Tải bản đầy đủ (.doc) (39 trang)

Chuyển giao công nghệ từ nước ngoài vào Việt Nam-Các hình thức và giải pháp thúc đẩy hoạt động chuyển giao công nghệ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (244.9 KB, 39 trang )

LỜI MỞ ĐẦU

Công nghệ là sản phẩm của lao động, của tinh hoa trí tuệ con người tạo
ra cho xã hội. Nó là công cụ là phương tiện chủ yếu cho con nguời đạt được
những lợi ích cần thiết. Công nghệ đã làm tăng sức mạnh cơ bắp và tinh thần
của con người. Sự phát triển của nhiều nước cho thấy công nghệ là nhân tố
quyết định khả năng của một nước đạt được các mục tiêu phát triển kinh tế xã
hội với tốc độ cao và ổn định. Công nghệ là phương tiện và động lực có hiệu
lực nhất để mỗi quốc gia sử dụng triệt để và hiệu quả cao nhất các nguồn lực
hiện có. Vì vậy người ta nói công nghệ là chìa khoá cho sự phát triển, công
nghệ là niềm hy vọng cơ bản để cải thiện đời sống trong mọi xã hội.
Công nghệ có tầm quan trọng lớn trong việc phát triển kinh tế xã hội ở tất
cả các quốc gia. Nên bất kỳ một quốc gia nào, một địa phương, một ngành,
một cơ sở, một tổ chức nào cũng cần có một công nghệ hay nhiều công nghệ
để triển khai. Để có được công nghệ thì họ có thể tự tạo, hay nhận được công
nghệ từ người khác bằng cách đi mua,hay xin nhượng. Việc nhận công nghệ
từ người khác bằng mua xin nhượng đó được gọi là chuyển giao công nghệ.
Dưới tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại,
công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước ở các quốc gia có trình độ khoa học
công nghệ kém phát triển không còn con đường nào khác là coi trọng việc
tiếp thu thành tựu khoa học công nghệ của thế giới. Đó cũng chính là bí quyết
thành công của Nhật Bản, các nước NIC và nhiều nước khác. Nó chứng tỏ vai
trò to lớn của công nghệ đối với nền sản xuất vật chất trên quy mô toàn cầu
nói chung và mỗi quốc gia nói riêng.
Công cuộc công nghiệp hóa hiện đại hóa (CNH-HĐH) mà toàn đảng toàn
dân ta tiến hành chỉ có thể thành công khi chúng ta thực sự tạo cho mình một
trình độ sản xuất tiên tiến hiện đại.Để có được như thế,trước hết chúng ta phải
1
phát triển khoa học công nghệ.Cùng với giáo dục và đào tạo,khoa học công
nghệ sẽ là quốc sách hàng đầu trong quá trình đi lên xây dựng chủ nghĩa xã
hội (CNXH) nói chung và trong công cuộc CNH-HĐH hiện nay nói riêng.Đề


nâng cao trình độ khoa học công nghệ trong nước đòi hỏi chúng ta phải đồng
thời kết hợp giữa vấn đề tự nghiên cứu phát triển khoa học trong nước với
việc du nhập tiến bộ khoa học công nghệ trên thế giới.Với điều kiện thực tế
của Việt Nam hiện nay, chuyển giao công nghệ (CGCN) từ nước ngoài vào
trong nước sẽ được ưu tiên trước một bước trong trọng tâm phát triển khoa
học công nghệ.
Từ những lập luận trên em đã chọn đề tài: “Chuyển giao công nghệ từ nước
ngoài vào Việt Nam-Các hình thức và giải pháp thúc đẩy hoạt động chuyển
giao công nghệ.”
2
CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ
1.1Khái niệm chuyển giao công nghệ :
Dù là ở bất kì một quốc gia nào,ở một cơ sở,một địa phương hay một cá
thể,cá nhân nào đó cũng có thể có một hay nhiều loại công nghệ được triển
khai. Đó có thể là công nghệ nội sinh (công nghệ tự tạo) hay công nghệ ngoại
sinh (công nghệ có được từ nước ngoài). Trong một số hoàn cảnh cũng như
điều kiện nhất định sẽ nảy sinh 1 nhu cầu đó là trao đổi công nghệ giữa các
quốc gia,các tổ chức,cá nhân với nhau.Trong nền kinh tế thị trường hiện
nay,công nghệ luôn được coi là hàng hóa,và đã là hàng hóa thì tất yếu sẽ diễn
ra quá trình mua và bán,trao đổi và có cả những thị trường của những hàng
hóa đó.Việc mua bán đó nay được gọi là chuyển giao công nghệ (CGCN).
Như vậy 4 yếu tố cấu thành nên CGCN chính là máy móc (Machine), thị
trường (Market), quản lý(Management), tiền (Money) gọi tắt là 4 M.
Có thể hiểu chuyển giao công nghệ là mang kiến thức kỹ thuật vượt qua
1 giới hạn ở trong hay ngoài nước.Thực ra CGCN là việc tiếp nhận công nghệ
nước ngoài và là quá trình vật lý, trí tuệ, một quá trình đi tìm kiếm với việc
huấn luyện toàn diện của một bên về sự hiểu biết học hỏi của một bên
khác.Theo quan niệm của nhiều quốc gia, nhiều tổ chức quốc tế :chuyển giao
công nghệ là quá trình chuyển giao và nhận công nghệ qua biên giới. Điều đó

có nghĩa công nghệ được chuyển và nhận thông qua con đường thương mại
quốc tế, qua các dự án đầu tư nước ngoài… Trong quá trình trao đổi,chuyển
giao này,có 2 bên: bên giao công nghệ và bên nhận công nghệ.
Bên giao công nghệ là bên gồm một hay nhiều tổ chức kinh tế,khoa học
và công nghệ,họ có tư cách pháp nhân hoặc là cá nhân ở một quốc gia mà có
công nghệ chuyển giao sang cho một quốc gia khác. Hiện nay,do xuất phát từ
3
nhu cầu đổi mới và cải tiến của các nước chủ sở hữu công nghệ,các nước
thường xuyên chuyển giao các công nghệ và thiết bị đã bão hòa trên thị
trường chứ không phải chuyển giao các công nghệ mới nhất.
Bên nhận công nghệ cũng là bên gồm một hay nhiều tổ chức kinh
tế,khoa học,công nghệ khác nhau có tư cách pháp nhân hoặc cá nhân tiếp
nhận công nghệ. Bên mua công nghệ cần phải có thong tin,hiểu biết,có nghiệp
vụ và các kĩ năng cần thiết, mặt khác cũng cần có sự định hướng cũng như hỗ
trợ từ các cơ quan quản lý cũng như sự phối hợp từ các doanh nghiệp cùng
ngành nghề.Theo thông lệ quốc tế, 2 bên “mua” và “bán” bị ràng buộc lẫn
nhau bằng hợp đồng chuyển giao công nghệ.
Chuyển giao công nghệ như một tất yếu khách quan của quy luật phát
triển của nền kinh tế thế giới, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền công
nghệ, hoạt động chuyển giao công nghệ cũng trở lên phong phú và đa dạng
hơn bởi vậy viêc đưa ra một hệ thống lý luận chung về chuyển giao công nghệ
là hoàn toàn cần thiết.
1.2 Các hình thức chuyển giao công nghệ :
Chuyển giao công nghệ thông qua hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài :
Đây là hình thức đang được thực hiện ồ ạt nhất hiện nay và quy mô ngày
càng tăng dần do đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), nhất là vào các nước
ASEAN, đang tăng rõ rệt.
Các trường hợp chuyển giao công nghệ thuộc hình thức này có đặc điểm
chung là:
- Công nghệ được đưa vào cùng với hợp đồng đầu tư trực tiếp từ nước

chuyển giao.
- Nhà đầu tư nước ngoài đồng thời là người nắm công nghệ và sử dụng công nghệ.
- Công nghệ được sử dụng để thực hiện dự án mà nhà đầu tư nước ngoài bỏ
vốn dưới một hình thức và mức độ nào đó.
4
Hỗ trợ kỹ thuật và nhượng quyền (license) :
Hỗ trợ kỹ thuật và nhượng quyền thực chất là hình thức mua bán loại
hàng hoá đặc biệt - đó là công nghệ. Tham gia vào quá trình này là hai bên
hoàn toàn độc lập nhau, không bị ràng buộc về tài chính. Đây chỉ là hình thức
chuyển giao công nghệ điển hình và phổ biến nhất.
Hợp đồng “chìa khoá trao tay”
Hợp đồng chìa khoá trao tay là thoả thuận giao cho nhà thầu (bên giao
công nghệ) thực hiện mọi bước từ đầu đến cuối của một dự án đầu tư (kể cả
các dịch vụ tư vấn, quản lý, thiết kế kỹ thuật và các dịch vụ khác) cho đến khi
dự án sẵn sàng đi vào sản xuất thương mại hoặc được sử dụng ngay.
Hợp tác nghiên cứu cùng phát triển công nghệ
Hợp tác nghiên cứu cùng phát triển công nghệ là hình thức chuyển giao
công nghệ mà hai bên cùng xây dựng một dự án công nghệ trên cơ sở thế
mạnh vốn có của mỗi bên, các bên cùng tiến hành nghiên cứu phát triển dự án
công nghệ đó theo nguyên tắc cùng đầu tư cùng chịu rủi ro để tạo ra một giải
pháp công nghệ mới.
Đây là hình thức các công ty nước sở tại, các chính phủ rất kỳ vọng và tạo mọi
điều kiện ưu đãi, vì nó thể hiện đầy đủ tính tích cực của một cuộc chuyển giao công
nghệ, theo đúng nghĩa, tức là thực hiện đúng nguyên tắc: cùng đầu tư, cùng chịu rủi
ro.Bên cạnh đó tận dụng được thế mạnh của mỗi bên, tạo ra thế mạnh chung mà
trước đó mỗi bên không hề có. Và hơn cả là mỗi bên đều tham gia tích cực vào quá
trình tạo ra công nghệ, học hỏi lẫn nhau.
1.3 Cơ sở của hoạt động chuyển giao công nghệ :
Để hiểu rõ cơ sở của hoạt động chuyển giao công nghệ, ta xem xét sự hình
thành ưu, nhược điểm của công nghệ nội sinh để phân biệt giữa công nghệ nội sinh

và công nghệ ngoại nhập và công nghệ do chuyển giao công nghệ.
5
a, Công nghệ nội sinh :
Công nghệ nội sinh là công nghệ được tạo ra thông qua quá trình nghiên
cứu và triển khai ở trong nước. Chu trình hình thành một công nghệ nội sinh
trải qua các giai đoạn: tìm hiểu nhu cầu-thiết kế sản phẩm-chế tạo thử- sản
xuất-truyền bá và đổi mới.
Công nghệ nội sinh có nhiều ưu điểm như thích hợp với điều kiện trong
nước do được thiết kế từ các dữ liệu thu thập theo nhu cầu của địa
phương.Người sử dụng có thể dễ dàng làm chủ được công nghệ vì nghiên cứu
triển khai ở trong nước, do đó dễ phát huy được hiệu quả.Sử dụng công nghệ
nội sinh sẽ tiết kiệm được ngoại tệ mà lại không phụ thuộc vào nước ngoài,
đặc biệt là về kỹ thuật;có thể tận dụng các nguồn lực sẵn có ở các địa phương,
do thiết kế ở trong nước thưòng dựa vào các nguồn lực sẵn có. Mặt khác nếu
trình độ nghiên cứu-thiết kế công nghệ đạt trình độ tiên tiến, có thể xuất khẩu
công nghệ mang lại nhiều lợi ích; bên cạnh đó các cơ quan nghiên cứu-thiết
kế thông qua thực hành nghiên cứu sáng tạo công nghệ mới có điều kiện nâng
cao trình độ.
Công nghệ nội sinh cũng có một số nhược điểm dễ nhận thấy như để có
được một công nghệ cần có nhiều thời gian, tiền của và nhân lực, do việc tạo
công nghệ mới là hoạt động nghiên cứu- triển khai, do đó nếu chỉ dựa hoàn
toàn vào công nghệ nội sinh thời gian công nghiệp hóa sẽ bị kéo dài. Mặt
khác nếu trình độ nghiên cứu-thiết kế không cao, công nghệ tạo ra sẽ ít giá trị
gây lãng phí do không sử dụng, nhất là trong điều kiện nền kinh tế hội nhập,
công nghệ lạc hậu tạo ra sản phẩm không thể cạnh tranh trên thị trường ngay
ở trong nước.
b,Công nghệ ngoại sinh.
Công nghệ ngoại sinh là một công nghệ được thông qua việc mua công
nghệ do nước ngoài sản xuất. Quá trình có được một công nghệ ngoại sinh
6

bao gồm :nhập khẩu -thích nghi- làm chủ.Trong số các công nghệ ngoại sinh
một số được coi là chuyển giao công nghệ.Chuyển giao công nghệ ngày nay
là mua bán công nghệ có tổ chức. Các động cơ của bên giao và bên nhận có
ảnh hưởng đến kết quả của chuyển giao công nghệ. Có thể chia các nguyên
nhân xuất hiện chuyển giao công nghệ thành ba loại: Những nguyên nhân
khách quan; những lý do xuất phát từ bên giao và những lý do xuất phát từ
bên nhận.
c,Những nguyên nhân khách quan dẫn đến chuyển giao công nghệ:
Không có một quốc gia nào trên thế giới có đủ mọi nguồn lực để làm ra
tất cả các công nghệ cần thiết một cách kinh tế, do nhiều nước muốn có một
công nghệ thường cân nhắc về phương diện kinh tế giữa mua và làm.Thêm
vào đó sự phát triển không đồng đều giữa các quốc gia trên thế giới về công
nghệ (85% các sáng chế công nghệ nằm trong tay sáu nước), nhiều nước
không có khả năng tạo ra công nghệ mà mình cần, buộc phải mua để đáp ứng
các nhu cầu cấp thiết.Trên thế giới,xu thế mở rộng hợp tác, khuyến khích
thương mại tạo điều kiện cho mua, bán kể cả mua bán công nghệ. Mặt khác
các thành tựu khoa học công nghệ hiện đại làm rút ngắn tuổi thọ của các công
nghệ, khiến nhu cầu đổi mới công nghệ ngày càng tăng. Trong lĩnh vực công
nghệ phát triển nhanh, chu trình sống của công nghệ rất ngắn, những người đi
sau trong công nghệ này muốn có công nghệ đã xuất hiện trên thị trường
thường thông qua chuyển giao thay vì bắt đầu từ nghiên cứu-thiết kế.
d,Những lý do khiến bên giao công nghệ muốn chuyển giao công nghệ:
Khi chuyển giao công nghệ họ sẽ thu lợi nhuận cao hơn ở địa phương
hay ở chính quốc (do giảm chi phí nguyên vật liệu, nhân công và các chi phí
cơ sở hạ tầng khác); khi đó họ sẽ chấp nhận cạnh tranh về sản phẩm để nhanh
chóng thu hồi vốn đầu tư, do đó có điều kiện đổi mới về công nghệ; ngoài ra
họ còn thu được các lợi ích khác như: bán nguyên vật liệu, phụ tùng thay thế;
7
tận dụng nguồn chất xám ở địa phương; thâm nhập vào thị trường bên nhập
công nghệ

e, Những lý do khiến bên nhận muốn chuyển giao công nghệ:
Đối với chuyển giao công nghệ từ nước ngoài bên nhận kì vọng vào việc
thông qua chuyển giao công nghệ thu hút vốn đầu tư nước ngoài, tạo điều
kiện đảy nhanh phát triển kinh tế.Họ mong có thể tận dụng nguồn lực sẵn có
mà chưa khai thác được vì thiếu công nghệ cần thiết, đặc biệt tạo việc làm
tăng thu nhập cho người lao động; nhanh chóng đáp ứng các nhu cầu cấp
bách: nhu cầu thiết yếu của xã hội, nhu cầu đổi mới của công nghệ để đáp ứng
sức ép cạnh tranh; mặt khác họ sẽ có điều kiện nâng cao trình độ công nghệ,
học tập các phương pháp quản lý tiên tiến; tránh được rủi ro nếu phải tự làm
do mua licence công nghệ;n ếu thành công có cơ hội đẩy nhanh quá trình
công nghiệp hóa-hiện đại hóa.
1.4 Vai trò của hoạt động chuyển giao công nghệ :
Năng lực công nghệ của mỗi công ty, mỗi quốc gia không tự nhiên mà
có, mà là quá trình tích luỹ sàng lọc và không ngừng đào thải. chuyển giao
công nghệ (CGCN) quốc tế là cơ hội quý hiếm không những giúp cho các
nước phát triển không ngừng cách tân để tạo cho mình có công nghệ tiên tiến
nhất, mà nó còn giúp cho các nước đang và chậm phát triển có đựơc công
nghệ cần thiết mà tiết kiệm được chi phí và thời gian.
Đối với bất kỳ một doanh nghiệp nào, thì công nghệ luôn là đối tượng
nghiên cứu phân tích để lý giải những thành bại của doanh nghiệp này so với
doanh nghiệp khác, luôn là yếu tố quyết định khả năng cạnh tranh trên thị
trường của mỗi doanh nghiệp.
Đối với các nước phát triển và các công ty xuyên quốc gia (TNCs), từ
trước đến nay vẫn theo đuổi chiến lược “dẫn đầu về công nghệ”, sự dẫn đầu
về công nghệ cho phép duy trì lợi thế cạnh tranh ngay cả khi chênh lệch đã
8
giảm đi, tuy nhiên vị thế “dẫn đầu về công nghệ” chỉ có ý nghĩa tương đối
theo thời gian, do vậy để duy trì vị trí dẫn đầu công nghệ buộc các nước phát
triển và các TNCs phải tính đến CGCN.
CGCN giúp cho các quốc gia và các công ty này luôn luôn có thể hấp thụ

và học hỏi, và cập nhật được công nghệ mới nhất của đối thủ cạnh tranh.Hơn
thế nữa khi áp dụng công nghệ mới, các nước phát triển và các TNCs sẽ thay
thế dần các công nghệ và thiết bị lạc hậu (kể cả thiết bị mới chưa sử dụng
nhưng đã cũ về nguyên lý công nghệ). Khi đó mong muốn chuyển giao các
công nghệ cũ sang các nước khác là tất yếu để có thể tiếp tục thu lợi từ công
nghệ đáng ra phải bỏ đi từ đó lại tạo điều kiện cho các nước phát triển và các
TCNs tăng thêm khả năng tài chính để cách tân công nghệ mới của mình. Một
chi phí để duy trì một nhà máy hoạt động cầm chừng (do đã cũ về nguyên lý
công nghệ) lớn hơn nhiều chi phí dỡ bỏ nó, và tất nhiên nếu có người chịu bỏ
tiền để tháo dỡ và mua lại nhà máy đó, công nghệ đó thì lại càng tốt cho các
nước phát triển.
Đối với các nước đang và chậm phát triển, CGCN sẽ mang lại cho các
nước này những lợi ích cơ bản như thu hút được vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài kèm theo chuyển giao công nghệ, lại tiết kiệm được chi phí lớn về
R&D, tiếp cận và sử dụng được ngay những công nghệ tiên tiến hơn những
công nghệ đang có trong nước.Ngoài ra có thể khai thác và sử dụng hữu hiệu
nguyên vật liệu trong nước, tạo công ăn việc làm cho người lao động có trình
độ cao, thay thế nhập khẩu, đẩy mạnh xuất khẩu, tăng thu nhập ngoại tệ.
CGCN quốc tế đã và đang tạo cho các nước đang và chậm phát triển
những lợi thế cạnh tranh tương đối bền vững trong một khoảng thời gian nhất
định trên thị trường thế giới về một số sản phẩm đặc trưng của mình (theo lợi
thế so sánh) trên cơ sở đó có thể đạt được sự tăng trưởng kinh tế với tốc độ
cao và từng bước nâng cao mức sống của nhân dân. Cho dù trình độ công
9
nghệ của các nước đang và chậm phát triển chỉ đang ở trong giai đoạn đầu
CNH - HĐH thấp hơn nhiều so với các nước thích hợp”, khai thác triệt để lợi
thế “của công nghiệp phát triển nhưng nếu có chính sách nhập khẩu công
nghệ “kẻ đi sau”, tích cực tham gia vào phân công lao động quốc tế cũng như
có chính sách ưu tiên phát triển cơ sở hạ tầng, đào tạo giáo dục, nghiên cứu và
triển khai, thì chắc chắn dần dần sẽ khắc phục được “nguy cơ tụt hậu” về

công nghệ so với các nước công nghiệp phát triển.
Một số nhược điểm của chuyển giao công nghệ :
Bên tiếp nhận công nghệ có thể phải đón nhận 1 số rủi ro như sau :
Thứ nhất : do tiến bộ công nghệ đi đôi với sự lệ thuộc.Bên tiếp nhận
công nghệ sẽ bị lệ thuộc vào bên cung cấp cho đến tận giai đoạn nắm vững
đầy đủ và thích ứng tới mức cần thiết công nghệ nước ngoài vào điều kiện địa
phương.Do đó quá trình tiếp nhận phải được tổ chức để đảm bảo sự tiếp nhận
sớm và đầy đủ công nghệ nước ngoài.
Thứ hai: những vấn đề thuộc bản thân bên chuyển.Trong một quá trình
phức tạp như chuyển giao công nghệ, bên cung cấp không những cần có kinh
nghiệm,kiến thức và kỹ năng về chính công nghệ mà còn cần có cả cơ chế
chuyển giao công nghệ đó. Do đó, bên nhận công nghệ phải kiểm tra cẩn thận
xem bên cung cấp nước ngoài đã có kinh nghiệm gì về mặt này.
Thứ ba : những điều khoản bất lợi. Trước khi đi đến quyết định cuối
cùng, bên nhận công nghệ phải xem xét các điều khoản đã đàm phán có lợi
cho họ hay không. Việc giữ bí mật về các vấn đề đã thảo luận thường cản trợ
việc tham khảo ý kiến của người khác như các chuyên gia,các luật sư,các tổ
chức UNIDO (Tổ chức Phát triển công nghiệp Liên hiệp quốc) ,ESCAP (ủy
ban Kinh tế - xã hội khu vực châu Á - Thái Bình Dương),…
Thứ tư : nguy cơ mất chủ quyền đất nước và mất đồng bộ. Tiếp nhận
công nghệ có thể lãng phí lớn về sức người,sức của,gây sói mòn lòng tin,nếu
không cảnh giác có thể sẽ rơi vào bẫy (toàn cầu hóa) khiến cho khoảng cách
giữa trong và ngoài nước ngày càng xa nhau hơn.
10
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG VỀ CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ CỦA
VIỆT NAM
2.1 Đặc điểm của quá trình chuyển giao công nghệ tại Việt Nam :
Cho đến hết tháng 8/1997 đã có 2137 dự án đầu tư nước ngoài được cấp
giấy phép với tổng số vốn đăng kí là 32.341tỷ USD trong đó có khoảng trên

70% dự án có nội dung chuyển giao công nghệ. kể từ 1/1/2000 đến 15/9/2000
khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đã đóng góp 69.000 tỷ đồng cho tổng sản
lượng công nghiệp, tăng 65,38% so với năm 1995 (26.000 tỷ VND ). Như
vậy, vấn đề chuyển giao công nghệ qua các dự án đầu tư nước ngoài có vai trò
quan trọng không chỉ ở tầm vi mô mà còn cả ở tầm vĩ mô của nền kinh tế. Có
thể kể ra một số đặc điểm của chuyển giao công nghệ qua các dự án đầu tư
nước ngoài như sau:
-Công nghệ đưa vào Việt Nam chủ yếu thông qua hoạt động đầu tư
nước ngoài.
-Nhà đầu tư thường là người chuyển giao công nghệ.
-Công nghệ được sử dụng trong các dự án đầu tư do nhà đầu tư nước
ngoài là bên chuyển giao hoặc giới thiệu.
-Công nghệ trong dự án đầu tư 100% vốn đầu tư nước ngoài không nhất
thiết phải chuyển từ công ty chính quốc mà có thể được chuyển giao từ một
công ty khác.
2.2 Thành quả đã đạt được :
2.2.1 Thị trường nhập khẩu công nghệ :
Trong hơn 10 năm qua kể từ khi Việt Nam thực hiện chính sách “mở
cửa” nền kinh tế, việc chuyển giao công nghệ nước ngoài vào Việt Nam đã
diễn ra theo đúng nghĩa của nó và hết sức đa dạng. Theo đó đối tác trong
CGCN của Việt Nam mỗi ngày một đa dạng.
11
Nếu trước thập kỷ 80 đối tác trong CGCN của Việt Nam chủ yếu là Liên
Xô (cũ) và các nước Đông Âu thì từ sau khi Việt Nam thực hiện đổi mới mở
cửa nền kinh tế đối tác được mở rộng hơn và được tập trung chủ yếu vào các
nước khu vực Châu Á - Thái Bình Dương. Cho đến hiện nay các nước NICs
và Nhật Bản vẫn là đối tác lớn nhất của Việt Nam trong lĩnh vực CGCN.
Chúng ta có thể đề cập đến hàng loạt các dự án đầu tư của nước ngoài vào
Việt Nam kèm theo hoạt động CGCN như: dự án xi măng Nihon của Nhật,
Chinfon của Đài Loan; kính nổi Nippon của Nhật; lắp ráp ô tô Isuzu, Suzuki,

Toyota, Honda, Daihatsu, Mitsubishi của Nhật, lắp ráp xe gắn máy SYM của
Đài Loan, Honda, Suzuki, Yamaha của Nhật; linh kiện điện tử Fujitsu của
Nhật, Samsung, LG của Hàn Quốc; nguyên liệu nhựa Mitsui của Nhật; thép
Kyoei của Nhật
2.2.2 Lĩnh vực chuyển giao công nghệ :
Ngành công nghệ thông tin
Phải nói rằng thông qua hoạt động CGCN mà ngành công nghệ thông tin
của nước ta đã phát triển nhanh chóng và đã dần tiếp cận được với trình độ
hiện đại của thế giới, trong đó đặc biệt phải kể đến Bưu chính viễn thông.
Ở nước ta từ chỗ chỉ có 9 đường dây quốc tế năm 1987, đến cuối 1995 đã
lên đến 2.500. Sự tăng tốc này phần lớn là do sự tham gia mạng lưới của hang
Telstra (Australia), Ericssion (của Thuỵ Điển) từ cuối năm 1987. Một dự án
khác được nhiều công ty nước ngoài tham gia cùng với đối tác Việt Nam là
Tổng công ty Bưu chính viễn thông (VNPT) là hệ thống cáp sợi quang xuyên
biển nối liền Thái Lan, Việt Nam, Hồng Kông. Năm 1993 Tổng công ty bưu
chính viễn thông Việt Nam đã hoàn thành việc xây dựng và đưa vào khai thác
tuyến thông tin cáp quang Bắc Nam đầu tiên có dung lượng 34Mbit/s dài
1.830 km. Số hoá hoàn toàn mạng truyền dẫn liên tỉnh với tổng chiều dài
167.906 km luồng 2Mbit/s tăng 918,5% so với 1992. Ngày 03 / 12 / 1995
12
VNPT đã hoàn chỉnh chỉ tiêu phát triển đạt 742.000 máy điện thoại đưa mật
độ điện thoại bình quân cả nước lên 1 / 100 dân. Đến năm 2000 vượt qua mật
độ 4 máy / 100 dân tăng 4,23 lần so với 1995 số lượng máy điện thoại toàn
mạng là 3,3 triệu máy.Theo tin từ Bộ Thông tin và Truyền thông, đến tháng 6
năm 2009, Việt Nam đã đạt mật độ điện thoại là trên 117 máy/100 dân, tổng
số thuê bao điện thoại trên toàn mạng của Việt Nam hiện là 101 triệu máy,
trong đó thuê bao di động chiếm tới 86,7%.
Việt Nam được liên minh viễn thông thế giới ITU đánh giá là nước
có tốc độ phát triển điện thoại nhanh thứ hai thế giới.
Công ty viễn thông quân đội Vietel,Công ty viễn thông điện lực ETC,

Công ty viễn thông hàng hải VISHIPEL,Công ty dịch vụ cổ phần bưu chính
viễn thông Sài Gòn (SPT) đang tích cực trong việc khai thác các dịch vụ
thông tin trên thị trường bưu chính viễn thông Việt Nam. Nhiều dịch vụ mới
ra đời như VOIP trong nước và quốc tế, chuyển vùng điện thoại di động trong
nước và quốc tế, Internet Card, Mobimail. Bên cạnh dịch vụ điện thoại đường
dài giá rẻ như 171 của VNPT các dịch vụ 178 của công ty Vietel, 177 của Sài
Gòn Postel đang hoạt động trên thị trường bưu chính viễn thông Việt Nam
Với tốc độ tăng trưởng bình quân 35-37%/năm, đến đầu tháng 5-2007, Việt
Nam đã có 4,4 triệu thuê bao Internet quy đổi với 15,8 triệu người sử dụng,
đạt tỷ lệ 18,96% trên tổng số dân của cả nước. Theo số liệu của Trung tâm
internet Việt Nam (VNNIC), tính đến hết tháng 7/2010, Việt Nam có 25,09
triệu dân sử dụng internet (chiếm tỉ lệ 29,24%), trở thành quốc gia thứ 19/20
quốc gia có tỉ lệ người sử dụng internet cao nhất thế giới. Mục tiêu của VIA là
tới năm 2015 nâng tỉ lệ người sử dụng internet băng thông rộng lên 50-60%.
Trước mắt, phấn đấu tới năm 2012, 10% các hoạt động xã hội được đưa lên
mạng Internet, tạo ra sự thân thiện giữa internet và đời sống.
13
Cũng nhờ hoạt động CGCN, trong lĩnh vực Bưu chính viễn thông,
chúng ta đã nhập khẩu được công nghệ sản xuất cáp quang đạt tiêu chuẩn
quốc tế.Trong lĩnh vực thiết bị điện và điện tử đã có những bước tiến đáng kể,
chúng ta đã có công nghệ chế tạo các cuộn dây điện từ dùng trong việc sản
xuất các thiết bị điện dân dụng (biến thế, ổn áp) bằng các thiết bị cuốn dây,
tẩm sấy chân không tự động. Các loại máy biến thế đến 35 KW đạt chất lượng
cao theo tiêu chuẩn ABB giảm hao tổn điện năng 30%, giảm 20% trọng lượng
máy so với sản phẩm đồng loại được sản xuất trước đây, đã được sản xuất và
xuất khẩu sang Tây Âu.
Công nghệ sản xuất bóng đèn hình của máy thu hình, công nghệ sản xuất
các bảng vi mạch máy tính (bằng dây chuyền lắp ráp tự động)
Ngành công nghệ sinh học
Nhờ hoạt động CGCN mà trong ngành công nghệ sinh học, chúng ta đã

đạt được những kết quả sau:
Sự hợp tác giữa các chuyên gia sinh học Việt Nam và chuyên gia hàng
đầu thế giới về sinh học đã thu được kết quả trong phát triển sản xuất lương
thực ở Việt Nam hơn 10 năm qua, đưa Việt Nam thành một nước xuất khẩu
gạo thứ 2 trên thế giới, với nhiều giống gạo mới có chất lượng cao như: P4,
VD-10, IR 5960, OM 997-6
Chúng ta đã tiếp thu được các công nghệ gieo tưới, điển hình là các hình
thức mẫu trang trại với những thiết bị tưới, ươm giống hiện đại, truyền bá kỹ
thuật nông nghiệp hiện đại của Israel cho ngành nông nghiệp Việt Nam. Đặc
biệt là phân bón được tự động hoà trộn nước và tưới nhỏ giọt bằng đường ống
chuyên dụng của Israel. Ngoài ra với thiết bị nhập của Pháp, Nhật Bản Việt
Nam đã xúc tiến sản xuất phân bón và thuốc trừ sâu chất lượng cao. Đã áp
14
dụng công nghệ mới nhân giống bằng phương pháp cấy mô cho việc trồng
chuối,trồng dưa chuột.
Trong ngành công nghệ sinh học, ở lĩnh vực bánh kẹo, bia rượu, nước
giải khát, nhà máy bia Sài Gòn thông qua hoạt động CGCN nước ngoài vào
trong nước từ năm 1996 - 2000 đã tiến hành đổi mới đến 90% dây chuyền
thiết bị công nghệ sản xuất trị giá 2.000 tỷ VND. Công ty sữa Việt Nam thông
qua CGCN từ nước ngoài vào trong nước trong 10 năm qua đã đổi mới dây
chuyền thiết bị sản xuất trị giá 781 tỷ VND. Thông qua đầu tư đổi mới công
nghệ mà chất lượng sản phẩm và năng lực cạnh tranh của hai công ty này
ngày càng được khẳng định trên thị trường.
Ngành vật liệu
Do có công nghệ mới chúng ta đã sản xuất vật liêu xây dựng chất lượng
cao như: gạch men các loại, kính thuỷ tinh, đồ sứ vệ sinh bằng phương pháp
tiên tiến nhất hiện nay. Ngoài ra chúng ta còn phải kể đến các chương trình dự
án về công nghệ vật liệu được thực hiện trong những năm gần đây thông qua
hoạt động CGCN như:
- Dự án đầu tư công nghệ cao nâng năng lực sản xuất và chất lượng sản

phẩm vật liệu bôi trơn phục vụ kinh tế và quốc phòng của Công ty phát triển
phụ gia và sản phẩm dầu mỏ (Công ty APP thuộc Tổng công ty hoá chất Việt
Nam) với tổng mức vốn đầu tư 10,231 tỷ VND. Công ty đã thực hiện đổi mới
công nghệ nhận CGCN từ Viện nghiên cứu dầu mỏ Kiev (Ucraina), đồng thời
có sang tạo ra một số công nghệ sản xuất mỡ bôi trơn thích hợp với nguyên
vật liệu dễ khai thác ở Việt Nam. Trong dây chuyền công nghệ, công ty đã
nhập khẩu một số thiết bị khác theo thiết kế của Ucraina để tạo ra sản phẩm
mỡ bôi trơn đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế có tính cạnh tranh thay thế sản
phẩm nhập ngoại và có sản phẩm xuất khẩu. Từ đó tạo ra 7 sản phẩm mới: mỡ
cao cấp dùng cho kinh tế và quốc phòng; mỡ đa dụng; mỡ đa dụng chịu tải
15
cao; mỡ đa dụng chịu nhiệt độ cao; mỡ bôi trơn đường sắt; mỡ bôi trơn và bảo
quản cáp điện; bảo quản cáp chịu lửa và mỡ bảo quản cho quốc phòng có chấ
lượng cao.
- Dự án đầu tư sản xuất men Frit Phú Bài với công suất 3.000 tấn / năm của
nhà máy sản xuất men Frit Phú Bài thuộc Công ty kinh doanh nhà Thừa Thiên
Huế với tổng vốn đầu tư 41,540 tỷ VND. Nhờ CGCN nhà máy đã trở thành
cơ sở đầu tiên ở Việt Nam sản xuất men Frit với công nghệ mới hiện đại
100%.
- Dự án công nghệ chế tạo sứ cách điện chất lượng cao 35 - 220 KV đạt tiêu
chuẩn quốc tế IEC của nhà máy sứ Hoàng Liên Sơn với tổng mức vốn đầu tư
là 2,5 tỷ VND. Công ty đã đổi mới công nghệ và dây chuyền sản xuất đồng
bộ hiện đại nâng công suất từ 1500 tấn sản phẩm/ năm lên 2500 tấn sản
phẩm /năm sản xuất được các loại sản phẩm sứ RE-22, RE-35; sứ treo
U70BL,U120BL đạt tiêu chuẩn quy định và đạt chỉ tiêu bền vững của tiêu
chuẩn quốc tế (IEC 383).
- Dự án công nghệ chế tạo các phụ gia chất lượng cao để nâng cao hiệu quả bê
tông và chất lượng công trình của Công ty tư vấn thí nghiệm công trình giao
thông I thuộc Bộ giao thông vận tải với tổng vốn đầu tư 6,2 tỷ VND. Các dây
chuyền công nghệ của công ty đều được đổi mới thông qua hoạt động CGCN

từ nước ngoài, đặc biệt nhận được sự chuyển giao hai dây chuyền công nghệ
sản xuất Naptalen Focmaldehit Sunfonat và Melamin Fomaldehit Sunfonat.
Nhờ CGCN công ty đã hoàn toàn tự lực và chủ động sản xuất các loại phụ gia
chất lượng cao (PA-99) với chất lượng tiêu chuẩn Mỹ ASTMC 494 nâng cao
được khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường phụ gia với các sản
phẩm mới như phụ gia siêu dẻo NFS và MFS.
16
Ngành cơ khí
Chúng ta đã sản xuất phôi đúc bằng khuôn sử dụng furan làm chất kết
dính đảm bảo chất lượng sản phẩm và năng suất cao. Trước đây do chưa có
công nghệ mới, các xưởng đúc chỉ dùng betonit (một loại đất sét) làm chất kết
dính lâu khô và độ hút ẩm cao.
Công nghệ sản xuất các thanh nhôm định hình bằng gia công áp lực ở
nhiệt độ cao được nhập ngoại và triển khai sản xuất.
Công nghệ sản xuất xe máy nhập ngoại đã làm tăng tỷ lệ các chi tiết
được sản xuất ở Việt Nam, chiếm 30% giá trị (bao gồm khung, vành, moay ơ,
các chi tiết khác bằng nhựa, cao su ).
Ngành dệt may
Trong những năm vừa qua trong ngành dệt may, thông qua hoạt động
CGCN từ nước ngoài vào trong nước, các công ty dệt may đã không ngừng
đổi mới công nghệ. Nhìn chung nếu công ty nào nỗ lực đổi mới công nghệ
ngay từ đầu một cách thích đáng thì công ty đó đều có được một vị trí nhất
định trên thị trường. Những thành công đó phải kể đến Công ty dệt Việt
Thắng, Công ty dệt Thái Tuấn, Công ty dệt 8-3, Công ty 28 (Quân đội), Công
ty may Việt Tiến,Công ty may 10.
Thông qua hoạt động CGCN nước ngoài vào trong nước, Công ty dệt
Việt Thắng đã đầu tư một nhà máy kéo sợi liên hợp trị giá 22 triệu USD,
Công ty 28 (Quân đội) đầu tư một nhà máy dệt hiện đại nhất Việt Nam, Công
ty dệt 8-3 đã nhập một dây chuyền kéo sợi của Italia loại công suất 2,1 vạn
cọc sợi giá 5.239.000 USD. Công ty may Việt Tiến với số vốn đầu tư 162 tỷ

VND thông qua hoạt đông CGCN đã đầu tư mới 5.500 máy thiết bị các loại
thuộc thế hệ mới hiện đại. Công ty đã được trang bị nhiều máy, thiết bị
chuyên dùng và tự động hoá nhiều khâu sản xuất, có khả năng xuất xưởng
mỗi năm 45 triệu sản phẩm…
17
2.2.3 Kim ngạch chuyển giao công nghệ :
Trong ngành công nghiệp, đa số các nhà máy được hình thành tại Việt
Nam luôn phải trải qua các công đoạn sau: xây dựng nhà máy, lắp đặt các
trang thiết bị máy móc, vận hành bảo trì, tuyển nhân lực và đào tạo nhân lực,
tổ chức sản xuất
Trong các liên doanh giữa Việt Nam và nước ngoài phía Việt Nam phổ
biến là còn khó khăn nhiều về vốn nên chủ yếu góp vốn bằng đất đai, khi đó
các công ty nước ngoài thường dùng hình thức góp vốn bằng tiền và dây
chuyền công nghệ sản xuất. Đối với các nhà máy được xây dựng bởi nội lực,
do trình độ khoa học công nghệ trong nước còn nhiều hạn chế, việc nhập khẩu
dây chuyền công nghệ từ nước ngoài cũng là phổ biến. Vì vậy trên cơ sở lý
thuyết phải có hợp đồng CGCN nhưng trên thực tế lại không hoàn toàn như
vậy. Do nhiều nguyên nhân trong các liên doanh, cũng như các doanh nghiệp
trong nước khi CGCN từ bên ngoài vào Việt Nam các chủ đầu tư nước ngoài
do sợ bị kéo dài thời gian do phải xem xét hợp đồng, phải qua thẩm định hay
không muốn công khai hoá tình trạng công nghệ sản xuất ở đơn vị mình nên
thường bỏ qua việc lập hợp đồng CGCN. Vì vậy rất khó có thể xác định được
chính xác được trị giá các hợp đồng CGCN từ nước ngoài vào Việt Nam từ
trước đến nay.
Ngay cả các liên doanh lớn giữa Việt Nam và nước ngoài cũng không có
hợp đồng CGCN. Công ty liên doanh ô tô Hoà Bình (VMC) với tổng số vốn
đầu tư 58 triệu USD được liên doanh bởi Columbian Motor Corp. và Imex
Pan Pacific (Phiplipin) với nhà máy ô tô Hoà Bình và Công ty Trancimex;
Công ty liên doanh ô tô Mê kông (Mekong Auto Corp) được liên doanh bởi
Silio Machinery Co. Ltd. và Sae Young Intl’ Inc. Ltd. (Hàn Quốc) với nhà

máy cơ khí Cổ Loa và nhà máy SAKYNO với tổng số vốn gần 36 triệu USD
đều không có hợp đồng CGCN.
18
Trong những năm qua các doanh nghiệp trong nước đã ý thức rất rõ về
việc nhập khẩu dây chuyền thiết bị máy móc từ nước ngoài để tăng năng lực
sản xuất. Chính vì lẽ đó trong tổng kim ngạch nhập khẩu giá trị máy móc dây
chuyền nhập khẩu chiếm một tỷ trọng tương đối cao. Từ năm 1995 - 2000
khối lượng thiết bị toàn bộ và máy móc dụng cụ nền kinh tế nhập khẩu đạt tới
30% trong tổng kim ngạch nhập khẩu
Mặt khác,trong giai đoạn hiện nay FDI là một kênh chuyển giao công
nghệ có vị trí rất quan trọng với Việt Nam. Nó phù hợp với điều kiện của
nước ta cũng như xu hướng phát triển của thế giới. Tính đến hết tháng 6/2002
có tới 70 nước và vùng lãnh thổ đầu tư trực tiếp vào Việt Nam với trên 4.000
dự án, với tổng số vốn đăng ký 41,5 tỷ USD, trong đó số vốn đã thực hiện
22,5tỷ USD. Số doanh nghiệp có vốn FDI là 1063. Phải nói rằng hoạt động
FDI không những bổ sung nguồn vốn quan trọng cho phát triển nền kinh tế
mà nó còn là hoạt động góp phần to lớn vào việc đổi mới và nâng cao trình độ
công nghệ trong nước.Bởi lẽ hiện nay công nghệ được chuyển giao vào trong
nước đại đa số được thông qua con đường FDI. Phần lớn trị giá góp vốn trong
liên doanh của phía nước ngoài được thể hiện qua trị giá dây chuyền thiết bị
công nghệ. Phần lớn giá trị thiết bị công nghệ hiện đại được chuyển giao vào
Việt Nam là phục vụ cho các doanh nghiệp có vốn FDI hoạt động trong các
KCN, KCX.
Trong năm 2002 số vốn đầu tư vào các KCN, KCX chiếm khoảng 40%
trong tổng số vốn đầu tư mới vào Việt Nam (chủ yếu thể hiện bằng trị giá dây
chuyền công nghệ sản xuất). Trong đó phải kể đến dự án đầu tư nhà máy sợi
của tập đoàn Formosa tại Đồng Nai (245.000.000 USD) dự kiến sẽ hình thành
một cụm công nghiệp sản xuất dệt, sợi, nhuộm, nhà máy xử lý nước thải hiện
đại trên quy mô 100 ha; dự án đầu tư của tập đoàn Cannon tai thành phố Hà
Nội với số vốn đầu tư 76.700.000 USD

19
Tính đến cuối tháng 5/2002 cả nước thu thêm 209 dự án mới được cấp phép
đầu tư thông qua với tổng số vốn đăng ký 394 triệu USD. Trong đó ngành công
ghiệp và xây dựng 164 dự án với số vốn đăng ký 322 triệu USD chiếm 82% tổng
số vốn đăng ký. Riêng trong công nghiệp nặng 59 dự án, dầu khí 2 dự án.
Vốn đầu tư đăng ký vào Việt Nam cả năm 2009 ước đạt 21,48 tỷ USD, vốn
thực hiện ước đạt 10 tỷ USD Trong năm 2009, ước tính các dự án đầu tư trực tiếp
nước ngoài đã giải ngân được 10 tỷ USD, bằng 87% so với năm 2008.
2.3 Những mặt còn tồn tại và mâu thuẫn trong hoạt động chuyển giao
công nghệ tại Việt Nam :
Mặc dù hoạt động CGCN nước ngoài vào Việt Nam đã đem lại một số
thành tựu nhất định cho việc phát triển kinh tế và khoa học công nghệ trong
nước, song những thành tựu đó còn rất khiêm tốn. Phải nói rằng hoạt động
CGCN nước ngoài vào Việt Nam chưa mang lại kết quả mong muốn và còn
tồn tại những hạn chế, khó khăn và thách thức sau:
- Chưa đáp ứng được mục tiêu chung về phát triển kinh tế xã hội của đất
nước. Cụ thể nó chưa thực sự tạo nên sức cạnh tranh cho toàn bộ nền kinh
tế,chưa đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy một số ngành kinh tế
trọng điểm, ngành hàng phục vụ xuất khẩu mà chỉ dừng lại ở một vài lĩnh vực
nhỏ hẹp tách biệt độc lập.Công nghệ được chuyển giao còn chắp vá, chưa
đồng bộ, công nghệ chủ yếu chỉ ở dạng trung bình so với các nước trong khu
vực, và hầu như không thể tái chuyển giao.Công nghệ được chuyển giao cho
các công ty Việt Nam chưa thực sự phù hợp với điều kiện thực tế Việt Nam,
tiêu tốn nhiều nguyên vật liệu, gây ô nhiễm môi trường và tác hại xấu tới sức
khoẻ người lao động.
- Công nghệ tiên tiến chủ yếu được chuyển giao vào các doanh nghiệp
100% vốn nước ngoài hoặc doanh nghiệp liên doanh phía nước ngoài chiếm
đa số vốn, điều này chỉ làm tăng các nguồn lực công nghệ trên lãnh thổ Việt
20
Nam,chứ không làm tăng năng lực công nghệ của các công ty Việt Nam và

công dân Việt Nam.Hiện nay, phần lớn các doanh nghiệp đang gặp khó khăn
trong nghiên cứu khoa học, tiếp cận và ứng dụng những công nghệ tiên tiến
mà nguyên nhân chính ở đây là do thiếu kinh phí. Theo ông Nguyễn Trọng
Hiệu - Phó Cục trưởng Cục Phát triển DN – Bộ Kế hoạch và Đầu tư, về trình
độ sử dụng công nghệ, chỉ có khoảng 8% số DNNVV đạt trình độ công nghệ
tiên tiến (phần lớn là các DN có vốn đầu tư nước ngoài). Còn về DN trong
nước, hầu hết đang sử dụng công nghệ cũ, lạc hậu. Đặc biệt, khả năng cạnh
tranh về công nghệ của các doanh nghiệp phía Bắc rất thấp.Hiện nay, trong số
500 nghìn doanh nghiệp trong cả nước, kinh phí dành cho nghiên cứu khoa
học chưa được 1%, thậm chí là không đầu tư. Các doanh nhiệp rất yếu thế
trong cạnh tranh, đặc biệt là trong ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật. Ðây
chính là hạn chế lớn nhất của các doanh nghiệp. Ở Việt Nam hiện nay, hoạt
động thống kê chuyển giao công nghệ mới giới hạn ở việc thu thập danh mục
công nghệ, tổng hợp một số hợp đồng chuyển giao công nghệ được đăng ký
và cấp phép nhưng cũng còn phân tán, thiếu đồng bộ và thiếu hệ thống. Trong
khi thực tiễn hoạt động của doanh nghiệp cần biết những thông tin về công
nghệ, nguồn cung, thị trường công nghệ để đổi mới, chuyển giao; chính
sách pháp luật đã ban hành cũng đòi hỏi cần có hệ thống chỉ tiêu thống kê
chuyển giao công nghệ phục vụ cho công tác quản lý cũng như thúc đẩy ứng
dụng và chuyển giao công nghệ thì điều này lại chưa đáp ứng được.
- Giá của công nghệ được chuyển giao thường cao hơn rất nhiều so với gíá trị
thực có của công nghệ, và đã gây thua thiệt cho Việt Nam không nhỏ.Hoạt
động CGCN nước ngoài chưa có vai trò thực sự trong việc thúc đẩy hoạt động
R&D, ứng dụng và phát triển công nghệ nội sinh, cũng như tạo ra một số lĩnh
vực công nghệ mũi nhọn trong nước.Ngoài ra,trong nhiều trường hợp, hoạt
động CGCN nước ngoài vào Việt Nam thường bị đồng nhất với việc nhập
21
khẩu máy móc thiết bị mà không tính đến yếu tố phần mềm kèm theo như vấn
đề đào tạo, bí quyết sản xuất, nghiên cứu thị trường. Điều này làm cho công
nghệ được chuyển giao không phát huy được tác dụng vốn có, thậm chí gây

tốn kém cho phía Việt Nam về chi phí chuyển giao,chi phí loại bỏ công nghệ
đang có.

Tình hình chuyển giao công nghệ ở Việt Nam giai đoạn 1990-
nay
(Một số số liệu Hợp đồng chuyển giao công nghệ đã được
Bộ Khoa học và Công nghệ phê duyệt cấp đăng ký)

- Công nghiệp chiếm: 50,93%
- Công nghiệp thực phẩm chiếm: 10,14%
- Hóa – Mỹ phẩm: 10,35%
- Điện – Điện tử - Bưu chính viễn thông: 13,45%
- Nông – Lâm – Ngư nghiệp: 3,51%
- Xây dựng – Vật liệu xây dựng: 4,10%
- Dịch vụ: 5,40%
- Khác: 2,12%
(Nguồn: Bộ Khoa học và Công nghệ)
22
CHƯƠNG 3
CÁC GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT
ĐỘNG CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ TẠI VIỆT NAM
10 hoặc 20 năm để phát triển cả một ngành công nghiệp là điều cực kỳ
khó khăn ngay cả đối với những nước phát triển. Theo nhận định của nhiều
chuyên gia thì thay vì phát triển cả một ngành công nghệ chúng ta chỉ cần
tham gia thật tốt một công đoạn trong cả một chuỗi sản phẩm toàn diện trong
thị trường toàn cầu. Bài học từ các nhà máy bán dẫn với tham vọng đi từ việc
chế tạo các tinh thể bán dẫn, tấm silicon cho tới những con chíp cho ngành
công nghiệp điện tử là một ví dụ rất điển hình cho hướng đi chưa phù hợp
này.
Trong khi chúng ta cần nhiều thời gian cho các ngành như luyện kim, cơ khí

23
chính xác phát triển để có thể nghĩ tới việc sản xuất các động cơ đốt trong
chất lượng cao phù hợp với các quy chuẩn công nghiệp Quốc tế thì việc đầu
tư nghiên cứu, phát triển và sản xuất các sản phẩm phụ trợ sẽ mất ít thời gian
hơn đồng thời giá trị gia tăng trong các công đoạn này cũng rất đáng kể.
Trong một chiếc xe hơi, có tới hàng ngàn chi tiết điện tử, hàng trăm cảm biến
đang đợi các doanh nghiệp trong nước xắn tay vào sản xuất và cung cấp.
không có gì phải xấu hổ khi chúng ta làm tốt những gì mà thế giới đang làm
(giai đoạn bắt chước, làm theo – cái mà có lẽ chúng ta đang dùng một thuật
ngữ khác đó là “đi tắt – đón đầu”) và chúng ta hoàn toàn có thể có được công
nghệ của chính mình vào một ngày nào đó (giai đoạn sáng tạo).Để phát triển
một nền công nghiệp cần có: Sự thuận lợi về chính sách; Thuận lợi về cơ sở
hạ tầng; Có sự hỗ trợ của nghành công nghiệp phụ trợ; Tính sẵn sàng về
nguồn nhân lực và phải có những nhà Tư sản bản địa có tâm huyết muốn phát
triển nền kinh tế quốc gia.
Mới đây Đảng và Chính phủ đang muốn dành cho giới nghiên cứu, các nhà
khoa học những ưu tiên nhất định để họ có thể yên tâm thực hiện những ước
mơ của họ để phát triển đất nước. Chính phủ cũng đã có những động thái kiên
quyết nhằm chấn hưng nền giáo dục nước nhà và chuyến đi của Thủ tướng
Chính phủ vừa qua sang Hoa Kỳ nhằm thúc đẩy các mối hợp tác đặc biệt và
toàn diện nhằm phát triển ngành giáo dục Việt nam sẽ là những cú hích rất
lớn để hiện thực hóa những giấc mơ Việt. Thêm vào đó, số lượng ngày càng
tăng số lưu học sinh từ các nền văn minh khoa học trở về nước phục vụ và
đặc biệt sự đóng góp của hàm lượng chất xám trong hàng ngũ “Việt Kiều” từ
Mỹ và châu Âu là những yếu tố nhằm đảm bảo sự thành công trong việc ngày
càng tạo ra những công nghệ mới phục vụ đất nước.
3.1Các giải pháp từ phía nhà nước :
24
3.1.1 Xây dựng chính sách nhất quán mang tầm chiến lược về ưu tiên
phát triển công nghệ :

Trên cơ sở những nhận thức đúng đắn về vai trò của CGCN tới nền kinh
tế,chúng ta phải đưa ra hệ thống chính sách nhất quán mang tầm chiến lược về
ưu tiên phát triển công nghệ.
Hệ thống chính sách đòi hỏi phải mang tính nhất quán, bởi vì nếu không
có sự nhất quán trong chính sách chúng ta sẽ gặp nhiều khó khăn trong quá
trình đổi mới công nghệ, đó là tình trạng “trên nói dưới không nghe”, “mạnh
ai người ấy làm”. Kết quả CGCN sẽ không đem lại cái đích mà chúng ta
hướng tới, thậm chí phải gánh chịu những hậu quả nặng nề do chính sách
không nhất quán về CGCN đem lại.
Hệ thống chính sách về ưu tiên phát triển công nghệ và CGCN bao gồm:
Chính sách ưu tiên phát triển lĩnh vực chuyển giao, và chính sách hỗ trợ cho
hoạt động chuyển giao công nghệ .
3.1.1.1 Về lĩnh vực ưu tiên chuyển giao công nghệ:
Qua việc căn cứ và phân tích đánh giá thực tế về tiềm năng và nhu cầu về
công nghệ trong nước chúng ta có thể đưa ra một số lĩnh vực ưu tiên CGCN
như dùng mọi khả năng có thể tranh thủ CGCN tiên tiến trên thế giới để thực
hiện “đi tắt đón đầu” trong các ngành (viễn thông, điện tử, tin học, sinh học,
vật liệu mới).Đặc biệt coi trọng và đẩy mạnh CGCN phục vụ CNH - HĐH
nông nghiệp và nông thôn.Cần chú trọng CGCN nhằm phát triển công nghiệp
chế biến nông lâm thuỷ sản phục vụ xuất khẩu và công nghiệp hàng tiêu
dùng.Ngoài ra nên CGCN một cách có chọn lọc cho các ngành công nghiệp
nặng (năng lượng, vật liệu xây dựng, cơ khí luyện kim, hoá chất).
3.1.1.2. Về chính sách hỗ trợ cho phát triển công nghệ và CGCN:
a. Chính sách về vốn cho CGCN :
25

×