Tải bản đầy đủ (.doc) (60 trang)

ĐIỀU CHỈNH PHÁP LUẬT QUỐC TẾ HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (304.9 KB, 60 trang )

CHƯƠNG I
ĐIỀU CHỈNH PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VỀ THƯƠNG MẠI
QUỐC TẾ
Luật quốc tế về thương mại là một chế định được hình thành sớm nhất
và phát triển nhanh nhất của ngành Luật Kinh tế quốc tế. Chế định này có tên
gọi "Luật quốc tế về thương mại" (International Trade Law trong tiếng Anh,
hoặc Droit international du commerce trong tiếng Pháp) nhằm phân biệt với
"Luật thương mại quốc tế" (International Commercial Law) - một ngành của
Tư pháp quốc tế, điều chỉnh những vấn đề liên quan tới hợp đồng, trái vụ,
v.v… Tuy nhiên, sự phân biệt này đôi khi chỉ mang tính thuật ngữ, còn sự
khác biệt căn bản của chúng được thể hiện ở nội dung điều chỉnh.
I. NHỮNG NGUYÊN TẮC PHÁP LÝ ĐIỀU CHỈNH QUAN HỆ
THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ
Trong suốt quá trình lịch sử của mình, quan hệ thương mại quốc tế phát
triển dưới sự ảnh hưởng của hai xu hướng chính sách luôn cùng tồn tại và đấu
tranh với nhau là: tự do hóa thương mại và bảo hộ mậu dịch. Chính vì vậy,
những nguyên tắc và quy phạm của Luật quốc tế về thương mại cũng là sự thể
hiện của hai xu hướng này. Trước Chiến tranh thế giới thứ hai, quan hệ
thương mại được điều chỉnh chủ yếu bằng các điều ước song phương; cho đến
năm 1945, những nguyên tắc như: tối huệ quốc, đãi ngộ quốc dân và có đi có
lại đã được áp dụng rộng rãi và trở thành nguyên tắc cơ bản trong quan hệ
thương mại quốc tế. Luật quốc tế cổ điển coi ba nguyên tắc này có mối quan
hệ chặt chẽ với nhau, là tiền đề và kết quả của nhau.
1. Những nguyên tắc của GATT
Hiệp định GATT năm 1947 là văn kiện pháp lý quốc tế đầu tiên điều
chỉnh quan hệ thương mại giữa các quốc gia trên cơ sở đang phương. Theo
Hiệp định, nhiệm vụ trọng tâm của GATT là: tự do hóa thương mại, cắt giảm
1
thuế quan, bãi bỏ các hạn chế về nhập khẩu và loại trừ các biểu hiện phân biệt
đối xử về kinh tế. Xuất phát từ những mục tiêu này, GATT cho rằng nguyên
tắc không phân biệt đối xử trên cả bình diện quốc gia và quốc tế (tức là áp


dụng vô điều kiện và rộng rãi nguyên tắc này trong các nước hội viên được
hưởng chế độ tối huệ quốc, đãi ngộ quốc dân) và nguyên tắc có đi có lại
(thông qua việc thỏa thuận những nhượng bộ (concession) về thuế quan giữa
các nước hội viên) là hai nguyên tắc tạo nên cơ sở pháp lý cho mọi hoạt động
của mình.
Hạn chế cơ bản của Hiệp định GATT năm 1947 là ở chỗ nó không thể
hiện đầy đủ quyền lợi của các nước đang phát triển mà chỉ quan tâm tới lợi
ích của các nước công nghiệp phát triển. Thực tiễn quan hệ quốc tế cho thấy,
việc áp dụng các nguyên tắc không phân biệt đối xử và có đi có lại giữa hai
nhóm nước công nghiệp phát triển và nông nghiệp lạc hậu (đang phát triển)
chỉ tạo lợi thế cho các nước công nghiệp phát triển thâm nhập vào thị trường
các nước đang phát triển, làm cho nền kinh tế của các nước đang phát triển
ngày càng phụ thuộc vào các nước công nghiệp phát triển và khoảng cách về
trình độ phát triển kinh tế giữa hai nhóm nước ngày càng lớn.
2. Những nguyên tắc của UNCTAD
Với đa số áp đảo, tại UNCTAD năm 1964, các nước xã hội chủ nghĩa và
đang phát triển đã thành công trong việc thông qua được Định ước cuối cùng
về những nguyên tắc áp dụng trong quan hệ thương mại quốc tế hiện đại (bao
gồm 15 nguyên tắc chung, 13 nguyên tắc cụ thể và tám nguyên tắc dành riêng
cho các quốc gia không có biển).
Ngoài việc nhắc lại một nguyên tắc tiến bộ của GATT là áp dụng rộng
rãi chế độ tối huệ quốc, Định ước cuối cùng của UNCTAD đã đưa ra một loạt
nguyên tắc mới, làm thay đổi một cách cơ bản hệ thống nguyên tắc của GATT
áp dụng trong quan hệ với các nước đang phát triển. Trong số 15 nguyên tắc
chung có hai nguyên tắc quan trọng là: i) không phân biệt đối xử do có sự
2
khác nhau về hệ thống kinh tế - xã hội (nguyên tắc thứ hai) và ii) đối xử ưu
đãi đối với các nước đang phát triển (nguyên tắc thứ tám).
Trên cơ sở nguyên tắc đối xử ưu đãi, UNCTAD năm 1968 đã thông qua
nghị quyết thành lập Hệ thống ưu đãi phổ cập (GSP). Hệ thống này được

GATT chấp nhận năm 1971.
Cùng với việc các nước hội viên bổ sung vào Hiệp định GATT chương
IV (gồm 3 điều khoản, từ XXXVI đến XXXVIII) năm 1964 và việc hình
thành hệ thống GSP năm 1968 đã dẫn tới việc trong tổ chức GATT song song
tồn tại hai hệ thống nguyên tắc: một hệ thống (được xây dựng từ năm 1947)
áp dụng trong quan hệ thương mại giữa các nước công nghiệp phát triển và
một hệ thống khác (được xây dựng từ năm 1964) dành cho các nước đang
phát triển.
Hệ thống GSP áp dụng các ưu đãi trên cơ sở một chiều (không có đi có
lại) đã trở thành một nguyên tắc quan trọng nhất áp dụng trong quan hệ
thương mại Bắc - Nam.
Quan hệ thương mại giữa các nước đang phát triển cũng có những thay
đổi quan trọng. Dưới sự bảo trợ của UNCTAD, năm 1988 tại Belgrade, các
nước đang phát triển đã ký hiệp định thành lập Hệ thống ưu đãi thương mại
toàn cầu giữa các nước đang phát triển (GSTP). Theo hệ thống GSTP, các
nước đang phát triển sẽ dành cho nhau những ưu đãi về thuế quan, bán thuế
quan, phi thuế quan và những ưu đãi khác mà các nước không tham gia GSP
không được hưởng. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã tham gia
GSP từ năm 1988.
3. Những nguyên tắc của WTO
WTO, có hiệu lực từ ngày 1-1-1995, là kết quả của vòng đàm phán
thương mại đa biên cuối cùng của GATT 1947 (vòng Urugoay 1986 - 1994).
Kết thúc vòng đàm phán Urugoay, năm 1994, tại Hội nghị Marrakech, các
nước thành viên của tổ chức GATT đã ký văn kiện cuối cùng thành lập nên
3
Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) nhằm giám sát việc thực thi ba hiệp
định thương mại đa biên: Hiệp định chung về thuế quan và thương mại năm
1994 (GATT năm 1994) và Hiệp định chung về thương mại dịch vụ (GATS)
và Hiệp định về các khía cạnh sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại
(TRIPS).

Như vậy, các nguyên tắc của WTO chính là những nguyên tắc được áp
dụng trong GATT năm 1947 với một số thay đổi, bổ sung trong ba hiệp định
thương mại đa biên nói trên. Theo các hiệp định này, cơ cấu thể chế GATT
năm 1947 được thay đổi, phạm vi hoạt động được mở rộng sang các lĩnh vực
mới như hàng dệt và sản phẩm nông nghiệp, dịch vụ, đầu tư, sở hữu trí tuệ…
II. HỆ THỐNG PHÁP LÝ ĐIỀU CHỈNH THƯƠNG MẠI HÀNG HÓA
Những yếu tố tác động trực tiếp đến việc thực hiện các nguyên tắc áp
dụng trong lĩnh vực thương mại quốc tế là chính sách, bộ máy quản lý và luật
pháp của các nước trong lĩnh vực xuất nhập khẩu hàng hóa. Ngoài ra, những
yếu tố khách quan như: sự khác nhau về trình độ phát triển kinh tế, quy luật
thị trường, tính đặc thù của từng nhóm nước… cũng tác động đến việc áp
dụng các nguyên tắc đã trình bày ở trên. Với tư cách là một chế định của
Công pháp quốc tế, Luật quốc tế về Thương mại được xây dựng nhằm mục
đích loại bỏ những trở ngại do chủ quan các quốc gia gây ra, cũng như trở
ngại khách quan của quy luật thị trường.
1. Các hàng rào thuế quan
Để bảo vệ sản xuất trong nước và chống lại sự cạnh tranh của hàng hóa
nước ngoài trên thị trường của mình, một trong những biện pháp hữu hiệu
nhất mà lâu nay các quốc gia thường áp dụng là hàng rào thuế quan (tariff
barriers) - tức là đánh thuế cao đối với hàng hóa nhập khẩu, làm cho giá của
hàng nhập khẩu cao hơn hàng nội địa. Loại bỏ trở ngại này đối với hàng nhập
khẩu là đối tượng của các cuộc đàm phán về nhượng bộ thuế quan trên cơ sở
có đi có lại được tổ chức trong khuôn khổ tổ chức GATT trước đây và của
4
WTO ngày nay. Nói như vậy không có nghĩa là trong khuôn khổ GATT và
WTO, việc sử dụng hệ thống thuế quan bị coi là phi pháp. Các quy định của
GATT và WTO chấp nhận biện pháp thuế quan, nhưng tạo cơ sở cho các cuộc
thương lượng quốc tế đa phương về định mức của từng loại thuế, khuyến
khích cắt giảm thuế và bảo vệ việc cắt giảm thuế chống lại những biện pháp
tránh né không trực tiếp thông qua các sắc thuế nội bộ mang tính chất phân

biệt đối xử và các biện pháp khác.
a) Trừ trường hợp những liên minh thuế quan (như EU, Hiệp hội Mậu
dịch tự do châu Âu - AELE, Khu vực Mậu dịch tự do Bắc Mỹ - NAFTA, Khu
vực Mậu dịch tự do ASEAN - AFTA…), còn nói chung khi một quốc gia đã
dành một nhượng bộ thuế quan (giảm thuế nhập khẩu đối với một mặt hàng)
cho một quốc gia nào đó, thì nhượng bộ đó đương nhiên sẽ được áp dụng cho
tất cả các quốc gia đã có thỏa thuận về chế độ tối huệ quốc với quốc gia này.
Với mục tiêu tự do hóa thương mại quốc tế, Hiệp định GATT năm 1947 đã đề
ra nguyên tắc bãi bỏ và giảm dần thuế quan của các nước hội viên "trên cơ sở
có đi có lại và hai bên cùng có lợi" thông qua các cuộc đàm phán thương mại
đa biên (Điều XXVIII bis).
Nếu không phải vì ý đồ bành trướng kinh tế - thương mại của các nước
công nghiệp phát triển, thì việc áp dụng nguyên tắc nói trên của GATT có thể
được coi là một tiến bộ quan trọng của Luật quốc tế về thương mại. Trên cơ
sở Điều XXVIII bis, GATT đã tổ chức tám cuộc đàm phán đa biên về thuế
quan (thường được gọi là các vòng đàm phán - Round) với mục đích giảm
thuế đối với hàng hóa nhập khẩu. Có thể kể ra một số vòng đàm phán quan
trọng như: Vòng Tokyo (kéo dài sáu năm, từ năm 1973 đến 1979) đã thông
qua Nghị định như về thuế quan và danh mục những nhượng bộ của các nước
hội viên trong tám năm (1980 - 1988), hạ thuế nhập khẩu 33% đối với hàng
công nghiệp; vòng Urugoay (kéo dài trong tám năm, từ năm 1986 đến 1993)
đã thông qua thỏa thuận trong vòng sáu năm giảm 33% thuế đối với hàng
5
công nghiệp, 36% đối với hàng nông nghiệp và giảm dần thuế bằng "O" đối
với một số mặt hàng (như tân dược, thiết bị nông nghiệp…), cũng như yêu
cầu các nước hội viên "thuế hóa" các khoản lệ phí không mang hình thức thuế
như: phí hải quan, thuế hàng hóa, phụ phí… Các cam kết giảm thuế đó được
ghi nhận trong lịch trình giảm thuế của từng quốc gia thành viên kèm theo
Hiệp định chung và được coi là bộ phận cấu thành của Hiệp định chung.
Có một số vấn đề pháp lý quan trọng nảy sinh từ nghĩa vụ hạn chế thuế

quan đối với hàng hóa của GATT. Việc cam kết cắt giảm thuế có thể chia
thành hai nhóm. Nhóm thứ nhất gồm những nghĩa vụ liên quan cụ thể đến
một số mặt hàng. Nhóm thứ hai là những nghĩa vụ chung của GATT mà
người ta thường gọi là "tập hợp các chính sách thương mại tốt", không chỉ
liên quan đến các mặt hàng cụ thể trong lịch trình giảm thuế, mà liên quan
đến thương mại hàng hóa (chẳng hạn nghĩa vụ liên quan đến sử dụng hạn
ngạch, hay nghĩa vụ cung cấp đãi ngộ quốc dân trong việc đánh thuế…). Một
trong những mục tiêu của nhóm nghĩa vụ thứ hai là ngăn ngừa việc trốn tránh
thi hành các cam kết giảm thuế cụ thể. Và như vậy thì mọi quy định của
GATT nhằm hạn chế các trở ngại phi quan thuế đều nằm bảo vệ các cam kết
giảm thuế.
Tuy nhiên, Điều XX của Hiệp định GATT năm 1947 đã sửa đổi cũng có
quy định một số ngoại lệ chung đối với việc thi hành các cam kết của GATT
vì các lý do như bảo vệ đạo đức công cộng; bảo vệ đời sống và sức khoẻ của
người và động thực vật; bảo vệ thăng bằng cán cân thanh toán; liên quan đến
việc thi hành luật lệ về hải quan, độc quyền, bảo vệ sở hữu trí tuệ, ngăn ngừa
các hoạt động lừa đảo; liên quan đến lao động là tù nhân; bảo vệ tài sản nghệ
thuật; lịch sử và khảo cổ học của quốc gia; bảo vệ tài nguyên thiên nhiên; do
yêu cầu khẩn thiết của tình trạng khan hiếm hàng; và vì lý do an ninh quốc
gia.
Ngoài các ngoại lệ chung đó, Hiệp định chung của GATT và các hiệp
6
định kèm theo của GATT và WTO còn có những quy định cho phép các nước
thành viên hoặc tạm đình chỉ thi hành những cam kết giảm thuế, hoặc thay đổi
hoàn toàn một cam kết thuế quan cụ thể. Những quy định thuộc loại thứ nhất
gồm điều khoản bảo vệ (the escape clause) hay còn gọi là các biện pháp tự vệ
(safeguards measures), các biện pháp trừng phạt có tính trả đũa theo Điều
XXIII của GATT và các quy định về tự nguyện không áp dụng (waivers) theo
Điều 25 của GATT. Những quy định thuộc loại thứ hai là các quy định về thủ
tục thương lượng và đàm phán lại bản thân lịch trình cắt giảm thuế.

Trước khi thiết lập hệ thống GSP, các nước đang phát triển là thành viên
của GATT thường sử dụng những ngoại lệ này để hạn chế sự bành trướng
kinh tế - thương mại của các nước tư bản phát triển, bảo vệ nền công nghiệp
dân tộc và tăng cường xuất khẩu. Tuy vậy, việc sử dụng những ngoại tệ này
cũng chỉ hạn chế trong chừng mực nhất định.
b. Hiệp định GSP đã được hợp thức hóa trong khuôn khổ GATT vào
năm 1970 như là một ngoại lệ mới dành cho các nước đang phát triển. Trên
cơ sở pháp lý quốc tế này, các nước công nghiệp phát triển đã thông qua văn
bản nội luật (đơn phương) về việc áp dụng Hệ thống ưu đãi phổ cập (các nước
Tây Âu và Nhật Bản năm 1971; Áo, Nauy, Thụy Điển, Phần Lan năm 1972;
Canada 1974 và Mỹ 1976…).
Theo GSP, các nước công nghiệp phát triển được coi là "nước cấp"
(donor cuntries) sẽ dành cho các nước đang phát triển - "nước hưởng"
(beneficiary countries) những nhượng bộ thuế quan (dưới hình thức miễn
hoặc giảm thuế) đối với toàn bộ hàng công nghiệp xuất khẩu từ các nước đang
phát triển. Cho đến nay, hệ thống GSP đang được áp dụng rộng rãi trong quan
hệ thương mại giữa các nước công nghiệp phát triển và các nước đang phát
triển (với một số bảo lưu nhất định của các nước công nghiệp phát triển).
c. Cho đến nay thì nói chung các nước đang phát triển vẫn áp dụng biểu
thuế đối với hàng nhập khẩu cao hơn nhiều so với các nước công nghiệp phát
7
triển. Việc các nước này đánh thuế cao đối với hàng nhập khẩu nhằm hai mục
đích là bảo vệ nền công nghiệp dân tộc non trẻ và tăng nguồn thu nhập cho
ngân sách quốc gia. Nhưng với việc áp dụng hệ thống nguyên tắc của WTO
thì khả năng áp dụng biểu thuế nhập khẩu cao của các nước đang phát triển sẽ
dần dần bị thu hẹp và loại trừ.
Việc áp dụng GSTP đã tạo điều kiện cho các nước đang phát triển thỏa
thuận với nhau về việc giảm thuế nhập khẩu 30% đối với một danh mục hàng
hóa được quy định. Việt Nam đã tham gia hệ thống GSTP ngay từ khi hệ
thống này mới thành lập và cũng đã tiến hành đàm phán với một vài nước về

việc áp dụng những nhượng bộ thuế quan đối với một số mặt hàng. Tuy việc,
hệ thống GSTP cũng chưa phát huy được tác dụng đáng kể trong quan hệ
thương mại quốc tế.
2. Các hàng rào phi thuế quan
Ngày nay các hàng rào về thuế quan nói chung không nhiều, nhưng các
trở ngại phi thuế quan (non tariff barriers) lại được áp dụng khá phổ biến
trong luật pháp các nước. Theo thống kê của tổ chức GATT, khi chuẩn bị cho
vòng đàm phán Tokyo thì có tới 825 trở ngại thuộc loại này trong thực tiễn
thương mại quốc tế. Việc áp dụng các biện pháp này là "thủ thuật" mà các
quốc gia hội viên của GATT sử dụng nhằm tránh thi hành chế độ tối huệ quốc
và thực hiện chính sách bảo hộ mậu dịch.
Những trở ngại phi thuế quan mà các quốc gia thường sử dụng trong
thương mại quốc tế là: hạn chế về số lượng hoặc mặt hàng đối với nhập khẩu
(quotas); thuế chống phá giá (antidumping duty); trợ cấp xuất khẩu (export
subsidy) và thuế bù trừ (contervailing duty); điều khoản bảo vệ (safeguards);
giá tính thuế (customs valuation); hệ thống cấp phép nhập khẩu; thủ tục hải
quan và lãnh sự; những yêu cầu về kỹ thuật, vệ sinh, bao bì, nhãn hiệu… Tất
cả những thủ tục pháp lý rối rắm này trên thực tế đã tạo ra những trở ngại
đáng kể cho giao lưu thương mại quốc tế và gây ra những tổn thất cho thương
8
nhân của các nước còn nhiều hơn cả hệ thống thuế quan.
Trong số các biện pháp phi thuế quan nói trên; Hiệp định GATT năm
1947 chỉ quy định nguyên tắc cấm việc áp dụng các biện pháp hạn chế về số
lượng đối với hàng nhập khẩu (Điều XI). Nhưng có một số ngoại lệ đối với
nguyên tắc cấm áp dụng hạn chế số lượng nói trên. Hạn chế số lượng có thể
được sử dụng, trên cơ sở không phân biệt đối xử, để hạn chế nhập khẩu các
sản phẩm nông nghiệp và ngư nghiệp nhằm ngăn ngừa tình trạng khan hiếm
hay để áp dụng các tiêu chuẩn thị trường hoặc thi hành những chương trình
nông nghiệp của chính phủ. Việc hạn chế này phải tuân thủ một số điều kiện
nhất định và phải áp dụng cả đối với các sản phẩm nội địa tương tự. Hạn chế

khối lượng còn có thể áp dụng khi cần bảo vệ dự trữ ngoại tệ của quốc gia,
nhưng những biện pháp hạn chế này phải làm sao không làm thiệt hại một
cách không cần thiết đến lợi ích của các nước thành viên GATT khác. Quốc
gia thi hành các biện pháp hạn chế có nghĩa vụ tham khảo các nước thành
viên GATT khác về các biện pháp hạn chế định thi hành sao cho có thể nới
lỏng các biện pháp đó ngay khi điều kiện cho phép. Ngoài ra, còn một số
ngoại lệ liên quan khi sử dụng biện pháp hạn chế như vì an ninh quốc gia, sức
khỏe và an toàn xã hội. Một yêu cầu chính thức xin miễn áp dụng quy định
cấm đối với việc hạn chế số lượng phải được các nước thành viên GATT
thông qua. Hoa Kỳ là nước đầu tiên sử dụng thủ tục này đối với việc hạn chế
nhập khẩu các sản phẩm nông nghiệp.
GATT coi hiện tượng bán hàng phá giá (dumping) là một hoạt động
thương mại không công bằng, gây thiệt hại cho các nước nhập khẩu. Điều VI
của GATT năm 1947 đã được sửa đổi về quy định các tiêu chuẩn để xác định
tình trạng bán phá giá và cho phép nước bị phương hại bởi tình trạng này áp
dụng thuế chống bán phá giá theo những thể thức và điều kiện nhất định. Tuy
nhiên, việc sử dụng thuế chống bán phá giá còn có nhiều tranh cãi, bởi vì thực
tế nhiều năm qua cho thấy các cường quốc thương mại đã sử dụng rất rộng rãi
9
biện pháp này, đến mức có nhiều người cho rằng chúng đã trở thành một hình
thức bảo hộ thị trường trá hình, có tác dụng hạn chế nhập khẩu hàng hóa từ
các nước đang phát triển.
Vấn đề trợ cấp của chính phủ (bao gồm trợ cấp cho sản xuất trong nước
và trợ cấp cho xuất khẩu) luôn là vấn đề gây tranh cãi, kể từ những ngày đầu
của GATT đến nay. Phức tạp nhất là làm thế nào phân biệt được giữa một bên
là những hoạt động hợp pháp của nhà nước đối với nền kinh tế của mình và
bên kia là những hình thức trợ cấp gây tổn hại cho thương mại quốc tế. trong
khuôn khổ GATT, trợ cấp bị coi là nhân tố "làm méo mó" thương mại quốc
tế, vì nó tạo ra sự chênh lệch giữa chi phí thực tế trong sản xuất hàng hóa và
chi phí mà người sản xuất phải gánh khi sản xuất hàng hóa đó.

Các quy định của GATT về trợ cấp rất phức tạp. Ban đầu, Điều XVI của
GATT chỉ quy định một nghĩa vụ thông báo về mọi hình thức trợ cấp nhằm
tăng cường xuất khẩu hoặc giảm nhập khẩu. Trong khoảng thời gian 1954-55,
Điều XVI được bổ sung, bao gồm hai nghĩa vụ nữa là: i) không sử dụng trợ
cấp xuất khẩu các sản phẩm cơ bản, và ii) không sử dụng trợ cấp xuất khẩu
các sản phẩm không cơ bản làm cho giá xuất khẩu của chúng thấp hơn giá sản
phẩm tương tự không được xuất khẩu. Ban đầu GATT cho phép các nước
thành viên đơn phương quyết định hình thức thuế bù trừ để đối phó với thiệt
hại do nước khác áp dụng trợ cấp. Sau khi được bổ sung, Điều VI của GATT
quy định cấm một quốc gia cùng một lúc sử dụng cả thuế chống bán phá giá
và thuế bù trừ đối với một trường hợp và áp đặt điều kiện phải xác định được
"một sự thiệt hại vật chất" thì mới được phép sử dụng thuế bù trừ. Thực tế cho
thấy thuế bù trừ được sử dụng ít thường xuyên hơn thuế chống bán phá giá và
quốc gia sử dụng nhiều nhất là Hoa Kỳ.
Trên đây, chúng ta đã đề cập điều khoản bảo vệ của GATT cho phép các
quốc gia thành viên tạm đình chỉ thi hành cam kết giảm thuế để đối phó với
tình huống nhập khẩu tăng mạnh, gây ra những thiệt hại về kinh tế vượt quá
10
sự dự phòng của họ khi thương lượng về giảm thuế quan. Trong thực tế, các
biện pháp bảo vệ còn được các nước sử dụng để bảo vệ các ngành công
nghiệp "bị thiệt hại nặng nề" do nhập khẩu tăng quá nhiều, dù sự cạnh tranh
do việc nhập khẩu đó gây ra có liên quan hay không đến một cam kết thuế
quan cụ thể. Như vậy là các biện pháp bảo vệ chủ yếu là để khôi phục khả
năng cạnh tranh của sản xuất trong nước trước sự cạnh tranh của hàng nhập
khẩu. Tuy vậy, người ta cũng thấy rằng ở một số nước, không phải lúc nào
các biện pháp bảo vệ cũng nhằm vào các ngành sản xuất thực sự bị ảnh
hưởng. Có những nhóm vận động đại diện cho một ngành sản xuất và được tổ
chức tốt có thể thuyết phục được chính phủ sử dụng các biện pháp bảo vệ cho
họ, bất kể ảnh hưởng của chúng đến khả năng cạnh tranh của ngành đó là thế
nào. Ở nhiều nước, các biện pháp bảo vệ được sử dụng như một cái van chính

trị, để nới bớt áp lực của các nhóm lợi ích trong những tình huống chính trị
nhất định.
Theo Điều XIX của GATT, các biện pháp bảo vệ chỉ được sử dụng khi
"có sự tăng mạnh về khối lượng" của các loại hàng nhập khẩu, có nguy cơ gây
"thiệt hại nghiêm trọng" cho ngành sản xuất trong nước bị hàng nhập khẩu
cạnh tranh.
Luật lệ hải quan là một chủ đề mang tính chuyên môn sâu. Luật lệ hải
quan có thể bị lạm dụng để gây khó khăn cho thông thương quốc tế. Các điều
từ VII đến X của GATT quy định những tiêu chuẩn quốc tế đối với thủ tục hải
quan mà các nước thành viên phải tuân thủ; Điều VII quy định về đánh giá
hàng hóa; Điều VIII giới hạn các loại phí, thể thức và hình phạt áp dụng đối
với hàng nhập khẩu; Điều IX quy định hạn chế sử dụng đòi hỏi phải ghi rõ
xuất xứ hàng hóa; và điều X yêu cầu các nước công bố ngay mọi luật lệ hải
quan của mình và có tòa án xét xử các khiếu nại đối với các quyết định của cơ
quan hải quan.
Tại các vòng đàm phán thương mại đa biên (vòng Tokyo và Urugoay),
11
các quốc gia thành viên của GATT đã ký kết một số hiệp định nhằm loại bỏ
các trở ngại phi thuế quan. Trong khuôn khổ vòng Tokyo có sáu hiệp định đã
được ký kết trong các lĩnh vực: thuế chống bán phá giá; giá tính thuế; cấp
phép nhập khẩu; trợ cấp xuất khẩu và thuế bù trừ; các trở ngại kỹ thuật; và về
hợp đồng mua bán của nhà nước. Tại vòng Urugoay, đồng thời với việc bổ
sung và sửa đổi nhằm hoàn thiện các Hiệp định đã ký kết trong vòng Tokyo,
các quốc gia hội viên của GATT đã thỏa thuận thêm một số hiệp định mới về
loại bỏ các trở ngại phi thuế quan. Các hiệp định đã được thông qua tại Hội
nghị Marrakech ngày 15/4/1994 là: Hiệp định về các biện pháp vệ sinh và
kiểm dịch, Hiệp định về kiểm tra hàng hóa trước khi xuống tàu, Hiệp định về
quy định xuất xứ, và Hiệp định về các biện pháp bảo vệ.
Trong các hiệp định nói trên đều có quy định chế độ đối xử ưu đãi dành
cho các nước đang phát triển (như kéo dài thời gian phải áp dụng các biện

pháp tự do hóa thương mại).
3. Các trở ngại chính trị - pháp lý
Nói chung những trở ngại này do các nước tư bản (đặc biệt là Mỹ) tạo ra
trong quan hệ thương mại với các nước xã hội chủ nghĩa và đang phát triển.
Ngoài những biện pháp như cấm vận (embargo), tẩy chay (boycott), không
cho áp dụng chế độ tối huệ quốc, áp dụng đạo luật bổ sung Jackson -
Vanik…, ngày nay Mỹ vẫn còn áp dụng Đạo luật buôn bán với các nước "thù
địch" được thông qua từ năm 1917 (The Trading with Enemy Act) để kiểm
soát mọi hợp đồng mua bán giữa các công dân và công ty Mỹ với các quốc
gia bị Mỹ coi là "thù địch".
Đạo luật Thương mại của Mỹ năm 1975 (The Trade Act) cũng có những
điều khoản không cho phép các nước đang phát triển "đã quốc hữu hóa tài sản
của công dân Mỹ mà không bồi thường" được hưởng những ưu đãi do hệ
thống GSP của Mỹ quy định.
Trong lĩnh vực đa phương, trước đây các nước NATO và Nhật Bản đã
12
thành lập Uỷ ban phối hợp về kiểm soát xuất khẩu đa phương (COCOM)
(mới giải thể năm 1994) nhằm quy định danh mục những loại hàng hóa (được
xem xét lại hàng năm) không được xuất sang các nước xã hội chủ nghĩa nếu
không được COCOM cho phép.
Những trở ngại về chính trị - pháp lý thông thường được giải quyết
thông qua đàm phán song phương.
III. ĐIỀU CHỈNH PHÁP LÝ QUỐC TẾ ĐỐI VỚI MỘT SỐ LOẠI
HÀNG HÓA
Thương mại quốc tế gặp phải một trở ngại khách quan lớn là tính không
ổn định của thị trường. Việc này ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự phát triển
kinh tế của một số đông các nước (đặc biệt là đang phát triển) mà thu nhập
ngoại thương chủ yếu dựa vào việc xuất khẩu một số sản phẩm cơ bản
(primary products) nhất định (thường là nông phẩm, nguyên liệu, khoáng
sản…). Việc điều tiết xuất nhập khẩu những loại hàng hóa nói trên (nhằm ổn

định giá cả) không thể dựa vào các biện pháp điều chỉnh pháp lý quốc gia, mà
yêu cầu phải có sự hợp tác quốc tế rộng rãi.
Ngoài ra, GATT cũng tỏ ra bất lực trong việc điều hòa mâu thuẫn thương
mại giữa các quốc gia công nghiệp phát triển đối với một số mặt hàng công
nghiệp nhạy cảm như: hàng dệt, ôtô, điện tử, máy bay… Chính vì vậy, trong
Tuyên bố Punta del Esten ngày 19/9/1986 mở đầu vòng Urugoay, các quốc
gia đã đặt ra vấn đề xem xét lại một loạt điều khoản của Hiệp định - 1947
nhằm mở rộng phạm vi áp dụng của Hiệp định GATT đối với một số loại "hh
nhạy cảm" và ba lĩnh vực mới liên quan đến thương mại là: sở hữu trí tuệ, đầu
tư và dịch vụ. Kết quả là vòng Urugoay đã thông qua: Hiệp định chung về
thương mại dịch vụ (GATT), Hiệp định về các khía cạnh sở hữu trí tuệ liên
quan đến thương mại TRIPS, và Hiệp định về các biện pháp đầu tư liên quan
đến thương mại TRIMS.
Trong bối cảnh chung trên, từ những năm 1970, trong Luật quốc tế về
13
Thương mại đã hình thành hai xu hướng chính để tháo gỡ những khó khăn
này: i) tăng cường hợp tác đa phương giữa các nước đang phát triển với các
nước công nghiệp phát triển nhằm giải quyết những vấn đề liên quan đến sản
xuất, tiêu thụ và xuất nhập khẩu các loại hàng hóa như: nông phẩm, nguyên
liệu, khoáng sản ; và ii) phát triển hình thức hợp tác song phương giữa các
nước công nghiệp phát triển (thông qua việc ký kết hiệp định) nhằm điều tiết
việc xuất nhập khẩu một số mặt hàng công nghiệp "nhạy cảm".
Cả hai hình thức điều chỉnh pháp lý này hiện nay đều đang được áp dụng
rộng rãi trong quan hệ thương mại quốc tế.
1. Hợp tác đa phương
Hợp tác đa phương về một số hàng hóa cụ thể được tiến hành bằng nhiều
hình thức: i) ký kết các hiệp định đa phương và trên cơ sở đó thành lập các tổ
chức quốc tế về một số sản phẩm (dầu ôliu, lúa mì, thiếc, cà phê, ca cao,
đường, cao su, thịt bò, sản phẩm sữa, dầu lửa ); ii) thành lập các nhóm
nghiên cứu liên chính phủ (độc lập, hoặc trong khuôn khổ UNCTAD và các

tổ chức chuyên môn của Liên hợp quốc như Tổ chức Nông nghiệp và lương
thực - FAO) giữa các nước xuất khẩu và nhập khẩu về một số mặt hàng len,
bông, chè, gạo, chuối, lạc ); iii) ký kết các thỏa thuận không chính thức dưới
sự bảo trợ của FAO (về các mặt hàng đay, sợi ); hoặc iv) thông qua các nghị
quyết tại UNCTAD (ví dụ như "Nghị quyết về chương trình nhất thể hóa" đối
với các sản phẩm cơ bản)
Trong tất cả các biện pháp đa dạng trên, có thể nêu ra ba hình thức điều
chỉnh pháp lý quốc tế chính nhằm đảm bảo sự ổn định xuất nhập khẩu các loại
sản phẩm cụ thể:
- Phân chia hạn ngạch (quota) xuất hoặc nhập khẩu trong một giai đoạn
nhất định cho các nước sản xuất và tiêu thụ chính các loại sản phẩm này. Việc
làm này tạo ra sự cân bằng và ổn định giữa cung và cầu (bên sản xuất và bên
tiêu thụ có trách nhiệm phải xuất và nhập theo hạn ngạch đã được phân bổ
14
cho từng giai đoạn).
- Xác định khung giá tối đa và tối thiểu đối với từng loại sản phẩm mà
các nước phải tuân thủ khi tiến hành hoạt động thương mại.
- Thành lập các kho dự trữ quốc tế đối với một số loại sản phẩm để điều
tiết khối lượng hàng hóa trên thị trường và giúp đỡ các nước chậm phát triển.
Trong chừng mực nhất định, các biện pháp trên đã tạo ra sự cân đối về
quyền lợi của hai nhóm nước (nhập khẩu và xuất khẩu), góp phần ổn định thu
nhập ngoại thương của các nước đang phát triển. Tuy nhiên, những biện pháp
này vẫn chưa thể đáp ứng được những đòi hỏi về phát triển kinh tế của các
nước đang phát triển mà "Chương trình nhất thể hóa", được UNCTAD thông
qua năm 1976 đưa ra. Trong sự hợp tác đa phương này có sự tham gia rộng
rãi của các quốc gia, không phân biệt xu hướng chính trị hoặc trình độ phát
triển mà chỉ xuất phát từ quyền lợi cụ thể của mỗi nước đối với từng nhóm
hàng hóa nhất định.
Ngoài khung pháp lý cơ bản đã nêu trên, còn có các tổ chức quốc tế của
riêng nhiều nước xuất khẩu một số loại sản phẩm như: Tổ chức OPEC, Hiệp

hội các nước xuất khẩu sắt, Hiệp hội các nước xuất khẩu chuối EU cũng có
những biện pháp của mình nhằm bảo đảm thu nhập xuất khẩu cho các nước
đang phát triển, như việc thành lập hệ thống STABEX (nhằm bảo đảm sự ổn
định thu nhập từ xuất khẩu của các nước đang phát triển) và SYSMIN (nhằm
ổn định thu nhập của các nước đang phát triển xuất khẩu khoáng sản) được ký
kết giữa EEC (trước kia) với các nước châu Phi, Caribê và Thái Bình Dương
(gọi tắt là các nước ACP) trong khuôn khổ các công ước I, II, III và IV.
2. Hợp tác song phương
Xu hướng này được hình thành từ giữa những năm 1970 trong quan hệ
giữa các nước công nghiệp phát triển nhàm điều tiết xuất nhập khẩu đối với
những mặt hàng được coi là "nhạy cảm" như: ôtô, điện tử, giầy dép, dệt (đối
với hàng dệt có sự tham gia của các nước đang phát triển).
15
Hình thức giải quyết chính là thông qua GATT, các nước xây dựng một
hiệp định khung và trên cơ sở đó ký kết hiệp định song phương quy định một
khối lượng cho phép đối với xuất nhập khẩu từng mặt hàng nhất định trong
thời hạn từng năm một.
Đến nay mới chỉ có Hiệp định khung về hàng dệt (MFA), còn đối với các
mặt hàng khác, do mâu thuẫn về quyền lợi giữa các nước quá gay gắt, nên tại
vòng Urugoay vừa qua cũng vẫn chưa thể tìm ra biện pháp giải quyết. Trong
tình hình đó, các nước phải tiến hành đàm phán song phương để tìm cách điều
chỉnh vấn đề này. Đây là một trong những biểu hiện của xu hướng bảo hộ
mậu dịch có phần gia tăng trong những năm gần đây trong quan hệ thương
mại quốc tế.
16
CHƯƠNG II
ĐIỀU CHỈNH PHÁP LUẬT QUỐC TẾ HOẠT ĐỘNG ĐẦU
TƯ NƯỚC NGOÀI
I. KHÁI QUÁT CHUNG
1. Khái niệm về đầu tư nước ngoài

Đầu tư nước ngoài là hình thức lưu chuyển tư bản từ nước này sang nước
khác nhằm mục đích kiếm lời. Tư bản lưu chuyển gọi là vốn đầu tư. Vốn đầu
tư có thể là: ngoại tệ mạnh và nội tệ; tư liệu sản xuất, nhà xưởng, hàng hóa,
đất đai, mặt nước, mặt biển, tài nguyên; tài sản vô hình như sức lao động,
công nghệ, phát minh, sáng chế, nhãn hiệu thương mại và các tài sản đặc biệt
khác như cổ phiếu, trái phiếu, vàng bạc, đá quý … Vốn dầu tư có thể thuộc sở
hữu của nhà nước, cơ quan nhà nước, tổ chức quốc tế (ví dụ như IMF, WB,
ADB…) hoặc của tư nhân.
Có hai loại hình đầu tư là đầu tư công cộng (hay viện trợ tài chính công
cộng) và đầu tư tư nhân nước ngoài.
i) Đầu tư công cộng là những khoản cho vay, tín dụng, trợ cấp hay viện
trợ không hoàn lại của các quốc gia hoặc tổ chức quốc tế liên chính phủ cấp
cho một nước (thường là nước đang phát triển) nhằm chủ yếu thúc đẩy sự
phát triển kinh tế và cải thiện mức sống ở nước đó, với những điều kiện tài
chính dễ dàng, không áp dụng trong quan hệ thương mại thông thường.
ii) Đầu tư tư nhân nước ngoài là đầu tư của một cá nhân hay pháp nhân
trên lãnh thổ một quốc gia khác nhằm mục đích kiếm lợi riêng. Hình thức đầu
tư này làm phát sinh nhiều mối quan hệ pháp lý (giữa tư nhân xuất vốn với
quốc gia nhập vốn hay với tư nhân nhập vốn thuộc quốc gia đó; giữa quốc gia
có người xuất vốn với quốc gia nhập vốn). Các quan hệ pháp lý này vừa có
nội dung pháp lý quốc tế, vừa có nội dụng pháp lý dân sự.
Đầu tư tư nhân nước ngoài bao gồm các hình thức chính sau: đầu tư trực
17
tiếp (chủ đầu tư nước ngoài đầu tư số vốn cần thiết vào lĩnh vực sản xuất hoặc
dịch vụ, và được phép trực tiếp tham gia điều hành đối tượng mà họ bỏ vốn
đầu tư); đầu tư gián tiếp (chủ đầu tư nước ngoài chỉ được góp số vốn tối đa
nào đó dưới hình thức mua cổ phiếu và không tham gia trực tiếp điều hành
đối tượng mà họ bỏ vốn đầu tư); và tín dụng quốc tế (đầu tư dưới hình thức
cho vay kiếm lời thông qua lãi suất tiền vay).
2. Nguyên nhân hình thành đầu tư nước ngoài

Có bốn nguyên nhân chính:
i) Trình độ phát triển không đều về lực lượng sản xuất làm cho chi phí
sản xuất giữa các nước không giống nhau. Ngoài ra, điều kiện sản xuất (sức
lao động, tài nguyên, vốn, khoa học kỹ thuật, vị trí địa lý…) giữa các nước
cũng khác nhau.
ii) Các nước công nghiệp phát triển do tỷ suất lợi nhuận trong nước thấp
nên có xu hướng đầu tư ra nước ngoài nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn;
iii) Nhiều nước đang phát triển rất cần vốn đầu tư để thực hiện công
nghiệp hóa, chuyển đổi nền kinh tế;
iv) Xu hướng bảo hộ mậu dịch ngày càng tăng, nên đầu tư ra nước ngoài
là biện pháp hữu hiệu để xâm nhập và chiếm lĩnh thị trường, tránh hàng rào
bảo hộ mậu dịch, giảm chi phí vận chuyển hàng xuất khẩu.
3. Vai trò của đầu tư nước ngoài
Vai trò của đầu tư nước ngoài đối với các nước xuất vốn đầu tư là: nâng
cao hiệu quả vốn đầu tư; xây dựng thị trường cung cấp nguyên liệu ổn định,
giá hạ; và bành trướng sức mạnh kinh tế, nâng cao uy tín chính trị trên trường
quốc tế.
Vai trò của đầu tư nước ngoài đối với các nước nhận vốn đầu tư, đặc biệt
các nước đang phát triển là: giúp giải quyết những khó khăn về kinh tế và xã
hội trong nước như nạn thất nghiệp, lạm phát; tăng thu ngân sách dưới hình
thức các loại thuế; tạo môi trường cạnh tranh để thúc đẩy phát triển kinh tế,
18
thương mại, giúp các nhà doanh nghiệp địa phương học hỏi kinh nghiệm quản
lý tiên tiến, ứng dụng kỹ thuật mới; và giảm một phần nợ nước ngoài.
II. ĐẦU TƯ CÔNG CỘNG
1. Tính chất
Đầu tư công cộng trước hết mang tính chất hỗ trợ. Một mặt, nó thể hiện
sự đoàn kết và trách nhiệm đóng góp vào sự phát triển của mọi quốc gia và
dân tộc trong một thế giới phụ thuộc lẫn nhau, đặc biệt trong lĩnh vực quan hệ
kinh tế. Mặt khác, đầu tư công cộng cũng mang lại lợi ích cho những nước

cấp viện trợ. Tuy nhiên, đầu tư công cộng chỉ mang tính chất bổ sung, vì về
nguyên tắc, trách nhiệm chính đối với sự phát triển của mỗi quốc gia hay dân
tộc là do quốc gia hay dân tộc đó tự gánh vác.
2. Các nguyên tắc chung
Đầu tư công cộng phải tuân thủ một số nguyên tắc quan trọng trong quan
hệ kinh tế quốc tế và các điều kiện cụ thể ghi trong thỏa thuận giữa nước (hay
tổ chức) viện trợ hay cho vay với nước nhận viện trợ hay đi vay.
a. Nguyên tắc thỏa thuận giữa nước cấp và nước nhận đầu tư
Nguyên tắc này phát sinh từ thực tế đầu tư công cộng là quan hệ giữa các
quốc gia có chủ quyền, do vậy nguyên tắc bình đẳng chủ quyền của Công
pháp quốc tế đòi hỏi phải bảo đảm một sự thỏa thuận tự nguyện của các bên
hữu quan. Tuy vậy, việc áp dụng nguyên tắc này trên thực tế khá phức tạp và
có những giới hạn nhất định.
Đối với các nước nhận đầu tư, việc tôn trọng chủ quyền quốc gia đòi hỏi
viện trợ hoặc các khoản đầu tư không sinh lời phải được trao cho chính phủ
hay các tổ chức do chính phủ chỉ định; trong trường hợp không như vậy thì
nhất thiết phải có sự thỏa thuận của chính phủ nước nhận viện trợ đối với mỗi
khoản viện trợ nhất định. Thỏa thuận này được thể hiện trong một văn kiện
quốc tế (dưới dạng điều ước quốc tế). Trên thực tế, nhiều khi đứng trước
những nhu cầu bức bách đòi hỏi phải giải quyết khẩn cấp, sự tự nguyện và tự
19
do của nước nhận viện trợ khó được bảo đảm tuyệt đối.
Đối với các nước cấp viện trợ, tự do hành động của họ thể hiện trong
việc ấn định các đối tượng được ưu tiên nhận viện trợ, các dự án được ưu tiên
tài trợ, nhất là trong bối cảnh nhu cầu viện trợ lớn hơn khả năng cung cấp
viện trợ. Trong khuôn khổ Liên hợp quốc, các nước phát triển có nghĩa vụ
viện trợ phát triển, nhưng đây là nghĩa vụ mang tính tinh thần và chính trị.
Việc tạo cơ sở pháp lý ràng buộc nghĩa vụ đó gặp nhiều khó khăn. Nhiều giải
pháp đã được đề xuất, chẳng hạn đề nghị lập một quỹ thuế toàn cầu vì sự đoàn
kết, điều này đòi hỏi các quốc gia đóng thuế theo tỷ lệ thuận với chi phí vũ

trang của họ; hoặc đề nghị Cơ quan quyền lực quốc tế đáy đại dương (theo
Công ước Luật biển của Liên hợp quốc năm 1982) trích một phần trong các
khoản thu tài chính của mình (như thuế, lệ phí, lợi tức, v.v…) để phân phối lại
cho các nước đang phát triển. Cho đến nay, chưa đề nghị nào mang tính khả
thi.
b. Nguyên tắc tôn trọng chủ quyền của các quốc gia nhận đầu tư
Nội dung của nguyên tắc này thể hiện sự không phân biệt đối xử trong
phân phối viện trợ; không được sử dụng viện trợ để can thiệp vào công việc
nội bộ của quốc gia nhận viện trợ và bảo đảm tính chất không ràng buộc của
viện trợ.
Tuy nhiên, các tổ chức quốc tế cũng như các quốc gia công nghiệp phát
triển cung cấp viện trợ đã nhiều lần bị phê phán là, xuất phát và căn cứ vào
những tính toán chính trị, đã gây áp lực đòi các nước nhận viện trợ thay đổi
chính sách kinh tế, tài chính hoặc một số cơ cấu kinh tế - xã hội. Cuộc đấu
tranh để thực hiện nội dung "viện trợ không mang tính chất ràng buộc" tỏ ra
cực kỳ khó khăn vì các nước viện trợ luôn viện dẫn nguyên tắc toàn quyền
quyết định.
3. Các hình thức đầu tư công cộng
a. Trong quan hệ đa phương
20
Trên phạm vi toàn cầu, Liên hợp quốc thực hiện viện trợ tài chính công
cộng đa phương thông qua Nhóm Ngân hàng Thế giới, bao gồm IBRD, IDA
và IFC.
* Ngân hàng quốc tế tái thiết và phát triển (IBRD): cơ quan tài trợ có
thẩm quyền chung.
* Hiệp hội quốc tế phát triển (IDA): cung cấp các khoản tín dụng cho
nhu cầu phát triển của các nước nghèo nhất.
* Công ty tài chính quốc tế (IFC): khuyến khích sự phát triển của khu
vực tư nhân trong nền kinh tế các nước đang phát triển.
Ngoài ra, cũng trong khuôn khổ Liên hợp quốc, các nước đang phát triển

còn thành công trong việc lập ra một số quỹ viện trợ hoạt động với tư cách là
những cơ quan phụ trợ hay tổ chức chuyên môn của Liên hợp quốc, như:
* Quỹ quốc tế cho phát triển nông nghiệp (IFAD): Cung cấp những
khoản viện trợ không hoàn lại và cho các nước đang phát triển vay theo nhiều
hình thức, ưu tiên các nước nghèo nhất, bị thiếu lương thực.
* Quỹ chung điều hòa giá các nguyên liệu: một mặt tài trợ điều hòa giá
các sản phẩm cơ bản trong khuôn khổ các hiệp định, mặt khác giúp cho việc
thương mại hóa các sản phẩm này.
Ngoài ra, còn một số quỹ đặc biệt của Liên hợp quốc do Chương trình
phát triển của Liên hợp quốc (UNDP) quản lý, như: Quỹ trang thiết bị của
Liên hợp quốc, Quỹ cho các hoạt động dân số, Quỹ đặc biệt cho các nước
không có biển, v.v…
b. Trong phạm vi khu vực
Viện trợ tài chính công cộng trong phạm vi khu vực được thực hiện qua
nhiều kênh khác nhau, hoặc thông qua các tổ chức liên chính phủ khu vực của
các nước phát triển (như EU), hay các nước đang phát triển (như OPEC, Tổ
chức các nước Arập). Một hình thức phổ biến khác là thông qua các ngân
hàng phát triển khu vực (như Ngân hàng phát triển liên Mỹ, Ngân hàng phát
21
triển châu Á, Ngân hàng phát triển châu Phi). Mục tiêu của các nước thành
viên là giúp cho sự phát triển trong khu vực thông qua một cơ chế tín dụng
chung. Các ngân hàng này có thể mở cho các nước giàu ngoài khu vực tham
gia với điều kiện các nước đó không được chiếm đa số phiếu.
c. Trong quan hệ song phương
Đầu tư công cộng song phương thường được thực hiện thông qua các
hiệp định song phương. Có nhiều dạng hiệp định (như hiệp định khung về
hợp tác tài chính, hiệp định viện trợ chính thức, hiệp định tài trợ cho một dự
án cụ thể).
III. ĐẦU TƯ TƯ NHÂN NƯỚC NGOÀI
1. Các nguồn luật liên quan

Từ khi xuất hiện đầu tư nước ngoài, các quy phạm truyền thống của
Công pháp quốc tế về trách nhiệm quốc gia đối với những thiệt hại gây ra cho
ngoại kiều đã được áp dụng để điều chỉnh quan hệ đầu tư nước ngoài. Khi các
công ty xuyên quốc gia trở thành những nhà đầu tư chính trên toàn thế giới,
thì cuộc tranh luận về quy chế pháp lý quốc tế của đầu tư nước ngoài trở nên
phức tạp hơn nhiều. Người ta không thống nhất được quan điểm về việc liệu
có áp dụng một cách không phân biệt đối xử các quy phạm về trách nhiệm
quốc gia nói trên đối với các công ty đó hay không.
Cho đến nay, chưa có một điều ước quốc tế đa phương có tính toàn cầu
nào điều chỉnh toàn bộ các lĩnh vực đầu tư nước ngoài. Hiến chương về các
quyền và nghĩa vụ kinh tế của các quốc gia có đề cập một số nguyên tắc về
việc các quốc gia đối xử với đầu tư nước ngoài (quyền của các quốc gia
không bị buộc phải ưu đãi đầu tư nước ngoài, quyền quốc hữu hóa). Tuy
nhiên, Hiến chương không được nhiều nước tư bản phát triển ủng hộ và chỉ có
giá trị khuyến nghị.
Cộng đồng quốc tế luôn luôn quan tâm đến việc xây dựng những khuôn
khổ pháp lý được thừa nhận rộng rãi liên quan đến vấn đề này. Từ năm 1977,
22
Trung tâm về các công ty xuyên quốc gia của Liên hợp quốc được trao nhiệm
vụ soạn thảo một bộ luật xử sự nhằm pháp điển hóa các quy tắc điều chỉnh
hoạt động đầu tư của các công ty xuyên quốc gia.
Dựa trên thực tiễn quốc gia về đối xử với đầu tư nước ngoài và xu hướng
hiện nay về việc tạo thuận lợi cho việc di chuyển các luồng vốn đầu tư quốc
tế, Ngân hàng Thế giới đã soạn thảo một văn kiện gọi là Những chỉ dẫn về
đối xử với đầu tư trực tiếp nước ngoài. Văn kiện này gồm những nguyên tắc
rất cụ thể, có tính chất áp dụng thực tiễn nhiều hơn là ấn định các quy phạm
chung, nhằm hướng dẫn cách xử sự của chính phủ nước nhận đầu tư đối với
đầu tư nước ngoài.
Mặc dù các văn kiện quốc tế nói trên không có giá trị ràng buộc đối với
các quốc gia, nhưng lại có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của luật quốc tế

trong lĩnh vực này, và là cơ sở để các quốc gia tham khảo trong khi xây dựng
luật quốc gia điều chỉnh đầu tư nước ngoài trên lãnh thổ của mình.
Trong khuôn khổ Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), các nước thành
viên đã thông qua Hiệp định về các biện pháp đầu tư liên quan đến thương
mại, gọi tắt theo tiếng Anh là TRIM. Hiệp định này có hiệu lực đối với các
nước thành viên của WTO và chỉ áp dụng đối với các biện pháp liên quan đến
đầu tư không phù hợp với điều III hoặc XI của GATT năm 1994 (tức là liên
quan tới nghĩa vụ đãi ngộ quốc dân và xóa bỏ các hạn chế số lượng) trong
phạm vi liên quan đến thương mại.
Ngoài ra còn có công ước thiết lập Cơ quan bảo hiểm đầu tư đa biên
(MIGA) năm 1985, có hiệu lực từ năm 1988. Cơ quan này là một chi nhánh
của Ngân hàng Thế giới, có mục đích khuyến khích đầu tư cho các mục tiêu
phát triển sản xuất trong các nước thành viên, đặc biệt là các nước đang phát
triển, thông qua việc cung bảo hiểm đầu tư đối với các rủi ro phi thương mại
(như hạn chế lưu hành tiền tệ, trưng thu tài sản, vi phạm các hợp đồng quốc
gia, các thiệt hại do chiến tranh, hay biến động trong nước…) hoặc truyền bá
23
thông tin về các cơ hội đầu tư. Hiện đã có 135 nước tham gia công ước này,
trong đó có Việt Nam.
Dưới sự bảo trợ của Ngân hàng Thế giới, công ước về giải quyết tranh
chấp đầu tư giữa các quốc gia tiếp nhận đầu tư và nhà đầu tư nước ngoài đã
được soạn thảo và ký kết. Công ước này thành lập một Trung tâm giải quyết
các tranh chấp đầu tư quốc tế (ICSID).
Ngoài ra, để giúp tăng cường hiệu lực của việc giải quyết các tranh chấp
đầu tư quốc tế bằng trọng tài thương mại, Liên hợp quốc đã bảo trợ việc soạn
thảo và thông qua công ước về công nhận và thi hành các phán quyết của
trọng tài nước ngoài năm 1958 (Công ước New York năm 1958). Công ước
này có ý nghĩa đáng kể trong việc bảo đảm hiệu lực của các phán quyết của
trọng tài liên quan đến đầu tư nước ngoài. Việt Nam cũng đã gia nhập công
ước này.

Có một số điều ước quốc tế khu vực được ký giữa các quốc gia có hệ tư
tưởng, quan điểm chính trị giống nhau hoặc có sự gắn bó đoàn kết đặc biệt về
kinh tế liên quan đến đầu tư nước ngoài, như:
• Các nước Tây Âu có Hiệp ước Rôma ngày 25-3-1957 lập ra cộng
đồng kinh tế châu Âu với phương châm thực hiện tự do lưu chuyển tư bản
giữa các nước thành viên với nhau và với các nước thứ ba.
• Một số nước Mỹ Latinh (Bôlivia, Chilê, Côlômbia, Êquado, Pêru,
Sanvađo) có Hiệp định Cactahena ngày 26-5-1969 lập ra Thị trường chung
Andin, thực hiện một chế độ chung mang tính chất ngăn ngừa và đối phó
trong đối xử với vốn đầu tư nước ngoài.
• Các nước Arập có Công ước ngày 27-5-1971 lập ra Công ty Liên
Arập để bảo đảm đầu tư ký tại Côoét nhằm bảo đảm và khuyến khích đầu tư
giữa các nước thành viên với nhau.
• Các nền kinh tế thành viên của diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á - Thái
24
Bình Dương (APEC) cũng thỏa thuận được Một số nguyên tắc liên quan đến
đầu tư những nguyên tắc này tuy không mang tính chất ràng buộc, nhưng thể
hiện mục tiêu tự do hóa đầu tư và thương mại của các nước này và theo sát
các nguyên tắc của WTO.
Rất nhiều hiệp định song phương về khuyến khích và bảo hộ đầu tư đã
được ký kết. Tất cả các nước xuất khẩu vốn lớn trên thế giới và hơn 80 nước
đang phát triển đã tham gia vào các hiệp định song phương thuộc loại này.
Riêng Việt Nam cũng đã tham gia ký kết hơn 30 hiệp định như vậy. Các hiệp
định song phương liên quan đến đầu tư thường quy định các quyền và nghĩa
vụ trên cơ sở có đi có lại. Trong các hiệp định này thường có các quy định về:
các biện pháp chung về đối xử đối với đầu tư nước ngoài; bảo vệ quyền lợi
của nhà đầu tư trong trường hợp bị trưng thu tài sản; bồi thường thiệt hại do
xung đột vũ trang hoặc biến động trong nước; chuyển lợi nhuận, vốn ra nước
ngoài; giải quyết tranh chấp.
Nhiều ý kiến cho rằng việc các quốc gia tăng cường thương lượng và ký

kết các hiệp định về khuyến khích và bảo hộ đầu tư thể hiện một khía cạnh
trong quá trình đang diễn ra hiện nay là nhằm xây dựng một hệ thống pháp lý
quốc tế về đầu tư nước ngoài, đáp ứng đòi hỏi của nền kinh tế toàn cầu hóa.
Trong khi cộng đồng quốc tế đã có một hệ thống pháp lý quốc tế về thương
mại quốc tế thì vẫn chưa có một hệ thống như vậy cho đầu tư quốc tế. Việc ký
kết một công ước đa phương về đầu tư quốc tế còn rất xa vời và chỉ có thể đạt
được bằng phương thức đi từng bước một. Tuy các hiệp định song phương về
khuyến khích và bảo hộ đầu tư chỉ ràng buộc hai nước thành viên hiệp định và
chưa đủ phổ cập để trở thành luật tập quán quốc tế, nhưng quá trình nghiên
cứu, tham khảo ý kiến, thảo luận và thương lượng các hiệp định này cũng góp
phần đặt nền tảng cho một khuôn khổ đầu tư quốc tế, mà người ta hy vọng
rằng cuối cùng sẽ thu hút được sự nhất trí của các quốc gia trên thế giới.
Liên quan đến đầu tư nước ngoài, có một nguồn luật pháp quan trọng là
25

×