Tải bản đầy đủ (.doc) (57 trang)

Thuế chống bán phá giá trong đầu tư quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (501.62 KB, 57 trang )

Thuế chống bán phá giá trong đầu tư quốc tế

-
DANH SÁCH THÀNH VIÊN
1. Nhân Ngọc Dũng
2. Vũ Mai Anh
3. Nguyễn Việt Hải
4. Đặng Đình Khánh
5. Nguyễn Khánh Toàn
6. Đào Minh Quân

Nhóm 6 – TCDN21
Thuế chống bán phá giá trong đầu tư quốc tế

-
MỤC LỤC

Nhóm 6 – TCDN21
Thuế chống bán phá giá trong đầu tư quốc tế

-
LỜI MỞ ĐẦU
Từ khi thực hiện chính sách mở cửa nền kinh tế cho đến nay Việt nam đã
có nhiều sự phát triển vượt bậc. Nhiều văn bản pháp lý liên quan tới thương mại
được ban hành như Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, luật đầu tư nước ngoài,
pháp lệnh bán phá giá, thuế chống bán phá giá làm cho kinh tế Nước ta phát triển
tương đối ổn định.
Với việc thực hiện đường lối chủ động hội nhập kinh tế quốc tế Việt Nam
đã đạt được nhiều thành tựu trong việc đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa. Trong khi
một số mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam ngày càng có uy tín trên thị trường thế
giới, đã xuất hiện một số trường hợp hàng xuất khẩu của ta bị nước nhập khẩu


điều tra và áp dụng thuế chống bán phá giá. Điều này gây ra thiệt hại cho các
doanh nghiệp Nước ta. Bên cạnh đó, do việc văn bản pháp lý về thuế chống bán
phá giá mới được ban hành nên việc thực thi còn khó khăn. Chính vì vậy, Việt
nam còn thiếu kinh nghiệm trong việc kiện các doanh nghiệp nước ngoài, áp thuế
họ khi họ bán phá giá vào nước ta. Điều này làm thiệt hại đáng kể tới các nhà sản
xuất trong nước, làm giảm giá, nguy cơ nhiều doanh nghiệp bị phá sản do sự cạnh
tranh của nước ngoài.
Với những lý do như vậy cùng việc tìm hiểu thực trạng về thuế chống bán
phá giá của Việt Nam hiện nay nên nhóm em lựa chọn đề tài “ Thuế chống bán
phá giá trong đầu tư quốc tế”.
Bố cục của bài thảo luận gồm ba phần:
Phần I: Lý luận chung về thuế chống bán phá giá
Phần II: Thực trạng thuế chống bán phá giá ở Việt Nam
Phần III: Giải pháp hoàn thiện việc áp dụng thuế chống bán phá giá ở Việt Nam

Nhóm 6 – TCDN21
1
Thuế chống bán phá giá trong đầu tư quốc tế

-
PHẦN I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ THUẾ CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ
I. Bán phá giá
1. Bán phá giá và ý nghĩa kinh tế của việc bán phá giá
1.1. Bán phá giá là gì?
Bán phá giá là hiện tượng xảy ra khi một loại hàng hóa được xuất khẩu
( bán sang thị trường nước khác ) với giá thấp hơn giá bán của mặt hàng đó tại thị
trường nước xuất khẩu.
Ví dụ: sản phẩm của nước A bán tại thị trường nước A với giá(X) nhưng lại
được xuất khẩu sang thị trường nước B với giá(Y) (Y<X) thì xảy ra hiện tượng
bán phá giá đối với sản phẩm đó xuất khẩu từ A sang B.

Một cách đơn giản hơn, có thể hiểu nếu giá xuất khẩu của một mặt hàng
thấp hơn giá nội địa ( giá thông thường ) của nó thì sản phẩm đó được coi là bán
phá giá tại thị trường nước nhập khẩu sản phẩm đó Tuy nhiên, việc xác định giá
nội địa là bao nhiêu? Là giá bán buôn hay giá bán lẻ? Giá xuất khẩu là bao nhiêu?
Điều này đang rất khó khăn.
Bán phá giá thường bị coi là hiện tượng tiêu cực do nó làm giảm khả năng
cạnh tranh về giá và thị phần của sản phẩm nội địa của nước nhập khẩu. Tuy
nhiên, ở một góc độ khác, bán phá giá có thể có tác động tích cực đối với nền kinh
tế: người tiêu dùng được lợi vì có thể mua hàng với giá rẻ hơn; nếu hàng bị bán
phá giá là nguyên liệu đầu vào của một ngành sản xuất khác, giá nguyên liệu rẻ có
thể là yếu tố góp phần tạo nên sự tăng trưởng nhất định của ngành đó; giá giảm có
thể là động lực thúc đẩy ngành sản xuất trong nước tự đổi mới để nâng cao sức
cạnh tranh… Vì thế không phải mọi hành vi bán phá giá đều bị lên án và phải chịu
thuế chống bán phá giá. Theo qui định của WTO, các biện pháp chống bán phá giá
chỉ được thực hiện trong những hoàn cảnh nhất định và phải đáp ứng các điều kiện
cụ thể.
Hiện tượng bán phá giá xảy ra đều do muốn đạt được các mục tiêu cụ thể
nên sẽ do nhiều nguyên nhân nhưng chủ yếu được tổng hợp thành những nhóm
nguyên nhân sau:
- Bán phá giá nhằm đạt mục tiêu chính trị thao túng các nước khác
Chính phủ Mỹ đặc biệt quan tâm đến xuất khẩu gạo bởi vì cạnh tranh giá gạo bây
giờ ảnh hưởng lớn đến việc đạt các mục tiêu quan trọng khác. Mỹ sẵn sàng bỏ

Nhóm 6 – TCDN21
2
Thuế chống bán phá giá trong đầu tư quốc tế

-
ngân sách mua phần lớn số gạo trên thị trường thế giới rồi bán phá giá. Điều này
làm cho nhiều nước xuất khẩu gạo phải lao đao và sẽ phải chịu vòng phong toả

của Mỹ. Chẳng hạn, giá xuất khẩu gạo của Mỹ khoảng 400USD/ tấn, nhưng các
nhà xuất khẩu gạo Mỹ sẵn sàng mua với giá 500USD/ tấn, thậm chí cao hơn đến
800USD/tấn, và họ cũng sẵn sàng bán ra thị trường thế giới chỉ bằng 60 - 70%,
thậm chí đến 40% giá mua. Mức giá này thấp hơn nhiều so với giá thành của chính
nông dân Mỹ sản xuất ra. Như vậy, Mỹ có thể sẵn sàng bỏ ra 700 - 800 triệu USD/
năm để tài trợ giá xuất khẩu gạo nhằm thực hiện mục tiêu của mình. Chính vì điều
này mà mặc dù sản lượng gạo của Mỹ hàng năm thấp nhưng Mỹ lại thao túng giá
gạo trên thị trường thế giới.
- Do có các khoản tài trợ của Chính phủ
Chính phủ các nước phương Tây coi tài trợ là con đường ngắn nhất để đạt đuợc
sự cân bằng kinh tế và đảm bảo cho thị trường hoạt động một cách tối ưu. Chính
sách tài trợ nhằm đạt được hai mục đích sau:
Duy trì và tăng cường mức sản xuất xuất khẩu
Duy trì mức sử dụng nhất định đối với các yếu tố sản xuất như lao động và
tiền vốn trong nền kinh tế. Các khoản tài trợ có thể được cấp cho người sản xuất
cũng như cho người tiêu dùng, nhưng về mặt tác động kinh tế thì chúng đều như
nhau vì đều đưa đến những hệ quả tương tự.
Những hình thức tài trợ chủ yếu là: Trợ cấp, ưu đãi về thuế, tín dụng ưu đãi,
sự tham gia của Chính phủ vào các chi phí kinh doanh cũng như hỗ trợ xuất khẩu:
Trợ cấp: Đặc điểm cơ bản của trợ cấp là hướng vào giúp đỡ phát triển sản
xuất. Ở các nước công nghiệp phát triển, các khoản trợ cấp chiếm một nửa toàn bộ
khối lượng tài trợ. Tỷ trọng của các khoản trợ cấp cho từng ngành trong tổng số
giúp đỡ của Chính phủ có sự khác nhau đáng kể giữa các nước. Như ở Anh, Ý, Hà
Lan thì trợ cấp chiếm phần lớn.
Ưu đãi về thuế: Những ưu đãi về thuế nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho một
số ngành trong một số loại hoạt động riêng biệt. Chúng được áp dụng rộng rãi ở
nhiều nước, mặc dù ít khi được phản ánh trong các chỉ tiêu của Chính phủ vì
chúng là ngoại lệ khi áp dụng các thuế suất chuẩn. Ở Anh, Bỉ, Đan Mạch, giá trị
của chúng không lớn, còn ở Mỹ thì tổng số ưu đãi về thuế cho công nghiệp lớn
gấp 3 lần khối lượng trợ cấp.


Nhóm 6 – TCDN21
3
Thuế chống bán phá giá trong đầu tư quốc tế

-
Ưu đãi về tín dụng: Những ưu đãi về tín dụng là sự cho vay của Chính
phủ với điều kiện hấp dẫn hơn là tìm kiếm trên thị trường vốn. Ở các nước thuộc
Cộng đồng Kinh tế Châu Âu khoảng 14% tổng khối lượng giúp đỡ cho công
nghiệp được thực hiện dưới hình thức tín dụng ưu đãi. Phần lớn khối lượng tín
dụng của Chính phủ Nhật bản cấp cho các hãng vừa và nhỏ với lãi suất thấp hơn ở
lãi suất thị trường vốn 0,5%. Các Chính phủ cũng thường xuyên bảo đảm các
khoản tín dụng, tức là bảo lãnh cho các công ty vay mà không trả nợ được.
Phương pháp tài trợ này thường dùng cho các hợp đồng xuất khẩu để đảm bảo cho
các công ty xuất khẩu của nước mình. Theo đánh giá, quy mô của tài trợ này
chiếm vào khoảng từ 2% đến 8% tổng tài trợ công nghiệp ở các nước công nghiệp
phát triển.
Tham gia của Chính phủ vào chi phí kinh doanh: Sự tham gia của Chính
phủ vào chi phí kinhdoanh thường là 15% tổng tài trợ trở xuống. Từ thập kỷ 80
đến nay, phần sở hữu Nhà nước trong hoạt động kinh doanh có xu hướng giảm.
Phương pháp này được sử dụng để bù đắp những tổn thất trong những lĩnh vực
kinh tế riêng đang suy thoái.
Hiện nay, tài trợ công nghiệp vẫn được Chính phủ các nước phương Tây duy trì ở
mức khá cao. Trên thực tế, các khoản tài trợ giúp các ngành thực hiện công nghệ
mới, trang bị máy và thiết bị hiện đại, nghĩa là giúp các ngành mới gia nhập thị
trường và đẩy mạnh phát triển những ngành công nghiệp mũi nhọn của đất nước,
tăng cường xuất khẩu.
- Bán phá giá cũng có thể xảy ra trong trường hợp một nước có quá nhiều
hàng tồn kho không thể giải quyết theo cơ chế giá bình thường.
Trong nền kinh tế hàng hóa trước đây, khi gặp khủng hoảng thừa, các chủ doanh

nghiệp thường chất đống hàng hoá của mình, châm lửa đốt, hoặc đổ xuống biển để
giữ giá, nhất định không bán phá giá. Còn hiện nay, ở các nước kinh tế phát triển,
gặp trường hợp này, nhà buôn có thể chọn một trong hai giải pháp thường dùng.
Trước hết là lưu kho chờ ngày giá lên. Nhưng lưu kho đòi hỏi phải có chỗ chứa, và
chỉ áp dụng được với những mặt hành không bị hư hỏng. Giải pháp thứ hai là bán
xôn. Nhiều khi đây là giải pháp duy nhất đối với một số mặt hàng: thực phẩm sắp
hết thời hạn sử dụng, máy vi tính đời cũ, một số kiểu giầy, quần áo hết mốt
Nhiều cửa hàng lớn ở Pháp ngay từ khi vào mùa đã có số hàng tồn đọng lên tới
50% số dự trù bán ra. Hàng tồn kho này sẽ nhanh chóng được mang bán với giá

Nhóm 6 – TCDN21
4
Thuế chống bán phá giá trong đầu tư quốc tế

-
khuyến mãi thấp hơn 30% giá bán thông thường. Đến cuối mùa, số hàng tụt xuống
còn vài phần trăm, được nhượng lại cho dân bán xôn chuyên nghiệp với giá chỉ
bằng 1/10 giá cũ. Dân chuyên nghiệp sẽ đẩy hết hàng ra nước ngoài, chủ yếu là
sang Châu Phi, Châu Á và Đông Âu.
- Bán phá giá được sử dụng như công cụ cạnh tranh.
Các hãng nước ngoài sử dụng công cụ bán phá giá để loại bỏ các đối thủ cạnh
tranh, chiếm lĩnh thị trường của các nước nhập khẩu. Sau khi đã giành được vị trí
khống chế thị trường, triệt tiêu được sự cạnh tranh của hàng hoá nội địa thì các
hãng nước ngoài sẽ thực hiện mục tiêu cuối cùng của mình là tăng giá, tìm cách
thao túng thị trường để thu được lợi nhuận tối đa.
- Một nước có thể do nhập siêu lớn, cần phải có ngoại tệ để bù đắp cho
thiếu hụt này: Khi đó họ có thể áp dụng công cụ bán phá giá để giải quyết vấn đề
thiếu hụt ngoại tệ.
- Một số nước làm ra được một số sản phẩm với giá thành rất thấp là nhờ
sử dụng lao động trẻ em tiền lương thấp và sử dụng lao động của tù nhân làm

hàng xuất khẩu
Theo số liệu của Văn phòng Quốc tế về lao động trẻ em (BIT) thì trên toàn thế
giới hiện có tới 250 triệu trẻ em từ 5 - 14 tuổi đang tham gia một hoạt động kinh
tế. Còn theo Quỹ Nhi đồng Liên Hợp quốc (UNICEF) thì tại các nước nghèo, cứ 4
trẻ em thì có một trẻ em làm việc như người lớn. Việc sử dụng lao động trẻ em và
sử dụng lao động tù nhân ngoài việc mang lại siêu lợi nhuận, nó còn là cách để
cạnh tranh đối với các đối thủ làm ăn. Nhờ giá nhân công rẻ mạt, người ta có thể
hạ giá thành sản phẩm, xuất khẩu hàng hoá bán phá giá ở nước ngoài.
- Ở Việt Nam có hiện tượng một số công ty kinh doanh hàng nhập khẩu trả
chậm, đã bán phá giá nhằm dùng nguồn vốn nước ngoài để kinh doanh mặt hàng
khác và hàng nhập lậu với khối lượng lớn. Để làm được việc đó, họ tìm cách bán
phá giá trên thị trường, có lúc bán ồ ạt chịu lỗ từ 10 -20% so với giá vốn nhập
khẩu để nhanh chóng thu hồi vốn, đi buôn mặt hàng khác có lãi suất cao hơn,
không những đủ bù lỗ số hàng nhập trả chậm, mà còn có lãi lớn. Năm 1995, ba
mặt hàng quan trọng đã bị bán phá giá theo cách tính toán trên là xăng dầu, thép
xây dựng và phân bón. Cuối năm 1995, giá phân Urê Indonesia nhập vào Việt nam
đang ở mức cao (260-265USD/ tấn CIF Cảng Sài gòn), nhưng giá bán buôn cả tàu
tại Tân Quy, Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh liên tục giảm xuống chỉ còn

Nhóm 6 – TCDN21
5
Thuế chống bán phá giá trong đầu tư quốc tế

-
245đồng/kg. Ngoài ra, hàng ngoại nhập lậu với khối lượng lớn trong những năm
vừa qua thu được lợi nhuận siêu ngạch từ việc trốn thuế nhập khẩu đã chiếm lĩnh
thị trường với giá cạnh tranh so với hàng sản xuất trong nước, loại khỏi thị trường
các doanh nghiệp làm ăn chân chính. Tóm lại, có rất nhiều trường hợp các hãng
nước ngoài có thể xuất khẩu hàng của mình sang thị trường nước khác với giá thấp
hơn giá nội địa và thậm chí thấp hơn cả chi phí sản xuất, nhưng không phải tất cả

mọi trường hợp đều có thể gán cho cái tên “bán phá giá” để áp dụng các biện
pháp ngăn cản. Trong nhiều trường hợp làm như vậy chỉ tạo ra một sự bảo hộ
không cần thiết cho ngành sản xuất trong nước, làm giảm lợi ích của người tiêu
dùng cũng như của toàn xã hội.
Theo qui định của Tổ chức Thương mại quốc tế (World Trade Organisation
– WTO) và pháp luật nhiều nước, thuế chống bán phá giá có thể bị áp đặt mà
không quan tâm đến lý do vì sao nhà sản xuất bán phá giá.
1.2. Ý nghĩa kinh tế của việc bán phá giá
Theo hình, trước khi có việc hang hóa của các nước khác được bán vào thị
trường một nước với giá thấp hơn giá hiện hành, cung và cầu mặt hang đó cân
bằng ở điểm E, với giá P1 và lượng tiêu thụ Q1, hoàn toàn là sản xuất trong nước.
Tuy nhiên, khi có nguồn hang hóa nước ngoài bán với giá thấp hơn là P2, lượng
tiêu thụ tăng lên Q2, trong đó lượng hang sản xuất trong nước giảm xuống chỉ còn
Q’2, lượng hàng nhập khẩu là Q2-Q’2.

Nhóm 6 – TCDN21
6
Thuế chống bán phá giá trong đầu tư quốc tế

-
Từ đây ta thấy được thặng dư của người tiêu dùng tăng thêm một lượng
bằng diện tích hình thang ABCE. Như vậy, có thể thấy được tác động của việc bán
phá giá là gây thiệt hại cho ngành sản xuất nội địa nhưng lại mang lại lợi ích cho
người tiêu dùng. Về tổng thể toàn xã hội được lợi bằng diện tích tam giác CDE.
Như vậy, việc bán phá giá không phải chỉ mang tính chất tiêu cực nên cần có sự
phân tích thấu đáo bản chất của mọi trường hợp bán phá giá để xem xét mọi tác
động để từ đó có biện pháp đối phó thích ứng.
Có thể hình dung các trường hợp bán phá giá sau:
- Giá xuất khẩu thấp hơn giá trị trường nội địa nước xuất khẩu nhưng vẫn
cao hơn chi phí sản xuất. Trường hợp này có thể xảy ra khi một hãng chiếm vị trí

độc quyền hoặc gần như độc quyền ở thị trường nội địa xuất phát từ điều kiện tự
nhiên hoặc do được hưởng lợi thế từ hàng rào thương mại, nhưng phải cạnh tranh
ở thị trường nước xuất khẩu. Khi đó, vì mục đích tối đa hóa lợi nhuận, hãng đó sẽ
lợi dụng vị thế độc quyền của mình để ấn định giá bán trong nước cao hơn, chừng
nào thị trường đó còn chấp nhận được. Trong khi đó, do phải cạnh tranh ở thị
trường nước xuất khẩu, hãng đó chỉ có thể bán với giá đang tồn tại ở thị trường đó.
Như vậy đã xảy ra việc bán phá giá như định nghĩa trên.
Nếu việc bán phá giá này không làm giá ở thị trường nước xuất khẩu thay
đổi (do cạnh tranh ở đây hoàn hảo), sẽ không làm ảnh hưởng tới lợi ích của nước
nhập khẩu, và vì thế sẽ không cần thiết phải có biện pháp chống đối lại. Tuy nhiên,
việc bán phá giá này xảy ra với một lượng lớn và trong thời gian dài, làm giảm giá
ở thị trường nước nhập khẩu sẽ gây tác động tới lợi ích của nước nhập khẩu.
Người tiêu dùng sẽ được lợi từ giá thấp nhưng ngược lại các nhà sản xuất và công
nhân trong ngành công nghiệp đó sẽ bị thiệt hại vì lợi nhuận và lương bị giảm. Lợi
ích cuối cùng của nước nhập khẩu phụ thuộc vào việc lợi ích của người tiêu dùng
có lớn hơn thiệt hại của người sản xuất và công nhân hay không.
Ngay cả trong trường hợp về tổng thể nước nhập khẩu bị thiệt hại cũng khó
có lý do để áp dụng biện pháp chống bán phá giá đối với hàng hóa của hãng đó
nhằm khắc phục thiệt hại bởi vì hãng đó có thể lập luận rằng do điều kiện thị
trường nước nhập khẩu là canh tranh, bất kỳ hãng nào cũng có thể tham gia thị
trường đó và làm cho giá giảm xuống. Tuy nhiên, để khắc phục thiệt hại, nước
nhập khẩu có thể áp dụng các biện pháp được phép như tự vệ.

Nhóm 6 – TCDN21
7
Thuế chống bán phá giá trong đầu tư quốc tế

-
- Giá xuất khẩu thấp hơn chi phí sản xuất và tất nhiên là thấp hơn giá thị
trường trong nước. Trong trường hợp này còn có thể xảy ra một số tình huống

khác nhau, tùy thuộc vào định nghĩa chi phí sản xuất: chi phí bình quân hay chi
phí cận biên.
Trước hết, ta cần phân biệt được chi phí bình quân và chi phí cận biên. Sự
phân biệt này có ý nghĩa quan trọng trong ngắn hạn khi nhiều loại chi phí sản xuất
là cố định, không phụ thuộc vào số lượng sản xuất, chỉ có một phần nhỏ chi phí
sản xuất là thay đổi khi lượng sản xuất thay đổi. Chính chi phí lề là yếu tố quyết
định trong việc định giá của một hãng trong thời gian ngắn hạn khi phải chịu chi
phí nhất định để thâm nhập vào một thị trường.
Chi phí bình quân là chi phí được tính bằng tổng tất cả các chi phí một
hãng phải chịu chia cho lượng sản phẩm sản xuất ra.
Chi phí cận biên là chi phí phải bỏ ra để sản xuất thêm một đơn vị sản
phẩm.
Khi nhu cầu của thị trường bị giảm, kéo theo giá thị trường giảm và các
hãng theo đó cũng phải giám giá bán. Nếu giá bán thấp hơn chi phí bình quân,
hãng đó sẽ bị lỗ. Tuy nhiên, khi một phần chi phí là cố định không phụ thuộc vào
lượng sản xuất, mức độ lỗ sẽ phụ thuộc vào lượng hàng bán ra và vào mức chi phí
lề. Nếu giá bán vẫn cao hơn chi phí cận biên, hãng vẫn tiếp tục bán với hy vọng
sau một thời gian ngắn thị trường sẽ phục hồi hoặc chỉ để giảm thiệt hại trước khi
rút lui khỏi thị trường đó. Đây là sự phản ứng rất bình thường của các hãng đối
với sự thay đổi của thị trường, kể cả các hãng nước ngoài và hãng nội địa.
Trong trường hợp này, việc áp dụng một biện pháp chống hàng nhập khẩu
là bất hợp lý vì như vậy sẽ đối xử không công bằng giữa hãng nội địa và hãng
nước ngoài. Tuy nhiên, một nước vẫn có thể áp dụng các chính sách hỗ trợ cho các
hãng nội địa giảm nhẹ thiệt hại dưới hình thức các biện pháp tự vệ.
2. Xác định bán phá giá
Việc xác định hành vi bán phá giá được thông qua sự so sánh giữa giá
thông thường và giá xuất khẩu.
X = Giá thông thường(giá TT) – Giá xuất khẩu(giá XK)
X > 0  có bán phá giá
Biên độ phá giá được tính theo công thức :

BĐPG = ( Giá TT – Giá XK )/Giá XK

Nhóm 6 – TCDN21
8
Thuế chống bán phá giá trong đầu tư quốc tế

-
BĐPG >2%  có bán phá giá
Như vậy, biên độ phá giá được xét đến trong các tính toán của cơ quan có thẩm
quyền phải lớn hơn 2%. Biên độ 2% được gọi là biên độ phá giá tối thiểu: cơ quan
có thẩm quyền sẽ không bắt đầu cuộc điều tra nếu kiểm tra sơ bộ cho thấy biên độ
phá giá thấp hơn 2%; trường hợp cuộc điều tra đã bắt đầu thì cơ quan có thẩm
quyền sẽ đình chỉ việc điều tra đối với những trường hợp này.
Trong đó:
Giá xuất khẩu: là giá bán sản phẩm từ nước sản xuất(nước XK) sang nước nhập
khẩu.
ADA qui định các cách thức tính giá XK khác nhau(tùy thuộc vào các điều
kiện, hoàn cảnh cụ thể):
Cách 1: Giá XK là giá trong giao dịch mua bán giữa nhà sản xuất hoặc nhà
xuất khẩu của nước xuất khẩu với nhà nhập khẩu của nước nhập khẩu. Đây là cách
tính giá XK chuẩn và được áp dụng trước tiên khi tính giá XK(trong các điều kiện
thương mại thông thường). Chỉ khi hoàn cảnh cụ thể không đáp ứng các điều kiện
áp dụng cách 1 thì giá XK mới được tính theo cách 2.
Cách 2: Giá XK là giá tự tính toán trên cơ sở giá bán sản phẩm nhập khẩu
đó cho người mua độc lập đầu tiên tại nước nhập khẩu; hoặc một giá trị tính toán
theo những tiêu chí hợp lý do cơ quan có thẩm quyền quyết định.
Giá thông thường là giá bán của sản phẩm tương tự với sản phẩm bị điều
tra(SPTT) tại thị trường nước xuất khẩu. Có ba cách xác định giá TT:
Cách 1: Giá TT được xác định theo giá bán của SPTT tại thị trường nước
xuất khẩu(tại thị trường nội địa của nước nơi sản phẩm đó được sản xuất ra).

Cách 2: Giá TT được xác định theo giá bán của SPTT từ nước xuất khẩu
liên quan sang thị trường một nước thứ ba.
Cách 3: Giá TT được xác định theo giá trị tính toán. Giá TT = giá thành sản
xuất + chi phí(hành chính, bán hàng, quản lý chung…) + lợi nhuận.
Trong các cách nêu trên, cách 1 là cách thức tính giá TT tiêu chuẩn, được
ưu tiên xem xét áp dụng trước trong tất cả các trường hợp. Chỉ khi không đáp ứng
được các điều kiện để sử dụng cách 1 thì giá TT mới được tính theo cách 2 hoặc
cách 3.

Nhóm 6 – TCDN21
9
Thuế chống bán phá giá trong đầu tư quốc tế

-
Trường hợp SPTT được xuất khẩu từ một nước có nền kinh tế phi thị
trường ( giá bán hàng và giá nguyên liệu đầu vào do chính phủ ấn định ) thì các
cách trên không được áp dụng để xác định Giá TT.
Để so sánh một cách công bằng Giá TT và Giá XK, thì hiệp định quy định nguyên
tắc so sánh như sau:
- So sánh hai giá này trong cùng điều kiện thương mại ( cũng xuất xưởng/
bán buôn/ bán lẻ), thường lấy giá ở khâu xuất xưởng.
- Tại cùng một thời điểm hoặc thời điểm càng gần nhau càng tốt.
Việc so sánh giá trị thông thường và giá xuất khẩu là cả một quá trình tính toán
phức tạp , vì không bao giờ cũng có sẵn mức giá xuất xưởng của Giá TT và Giá
XK mà chỉ có mức giá bán buôn hoặc bán lẻ của SPTT ở thị trường nước xuất
khẩu(Giá TT+) và giá tính thuế hải quan, giá hợp đồng hoặc giá bán buôn/bán lẻ
SPTT của nhà nhập khẩu(Giá XK+) nên thường phải có một số điều chỉnh để có
thể so sánh Giá TT và Giá XK một các công bằng.
Điều chỉnh các chênh lệch trong: điều kiện bán hàng, các loai thuế, số lượng sản
phẩm, đặc tính vật lý của sản phẩm, và những yếu tố khác ảnh hưởng đến việc so

sánh hai giá. Ví dụ, khi lấy giá bán sản phẩm thông thường cho một người mua
độc lập ở nước nhập khẩu làm Giá XK+ thì Giá XK sẽ được xác định bằng cách
điều chỉnh như sau:
Giá XK = (Giá XK+) – (lợi nhuận) – (các loại thuế + chi phí phát sinh từ
khâu nhập khẩu đến khâu bán hàng)
Cách so sánh:
Trường hợp khi Giá XK+ chênh lệch đáng kể giữa những người mua, các
vùng hoặc giữa các khoảng thời gian khác nhau thì:
- Trung bình Giá TT so với trung bình Giá XK
- Giá TT(từng giao dịch) so với Giá XK(từng giao dịch)
- Trung bình Giá TT so với Giá XK(từng giao dịch)
Trường hợp SPTT được xuất khẩu sang nước nhập khẩu qua một nước
trung gian(nước xuất khẩu) thì:
- Giá SPTT ở nước xuất khẩu(nước trung gian) so với giá bán SPTT từ
nước xuất khẩu sang nước nhập khẩu.

Nhóm 6 – TCDN21
10
Thuế chống bán phá giá trong đầu tư quốc tế

-
- Nếu sản phẩm thông thường chỉ đơn thuần được chở từ nước sản xuất qua
nước xuất khẩu thì giá ở nước xuất xứ sẽ được so với giá bán SPTT từ nước xuất
khẩu sang nước nhập khẩu.
3. Thiệt hại của việc bán phá giá
Việc xác định thiệt hại bao gồm những nội dung sau:
- Khối lượng sản phẩm nhập khẩu được bán phá giá và ảnh hưởng của việc
này đến giá của sản phẩm tương tự tai thị trường nội địa nước nhập khẩu. Cụ thể,
về khối lượng sản phẩm nhập khẩu bị điều tra, cơ quan điều tra phải xem xét xem
trên thực tế có sự tăng đáng kể (tuyệt đối hoặc tương đối) của hàng nhập khẩu bán

phá giá so với mức sản xuất hoặc nhu cầu tiêu dùng tại nước nhập khẩu hay
không.
Về tác động của hàng nhập khẩu bán phá giá đối với giá của SPTT tại thị
trường nước nhập khẩu, cơ quan có thẩm quyền phải xem xét trên hai khía cạnh:
hàng nhập khẩu bán phá giá có phải là đã được bán với giá thấp hơn một cách
đáng kể so với giá của SPTT tại thị trường nước nhập khẩu hay không? Hoặc việc
hàng nhập khẩu bán phá giá đó có đúng là đã làm giảm giá của SPTT trên thị
trường nước nhập khẩu ở mức đáng kể hoặc ngăn không cho giá tăng đáng kể hay
không(điều mà lẽ ra sẽ không xảy ra nếu không bán phá giá hàng nhập đó)?
- Hậu quả của việc nhập khẩu này đối với các nhà sản xuất các sản phẩm
này của nước xuất khẩu.
Hệ quả của việc bán phá giá đối với ngành sản xuất nội địa nước xuất khẩu
được xem xét trên một loạt các nhân tố khác nhau của ngành sản xuất đó và những
thiệt hại của ngành sản xuất cũng có thể được xem xét ở nhiều dạng khác nhau.
Về cơ bản, bán phá giá sẽ gây thiệt hại về lợi ích kinh tế cho các nhà sản
xuất nội địa của nước XK, ngăn cản sự hình thành một ngành sản xuất nội địa của
nước XK và có tác động làm giảm giá SP tương tự hau kìm hãm giá SP tương tự
của thị trường nội địa của nước XK.
Các yếu tố cần xem xét khi xác định thiệt hại thực tế:
ADA quy định thiệt hại phải được xem xét trên tất cả các yếu tố và chỉ số
kinh tế có thể có tác động đến thực trạng của ngành sản xuất. ADA không đưa ra
một danh mục đầy đủ các yếu tố này nhưng có nêu một số yếu tố, chỉ sổ cơ bản
bắt buộc phải xem xét như:

Nhóm 6 – TCDN21
11
Thuế chống bán phá giá trong đầu tư quốc tế

-
- Mức suy giảm thực tế và tiềm ẩn của doanh số, lợi nhuận, sản lượng, thị

phần, năng suất, tỷ lệ lãi đối với đầu tư, tỷ lệ năng lực được sử dụng, giá….
- Các nhân tố ảnh hưởng tới giá trong nước: cung cầu, sản phẩm tương tự,
sản phẩm thay thế
- Các nhân tố ảnh hưởng xấu thực tế hoặc tiềm ẩn đối với quá trình chu
chuyển tiền mặt, lượng lưu kho, công ăn việc làm, lương, tăng trưởng, khả năng
huy động vốn, nguồn đầu tư…
- Độ lớn của biên độ phá giá
Các yếu tố cần xem xét khi xác định nguy cơ thiệt hại:
ADA không quy định đầy đủ các yếu tố mà cơ quan có thẩm quyền cần
xem xét khi quyết định xem có tổn tại nguy cơ gây thiệt hại đáng kể hay không,
nhưng có nêu một số yếu tố điển hình sau:
- Tỉ lệ gia tăng đáng kể hàng nhập khẩu được bán phá giá vào nước nhập
khẩu và đó là dấu hiệu cho thấy có nhiều khả năng hàng nhập khẩu sẽ gia tăng ở
mức lớn.
- Năng lực sản xuất lớn(trong thực tế hoặc trong tương lai gần) của nhà sản
xuất, xuất khẩu sản phẩm liên quan là dấu hiệu cho thấy sẽ có sự gia tăng đáng kể
của hàng xuất khẩu được bán phá giá sang thị trường nước nhập khẩu.
- Vấn đề liệu hàng nhập khẩu được nhập với mức giá có tác động làm giảm
hoặc kìm hãm đáng kể giá trong nước và có thể làm tăng nhu cầu đối với hàng
nhập khẩu thêm nữa hay không.
- Sự tồn kho của sản phẩm đang bị điều tra…
Theo quy định, để đánh giá nguy cơ thiệt hại, cơ quan có thẩm quyền nước
nhập khẩu phải xem xét ít nhất 4 yếu tố trên và xem xét trong một tổng thế rồi mới
đi đến kết luận thiệt hại.
II. Thuế chống bán phá giá trong đầu tư quốc tế
1. Thuế chống bán phá giá và tác dụng của nó
- Thuế là số tiền thu của các công dân, hoạt động và đồ vật (như giao dịch,
tài sản) nhằm huy động tài chính cho chính quyền, nhằm tái phân phối thu nhập,
hay nhằm điều tiết các hoạt động kinh tế-xã hội.
- Thuế chống bán phá giá là khoản thuế bổ sung bên cạnh thuế nhập khẩu

thông thường, do cơ quan có thẩm quyền của nước nhập khẩu ban hành, đánh vào
sản phẩm nước ngoài bị bán phá giá vào nước nhập khẩu. Đây là loại thuế nhằm

Nhóm 6 – TCDN21
12
Thuế chống bán phá giá trong đầu tư quốc tế

-
chống lại việc bán phá giá và loại bỏ những thiệt hại do việc hàng nhập khẩu bán
phá giá gây ra.
Thông thường mỗi nước đều có một hệ thống các qui định riêng về các điều
kiện và thủ tục áp đặt thuế chống bán phá giá. Trên thực tế, thuể chống bán phá
giá được nhiều nước sử dụng như một hình thức “ bảo hộ hợp pháp “ đối với sản
xuất nội địa của mình. Để ngăn chặn hiện tượng lạm dụng biện pháp này, các nước
thành viên WTO đã cùng thỏa thuận về các qui định bắt buộc phải tuân thủ liên
quan đến việc điều tra và áp đặt thuế chống bán phá giá, tập trung trong một Hiệp
định về chống bán phá giá của WTO – Hiệp định ADA(Anti-dunping Agreement).
- Tác động của thuế chống bán phá giá: Khi đã có kết luận cuối cùng khẳng
định có việc bán phá giá gây ra thiệt hại đáng kể cho ngành sản xuất trong nước,
cơ quan có thẩm quyền sẽ quyết định 2 vấn đề:
+ Có áp đặt thuế chống bán phá giá hay không? (nghĩa là khi đã đủ
điều kiện vẫn có thế không ra quyết định áp đặt thuế chống bán phá giá).
+ Áp đặt thuế chống bán phá giá bằng hay dưới biên độ phá giá?
Do vậy, về mặt lợi ích xã hội việc áp dụng thuế chống bán phá giá là một
hình thức xử phạt đối với việc bán phá giá hàng hóa của nước xuất khẩu có tác
dụng giống như thuế nhập khẩu thông thường theo tỷ lệ phần trăm. Hơn nữa, thuế
chống bán phá giá còn có tác dụng bảo hộ sản xuất trong nước nhập khẩu vì có tác
dụng ngăn cản dòng hàng hóa nhập khẩu.
2. Vai trò của thuế chống bán phá giá
- Quy trình thông thường của một vụ điều tra chống bán phá giá: Bao gồm

10 giai đoạn.
+ Giai đoạn bắt đầu vụ kiện: Đơn kiện(của ngành sản xuất nội địa)
phải đưa ra tương đối đủ các bằng chứng về việc bán phá giá và thiệt hại gây ra,
xác định chính xác loại hàng hóa và danh tính các nhà sản xuất, xuất khẩu liên
quan.
Sau khi kiểm tra sơ bộ đơn kiện, cơ quan có thẩm quyền chỉ ra Quyết định khởi
xướng điều tra khi:
Đối tượng nộp đơn đáp ứng yêu cầu về tính đại diện(cho ngành sản xuất nội
địa liên quan)
Có tương đối đầy đủ bằng chứng về việc bán phá giá gây thiệt hại.
Lượng hàng nhập khẩu từ nước bị kiện không quá nhỏ

Nhóm 6 – TCDN21
13
Thuế chống bán phá giá trong đầu tư quốc tế

-
+ Điều tra sơ bộ: Việc điều tra được tiến hành theo 2 nhóm vấn đề:
Điều tra để xác định có bán phá giá hay không và biên độ phá giá thế nào, điều tra
để xác định có thiệt hại đối với ngành sản xuất nội địa hay không và thiệt hại có
phải là hệ quả của việc bán phá giá không.
Để xác định các vấn đề trên, Cơ quan điều tra sẽ gửi bảng câu hỏi cho bị đơn và
các bên liên quan, thu thập và xác minh thông tin, bằng chứng liên quan.
Các bên bảo về quyền lợi của mình chủ yếu qua việc trả lời bảng hỏi, cung cấp
thông tin bổ sung cho cơ quan điều tra.
+ Kết luận vụ kiện: Trên cơ sở kết quả điều tra sơ bộ, cơ quan điều
tra ra kết luận sơ bộ về các vấn đề được điều tra(bán phá giá và thiệt hại).
+ Áp dụng biện pháp tạm thời: Trường hợp kết luận sơ bộ khẳng
định có tồn tại việc bán phá giá gây thiệt hại đáng kể, cơ quan có thẩm quyền có
thể quyết định áp dụng biện pháp tạm thời(đặt cọc, ký quỹ hoặc thuế tạm thời) đối

với hàng hóa nhập khẩu liên quan.
+ Cam kết về giá: Vào bất kỳ giai đoạn nào sau khi có kết luận sơ bộ
khẳng định có việc bán phá giá gây thiệt hại đáng kể, nhà xuất khẩu và cơ quan có
thẩm quyền nước nhập khẩu có thể cùng thỏa thuận đạt được cam kết về giá(nhà
xuất khẩu cam kết tăng giá xuất khẩu lên hoặc ngừng xuất khẩu phá giá…).
Nếu cam kết về giá được chấp nhận với nhà xuất khẩu nào thì việc điều tra xem
như chấm dứt với nhà xuất khẩu đó trừ khi họ yêu cầu tiếp tục việc điều tra.
+ Cơ quan điều tra tiếp tục tiến hành điều tra, xác minh lại các vấn
đề trong kết luận sơ bộ và xem xét các bình luận, phản hồi từ các bên đối với kết
luận sơ bộ. Các phiên điều trần có thế được tổ chức để cơ quan điều tra trực tiếp
nghe các bên trình bày lặp luận của mình và trả lời lập luận của đối phương.
+ Kết luận cuối cùng: Cơ quan điều tra ra kết luận cuối cùng về các
vấn đề được điều tra (bán phá giá và thiệt hại).
+ Áp dụng biện pháp chống bán phá giá chính thức: Cơ quan điều
tra ra kết luận cuối cùng. Có hai trường hợp:
* Kết luận khẳng định có bán phá giá gây ra thiệt hại đáng kể thì cơ quan
điều tra có thể ra quyết định áp thuế chống bán phá giá (mức thuế đối với từng nhà
xuất khẩu không cao hơn biên độ giá của họ). Việc áp thuế hay không còn phụ
thuộc vào biên độ giá (dưới 2% thì không được áp thuế) và lợi ích cộng đồng

Nhóm 6 – TCDN21
14
Thuế chống bán phá giá trong đầu tư quốc tế

-
(trường hợp EU, nếu việc áp dụng không phù hợp với lợi ích cộng đồng thì sẽ
không áp thuế).
* Kết luận phủ định (không bán phá giá hoặc không gây ra thiệt hại đáng
kể) thì sẽ không áp thuế chống bán phá giá và hoàn trả các khoản đặt cọc.
+ Rà soát hàng năm: Được thực hiện theo yêu cầu để tính biên độ

phá giá thực của các nhà xuất khẩu trong năm trước đó hoặc để điều chỉnh mức
thuế áp dụng trong những năm tiếp theo hoặc chấm dứt thuế. Trong quá trình rà
soát hàng năm, các bên nhà xuất khẩu cũng phải cung cấp chứng cứ chứng minh
phục vụ điều tra.
+ Rà soát hoàng hôn: Cơ quan điều tra thực hiện rà soát hoàng hôn
cuối thời hạn 5 năm kể từ khi áp dụng thuế chống bán phá giá hoặc kể từ khi rà
soát hang năm. Việc điều tra được thực hiện tổng thể (cả về bán phá giá và thiệt
hại) để xác định có chấm dứt áp thuế hay tiếp tục thếm 5 năm nữa.
- Vai trò của thuế chống bán phá giá
Biện pháp được phép sử dụng trong chống bán phá giá là thuế theo tỷ lệ phần
trăm, do vậy về mặt lợi ích cộng đồng thì tác động của nó cũng giống như tác
động của thuế nhập khẩu thông thường theo tỷ lệ phần trăm. Để xem rõ tác động
của thuế chống bán phá giá ta phân tích theo phương pháp “cân bằng từng phần”
như sau:
Khi một sắc thuế T được áp dụng, làm cho giá trong nước của sản phẩm
tăng lên một lượng bằng T. Do vậy, với các yếu tố về cầu của thị trường nội địa
đối với sản phẩm đó không đổi, lượng tiêu thụ giảm từ Q1 xuống Q’1, trong đó
lượng hàng sản xuất trong nước tăng từ Q2 lên Q’2, lượng hàng xuất khẩu giảm
xuống chỉ còn bằng Q’1-Q’2. Như vậy có thể thấy rõ tác động bảo hộ của thuế
nhập khẩu đối với sản xuất trong nước: làm tăng giá trong nước, giảm tiêu thụ
hàng nhập khẩu và tăng sản xuất trong nước. Các nhà sản xuất trong nước được
hưởng lợi rõ ràng khi giá trị thặng dư của họ được gia tăng thêm một lượng bằng
diện tích tứ giác ACJG

Nhóm 6 – TCDN21
15
Thuế chống bán phá giá trong đầu tư quốc tế

-
Tuy nhiên, cùng với việc các nhà sản xuất được hưởng lợi thì người tiêu

dùng lại bị thiệt hại: giá trị thặng dư của họ bị giảm một lượng bằng diện tích tứ
giác ABHG. Nhà nước cũng được hưởng lợi khi ngân sách thu vào từ thuế nhập
khẩu tăng một lượng bằng diện tích hình chữ nhật MNHJ.
Thế nhưng, xét về tổng thể, toàn xã hội sẽ bị thiệt khi lợi ích mang lại cho
các nhà sản xuất trong nước và Nhà nước không thể bù đắp cho thiệt hại về lợi ích
của người tiêu dùng. Lượng thiệt hại của xã hội bằng diện tích tam giác CMJ cộng
diện tích tam giác NBH.
Ngoài vai trò là bảo hộ sản xuất của thuế chống bán phá giá như trên, quá
trình dẫn tới việc áp dụng thuế chống bán phá giá cũng phần nào có vai trò bảo hộ.
Như, bản thân việc bắt đầu quá trình điều tra chống phá giá có nghĩa là trong
tương lai rất có thể thuế chống bán phá giá sẽ được áp dụng làm cho sản phẩm là
đối tượng điều tra trở nên ít hấp dẫn hơn đối với các nhà nhập khẩu, như vậy phần
nào đã ngăn cản dòng hàng hóa nhập khẩu.
3. Nội dung cơ bản của thuế chống bán phá giá
3.1. Các nguyên tắc tuân thủ
Khi đã có kết luận cuối cùng khẳng định có việc bán phá giá gây thiệt hại
đáng kể cho ngành sản xuất nội địa, cơ quan có thẩm quyền sẽ quyết định 2 vấn
đề:

Nhóm 6 – TCDN21
16
Thuế chống bán phá giá trong đầu tư quốc tế

-
- Có áp thuế chống bán phá giá hay không?(điều này cho thấy ngay cả khi
có đầy đủ các điều kiện, cơ quan có thẩm quyền vẫn có thể không ra quyết định áp
đặt thuế chống bán phá giá).
- Áp đặt thuế chống bán phá giá bằng hay dưới biên độ phá giá?(ADA
khuyến khích các nước nhập khẩu áp đặt mức thuế thấp hơn biên độ phá giá nếu
mức thuế này đã đủ loại bỏ thiệt hại)

Việc áp dụng thuế chống bán phá giá phải được thực hiện trên nguyên tắc
không phân biệt đối xử đối với hàng nhập khẩu liên quan từ tất cả các nguồn bị coi
là bán phá giá và gây thiệt hại(trừ các nguồn đã có cam kết về giá). Trong mọi
trường hợp, mức thuế chống bán phá giá không được cao hơn biên độ phá giá tính
toán.
3.2. Các hình thức hồi tố thuế chống bán phá giá
Quyết định áp đặt thuế chống bán phá giá có hiệu lực hồi tố thực chất là
truy thu thuế đối với hàng hóa nhập khẩu vào nước nhập khẩu trước thời điểm
quyết định áp đặt thuế được ban hành. Nguyên tắc chung là thuế chống bán phá
giá không áp dụng hồi tố trừ một số ngoại lệ có điều kiện. Theo quy định của
ADA, quyết định áp đặt thuế chống bán phá giá chỉ có thể có hiệu lực hồi tố trong
trường hợp thiệt hại do việc bán phá giá gây ra được xác định là thiệt hại thực
tế( chứ không phải là nguy cơ thiệt hại thiệt hại hoặc chỉ là cản trở sự hình thành
của một ngành sản xuất nội địa). Nếu là nguy cơ thiệt hại thì chỉ có thể áp dụng
hồi tố thuế này khi chứng minh được rằng trên thực tế nếu không có các biện pháp
tạm thời thì đã có thiệt hại thực tế xảy ra. Quy định này của ADA phù hợp với bản
chất của việc đánh thuế là nhằm loại bỏ thiệt hại.
Có các hình thức hồi tố thuế chống bán phá giá sau:
- Hồi tố đối với thời gian áp dụng biện pháp tạm thời
Trong trường hợp này, cơ quan có thẩm quyền nước nhập khẩu sẽ truy thu
thuế đối với hàng hóa liên quan nhập khẩu vào nước này kể từ thời điểm có quyết
định áp dụng biện pháp tạm thời.
Vì các nhà sản xuất, xuất khẩu đã phải nộp bảo đảm cho hàng hóa nhập
khẩu với mức như nêu tại quyết định áp dụng biện pháp tạm thời nên thực chất
việc truy thu này là việc chính thức thu các khoản tiền bảo đảm trước đây nhà sản
xuất đã nộp, theo đó:

Nhóm 6 – TCDN21
17
Thuế chống bán phá giá trong đầu tư quốc tế


-
+ Nếu mức thuế chính thức cao hơn mức thu theo biện pháp tạm thời: nhà
xuất khẩu không phải nộp bổ sung ngoài khoản tiền bảo đảm đã nộp.
+ Nếu mức thuế chính thức thấp hơn mức thu theo biện pháp tam thời: nhà
xuất khẩu được hoàn lại khoản chênh lệch.
- Hồi tố đối với khoảng thời gian tính từ 90 ngày trước khi áp dụng biện
pháp tạm thời cho đến khi có quyết định chính thức về thuế chống bán phá giá.
Hồi tố loại này chỉ áp dụng trong những trường hợp rất hạn hữu khi đã có
tiền sử về việc bán phá giá, việc nhập khẩu được bán phá giá với số lượng lớn và
có nguy cơ gây phương hại đến tác dụng loại bỏ thiệt hại của thuế chống bán phá
giá cuối cùng.
3.3. Áp dụng thuế và thu thuế chống bán phá giá
3.3.1. Việc áp dụng thuế và thu thuế chống bán phá giá của WTO
Việc quyết định có đánh thuế chống bán phá giá hay không và đánh thuế
tương đương hay nhỏ hơn biên độ phá giá sẽ do cơ quan điều tra của nước nhập
khẩu quyết định. Đối với một sản phẩm bị bán phá giá, cơ quan chức năng sẽ xác
định biên độ phá giá riêng cho từng nhà xuất khẩu/sản xuất. Thuế chống bán phá
giá sẽ được áp dụng cho từng trường hợp, trên cơ sở không phân biệt đối xử giữa
hàng nhập khẩu từ tất cả các nguồn được coi là gây thiệt hại, trừ trường hợp đã
cam kết giá.
Trị giá thuế chống bán phá giá áp dụng sẽ không được vượt quá biên độ phá giá.
Có hai hình thức thu thuế chống bán phá giá:
+ Kiểu tính thuế hồi tố (kiểu của Mỹ): việc tính mức thuế được căn cứ vào số liệu
của thời điểm trước khi điều tra (6 tháng - 1 năm). Sau khi điều tra, cơ quan chức
năng bắt đầu áp dụng một mức thuế chống bán phá giá. Sau khi áp dụng được một
thời gian, nếu nhà nhập khẩu yêu cầu đánh giá lại mức thuế (do giá xuất khẩu
tăng lên) thì cơ quan chức năng sẽ tiến hành xác định lại số tiền thuế phải nộp
trong vòng 12 tháng, chậm nhất là 18 tháng ngay sau khi nhận được yêu cầu. Sau
đó mức thuế mới sẽ được áp dụng. Việc hoàn thuế sẽ được thực hiện trong vòng

90 ngày sau khi xác định lại mức thuế cuối cùng phải nộp.
Ví dụ:
Giả sử ngày ra quyết định áp đặt thuế chống bán phá giá ngày 1/1/2000
theo hình thức tính thuế này với định kỳ tính thuế là 1 năm 1 lần.

Nhóm 6 – TCDN21
18
Thuế chống bán phá giá trong đầu tư quốc tế

-
Cơ quan có thẩm quyền sẽ tính một mức thuế tạm thời để nhà nhập khẩu
nộp(giả sử là X%) trong hoặc say khi ra quyết định áp đặt thuế chính thức. Mức
thuế chính thức sẽ được xác định định kỳ một năm một lần(theo yêu cầu của các
chủ thế liên quan): đầu năm 2001 sẽ tính mức thuế chính thức cho giai đoạn từ
1/1/2000 đến 1/1/2001 dựa trên những số liệu thực tế(biên độ phá giá thực tế)
trong thời gian này(giả sử mức thuế chính thức là Y%). Nếu Y<X thì phải hoàn lại
phần thuế chênh lệch. Tương tự như vậy, các khoản thuế chính thức cho các năm
2002, 2003,2004,2005 của chủ thể liên quan sẽ được lần lượt xác định vào đầu các
năm 2003, 2004, 2005, 2006 nếu có yêu cầu.
+ Kiểu tính thuế ấn định (kiểu của EU): cơ quan điều tra lấy số liệu của thời điểm
trước khi điều tra để tính biên độ phá giá và ấn định biên độ này cho cả quá trình
áp dụng thuế chống bán phá giá. Sau khi áp dụng được một thời gian, nếu nhà
nhập khẩu đề nghị hoàn thuế với phần giá trị cao hơn biên độ phá giá (do giá xuất
khẩu tăng) thì cơ quan chức năng sẽ tiến hành xem xét việc hoàn thuế trong vòng
12 tháng, chậm nhất là 18 tháng ngay sau khi nhận được đề nghị hoàn thuế phần
giá trị cao hơn biên độ phá giá (do giá xuất khẩu tăng) thì cơ quan chức năng sẽ
tiến hành xem xét việc hoàn thuế trong vòng 12 tháng, chậm nhất là 18 tháng ngay
sau khi nhận được đề nghị hoàn thuế kèm theo đầy đủ bằng chứng. Việc hoàn thuế
sẽ được thực hiện trong vòng 90 ngày kể từ khi ra quyết định hoàn thuế.
Ví dụ:

Quyết định áp đặt thuế chống bán phá giá ban hành ngày 1/1/2000. Với
cách tính thuế cho khoảng thời gian trong tương lai, quyết định này sẽ ấn định
luôn một mức thuế(giả sử là X%). Mức thuế X% này sẽ áp dụng cho suốt khoảng
thời gian quyết định áp đặt thuế chống bán phá giá có hiệu lực.
Thu thuế với hàng nhập khẩu từ các nhà xuất khẩu không điều tra:
Trường hợp số nhà xuất khẩu/sản xuất sản phẩm bán phá giá quá lớn, không tính
riêng biên độ phá giá thì được cơ quan chức năng sẽ giới hạn việc điều tra ở một
số nhà xuất khẩu/sản xuất nhất định trên cơ sở trao đổi với các nhà xuất khẩu/sản
xuất liên quan.
Mức thuế đối với hàng nhập khẩu từ các nhà xuất khẩu không điều tra không
được vượt quá bình quân gia quyền BĐPĐ của các nhà xuất khẩu có điều tra.
Sau mỗi đợt rà soát, hàng nhập khẩu thuộc diện không điều tra sẽ được hoàn lại
khoản thuế bằng:

Nhóm 6 – TCDN21
19
Thuế chống bán phá giá trong đầu tư quốc tế

-
Bình quân gia quyền BĐPG (cũ) - bình quân gia quyền BĐPG (mới)
Khi có yêu cầu từ các nhà xuất khẩu không điều tra, cơ quan chức năng
sẽ tính lại mức thuế bằng:
Bình quân gia quyền GTTT (nhà XK có điều tra) - giá xuất khẩu (nhà XK
không điều tra)
Phải loại trừ các biên độ bằng không và biên độ tối thiểu (2%) khi tính
bình quân gia quyền BĐPG.
Hàng nhập khẩu mới sẽ được cơ quan chức năng rà soát để xác định BĐPG
riêng và không bị đánh thuế chống bán phá giá trong thời gian tiến hành rà soát,
hàng nhập khẩu mới là:
+ Chưa được xuất khẩu sang nước nhập khẩu trong giai đoạn điều tra

+ Nhập khẩu từ nguồn không liên quan đến các nhà xuất khẩu đang bị
đánh thuế chống bán phá giá
Tuy nhiên, hàng nhập khẩu này có thể bị truy thu thuế kể từ ngày bắt đầu rà soát
nếu có quan chức năng xác định được là có bán phá giá.
Truy thu thuế :
Các biện pháp tạm thời và thuế chống bán phá giá chỉ được áp dụng với sản
phẩm được đưa ra bán sau thời điểm quyết định áp dụng biện pháp tạm thời (60
ngày sau khi điều tra) hoặc quyết định đánh thuế chống bán phá giá (1 năm - 18
tháng sau khi điều tra) có hiệu lực.
Có thể truy thu thuế trong các trường hợp sau:
- Quyết định đánh thuế chống bán phá giá được căn cứ vào thiệt hại vật
chất.
- Quyết định đánh thuế chống bán phá giá được căn cứ vào nguy cơ gây
thiệt hại và thiệt hại thực tế đã có thể xảy ra nếu không áp dụng biện pháp tạm
thời. (trong các trường hợp này có thể thu thuế kể từ ngày bắt đầu áp dụng biện
pháp tạm thời).
- Có thể truy thu thuế đến tận 90 ngày trước khi áp dụng biện pháp tạm thời
nếu cơ quan chức năng xác định được: có cả một quá trình bán phá giá gây ra thiệt
hại hoặc nhà nhập khẩu đã hoặc lẽ ra phải nhận thức được rằng nhà xuất khẩu
đang bán phá giá và việc bán phá giá đó có thể gây thiệt hại; và thiệt hại bị gây ra
bởi khối lượng rất lớn hàng nhập khẩu trong thời gian ngắn trước khi áp dụng biện
pháp tạm thời (trường hợp này nhà nhập khẩu được phép trình bày ý kiến).

Nhóm 6 – TCDN21
20
Thuế chống bán phá giá trong đầu tư quốc tế

-
Tuy nhiên, không được truy thu thuế với sản phẩm được nhập khẩu trước
ngày bắt đầu điều tra.

Phải hoàn thuế trong những trường hợp sau:
+ Nếu mức thuế cuối cùng xác định được thấp hơn mức thuế tạm thời đã
thu thì phải hoàn lại khoản chênh lệch cho nhà nhập khẩu, nếu cao hơn thì không
được thu thêm.
+ Nếu kết luận điều tra cuối cùng khẳng định việc bán phá giá sẽ có thể dẫn
đến thiệt hại hoặc làm chậm sự phát triển của ngành sản xuất trong nước thì thuế
chống bán phá giá chỉ được đánh từ ngày ra kết luận điều tra cuối cùng và phải
hoàn lại số tiền đặt cọc đã thu khi áp dụng biện pháp tạm thời.
+ Nếu kết luận cuối cùng là không đánh thuế chống phá giá thì khoản tiền
đặt cọc khi áp dụng biện pháp tạm thời séc được hoàn trả.
3.3.2. Cách tính và truy thu thuế của EU
Hình thức đánh thuế
Nếu cuộc điều tra dẫn đến kết quả là có phá giá và thiệt hại và nếu xét thấy
cần thiết thì EU sẽ áp dụng thuế chống bán phá giá tạm thời như không được áp
dụng sớm hơn 60 ngày và quá 9 tháng kể từ ngày bắt đầu điều tra, trường hợp đặc
biệt có thể áp dụng trong 9 tháng. EU đánh thuế chống bán phá giá theo 4 hình
thức như sau:
- Thuế phần trăm
- Thuế thay đổi trên cơ sở giá tối thiểu
- Kết hợp giữa thuế phần trăm và thuế thay đổi.
- Thuế tuyệt đối
EU quyết định hình thức đánh thuế dựa trên cơ sở tính chất của sản phẩm,
thuế thay đổi theo giá tối thiểu thường được áp dụng với hàng tiêu dùng. EU
thường đánh thuế chống bán phá giá với mức thuế riêng cho mỗi nhà sản xuất trên
xuất khẩu nếu biên độ phá giá khác nhau.
* Áp dụng thuế chống bán phá giá với cả những sản phẩm được sản xuất
hoặc lắp ráp ở EU.
Theo quy chế chống bán phá giá sửa đổi năm 1987, EU có thể đánh thuế
chống bán phá giá với cả những sản phẩm sản xuất hoặc lắp ráp trong EU với
những điều kiện sau:


Nhóm 6 – TCDN21
21
Thuế chống bán phá giá trong đầu tư quốc tế

-
- Nhà sản xuất hoặc lắp ráp sản phẩm có mối liên hệ hoặc liên kết với bất
kỳ nhà sản xuất nào xuất khẩu sản phẩm tương tự đang bị EU đánh thuế chống bán
phá giá.
- Việc lắp ráp hoặc sản xuất được bắt đầu hoặc tăng trưởng đáng kể sau khi
tiến hành điều tra phá giá.
- Giá trị linh kiện hoặc vật liệu sử dụng trong sản xuất hoặc lắp ráp có xuất
xứ từ nước xuất khẩu sản phẩm đang bị đánh thuế chống bán phá giá chiếm ít nhất
60% tổng giá trị linh kiện và vật liệu.
Trường hợp này thuế suất áp dụng sẽ bằng thuế suất áp dụng với nhà sản
xuất ở nước xuất xứ sản phẩm liên quan, giá tính thuế sẽ là giá CIF của linh kiện
và nguyên liệu nhập khẩu. Các nhà sản xuất và lắp ráp sản phẩm trong EU, nếu
thấy sản phẩm của mình rơi vào các điều kiện trên thì phải thông báo với cơ quan
hải quan nước mình trước khi xuất xưởng để bán trên thị trường EU.
Biên độ thiệt hại
Cơ chế chống bán phá giá của EU thường hay đề cập đến yếu tố “biên độ
thiệt hại”. Theo nguyên tắc đánh thuế thấp hơn biên độ phá giá thì cơ quan điều tra
của EU sẽ đánh thuế thấp hơn biên độ phá giá nếu như mức thuế đó đã đủ để khắc
phục thiệt hại. Vì vậy, cơ quan điều tra thường tính mức độ sụt giá của sản phẩm
nội địa tương tự do tác động của hàng nhập khẩu hoặc mức giá nội địa phải tăng
lên để đủ thu hồi chi phí cộng với một khoản lợi nhuận nhất định cho nhà sản xuất
trong nước. Mức giá đó gọi là “biên độ thiệt hại”, nếu biên độ này nhỏ hơn biên độ
phá giá thì EU sẽ đánh thuế chống bán phá giá đúng bằng biên độ thiệt hại.
Truy thu thuế
Quy chế chống bán phá giá của EU cho phép truy thu thuế chống bán phá

giá đối với những mặt hàng nhập khẩu không quá 90 ngày trước khi đánh thuế tạm
thời với những điều kiện sau:
- Có một quá trình bán phá giá gây ra thiệt hại hoặc nhà nhập khẩu đã biết
rằng nhà xuất khẩu đang bán phá giá và việc bán phá giá đó có thể gây thiệt hại.
Lượng hàng nhập khẩu rất lớn bị bán phá giá trong thời gian ngắn gây thiệt hại
đến mức cần phải truy thu thuế chống bán phá giá thì mới ngăn ngừa việc tiếp tục
phá giá, hoặc
- Việc cam kết gia bị vi phạm.

Nhóm 6 – TCDN21
22
Thuế chống bán phá giá trong đầu tư quốc tế

-
Mặc dù trong quá trình điều tra, cơ quan diieù tra của EU đã xem xét đến
khả năng truy thu thuế nhưng thực tế cho đến nay EU chưa truy thu thuế lần nào.
Thuế chống bán phá giá của EU được ấn định ở một mức thuế nhất định
trong suốt thời hạn áp dụng tính theo giá CIF với sản phẩm nhập khẩu từ nước
xuất khẩu liên quan bất kể có bị bán phá giá hay không. Vì vậy có thể có mặt hàng
sẽ bị đánh thuế vượt quá biên độ phá giá bình quân gia quyền và Qui chế của EU
cho phép hoàn thuế trong trường hợp như vậy. Đơn xin hoàn thuế phải được nộp
cho cơ quan điều tra của EU thông qua nước thành viên nhập khẩu sản phẩm liên
quan trong vòng 3 tháng kể từ ngày nhập khẩu.
Tuy nhiên, trên thực tế xảy ra ít trường hợp hoàn thuế vì thủ tục hoàn thuế
tốn rất nhiều thời gian, có thể từ hai đến ba năm. Hơn nữa, thuế chống bán phá giá
chỉ được hoàn khi mức thuế vượt quá biên độ phá giá, trong khi phần lớn các
trường hợp EU đều đánh thuế thấp hơn biên độ phá giá.
3.4. Hiệu lực thuế chống bán phá giá
Về nguyên tắc, thuế chống bán phá giá được áp dụng để ngăn chặn việc bán
phá giá và loại bỏ các thiệt hại do việc bán phá giá gây ra. Vì vậy, thuế này sẽ

được duy trì cho đến khi nào việc ngăn chặn và loại bỏ thiệt hại do việc bán phá
giá gây ra không còn cần thiết nữa. Quy định này được hiểu như một quy định có
tính 2 mặt:
- Mặt tích cực: Thuế chống bán phá giá có thể chấm dứt, sửa đổi vào bất kỳ
thời điểm nào nếu không còn cơ sở để áp dụng nó nữa(kết luận điều tra lại cho
thấy không còn việc bán phá giá hoặc không còn thiệt hại) dù thuế đó mới được áp
dụng.
- Mặt tiêu cực: Thuế chống bán phá giá có thể kéo rất dài(vì không có quy
định về thời hạn tối đa cho việc áp dụng). Chính yếu tố này tạo nên nguy cơ
“không lường trước được”, rất bất lợi cho các nhà xuất khẩu liên quan.
Tuy nhiên, trong mọi trường hợp, ADA quy định thuế chống bán phá giá sẽ
chấm dứt sau 5 năm kể từ thời điểm quyết định áp đặt thuế chống bán phá giá
chính thức được ban hành hoặc kể từ lần rà soát gần nhất(với điều kiện lần rà soát
đó được tiến hành trên cả hai nội dung: bán phá giá và thiệt hại) trừ khi cơ quan có
thẩm quyền nước nhập khẩu, sau khi tiến hành rà soát, đi đến kết luận là việc bán
phá giá gây thiệt hại có nhiều khả năng tiếp tục duy trì hoặc tái diễn nếu thuế
chống bán phá giá chấm dứt hiệu lực.

Nhóm 6 – TCDN21
23

×