảng khoá IX, 2001), “lấy phục
vụ lợi ích đất nước làm mục tiêu cao nhất và là nguyên tắc chủ đạo; đồng thời linh
hoạt, mềm dẻo, phù hợp với thông lệ quốc tế” (Đại hội Đảng khoá X, 2006). Như
vậy, quan điểm chấp nhận hội nhập đã được nâng lên “chủ động và tích cực hội
nhập kinh tế quốc tế. Đây là bước đột phá trong quan điểm của Đảng, đóng vai trò
tích cực đối với phát triển kinh tế-xã hội của Việt Nam trong những năm qua.
Để hội nhập và phát triển trong điều kiện nền tích luỹ nội bộ còn thấp thì thu
hút được nhiều vốn đầu tư nước ngoài là rất quan trọng. Khu công nghiệp, khu chế
xuất là một mô hình quản lý kinh tế hiện đại, tập trung, hiệu quả, là giải pháp hữu
hiệu nhằm huy động vốn đầu tư nước ngoài, cũng là điểm giao thoa của nền kinh tế
Việt Nam với nền kinh tế thế giới. Từ đó chúng ta có thể từng bước học hỏi, nâng
cao nhận thức và chuẩn hoá luật pháp, các quy trình và thông lệ theo tiêu chuẩn
quốc tế, đưa đất nước từng bước hội nhập, trở thành nước công nghiệp theo hướng
hiện đại vào năm 2020. Theo đường lối đổi mới đó của Đảng, khu công nghiệp
(KCN), khu chế xuất (KCX) ở Việt Nam ra đời và phát triển mạnh mẽ.
SV: Nguyễn Xuân Thuỷ Lớp: Kinh tế Đầu tư 48B - QN
7
Từ khi khu công nghiệp đầu tiên (KCN Tân Thuận, thành phố Hồ Chí Minh)
được thành lập năm 1991, sau 19 năm, việc xây dựng và phát triển KCN đã được
Nhà nước đặc biệt quan tâm. Tính đến hết năm 2009, cả nước có 172 KCN nằm ở
44 tỉnh, thành phố, với tổng diện tích đất tự nhiên trên 22256 ha (không kể các khu
kinh tế tổng hợp như Chu Lai, Dung Quất, Nhơn Hội…). Trong đó, 90 KCN đã đi
vào hoạt động, các khu còn lại đang trong quá trình giải phóng mặt bằng, xây dựng
kết cấu hạ tầng. Trong quy hoạch từ nay đến năm 2010, cả nước sẽ thành lập và xây
dựng mới gần 100 KCN, đồng thời mở rộng thêm gần 30 KCN khác, đưa tỷ trọng
giá trị sản xuất công nghiệp của các KCN (trong tổng giá trị sản xuất công nghiệp
cả nước) từ 26,4% hiện nay lên 35% và tỷ lệ xuất khẩu (trong giá trị xuất khẩu cả
nước) tăng 18,7% lên 32% vào 2010. Các KCN tập trung chủ yếu ở các tỉnh thuộc 3
vùng kinh tế trọng điểm, là các mũi nhọn phát triển công nghiệp của địa phương và
của vùng. Số lượng các KCN được phân bố như sau :

• Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ có 50 khu, diện tích 4601 ha, lao
động Việt Nam 116.668 người.
• Vùng kinh tế trọng điểm Nam Bộ có 69 khu, diện tích 16.565 ha, lao
động Việt Nam 592.109 người.
• Vùng kinh tế trọng điểm Trung Bộ có 14 khu, diện tích 2.495 ha, lao
động Việt Nam 83.204 người.
• Các khu vực khác có 39 khu, diện tích 5.731 ha, lao động Việt Nam
126.273 người.
Như vậy, riêng 3 vùng KTTĐ đã chiếm tới 77% số KCN, 81% diện tích đất
KCN và 86% lao động trong tổng số KCN trong cả nước. Hơn nữa, 3 vùng KTTĐ
lại có điều kiện về cơ sở hạ tầng và kinh tế- xã hội thuận lợi hơn các vùng khác. Do
vậy, thu hút đầu tư vào các KCN tại 3 vùng KTTĐ đóng vai trò then chốt trong tiến
trình công nghiệp hoá hiện đại hoá, tạo đà cho tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế
của Việt Nam trong thời gian tới.
Điển hình như tỉnh Đồng Nai tại vùng KTTĐ phía Nam, - địa phương nổi lên
là một trong những tỉnh có các KCN phát triển mạnh nhất - đặt mục tiêu: đến năm
2010, thu hút 30 tỉ USD vốn đầu tư vào các KCN, trong đó đầu tư mới là 20 tỉ USD
và đầu tư mở rộng 10 tỉ USD. Đã có 26 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào tỉnh
Đồng Nai, trong đó Đài Loan 2,47 tỉ USD, Hàn Quốc 1,13 tỉ USD, Nhật Bản 1,06 tỉ
SV: Nguyễn Xuân Thuỷ Lớp: Kinh tế Đầu tư 48B - QN
8
USD, Mỹ 203 triệu USD, Liên minh châu Âu 601 triệu USD, các nước ASEAN
1.470 triệu USD. Tính đến hết năm 2009, các KCN Đồng Nai đã thu hút được 928
dự án đầu tư với tổng vốn đăng ký 10,34 tỉ USD. Trong đó, 210 doanh nghiệp trong
nước với tổng vốn đầu tư khoảng 632 triệu USD, chiếm 7% tổng vốn đầu tư vào các
KCN, doanh nghiệp liên doanh có khoảng 58 dự án, tổng vốn đăng ký trên 900 triệu
USD, chiếm 11%, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài trên 480 dự án, tổng vốn
đăng ký hơn 7500 triệu USD, chiếm 83%.
Theo các nhà quản lý kinh tế, nhờ tốc độ tăng trưởng và hiệu quả hoạt động
của các KCN trên toàn quốc tiếp tục được giữ vững nên dòng vốn đầu tư của các

doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và trong nước đều tăng đều đặn, trong đó
có nhiều dự án công nghiệp công nghệ cao. Vì vậy, nhiều KCN đã được Chính phủ
cấp phép thành lập mới hoặc mở rộng, như KCN Tân Trường (199,3 ha, thuộc tỉnh
Hải Dương); KCN Đại Đồng - Hoàn Sơn (230 ha, tỉnh Bắc Ninh). KCN Ninh Phúc
(Ninh Bình) giai đoạn 1 được mở rộng thêm 40,8 ha. Chỉ tính riêng năm 2009, đã
có 12 KCN được cấp phép và bắt đầu xây dựng cơ sở hạ tầng trên cả nước với tổng
diện tích là 2500 ha bằng 7,9% so với tổng diện tích KCN trước 2009.
Cùng với việc Việt Nam gia nhập WTO vào tháng 11 năm 2006, triển vọng
thu hút đầu tư nước ngoài nói chung vào các KCN từ nay đến năm 2010 được mở
rộng hơn bất cứ thời điểm nào trong lịch sử phát triển các KCN. Việt Nam trở thành
điểm đầu tư hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài đặc biệt là các thành viên
của WTO. Các đoàn doanh nghiệp lớn, công nghệ cao liên tục đến Việt Nam tìm
hiểu cơ hội đầu tư. Nhiều dự án lớn với vốn đầu tư trên 500 triệu USD đã và đang
được cấp phép và đi vào hoạt động như dự án nhà máy sản xuất thép của Tập đoàn
Posco (Hàn Quốc) tại Khu công nghiệp Phú Mỹ 2, với tổng vốn đầu tư đăng ký gần
1,2 tỷ USD, dự án của Tập đoàn Intel vốn đầu tư 605 triệu USD. Đối với đầu tư
trong nước, Luật Doanh nghiệp và Luật đầu tư tiếp tục phát huy hiệu quả, được
đánh giá là có tiềm năng to lớn trong việc huy động vốn. Theo dự báo, những lĩnh
vực có triển vọng hơn cả trong việc thu hút đầu tư vào các KCN trong 5 năm tới sẽ
là ngành công nghiệp năng lượng (điện, than và dầu khí); tiếp đến là công nghiệp ô
tô; công nghiệp dệt may, da giày; cơ khí đóng tàu; sản xuất máy móc, thiết bị điện
tử, thiết bị thông tin, phần mềm và vật liệu xây dựng.
SV: Nguyễn Xuân Thuỷ Lớp: Kinh tế Đầu tư 48B - QN
9
1.2.2. Đóng góp của các khu CN vào thành tựu phát triển kinh tế-xã hội của cả
nước
Nhờ việc tích cực thực hiện cải cách kinh tế và chủ động hội nhập kinh tế
quốc tế theo chủ trương của Đại hội Đảng đề ra, trong 23 năm đổi mới vừa
qua(1986-2009), Việt Nam đã đạt được những thành quả quan trọng về kinh tế cũng
như đời sống văn hoá, xã hội.

- Tỷ lệ tăng trưởng cao và liên tục trong nhiều năm (trung bình giai đoạn
2001-2009 đạt 7,1%), riêng năm 2009 đạt 5,32%, tổng GDP toàn xã hội ước tính
đạt 91 tỷ USD, GDP đầu người đạt 1055 USD giảm so với năm 2008 là 6,23%,GDP
khoảng 89tỷ USD.
- Cơ cấu ngành kinh tế thay đổi theo công nghiệp hóa, hiện đại hóa (chuyển
dịch theo hướng tăng tỷ trọng khu vực công nghiệp, xây dựng và dịch vụ, giảm tỷ
trọng khu vực nông lâm nghiệp và thuỷ sản). Tỷ trọng khu vực công nghiệp và xây
dựng từ 40% năm 2008 lên 41,7% trong năm 2009 và khu vực dịch vụ tăng từ 38,%
lên 38,08%; khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản giảm từ 22% xuống còn
20,22%.; tỷ lệ tiết kiệm tăng nhanh (gấp 3,2 lần, từ 11% GDP năm 1986 lên 41%
năm 2009).
- Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam đạt mức xấp xỉ 56,5 tỷ USD, giảm
7,6% so với năm 2008 . Số mặt hàng xuất khẩu chủ lực đạt giá trị từ 1,1 tỉ USD trở
lên tăng từ 0 mặt hàng năm 1981 lên 11 năm 2006, trong đó 4 mặt hàng chủ lực là
dầu thô, dệt may, giày dép và thuỷ sản kim ngạch mỗi mặt hàng đạt trên 3,4 tỷ USD.
- FDI và ODA ngày càng đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế,
góp phần cung cấp vốn, cải thiện công nghệ và phương thức quản lý tiên tiến, tạo ra
những sản phẩm có chất lượng cao hơn, thị trường xuất khẩu lớn hơn, đa dạng hơn,
tăng tính cạnh tranh và tạo việc làm cho người lao động. Đầu tư trực tiếp nước
ngoài (FDI) giảm mạnh so với những năm trước, đạt khoảng 11 tỷ USD, tỷ suất
FDI/GDP tăng từ cuối thập kỷ 1980 lên 6,41% năm 1994 lên 16,5% năm 2009.
Tổng lượng vốn ODA đạt giá trị 2.966 triệu USD, trong đó vốn vay đạt 3.425 triệu
USD và vốn viện trợ đạt 294 triệu USD, cam kết năm 2008 là 5,5 tỷ USD. Xuất
khẩu hàng hoá năm 2009 ước tính đạt 37,6 tỷ USD, trong đó khu vực có vốn đầu tư
nước ngoài đóng góp 14,5 tỷ USD, tăng 27,1% so với năm 2008, đóng góp 44,3%
vào tổng giá trị xuất khẩu cả nước.
Trong sự phát triển rất mạnh mẽ của nền kinh tế Việt Nam, KCN là điểm
then chốt, đóng góp to lớn cho tăng trưởng kinh tế, giữ vai trò quan trọng trong định
SV: Nguyễn Xuân Thuỷ Lớp: Kinh tế Đầu tư 48B - QN
10

hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động, tăng cường khả năng tiếp nhận
công nghệ hiện đại, kinh nghiệm quản lý tiên tiến, tạo việc làm cho người lao động,
góp phần xoá đói, giảm nghèo, thúc đẩy xuất nhập khẩu, thể hiện ở những khía cạnh
chủ yếu sau:
- Trong năm 2009, giá trị sản xuất công nghiệp của doanh nghiệp trong các
KCN cả nước (không kể doanh thu dịch vụ) đạt 19,8 tỷ USD, tăng 17% so với năm
2008 và chiếm khoảng 30% tổng giá trị sản xuất công nghiệp cả nước.
- Trong đó, giá trị xuất khẩu hàng hóa của DN KCN đạt khoảng 9,4 tỷ USD,
tăng hơn 15% so với năm 2006 và chiếm 28% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng công
nghiệp xuất khẩu của cả nước.
- Trong năm, các doanh nghiệp KCN đã nộp ngân sách Nhà nước khoảng 1
tỷ USD, tăng 32,4% so với năm 2008.
- Thu hút lượng khá lớn vốn đầu tư trong và ngoài nước. Riêng đầu tư trực
tiếp nước ngoài, tính chung cả vốn đăng ký mới và vốn bổ sung vào các KCN trong
năm 2009 đầu tư đạt 10,5792 tỷ USD tăng gần 2 lần so với năm 2008, chiếm 56%
tổng vốn FDI đăng ký mới và bổ sung trong năm của cả nước. Đầu tư trong nước
cũng diễn biến khả quan với hơn 110 dự án đầu tư trong nước với tổng vốn đầu tư
đăng ký đạt trên 101414 tỷ đồng (tương đương 540 triệu USD). Tổng hợp đến cuối
năm 2009, các KCN đã thu hút được 2839 dự án FDI với tổng vốn đầu tư đăng ký
đạt 24,79 tỷ USD,số dự án trong nước là 2723 dự án, với tổng vốn đầu tư đăng ký
đạt 175.790 tỷ đồng (tương đương khoảng 10 tỷ USD). Tỷ lệ so sánh giữa hai
nguồn vốn này là 0,4033 thể hiện nguồn vốn đầu tư trong nước đã có vai trò quan
trọng nhất định trong phát triển các KCN những năm qua. Như vậy, các KCN trên
cả nước có 5548 dự án còn hiệu lực, bao gồm 2733 dự án đầu tư nước ngoài, 2815
dự án đầu tư trong nước,đã có gần 4048 dự án đã đi vào sản xuất kinh doanh và trên
1500 dự án đang triển khai xây dựng cơ bản.
. Tại Hà Nội, vốn đầu tư nước ngoài vào các KCN chiếm tỷ trọng lớn, đạt
tới 98% tổng vốn đầu tư. Nguồn vốn này đóng góp 7,5% vào tổng vốn đầu tư phát
triển kinh tế - xã hội của Thành phố và được coi là xung lực, tạo sự đột phá cho sự
tăng trưởng kinh tế của Hà Nội. Năm 2005, có 76 doanh nghiệp hoạt động trong 3

KCN tập trung đã đạt tổng doanh thu 915,4 triệu USD, xuất khẩu 550,52 triệu USD,
nộp ngân sách Nhà nước 26,55 triệu USD và tạo thêm 31.160 việc làm cho người
SV: Nguyễn Xuân Thuỷ Lớp: Kinh tế Đầu tư 48B - QN
11
lao động. Mặc dù các KCN của Hà Nội chỉ chiếm 17% tổng số dự án và 18,4% tổng
vốn đăng ký của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trên địa bàn nhưng lại
chiếm tới 41% tổng doanh thu, 85% tổng kim ngạch xuất khẩu và 18,2% tổng mức
nộp ngân sách Nhà nước của các dự án đầu tư nước ngoài trên địa bàn tạo ra.
- Tạo thêm nhiều việc làm mới, góp phần làm giảm tỷ lệ thất nghiệp. Năm
2009 các KCN đã thu hút thêm gần 100.000 lao động trực tiếp, tăng 13% so với
năm trước, đưa tổng số lao động trực tiếp trong KCN lên 1042.000 người, không kể
hơn 2 triệu lao động gián tiếp khác. Tại Hà Nội, chỉ tính 76 doanh nghiệp đi vào
hoạt động, đã thu hút gần 46.000 lao động trực tiếp và khoảng 47.000 lao động gián
tiếp, bằng 40% số lao động làm việc tại các doanh nghiệp có vốn FDI trên địa bàn,
phần lớn các lao động đều được đào tạo huấn luyện để nhanh chóng nắm bắt và sử
dụng các dây chuyền sản xuất mới, làm gia tăng chất lượng nguồn nhân lực kể cả
lao động quản lý và kỹ năng lao động trực tiếp.
- Thúc đẩy việc đổi mới và hoàn thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng
lực cạnh tranh. Các doanh nghiệp trong các KCN, đi tiên phong trong việc thu hút
vốn đầu tư nước ngoài và áp dụng công nghệ, dây chuyền sản xuất tiên tiến, là mô
hình thử nghiệm thích hợp nhất để cải thiện môi trường đầu tư trong nước, đã đem
lại nhiều bài học kinh nghiệm góp phần quan trọng vào việc đổi mới, hoàn thiện thể
chế kinh tế, hệ thống pháp luật, thủ tục hành chính, nhất là thể chế tiền tệ và tín
dụng, ngoại hối của các địa phương nói riêng và cả nước nói chung. Các doanh
nghiệp này cũng góp phần làm thay đổi bộ mặt và mạng lưới thương mại hàng hoá
và dịch vụ, cơ cấu hệ thống thương mại cũng như toàn bộ lĩnh vực phân phối, lưu
thông và dịch vụ xã hội của cả nước.
- Tạo điều kiện cho các địa phương phát huy thế mạnh đặc thù của mình,
đồng thời hình thành mối liên kết, hỗ trợ phát triển sản xuất trong vùng, miền và
toan bộ lãnh thổ.

- Các KCN góp phần tạo ra những năng lực sản xuất mới, ngành nghề mới và
công nghệ mới, làm cho cơ cấu kinh tế của nhiều tỉnh, thành phố và khu vực toàn
tuyến hành lang kinh tế nói chung từng bước chuyển biến theo hướng một nền kinh
tế công nghiệp hoá, thị trường, hiện đại. Nhiều KCN nói chung đã phát triển các
ngành công nghiệp hoàn toàn mới có hàm lượng vốn lớn, công nghệ cao như thiết
bị văn phòng (Canon), điện tử (Orion -Hanel ), phụ tùng ôtô,dây chuyền sản xuầt
SV: Nguyễn Xuân Thuỷ Lớp: Kinh tế Đầu tư 48B - QN
12
và lắp ráp xe máy, vật liệu xây dựng, sản phẩm thép Theo đánh giá, những công
nghệ đang sử dụng ở các dự án FDI trong các KCN đều hiện đại hơn công nghệ vốn
có của nước ta, là cơ hội để các doanh nghiệp trong nước học hỏi và áp dụng, nâng
cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
- KCN còn góp phần quan trọng vào mở rộng thị trường, đẩy mạnh kinh tế
đối ngoại và tăng kim ngạch xuất khẩu cho khu vực hành lang kinh tế. Do đa dạng
hoá thị trường, đa phương hoá quan hệ kinh tế đối ngoại, các doanh nghiệp trong
các KCN có cơ hội đẩy mạnh xuất khẩu. Giá trị xuất khẩu hàng hóa của doanh
nghiệp KCN đạt khoảng 9,5 tỷ USD, chiếm 30% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng
công nghiệp xuất khẩu của cả nước. Các doanh nghiệp trong các KCN còn góp phần
làm thay đổi cơ cấu hàng hoá xuất khẩu và cơ cấu nhập khẩu, mở rộng thị trường
tiêu thụ trong khu vực và trên toàn thế giới.
1.2.3. Hiện đại hoá hệ thống kết cấu hạ tầng:
Việc phát triển các KCN trong những năm vừa qua không những thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế, tăng cường xuất khẩu và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, mà còn
đẩy nhanh tốc độ CNH-HĐH, góp phần đáng kể vào việc hiện đại hóa hệ thống kết
cấu hạ tầng trong và ngoài KCN, tạo thuận lợi cho vận chuyển hàng hoá, mở rộng
thị trường tiêu thụ. Điều này được thể hiện qua một số khía cạnh sau:
- Đẩy mạnh phát triển kết cấu hạ tầng các KCN có tác dụng kích thích sự
phát triển kinh tế địa phương, góp phần rút ngắn sự chênh lệch phát triển giữa nông
thôn và thành thị, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Điều này có
thể dễ dàng nhận nhất ở những vùng có KCN phát triển mạnh như Dung

Quất(Quảng Nam), Biên Hòa, Nhơn Hội(Bình Định),Nhơn Trạch (Đồng Nai),
Thuận An (Bình Dương), Tiên Sơn (Bắc Ninh)… cùng với quá trình phát triển
KCN, các điều kiện về kỹ thuật hạ tầng trong khu vực đã được cải thiện đáng kể,
nhu cầu về các dịch vụ gia tăng, đã góp phần thúc đẩy hoạt động kinh doanh cho
các cơ sở dịch vụ trong vùng,miền khắp cả nước.
- Cùng với các chính sách ưu đãi về tài chính và công tác quản lý thuận lợi
của nhà nước việc thu hút nguồn vốn để đầu tư xây dựng hoàn thiện và đồng bộ các
kết cấu hạ tầng trong KCN có vai trò quyết định trong việc thu hút đầu tư nước
ngoài. Việc các doanh nghiệp thuộc nhiều thành phần kinh tế (doanh nghiệp quốc
SV: Nguyễn Xuân Thuỷ Lớp: Kinh tế Đầu tư 48B - QN
13
doanh, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp ngoài quốc doanh)
tham gia đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng KCN không những tạo điều kiện thuận lợi
cho các doanh nghiệp trong KCN hoạt động hiệu quả, mà còn tạo sự đa dạng hóa
thành phần doanh nghiệp tham gia xúc tiến đầu tư góp phần tạo sự hấp dẫn trong
việc thu hút doanh nghiệp công nghiệp vào KCN.
- Việc đầu tư hoàn thiện hạ tầng kỹ thuật trong KCN không những thu hút
các dự án đầu tư mới mà còn tạo điều kiện cho các doanh nghiệp mở rộng quy mô
để tăng năng lực sản xuất và cạnh tranh, hoặc di chuyển ra khỏi các khu đông dân
cư, tạo điều kiện để các địa phương giải quyết các vấn đề ô nhiễm, bảo vệ môi
trường đô thị, tái tạo và hình thành quỹ đất mới phục vụ các mục đích khác của
cộng đồng trong khu vực như KCN Tân Tạo (TP.Hồ Chí Minh), Việt Hương (Bình
Dương),khu công nghiệp bắc Vinh(Nghệ An)…
- Quá trình xây dựng kết cấu hạ tầng trong và ngoài hàng rào KCN còn đảm
bảo sự liên thông giữa các vùng và định hướng cho quy hoạch phát triển các khu
dân cư mới, các khu đô thị vệ tinh, hình thành các ngành công nghiệp phụ trợ, dịch
vụ… các công trình hạ tầng xã hội phục vụ đời sống người lao động và cư dân trong
khu vực như: trường học, bệnh viện, khu giải trí,nhà ở và khu dân cư…
Nguồn vốn Ngân sách không thể đáp ứng hết nhu cầu cải tạo kết cấu hạ tầng,vì
thế tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đón bắt và thu hút đầu tư các ngành như

giao thông vận tải, hệ thống thông tin liên lạc, cảng biển, các hoạt động dịch vụ tài
chính, ngân hàng, bảo hiểm, xúc tiến đầu tư, phát triển thị trường bất động sản và
nhà ốc là giải pháp thiết yếu để đáp ứng nhu cầu hoạt động và phát triển của các
KCN.
1.2.4. Nâng cao trình độ công nghệ,hiện đại hoá cách thức quản lý sản xuất:
KCN là khu vực có những điều kiện thuận lợi về cơ sở hạ tầng cùng với
nhiều chính sách ưu đãi đầu tư được áp dụng nên đây chính là điểm đến lý tưởng
của các nhà đầu tư, trong đó có đầu tư nước ngoài. Một số công nghệ tiên tiến, hiện
đại trên thế giới cùng trình độ quản lý cao của đội ngũ cán bộ doanh nghiệp, trình
độ tay nghề của công nhân theo các chuẩn mực quốc tế đã được áp dụng tại Việt
Nam. Đây cũng là những nhân tố quan trọng góp phần để nước ta thực hiện việc
quan điểm của Đảng về chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
SV: Nguyễn Xuân Thuỷ Lớp: Kinh tế Đầu tư 48B - QN
14
- KCN là nơi tiếp nhận công nghệ mới, tập trung những ngành nghề mới, góp
phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH-HĐH. Vốn đầu tư nước ngoài
đầu tư vào các dự án sản xuất kinh doanh trong KCN, các nhà đầu tư còn đưa vào
Việt Nam những dây chuyền sản xuất với công nghệ tiên tiến, hiện đại, trong đó có
cả những dự án công nghiệp kỹ thuật cao (phần lớn của Nhật Bản,Hàn Quốc), như
Công ty TNHH Canon Việt Nam, Mabuchi Motor, Orion Hanel , những lĩnh vực
mà chúng ta còn yếu kém và cần khuyến khích phát triển như cơ khí chính xác, điện
tử,công nghệ ôtô,xe máy
- Các dự án đầu tư vào KCN tập trung chủ yếu vào các ngành công nghiệp
nhẹ như dệt may, da giầy, công nghiệp chế biến thực phẩm (chiếm trên 50% tổng số
dự án), đây là các dự án thu hút nhiều lao động, có tỷ lệ xuất khẩu cao và đã góp
phần nâng cấp các ngành này về dây chuyền công nghệ, chất lượng sản phẩm Tuy
nhiên, các KCN cũng đã thu hút được các dự án có quy mô và yêu cầu vốn lớn,
công nghệ cao như dầu khí, sản xuất ôtô, xe máy, dụng cụ văn phòng, cơ khí chính
xác, vật liệu xây dựng Mặc dù số lượng các dự án này trong KCN mới chiếm
khoảng 6-10% số dự án, nhưng cũng đã góp phần phát triển và đa dạng hoá cơ cấu

ngành nghề công nghiệp.
- Các doanh nghiệp trong KCN, đặc biệt là các doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài đã góp sức đào tạo được đội ngũ lao động công nghiệp sử dụng và vận
hành thành thạo các trang thiết bị phục vụ quản lý và sản xuất, nắm vững công
nghệ, có tác động lan toả và nâng trình độ tay nghề của đội ngũ lao động Việt Nam
lên một bước. Một lượng đáng kể người lao động Việt Nam được đảm nhận các vị
trí quản lý doanh nghiệp, được tiếp xúc với phương thức quản trị doanh nghiệp tiên
tiến, hiện đại, kỹ năng marketing, quản lý tài chính, tổ chức nhân sự Việc được
trực tiếp làm việc trong môi trường có kỷ luật cao, yêu cầu tay nghề cao, đã rèn
luyện được những kỹ năng và tác phong làm việc giúp người lao động Việt Nam
sớm thích ứng với một nền công nghiệp tiên tiến, hiện đại.
1.3. Sự hình thành và phát triển các khu công nghiệp ở Việt Nam.
Các KCN Việt Nam hình thành và phát triển gắn liền với công cuộc đổi
SV: Nguyễn Xuân Thuỷ Lớp: Kinh tế Đầu tư 48B - QN
15
mới được khởi xướng từ Đại hội Đại biểu toàn quốc Đảng cộng sản Việt Nam lần
thứ VI (1986). Đại hội đã đánh dấu bước đổi mới căn bản về nhận thức về tư duy về
kinh tế mà trọng tâm là chủ trương là chuyển tử cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập
trung sang cơ chế kinh tế hang hoá tập trung nhiều thành phần. Việc hình thành mô
hình KCN kiểu mới đang được áp dụng hiện nay là nơi tập trung và thu hút các
thành phần kinh tế đã thay thế dần mô hình KCN kiểu cũ là nơi tập trung các doanh
nghiệp quốc doanh thuộc các ngành công nghiệp nặng bắt nguồn từ tư duy đổi mới
về kinh tế tại Đại hội VI.
Đầu thập niên 90 của thế kỷ 20, cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới và sự sụp
đổ của Liên Xô đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến nền kinh tế và đời sống kinh tế xã hội
nước ta, là một trong những đòi hỏi thực tiễn khách quan để đại hội VII đề ra những
đường lối, chủ trương đổi mới mạnh mẽ và toan diện,thưc hiện CNH-HĐH đất nước
trên cơ sở yêu cầu của đất nước và điều kiện của thời đại đượ cụ thể hoá bằng Chiến
lược tổng thể phát triển kinh tế xã hội 1991-2010. Hàng loạt các chương trình kinh
tế -xã hội đươc triển khai để thực hiện Nghị quyết của Đại hội VII, trong đó các

chính sách phát triển KCN, KCX với sự ra đời của KCX Tân Thuận, thành phố Hồ
Chí Minh (1991) và ban hành quy chế KCX (Nghị định 322/HDBT ngày
18/10/1991) và quy chế KCN ( Nghị định 129/CP ngày 28/12/1994).
Tiếp đó, định hướng chiến lược về quy hoạch phát triển và phân bố KCN,
KCX đã được Ban chấp hành TW Đảng Cộng sản Việt Nam nêu rõ tại Hội nghị
giữa nhiệm kì khoá VII tháng 1/1994: “Quy hoạch các vùng, trước hết là các địa
bàn trọng điểm, các KCX, khu kinh tế, KCN tập trung”. Đến Nghị quyết Đại biểu
toàn quốc lần thứ VIII của Đảng, đinh hướng này được phát triển cụ thể: “Hình
thành các KCN tập trung ( bao gồm cả KCX và khu công nghệ cao), tạo địa bản
thuân lợi cho việc xây dựng các cơ sở công nghiệp mới. Phát triển mạnh công
nghiệp nông thôn và ven đô thị. Ở các thành phố, thị xã, nâng cấp và cải tạo các cơ
sở công nghiệp hiện có, đưa các cơ sở không có khả năng xử lí ôi nhiễm ra ngoài
thành phố, hạn chế việc xây dựng các KCN mới xen lẫn với khu dân cư “. Lộ trình
thực hiện được nêu ngắn gọn và tổng quát trong Hội nghị lần thứ IV, Ban chấp hành
TW khoá VII là: “ phát triển từng bước và nâng cao hiệu quả các KCN”. Đây cũng
là những định hướng quan trọng của Đảng và Nhà nước về xây dựng và phát triển
các KCN, KCX nhằm thúc đẩy tiến trình CNH – HDH đất nước. Báo cáo chính trị
của Ban chấp hành TW khoá VIII tại Đại hội IX của Đảng về chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội năm 2001 – 2005 tiếp tục khẳng định: “quy hoạch phân bố hợp lí
SV: Nguyễn Xuân Thuỷ Lớp: Kinh tế Đầu tư 48B - QN
16
công nghiệp trên cả nước. Phát triển có hiệu quả các KCN, KCX, xây dựng một số
khu công nghệ cao, hình thành các cụm công nghiệp lớn và các khu kinh tế mở”.
Báo cáo chính trị tại Đại hội X một lần nữa khẳng định chủ trương “phát triển một
số khu kinh tế mở và đặc khu kinh tế, nâng cao hiệu quả các KCN, KCX”, đồng
thời khằng định tư tưởng tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển bền vững, trong
đó phát triển bền vững KCN, KCX được thể hiện ở những mục tiêu cụ thể trong báo
cáo phương hướng, nhiệm vụ để kinh tế - xã hội 5 năm 2006 – 2010.
Nghị quyết của Đảng tại các kì Đại hội tử năm 1986 đã hình thành hệ thống
các quan điểm nhất quán của Đảng về phát triển KCN, KCX; khẳng định vai trò của

KCN trong việc “tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công
nghiệp theo hướng hiện đại” như Nghị quyết Đại hội X đã nêu rõ; đây chính là cơ
sở để triển khai xây dựng, quy hoạch, cơ chế, chính sách phát triển KCN, KCX 19
năm qua và trong giai đoạn tới .
Trong năm 2008 là năm đầu tiên triển khai Nghị định số 29/2008/NĐ – CP
ngày 14/3/2008 của Chính phủ quy định về KCN, KCX và khu kinh tế. Trong năm
2008, Việt Nam triển khai các cam kết với tổ chức thương mại thế giới (WTO) trên
các lĩnh vực đầu tư, thương mại…Mặc dù tình hình khủng hoảng tài chính thế giới
chưa được ngăn chặn và có những diễn biến phức tạp ở những nền tài chính lớn như
Hoa Kì, Nhật Bản và một số nước EU nhưng các KCN trong nước một mặt vẫn duy
trì được đà tăng trưởng như những năm trước, mặt khác có những nét phát triển mới
mang tính đột phá.
Trong năm 2009 đã có 52 dự án đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng KCN được
cấp giấy chứng nhận đầu tư, thành lập mới 43 KCN với tổng diện tích đất tự nhiên
18675,6 ha (tăng 71% so với năm 2008) và mở rộng 9 KCN vởi tổng diện tích đất
tự nhiên 3010,8 ha ( tăng 39% so với năm 2008). Năm 2009 là năm có số lượng
KCN được thành lập mới và được mở rộng nhiều nhất trong gần 19 năm xây dựng
và phát triển KCN. Kết quả này xuất phát từ nhu cầu phát triển KCN của các địa
phương nhằm tận dụng cơ hội thu hút đầu tư hiện đang tăng cao trên cả nước. Mặt
khác do nhiệm vụ cấp giấy chứng nhận đầu tư cho dự án phát triển kết cấu hạ tầng
KCN đã được phân cấp về địa phương, nên đã tạo điều kiện cho các địa phương chủ
động và đẩy nhanh thực hiện các thủ tục đẩu tư. Tính đến cuối tháng 12 năm 2009
cả nước đã có 312 KCN được thành lập với tổng diện tích đất tự nhiên là 70472,6
ha, phân bố trên 54 tỉnh, thành phố trên cả nước. Trong đó diện tích đất công nghiệp
có thể cho thuê theo quy hoạch đạt gần 42000 ha, chiếm 67% diện tích đất công
SV: Nguyễn Xuân Thuỷ Lớp: Kinh tế Đầu tư 48B - QN
17
nghiệp. Theo quy hoach từ nay đến năm 2015 sẽ thành lập them 91 KCN với tổng
diện tích 20839 ha và mở rộng thêm 22 KCN với tổng diện tích 3473 ha. Dự kiến
đến hết năm 2015 sẽ có thêm 26385 ha đất KCN .

Về phân bố các KCN: mặc dù sự phân bố KCN đã được điều chỉnh theo
chiều hướng tạo điều kiện cho một số địa bàn đặc biệt khó khăn ở Tây Bắc (Yên
Bái, Tuyên Quang, Hoà Bình, Sơn La, Bắc Cạn), Tây Nguyên (Đắk Lắk, Đắk Nông,
Gia Lai, Kon Tum, Lâm Đồng), Tây Nam Bộ ( Hậu Giang, An Giang, Sóc Trăng)
phát triển KCN để chuyển dịch cơ cấu kinh tế, song các KCN vẫn tập trung ở các
địa phương thuộc ba vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, Trung Bộ và Nam Bộ. Đến
cuối tháng 12/2009 với 159 KCN và tổng diện tích đất tự nhiêm 53232 ha, ba vùng
kinh tế trọng điểm chiếm 69% tổng số KCN và 81% tổng đất tự nhiên cac KCN cả
nước.
Như vậy sau 19 năm hình thành và phát triển, đến nay các KCN đã và đang
có các đóng góp to lớn vào quá trình chuyển biến của nền kinh tế. Từ đó Đảng và
Nhà nước ta đã nhận thấy được tầm quan trọng và việc thúc đẩy phát triển hơn nữa
các KCN trong tương lai.
1.4. Tình hình đầu tư và thực hiện đầu tư tại khu công nghiệp ở Việt Nam đến
hết năm 2009
Cùng với những chuyển biến mới của nền kinh tế trong quá trình đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, hoạt động của
các KCN cả nước trong năm 2009 đã đạt được những thành tựu nổi bật về nhiều
mặt.
Tổng diện tích đất quy hoạch tăng thêm trong năm là 1864 ha, từ 9 KCN
mới được thành lập và 3 KCN được phép mở rộng. Đến hết năm 2009, cả nước có
149 KCN với tổng diện tích quy hoạch là 31.392 ha, trong đó diện tích đất công
nghiệp có khả năng cho thuê đạt 20.953 ha. So với cuối năm 2008, quỹ đất tự nhiên
(gồm cả đất đã được phân định cho sản xuất công nghiệp) của toàn bộ các KCN
được thành lập (đến thời điểm này) tăng 10,6%.
Ngoài ra, đến nay có 9 khu kinh tế (KKT) đã được hình thành theo Quyết
định của Thủ tướng Chính phủ, tổng diện tích đất tự nhiên là 384.230 ha. Đó là các
KKT mở Chu Lai, KKT Dung Quất, Nhơn Hội, Nghi Sơn(Thanh Hóa), Vũng áng,
Vân Phong, Phú Quốc và Chân Mây-Lăng Cô,Lao Bảo. Từ đó, đã và đang mở ra
SV: Nguyễn Xuân Thuỷ Lớp: Kinh tế Đầu tư 48B - QN

18
tiềm lực về quỹ đất dồi dào để phát triển kinh tế, phát triển công nghiệp trên nhiều
vùng khác nhau.
Tiến độ xây dựng cơ sở hạ tầng các KCN được đẩy nhanh hơn, số các KCN
được xây dựng xong và đưa vào vận hành trong năm là 13 KCN. Trong tổng số 149
KCN đã được thành lập đã có 98 KCN cơ bản hoàn thành xây dựng cơ sở hạ tầng
và thực tế đã vận hành, với tổng diện tích công nghiệp 14.783 ha, tăng 20% so với
năm 2008 (năm 2008 có 78 KCN đi vào hoạt động với 12.850 ha đất công nghiệp
đã hoàn tất xây dựng cơ sở hạ tầng). Tỷ lệ KCN đã vận hành, hoạt động trong năm
chiếm 68% tổng các KCN hiện có. Trong đó, có 19/23 dự án xây dựng hạ tầng có
vốn ĐTNN và 79/132 xây dựng hạ tầng của DN trong nước.
Tổng vốn đầu tư thực hiện của các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng các KCN,
tính đến cuối năm 2009 đạt khoảng 685 triệu USD và 16,578 tỷ đồng. So với tổng
vốn dự toán, vốn thực hiện FDI đạt 62,5% với trình độ xây dựng các công trình hạ
tầng đạt chất lượng khá cao. Tổng vốn đầu tư thực hiện xây dựng hạ tầng của các
dự án trong nước đạt 37,5%.
Năng lực thu hút dự án đầu tư nước ngoài (FDI) tăng vượt trội so với
năm 2009
Năm 2009, các KCN đã thu hút 326 dự án FDI với tổng vốn đầu tư đăng ký
mới là 4024 triệu USD khoảng 2 lần so với năm trước; đồng thời có 343 lượt dự án
mở rộng sản xuất, tăng vốn với tổng số vốn đầu tư đăng ký tăng thêm 1.257 triệu
USD, tăng 28,5% so với năm 2008. Tính chung cả vốn đăng ký mới và vốn bổ sung
vào các KCN trong năm 2009 đầu tư đạt 10579,2 triệu USD tăng gần 2 lần so với
năm 2008 chiếm 52% tổng vốn FDI đăng ký mới và bổ sung trong năm của cả
nước.
Tổng hợp đến cuối năm 2009, các KCN đã thu hút được 2733 dự án FDI với
tổng vốn đầu tư đăng ký đạt 24,79 tỷ USD.
Các dự án ĐTNN có quy mô lớn hơn năm trước
Quy mô vốn đầu tư bình quân mỗi dự án ĐTNN đăng ký mới vào KCN trong
năm là 12,18 triệu USD/dự án, gấp hơn 2 lần năm 2008. Bình quân mỗi lượt dự án

mở rộng sản xuất có mức vốn đầu tư bổ sung là 4 triệu USD/dự án, tăng 36% so với
SV: Nguyễn Xuân Thuỷ Lớp: Kinh tế Đầu tư 48B - QN
19
năm trước. Có mức tăng trưởng cao như vậy là do trong năm có nhiều dự án ĐTNN
có quy mô vốn lớn đầu tư vào KCN, khu kinh tế ở các vùng kinh tế trọng điểm.
Nhờ đó, một số địa phương có KCN tiếp nhận được những dự án này đã trở thành
đơn vị có năng lực thu hút đầu tư thuộc diện dẫn đầu cả nước. Những dự án có quy
mô vốn lớn đầu tư như dự án Công ty TNHH TA Assiociates Vietnam là liên doanh
giữa Công ty cổ phần Công nghệ Viễn thông Sài Gòn với Công ty TA Assiociates
International Pte.Ltd. (Singapore) đầu tư 1,2 tỷ USD để xây dựng khách sạn 5 sao,
cao ốc cho thuê; sản xuất vi mạch và gia công phần mềm tại Thủ Thiêm, TP Hồ Chí
Minh, Công ty Gang thép Hưng nghiệp Formosa do Tập đoàn Formosa (Đài Loan)
đầu tư 7,879 tỷ USD tại Vũng Áng, Hà Tĩnh; Công ty Lọc dầu Nghi Sơn có tổng
vốn đầu tư 6,2 tỷ USD để xây dựng nhà máy lọc dầu tại Thanh Hóa; Công ty TNHH
dự án Hồ Tràm do Tập đoàn Asian Coast Development (Canada) Ltd. đầu tư 4,23 tỷ
USD để xây dựng khu du lịch nghỉ dưỡng, các khách sạn 5 sao tại Bà Rịa - Vũng
Tàu.Công ty TNHH một thành viên Starbay Việt Nam do Tập đoàn Starbay
Holding Ltd. (B.V.Island) đầu tư Tổ hợp nghỉ dưỡng, sân golf, căn hộ cho thuê tại
Kiên Giang với vốn đầu tư là 1,648 tỷ USD; Công ty TNHH Good Choice USA -
Việt Nam do tập đoàn Good Choice (Hoa Kỳ) đầu tư 100% vốn để xây dựng khách
sạn 5 sao, khu vui chơi giải trí, ẩm thực tại Bà Rịa - Vũng Tàu với tổng vốn đầu tư
là 1,299 tỷ USD
Đặc biệt, một số dự án đăng ký mở rộng sản xuất, tăng vốn bổ sung cũng với
số vốn lớn như: Công ty TNHH Hoàng Trà (Hà Nội) tăng thêm 120 triệu USD, nhà
máy sản xuất máy in Canon (Bắc Ninh) với mức tăng 70 triệu USD .
Năng lực thu hút nguồn đầu tư trong nước vào KCN cũng có chuyển biến
khá
Trong năm 2009, các KCN, KKT tiếp tục thu hút được hơn 256 dự án đầu tư
trong nước với tổng vốn đầu tư đăng ký đạt trên 16.000 tỷ đồng (tương đương 842
triệu USD). So với năm 2008, tuy giảm về số dự án nhưng tổng vốn đầu tư trong

nước của năm 2008 lại tăng 50% với khoảng 7000 tỷ đồng, do cũng có nhiều dự án
đầu tư trong năm có lượng vốn đăng ký lớn hơn. Tổng hợp đến cuối năm 2009, tổng
số dự án trong nước còn hiệu lực là 2723 dự án, với tổng vốn đầu tư đăng ký đạt
khoảng 142.690 tỷ đồng (tương đương khoảng 7,5 tỷ USD). Tỷ lệ so sánh giữa vốn
đầu tư trong nước và vốn đầu tư nước ngoài tại KCN-KCX là 0,41 thể hiện nguồn
SV: Nguyễn Xuân Thuỷ Lớp: Kinh tế Đầu tư 48B - QN
20
vốn đầu tư trong nước đã có vai trò quan trọng nhất định trong phát triển các KCN
những năm qua.
Tổng diện tích đất công nghiệp thực tế cho thuê lại trong năm đạt 1826 ha,
tăng 17% so với năm 2008, đáp ứng được nhu cầu về mặt bằng cho nhà đầu tư trong
năm. Tính chung cả nước đến cuối năm 2009, các KCN đã cho thuê khoảng
14494.9 ha đất công nghiệp, đạt tỷ lệ diện tích đất cho thuê 57,3% trong tổng diện
tích công nghiệp có thể cho thuê của các KCN đã thành lập (gồm cả diện tích của
những KCN mới thành lập chưa khởi công xây dựng). Nếu tính riêng diện tích công
nghiệp của những KCN đã vận hành (cơ sở hạ tầng đủ điều kiện tiếp nhận, thực
hiện dự án) thì diện tích đất công nghiệp thực tế cho thuê đạt 72,2%, thể hiện tốc độ
thu hút đầu tư tăng nhanh, tiến độ xây dựng cơ sở hạ tầng có khả năng được đẩy
nhanh hơn và sớm thực hiện nhiều dự án đầu tư.
Gia tăng tốc độ triển khai thực hiện các dự án đầu tư trong và ngoài nước.
Tính đến cuối năm 2009, tổng số các dự án đầu tư trong và ngoài nước còn
hiệu lực đã tăng 12% so với cuối năm 2008, trong đó dự án đã và đang triển khai
thực hiện đầu tư là 4500 dự án, tăng 26% so với năm 2008 và chiếm 83% tổng số
các dự án còn hiệu lực (năm 2008, tỷ lệ này đạt 75%).
Trong tổng số dự án đang thực hiện phân theo nguồn vốn đầu tư có tình hình
như sau:
Dự án có vốn ĐTNN còn hiệu lực trong năm là 2623 dự án, trong đó những
dự án đã đi vào sản xuất kinh doanh trong KCN là 1800 dự án và 428 dự án đang
xây dựng nhà xưởng. Tổng vốn đầu tư thực hiện đến cuối năm 2009 đạt 15,32 tỷ
USD, chiếm 52% tổng vốn đăng ký.

Trong 2933 dự án đầu tư trong nước còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký
175.690 tỷ đồng, hiện đã có 1920 dự án đã đi vào sản xuất kinh doanh và gần 500
dự án đang xây dựng nhà xưởng. Tổng vốn đầu tư thực hiện của những dự án này
đạt 95.000 tỷ đồng chiếm khoảng 61% tổng vốn đăng ký.
Kết quả sản xuất kinh doanh của các DN trong các KCN đạt mức tăng
trưởng khá cao và toàn diện. Trong năm 2009, giá trị sản xuất công nghiệp của DN
SV: Nguyễn Xuân Thuỷ Lớp: Kinh tế Đầu tư 48B - QN
21
trong các KCN cả nước (không kể doanh thu dịch vụ) đạt 16,8 tỷ USD, tăng 17% và
chiếm khoảng 33% tổng giá trị sản xuất công nghiệp cả nước.
Trong đó, giá trị xuất khẩu hàng hóa của DN KCN đạt khoảng 8,8 tỷ USD,
tăng hơn 2o% so với năm 2008 và chiếm 28% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng công
nghiệp xuất khẩu của cả nước.
Trong năm, các doanh nghiệp KCN đã nộp ngân sách Nhà nước khoảng 1 tỷ
USD, tăng 35,4% so với năm 2005.
Số lao động trực tiếp làm việc tại KCN cuối năm 2008 là 87 vạn người, đến cuối
năm 2009 là 98,8 vạn người. Như vậy, cả năm tăng thêm 11,8 vạn người, tăng
13,5% so với cuối năm 2008.
SV: Nguyễn Xuân Thuỷ Lớp: Kinh tế Đầu tư 48B - QN
22
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC
NGOÀI VÀO KHU CÔNG NGHIỆP TẠI VÙNG KINH TẾ
TRỌNG ĐIỂM PHÍA BẮC
2.1 .Khái quát tình hình thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào khu công nghiệp
cả nước
2.1.1.Tổng quan tình hình thu hút vốn đầu tư vào khu công nghiệp ở Việt
Nam(tính theo vốn đăng kí)
Sau 19 năm xây dựng và phát triển, các KCN ở vùng KTTĐ Bắc Bộ đã có
đóng góp quan trọng vào việc thu hút vốn đầu tư. Tổng số vốn đầu tư thực hiện thu

hút được đến hết năm 2009 là :
Bảng 2.1: Tình hình thu hút đầu tư vào KCN, KCX cả nước
Chỉ tiêu
Tổng
vốn
(tr.USD)
Vốn đầu
tư xây
dựng
CSHT
(tr.USD)
Vốn đầu tư sản xuất kinh doanh
Số dự án Số vốn
Số dự
án (dự
án)
Tỷ trọng
Số vốn
(triệu
USD)
Tỷ
trọng
Đầu tư trong
nước
7.015 980 2.865 51.62% 4.885 25.12%
Đầu tư nước
ngoài
14.854 725 2.687 48.38% 14.562 74.88%
Tổng vốn 21.869 1.705 5.552 100% 19.447 100%
Nguồn: tổng hợp từ Vụ Quản lí KCN-KCX, Bộ Kế hoạch Đầu tư

Các KCN, KCX tại Việt Nam đang trong giai đoạn xây dựng và phát triển
ban đầu nên lượng vốn xây dựng cơ sở hạ tầng đóng vai trò quyết định và chiếm tỷ
trọng lớn nhưng theo thời gian lượng vốn này có xu hướng giảm tương đối so với
lượng vốn đầu tư vào sản xuất kinh doanh tăng mạnh tại các KCN đã hoàn thành
SV: Nguyễn Xuân Thuỷ Lớp: Kinh tế Đầu tư 48B - QN
23

×