Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Phân tích quá trình thay đổi trong quan niệm về các yếu tố nguồn lực trong tăng trưởng kinh tế và vai trò của các yếu tố nguồn lực trong tăng trưởng kinh tế Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (271.54 KB, 24 trang )

MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU
Tăng trưởng kinh tế và phát triển kinh tế là vấn đề được quan tâm hàng đầu
của các quốc gia hiện nay. Hai vấn đề này không đồng nhất với nhau nhưng có
mối quan hệ chặt chẽ, tăng trưởng kinh tế là 1 trong những nhân tố để đánh giá
phát triển kinh tế. Trong lịch sử kinh tế học, tăng trưởng kinh tế là vấn đề được
nghiên cứu nhiều nhất, theo dòng thời gian, từ trường phái cổ điển, tân cổ điển,
phái Keynes và lý thuyết hiện đại, các mô hình về tăng trưởng kinh tế đã có sự
thay đổi lớn lao, từ các quan điểm về sự vận động của nền kinh tế, vai trò của
Chính phủ cho đến việc xác định các yếu tố chủ yếu tác động đến tăng trưởng
kinh tế và việc lượng hoá các tác động của chúng. Với đề tài” Phân tích quá
trình thay đổi trong quan niệm về các yếu tố nguồn lực trong tăng trưởng
kinh tế và vai trò của các yếu tố nguồn lực trong tăng trưởng kinh tế Việt
Nam”, em xin đưa ra một số bình luận về tính kế thừa và sự tiến bộ trong quan
điểm về vai trò của các yếu tố nguồn lực tác động đến tăng trưởng kinh tế theo
các mô hình tăng trưởng kinh tế đại diện cho các trường phái kinh tế.
1
PHẦN 1: CÁC MÔ HÌNH TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
I.Mô hình tăng truưởng kinh tế D.Ricardo
1. Xuất phát điểm của mô hình
Trường phái cổ điển với mô hình tăng trưởng của David Ricardo
Trường phái cổ điển xuất hiện vào những năm đầu của thế kỉ XIX với hai đại
diện tiêu biểu là Adam Smith và David Ricardo.
Adam Smith (1723-1790) ông được coi là người sáng lập ra kinh tế học
với tác phẩm tiêu biểu la “của cải của đất nước”,theo ông chính lao động được
sử dụng trong những hoạt động có ích, có hiệu quả là nguồn gốc tạo ra giá trị
của xã hội. Số công nhân “hữu ích và hiệu quả” cũng như năng suất lao động
của họ phụ thuộc vào lượng tư bản tích lũy. Adam Smith coi sự gia tăng tư bản
là yếu tố quyết định đến tăng trưởng kinh tế. Ông đưa ra hai học thuyết cơ bản:
- Học thuyết về “Giá trị lao động” : ông cho rằng lao động là nguồn gốc
cơ bản tạo ra mọi của cải cho đất nước.


- Học thuyết “Bàn tay vô hình” : theo ông nếu không bị chính phủ kiểm
soát, người lao động sẽ bị lợi nhuận thúc đẩy để sản xuất hàng hóa và dich vụ
cần thiết và thông qua thị trường tự do này lợi ích cá nhân sẽ gắn với lợi ích xã
hội. Từ đó ông phủ nhận vai trò của Chính phủ trong việc điều tiết và thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế.
David Ricard (1772-1823) ông được coi là tác giả xuất sắc nhất của
trường phái cổ điển. Ông đã kế thừa các tư tưởng của Adam Smith và chịu ảnh
hưởng của tư tưởng dân số học của T.H Malthus để sáng lập ra học thuyết của
riêng mình “Mô hình tăng trưởng của Ricardo”.
2. Các yếu tố tác động đến tăng trưởng
Các yếu tố tác động trực tiếp đến tăng trưởng
Theo Ricardo có 3 yếu tố tác động tới tăng trưởng là: lao động(L), vốn(K),
và đất đai (R).
Như vây có hàm sản xuất như sau : Y = f (L, K, R )
Lao động (L) là nguồn gốc tạo ra của cải. L được xác định bằng số lượng lao
động sẵn sàng làm việc đủ thời gian với bất cứ mức lương bao nhiêu. Trong
ngắn hạn, lao động đươc coi là cố định. Tuy nhiên trong dài hạn lao động lại trở
nên co giãn. Điều đó cho thấy khi lao động đã trở nên bão hòa so với một mức
2
quy mô ruộng đất hạn chế thì người lao động sẽ được hưởng mức tiền lương như
nhau và gọi là tiền lương tối thiểu. Ricardo đã bỏ qua yếu tố kỹ thuật, công nghệ
vào hàm sản xuất vì cho rằng nó tác động yếu ớt và không liên tục, không đủ
sức chống lại quy luật lợi tức giảm dần của ruộng đất.
Nội dung của mô hình: Theo Ricardo trong 3 yếu tố nêu trên thì đất đai
(R) là yếu tố quan trọng nhất. Đất đai chính là giới hạn của tăng trưởng. Vì khi
sản xuất nông nghiệp gia tăng trên những đất đai kém màu mỡ hơn thì giá lương
thực, thực phẩm sẽ tăng lên. Do đó tiền lương danh nghĩa tăng lên, lợi nhuận của
nhà tư bản giảm. Cho tới khi đất đai đạt điểm dừng tại Ro và Y sẽ đạt sản lượng
tối đa, tại đó sẽ là giới hạn của tăng trưởng. Khi đó nền kinh tế chia làm hai khu
vực, khu vực 1: nông nghiệp trì trệ tuyệt đối, khu vực 2 là khu vực công nghiệp.

Như vậy, khi chưa đến điểm dừng Ro thì R là yếu tố quyết định tăng trưởng, khi
đạt điểm dừng Ro thì tích lũy cho khu vực công nghiệp mới là yếu tố quyết định
tăng trưởng.
Ý tưởng về một mô hình hai khu vực kinh tế cổ điển: để có sự tăng
trưởng liên tục kể cả khi nông nghiệp đã khai thác đến R
0,
là sự hình thành 2 khu
vực kinh tế.
Khu vực truyền thống (NN) Khu vực hiện đại (CN)
- Khu vực trì trệ tuyệt đối
(MP
L
=0)
- Có dư thừa lao động
- Không đầu tư
- Có lợi thế nhờ quy mô
- Giải quyết lao dộng dư thừa cho
NN
- Tăng cường quy mô đầu tư
Như vậy lý luận của Ricardo là : tăng trưởng là hàm của tích lũy, tích lũy là
hàm của lợi nhuận,lợi nhuận lại phụ thuộc vào chi phí sản xuất lương thực, chi
phí sản xuất lương thực phụ thuộc vào đất đai. Do đó đất đai là giới hạn đối với
sự tăng trưởng.
3. Phê phán quan điểm của Ricardo
3
Sự phủ nhận vai trò của yếu tố công nghệ, đã đưa đến những quyết định
không chính xác, gọi là” cạm bẫy Ricardo”: Số và chất lượng ruộng đất có điểm
dừng, nnong nghiệp luôn có dư thừa lao động và trì trệ tuyệt đối; không đầu tư
cho nông nghiệp khi ở đây nằm trong tình trạng lợi ích biên bằng 0, tăng trưởng
kinh tế chỉ đạt được nhờ kết quả tích lũy và đàu tư cho công nghiệp; khi đầu tư

cho công nghiệp chỉ cần đầu tư theo chiều rộng, khu vực công nghiệp thu hút lao
động nông nghiệp tỷ lệ thuận với quy mô tích luỹ, không phải trả thêm tiền
công. Trên thực tế những phát minh trong nông nghiệp đã làm cho năng suất lao
động nông nghiệp tăng còn lớn hơn trong công nghiệp; khu vực nông nghiệp
không phải luôn dư thừa lao động; lao động từ nông nghiệp chuyển sang luôn có
xu thế đòi tăng lương; khu vực công nghiệp có thể đầu tư theo chiều sâu.
II. Mô hình tăng trưởng Harrod- Domar
1. Xuất phát điểm của mô hình
Mô hình tăng trưởng Harrod- Domar là tổng hợp kết quả của hai quá trình
ngiên cứu độc lập mang tính nối tiếp của nhà kinh tế học người Anh, Roy
Harrod với ‘Tổng quan về lý thuyết động’và nhà kinh tế học người Ba Lan,
Evsey Domar với ‘Mở rộng tư bản, tỷ lệ tăng trưởng và công ăn việc
làm’(1946).
Nội dung của mô hình được xây dựng trên cơ sở nhũng xuất phát điểm cơ
bản của cuộc cách mạng của Keynes trong tác phẩm nổi tiếng’ Lý thuyết tổng
quan về việc làm, lãi xuất và tiền tệ’. Theo đó tiết kiệm(S) là nguồn gốc của đầu
tư(I),đầu tư hôm nay chính là cơ sở tạo vốn sản xuất gia tăng của ngày mai và
mức vốn sản xuất gia tăng đóng vai trò trực tiếp làm gia tăng quy mô thu nhập
của nền kinh tế. Ngoài ra, nghiên cứu của Harrod- Domar còn dựa trên những
điểm xuất phát khác, đó là: Tổng tiết kiệm bằng tổng đầu tư(S=I), các yếu tố đầu
vào biến đổi là vốn(K) và lao động(L), tỷ lệ kết hợp vốn là cố định; dân số hay
lực lượng lao động và tiến bộ công nghệ tiết kiệm lao động gia tăng với một tốc
độ cố định.
2. Vai trò của các yếu tố nguồn lực trong tăng trưởng và phát triển
kinh tế
Các yếu tố tác động trực tiếp đến tăng trưởng kinh tế
4
Trong mô hình nghiên cứu, Harrod- Domar đã cố định yếu tố công nghệ kỹ
thuật trong phân tích tác động của các nhân tố đến tăng trưởng. Điều đó đồng
nhất với việc chỉ có 3 yếu tố là vốn(K), lao động(L), và tài nguyên(K) cấu thành

trong hàm sản xuất của Harrod- Domar:
Y=F(K,L,R)
Trong đó L và R được xem là các yếu tố nguồn lực được huy động vào
hoạt động trên cơ sở khả năng tạo ra sự gia tăng(K) của nền kinh tế.
- Vai trò của yếu tố vốn trong mô hình Harrod- Domar
Mối quan hệ giữa ΔK và ΔY - Hệ số gia tăng vốn - sản lượng (ICOR-
Incremetal capital output ratio):
k
t
(ICOR) = ΔK
t
/ΔY
t
= I
t-1
/ ΔY
t
Hệ số ICOR là mức vốn đầu tư cần thiết của giai đoạn trước đểcó thêm một
đơn vị thu nhập (GDP) của giai đoạn sau. Hệ số này nói lên vốn được tạo nên
bằng đầu tư là yếu tố cơ bản tạo nên mức tăng trưởng , hệ số ICOR phản ánh
trình độ kỹ thuật của sản xuất, năng lực của vốn đầu tư à hiệu quả sử dụng vốn
đầu tư. Hệ số ICOR chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố: Tính chất công nghệ kỹ
thuật của vốn sản xuất, nếu trình độ kỹ thuật của sản xuất thô sơ, sử dụng công
nghệ thủ công, sử dụng nhiều lao động thì hệ số ICOR nhỏ và ngược lại; mức độ
khan hiếm nguồn lực, nếu nguồn lực càng khan hiếm, thì chi phí cho đầu tư cao
hơn, làm cho hệ số ICOR càng cao; hiệu quả quản lý và sử dụng vốn.
Mối quan hệ giữa tốc độ tăng trưởng với tỷ lệ tiết kiệm:
Nếu gọi thu nhập của nền kinh tế(GDP) là Y, tốc độ tăng trưởng thu nhập
là g, thì:
g

t
= ΔY
t
/ Y
t-1

Sử dụng công thức hệ số ICOR thay và công thức trên ta có:
g
t
= ΔK
t
/ (k x Y
t-1
)
Theo gải định trong nghiên cứu Harrod- Domar thì ΔK
t
= I
t-1
= S
t-1
nên ta
có: g
t
= I
t-1
/ (k
t
x Y
t-1)
= S

t-1
/ (k
t
x Y
t-1
)
s là tỷ lệ tích luỹ trong GDP và mức tích luỹ là S:
s = S/Y
Do đó chúng ta có:
g
t
= s
t-1
/k
t

Như vậy, bằng việc mô tả dưới dạng công thức, phương trình Harrod-
Domar đã xây dựng mối liên kết chắc chắn giữa tốc độ tăng trưởng của nền kinh
5
tế với hai biến cơ bản: khả năng tiết kiệm của nền kinh tế và hệ số gia tăng vốn-
sản lượng. Bằng cách đẩy mạnh tỉ lệ tiết kiệm thì sẽ có thể đẩy nhanh tỷ lệ tăng
trưởng, hạ thấp hệ số vốn- sản lượng thì tăng trưởng cũng được thúc đẩy nhanh.
Kết luận của Harrod – Domar: Trên cơ sở phân tích mối quan hệ giữa
tốc đọ tăng trưởng với tiết kiệm và hệ số gia tăng vốn- snar lương, Harrod-
Domar đã đưa ra khái niệm về tốc độ tằn trưởng có ý nghĩa với nền kinh tế. Tốc
độ tăng trưởng luôn phụ thuộc vào tiết kiệm và hệ số ICOR, tồn tại 3 trạng thái
tốc độ tăng trưởng khác nhau:
-Tốc độ tăng trưởng bảo đảm : gw = s/k (dự kiến)
- Tốc dộ tăng trưởng thực tế: gr = s/k (thực tế)
- Tốc độ tăng trưởng tự nhiện (gf)

Harrod- Doảm gọi thời kỳ vàng của nền kinh tế là thời kỳ có gw = gr =
gf. Tức là có sự cân bằng giữa tốc độ tăng trưởng thực tế và tốc độ tăng trưởng
bảo đảm, sự cân bằng giữa tốc độ tăng trưởng bảo đảm với tốc độ tăng trưởng tự
nhiên.
3. Vận dụng mô hình trong hoạch định chính sách
3.1.Trong lập kế hoạch tăng trưởng kinh tế
- Lập kế hoạch tăng trưởng bảo đảm (g
k
)
Từ công thức: g
k
=s
0
/k
k
Các công việc phải làm:
(1) Dự báo ICOR (k dự kiến)
(2) Thống kê, tổng hợp tiết kiệm, đầu tư kỳ gốc và điều chỉnh theo các hệ
số có liên quan đến tiết kiệm và đầu tư thực tế (s
0
)
(3) Tính toán chỉ tiêu kế hoạch tăng trưởng bảo đảm theo phương trình
trên
Các hệ số điều chỉnh cần lưu ý:
Hệ số huy động tiết kiệm vào đầu tư (μ
s
): phần vốn đầu tư so với tổng tích
kuỹ của nền kinh tế
μ
s

= I/S
Hệ số trễ của vốn đầu tư (μ
i
): phần vốn đầu tư chưa trở thành vốn sản xuất
gia tăng
6
μ
i
= ΔK/I
Trên thực tế: s trong công thức trên được điều chỉnh thành:
s
0
(điều chỉnh) = s
0
x μ
s
x(1-

μ
i
)
Tốc độ tăng trưởng kế hoạch được xác định:
g
k
= [s
0
x μ
s
x(1-


μ
i
) ]/ k
k

3.2 Vận dụng trong xác định nhu cầu tiết kiệm
Khi đã có mục tiêu g
k
nội dung thực hiện:
Xác định nhu cầu vốn đầu tư cần có
s
0
= k
k
. g
k

s
0
(điều chỉnh) = s
0
/ μ
s
x (1- μ
i
): s
0
(nhu cầu)
Điều tra và tổng hợp khả năng tích luỹ và đầu tư kỳ gốc
Cân đối và đề xuất giải pháp: (i) Nếu s

0
(n/ c) > s
0
(k/n): Đây là trường hợp
khá phổ biến đối với các nước phát triển do nhu cầu vốn cao hơn khả năng tích
lũy. Các nhà hoạch định đề xuất các giải pháp huy động thêm nguồn vốn tiết
kiệm.(ii) Nếu s
0
(n/ c) < s
0
(k/n): Đây là trường hợp dư thừa vốn đầu tư so với
nhu cầu. Các nhà hoạch định có thể đề xuất các giải pháp khác nhau như: nâng
mục đích tăng trưởng lên so với ban đầu, tham gia vốn đầu tư nước ngoài…
3.3 Sử dụng chính sách điều tiết vĩ mô thực hiện kế hoạch tăng trưởng
Kế hoạch tăng trưởng kinh tế được xác lập trên cơ sở tiết kiệm dự kiến và
hệ số ICOR dự kiến như trình bày ở trên, Harros- Domar gọi đó là tăng trưởng
bảo đảm. Tuy vậy, trên thực tế, kế hoạch trên có thể không thực hiện được do
bản thân các yếu tố cấu thành tổng cầu luôn có xu hướng biến đổi. Cụ thể có thể
xảy ra 2 trường hợp: (i) Nếu tổng cầu tăng lên, tác nhà snar xuất sẽ tăng cường
hoạt động của máy móc, thiệt bị ầu tăng mức dự kiến, như vậy hệ số ICOR sẽ
giảm xuống so với ICOR dự kiến. Mặt khác, do cầu tăng lên nên trong thời kỳ
tiếp theo các nhà sản xuất lại tăng đầu tư của mình dẫn đến hệ số ICOR lại tiếp
tục hạ xuống. Cứ như thế nếu nền kinh tế chệch khỏi trạng thái tăng trưởng ổn
định thì nó ngày càng xa rời trạng thái đó và nền kinh tế sẽ rơi vào con đương
tăng trưởng bùng nổ.(ii) hợp ngược lại khi tổng cầu giảm, đầu tư sẽ giảm đi và
cuối cùng trở thành giá trị âm do đầu tư không đỉ bù đắp phần hao mòn vốn cố
định đã được trang bị, nền kinh tế sẽ đi vào thời kỳ suy thoái ngày càng trầm
7
trọng, thất nghiệp kéo dài các yếu tố nguồn lực bị lãng phí tăng trưởng thực tế
nhỏ hơn tăng trưởng bảo đảm.

- Nội dung điều chỉnh: Khi tổng cầu tăng lên, chính phủ sử dụng các chính
sách tài khóa và tiền tệ thắt chặt. Điều đó làm cho các “van bơm vào” vòng luân
chuyển của nền kinh tế như đầu tư, tiêu dùng, xuất khẩu sẽ bị vặn hẹp lại, và
đồng thời với nó là “van đẩy ra” cũng hoạt động tích cực hơn. Kết quả, nền kinh
tế có xu thế quay trở lại xu thế tăng trưởng ổn định theo dự kiến. Trong trường
hợp ngược lại nền kinh tế có biểu hiện rơi vào vòng suy thoái, chính phủ cần sử
dụng chính sách tài khóa và tiền tệ nới lỏng, nhất là hạ thấp mức lãi xuất tiền
vay và điều chỉnh giảm thuế thuế thu nhập doanh nghiệp, làm cho các đơn vị
kinh tế quan tâm đến việc đẩy nhanh quy mô sản xuất, mở rộng quy mô đầu tư
hơn, nền kinh tế sẽ có điều kiện khôi phục lại theo hưởng ổn định.
4. Những hạn chế của mô hình
- Sự đơn giản hoá khi coi tăng trưởng chỉ do đầu tư đem lại. Thực tế có
thể xảy ra những trường hợp:
+ Đầu tư thiếu hiệu quả không tạo nên tăng trưởng
+ Tăng trưởng không phải sử dụng giải pháp đầu tư
+ Đầu tư đến một mức độ nào đó sẽ bị quy luật lợi tức giảm dần chi phối
- Những khó khăn của các nước đang phát triển trước hạn chế về khả
năng tích luỹ:
+ Tạo ra mất cân đối giữa tích luỹ - tiêu dùng
+ Tạo ra sự phụ thuộc bởi các nguồn vốn vay
+ Chính phủ trở thành con nợ lớn và nguy cơ phá sản cận kề.
III. Mô hình tăng trưởng Solow
1. Xuất phát điểm của mô hình:
Năm 1956, nhà kinh tế học người Mỹ là Robert Solow (1924), với bài viết
“Một đóng góp cho lý thuyết tăng trưởng kinh tế” đã xây dựng nên mô hình tăng
trưởng tân cổ điển, còn được gọi là mô hình tăng trưởng Solow. Solow đồng
nhất với Harrod-Domar 2 điểm: (i) vốn sản xuất gia tăng được hình thành từ tiết
kiệm và đầu tư là nguồn gốc của tăng trưởng kinh tế; (ii) quy luật lợi tức biên
giảm dần theo quy mô vẫn tiếp tục chi phối hoạt động đầu tư mở rộng quy mô
tài sản hữu hình. Điểm khác biệt của trường phái tân cổ điển với Harrod-Domar

là khi quy mô tài sản hữu hình lớn đến một mức nào đó, thì đầu tư không dẫn
đến gia tăng mức sản lượng của nền kinh tế.
2. Vai trò của các yếu tố nguồn lực
8
2.1 Các yếu tố trực tiếp tác động đến tăng trưởng:
Theo Solow hoạt động sản xuất trong nền kinh tế là sự kết hợp các yếu tố
vốn(K), lao động(L) và kỹ thuật công nghệ(T). Hàm sản xuất của Solow: Y = F(
K,L,T):
Trong đó T tạo nên hiệu quả của lao động (E); hiệu quả lao động phản ánh
trình độ công nghệ của xã hội. E và L luôn đi đôi với nhau, LxE được gọi là số
lao động hiêu quả.
Hàm sản xuất của Solow cụ thể: Y(t) = F(K, ExL).
9
2.2 Vai trò của các yếu tố tác động đến tăng trưởng:
2.2.1 Tiết kiệm và đầu tư với tăng trưởng:
- Để xem xét vai trò của tiết kiện, Solow đã sử dụng dạng hàm tổng sản
xuất Cobb-Douglas giản đơn:
Y= K
α
L
1-α

Chia hai vế cho L để có được một dạng hàm sản xuất mới:
y = k
α
.
- Từ mô hình Harrod-Domar: S =I = sxY suy ra i = s.y
Δk= i – б.k
Ta có từ 3 phương trình trên: Δk = i –бk = sk
α

- бk
Trong đó Δk là sự thay đổi lượng vốn giữa năm này với năm khác.
- Sơ đồ thể hiện phương trình trên với mỗi mức k khác nhau:
Tại k
*
đầu tư bằng khấu hao,g = 0
Mô hình Solow chứng minh rằng: nếu nền kinh tế nằm ở trạng thái
ổn định thì nó sẽ đứng nguyên tại đó, và nếu nền kinh tế chưa nằm
tại trạng thái ổn định, thì nó sẽ có xu hướng tiến về đó
Do vậy, trạng thái ổn định chính là cân bằng dài hạn của nền kinh tế
10
Nếu tăng tỉ lệ tiết kiệm
Việc tăng tỷ lệ tiết kiệm sẽ đưa đến tăng trưởng nhanh hơn trong một thời
gian ngắn, trước khi nền kinh tế đạt tới trạng thái ổn định. Nếu một nền kinh tế
duy trì một tỷ lệ tiết kiệm cao nhất định, sẽ duy trì được mức sản lượng cao
nhưng không duy trì được tốc độ tăng trưởng cao.
2.2.2.Lao động với tăng trưởng
Giả sử lao động tăng lên với tốc độ (n);
- Sự thay đổi vốn bình quân lao động:
Δk = i – (б + n)k
- Sửa lại sơ đồ :
Tại k
*:
Δk
*
=0 thì y =k
α
không đổi nhưng Y=yxL tăng là (n).
Như vậy, trong dài hạn, nền kinh tế tăng trưởng với tốc độ tăng dân số còn
thu nhập bình quân đầu người không thay đổi

11
Trường hợp tốc độ tăng trưởng dân số tăng
Ta có sơ đồ
nếu n tăng lên từ n
1
đến n
2
thì k
*
1
xuống còn k
*
2
như vậy, theo Solow, các
nước có tốc độ tăng dân số cao sẽ có mức thu nhập bình quân đầu người thấp
2.2.3 Tiến bộ công nghệ với tăng trưởng
Hàm sản xuất có yếu tố công nghệ:
Y = K
α
(LxE)
1-α

E là biến mới gọi là hiệu qủa lao động
LxE số công nhân hiệu quả
Nếu E tăng với tốc độ g, L tăng với tốc độ n
→ LxE tăng với tốc độ là (g+n)
Chia cả 2 vế cho (LxE) ta vẫn có: y = k
α
Sự thay đổi của của mức vốn trên mỗi công nhân hiệu quả: Δk = i – (б + n
+ g)k

Theo dõi sơ đồ:
Tại k*

thoả mãn: Δk = 0
Điều này có nghĩa là: ở trạng thái ốn định mức vốn trên 1 đơn vị công nhân
hiệu qủa không đổi:
Mức Y trên LxE không đổi
12
Y trên một đơn vị công nhânY/L
tăng với tốc độ g
Y tăng với tốc độ là g + n
3.Ý nghĩa và sự vận dụng mô hình Solow
3.1 Tính chất hội tụ của các nền kinh tế:
- Nếu hai nền kinh tế do điều kiện lịch sử xuất phát với 2 mức vốn khác
nhau, thì quốc gia nào có mức thu nhập thấp hơn sẽ tăng trưởng nhanh hơn và
dần sẽ đuổi kịp quốc gia có thu nhập cao do tăng tỷ lệ vốn trên lao động.
- Nếu hai nền kinh tế có trạng thai ổn định khác nhau, thì không thể xảy ra
sự hội tụ nếu tỷ lệ tiết kiệm của hai nền kinh tế không thay đổi
- Tuy vậy nếu đứng trên toàn thế giới thì điều kiện hội tụ có thể không
đúng do các nứơc ngoài điều kiện về vốn khác nhau, các điều kiện khác cũng
không giống nhau
3.2 Đánh giá tăng trưởng và chính sách tăng trưởng cho các nước đang
phát triển:
- Tiết kiệm không phải là giải pháp tối ưu cho thực hiện tăng trưởng:
+ Khi nền kinh tế đã đến điểm dừng, đầu tư không dẫn đến tăng trưởng
+ Tăng tiết kiệm dẫn đến giảm tiêu dùng không những trong ngắn hạn mà
cả trong dài hạn nên cần lựa chọn một tốc độ tăng trưởng tối ưu chứ không phải
tốc độ tăng trưởng tối đa
- Các nước đang phát triển (chưa tới điểm dừng) cần hướng tới các chính
sách tăng tiết kiệm không ảnh hưởng tới tiêu dùng cá nhân.

3.3 Chính sách khuyến khích tiến bộ công nghệ:
- Hỗ trợ hoạt động nghiên cứu khoa học công nghệ
- Trực tiếp đầu tư nghiên cứu và triển khai công nghệ cao
- Khuyến khích nghiên cứu thông qua hệ thống bản quyền và quyền lợi của
người có bản quyền.
4. Hạn chế của mô hình Solow
Solow đã nhấn mạnh đến vai trò quyết định của yếu tố tiến bộ công nghệ
đến tăng trưởng GDP và GDP/người nhưng lại cho rằng tiến bộ công nghệ là
yếu tố ngoại sinh và không giải thích được nó. Điều này dẫn đến 3 hạn chế lớn:
+ Nếu không có cú sốc công nghệ từ bên ngoài vào thì tất cả các nền kinh
tế đều không có tăng trưởng khi đạt tới điểm dừng
+ Mọi sự gia tăng GDP nếu không phải là do Vốn và lao động đều là do
công nghệ “số dư Solow” (trên 50%)
+ Phủ nhận vai trò của các chính sách Chính phủ và các quyết định của các
chủ thể kinh tế
13
IV. Các mô hình tăng trưởng nội sinh
1. Xuất phát điểm của các mô hình
Mô hình Solow bất lực trong giải thích các hiện tượng tăng trưởng kinh tế
của nhiều nước nhất là các nước đang phát triển. Bỏ qua quy luật lợi tức giảm
dần theo quy mô: phân chia vốn làm 2 loại: Vốn hữu hình và vốn nhân lực. Vốn
nhân lực hình thành trong quá trình học tập, đào tạo, và từ kinh nghiệm thực
tiễn. Vốn nhân lực không chịu sự chi phối bởi quy luật lợi tức giảm. Quan điểm
của trường phái hiện đại về vai trò của chính phủ trong tăng trưởng.
2. Các yếu tố nguồn lực trong tăng trưởng
2.1 Các yếu tố trong hàm sản xuất
Cũng như mô hình Solow, các yếu tố trong hàm sản xuất của mô hình nội
siinh cũng bao gồm vốn, lao động và công nghệ, kỹ thuật. Hàm sản xuất nói
chung: Y = F( K, L, E)
E – hiệu quả lao động không phải chỉ là yếu tố công nghệ (như Solow) mà

là tác động tổng hợp của các yếu tố được đúc kết trong “vốn nhân lực” và tạo
nên năng suất lao động tổng hợp (TFP).Mô hình nội sinh chia nền kinh tế thành
2 khu vực: khu vực sản xuất hàng hoá và khu vực sản xuất tri thức. Mỗi khu vực
sẽ có hàm sản xuất riêng.
2.2 Vai trò các yếu tố nguồn lực:
2.2.1 Mô hình AK – vai trò của vốn nhân lực
Hàm sản xuất đơn giản: Y = AK
A là hằng số đo sản lượng sản xuất trên một đơn vị vốn( không bị chi phối
bởi quy luật lợi tức giảm dần)
Giả định rằng có một tỷ lệ s trong thu nhập được tiết kiệm và đầu tư. Do
đó, ta có phương trình tích lũy vốn, cho biết sự thay đổi lượng vốn bằng đầu tư
trừ đi khấu hao:
ΔK = sY – бK
Tốc độ tăng trưởng Y=AK bằng tổng tốc độ tăng trưởng của A và K, nghĩa
là:
g= ΔY/Y = g
A
+ g
K
trong

đó g
A
= ΔA/A và g
K
= ΔK/K
Nếu không có tiến bộ công nghệ g
A
= 0 thì:
g = ΔY/Y = g

K
= ΔK/K = (sY – бK)/K = (sAK – бK)/K = sA – б
sA> б, g luôn >0
sA> б thì g luôn >0 (có tăng trưởng vĩnh viễn cho dù không có tiến bộ công
nghệ)→ tiết kiệm và đầu tư dẫn đến tăng trưởng vĩnh viễn
14
Lý do: coi A là hằng số (không đổi) bởi vì K bao gồm cả vốn nhân lực –
không theo quy luật lợi tức giảm dần, thậm chí còn có thể tăng lên.
2.2.2.Mô hình Lucas đơn giản – mô hình tăng trưởng hai khu vực
Mô hình Lucas chia nền kinh tế làm 2 khu vực: (i)Khu vực sản xuất hàng
hoá, bao gồm các doanh nghiệp sản xuất hàng hoá và được sử dụng trong tiêu
dùng cá nhân và đầu tư vào vốn sản xuất. (ii)Khu vực giáo dục, bao gồm các
trường đại học sản xuất kiến thức sử dụng cho cả hai khu vực. Nền kinh tế được
mô tả bằng 2 hàm sản xuất: của khu vực sản xuất và khu vực các trường đại học
và phương trình tích luỹ vốn.
Gọi: u là tỷ lệ lao động của khu vực giáo dục
1-u là tỷ lệ lao động khu vực sản xuất.
E là lượng kiến thức (quyết định hiệu quả lao động)
K là vốn tích luỹ của khu vực sản xuất
(1 – u)LE là hiệu qủa tích luỹ của khu vực giáo dục thể hiện ở số lao
động hiệu quả của khu vực sản xuất
g(u) là tốc độ tăng trưởng lao động khu vực giáo dục
s là tỷ lệ tiết kiệm và б là tỷ lệ khấu hao
Từ gogic trên, có các phương trình liên quan đến tăng trưởng:
Y = K
α
[(1 –u)EL]
1-α
Hàm sản xuất của các doanh nghiệp
ΔE = g(u)E Hàm sản xuất của các trường đại học

ΔK = sY – б Phương trình tích luỹ vốn
Theo các hàm sản xuất trên:
- Đầu tư quyết định vốn vật chất ở trạng thái ổn định
- Tỷ lệ lao động trong trường đại học quyết định tốc độ tăng trưởng kiến
thức
- Cả s và u đều quyết định tới tăng thu nhập ở trạng thái ổn định
Đầu tư dẫn đến tăng trưởng vĩnh viễn
3.Ý nghĩa và sự vận dụng mô hình nội sinh
- Những hạn chế về khả năng rượt đuổi của các nước đang phát triển bởi sự
hạn chế về khả năng phát triển vốn con người:
ví dụ 2 nước A và B:
15
+ Trường hợp 1: nếu vốn nhân lực như nhau, nước A có mức vốn vật chất
thấp hơn
+ trường hợp 2: nước A có mức vốn nhân lực bằng ½ B và có vốn vật chất
thấp hơn.
- Giải pháp thoát nghèo và đuổi kịp các nước phát triển: đầu tư phát triển
nguồn nhân lực
- Vai trò của chính phủ trong đầu tư phát triển vốn nhân lực.
16
PHẦN 2:
QUÁ TRÌNH THAY ĐỔI TRONG QUAN NIỆM VỀ VAI TRÒ CỦA CÁC
YẾU TỐ NGUỒN LỰC TRONG TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VÀ VAI
TRÒ CỦA CÁC YẾU TỐ NGUỒN LỰC TRONG TĂNG TRƯỞNG
KINH TẾ VIỆT NAM HIỆN NAY
I.Quá trình thay đổi trong quan niệm về vai trò của các yếu tố nguồn
lực trong tăng trưởng kinh tế
Các nhà kinh tế học cổ điển là những người đầu tiên đặt nền móng cho
nghiên cứu về tăng trưởng kinh tế, đại diện cho phái này là Ricacdo, ông nghiên
cứu lý thuyết tăng trưởng của mình trong hoàn cảnh ngành nông nghiệp là ngành

kinh tế quan trọng nhất, đây là thời kỳ bùng nổ dân sồ trên thế giới, vì vậy mà
vai trò của nông nghiệp được đánh giá là không thể thiếu, có lẽ vì thế mà tất cả
mọi thứ đều do nông nghiệp quyết định, tăng trưởng kinh tế cũng không nằm
ngoài quy luật đó. Theo Ricacdo, trong các nhân tố: vồn (K), lao động (L) và đất
đai (R) thì yếu tố R là yếu tố quyết định đến tăng trưởng kinh tế, R chính là giới
hạn của tăng trưởng. Chúng ta có thể nhận thấy, trong mô hình của Ricacdo
thiếu vắng vai trò của yếu tố công nghệ (T), điều này cũng dễ lí giải, bởi lẽ thời
kỳ này, khoa học công nghệ chưa phát triển, vì vậy ít có đóng góp đến sản xuất
kinh tế. Phái tiếp theo nghiên cứu đến tăng trưởng kinh tế là phái Keyness, với
đại diện là Harrod – Domar. Mô hình tăng trưởng của Harrod – domar được đưa
ra trong giai đoạn khủng hoảng kinh tế xảy ra trầm trọng trên thế giới dẫn đến
tình trạng thất nghiệp liên miên, theo lý luận của phái Keyness sản xuất luôn
luôn cân bằng ở dưới mức sản lượng tiềm năng và do dó luôn luôn tồn tại một
khoảng suy thoái rY. Cần phải tác động làm tăng tổng cầu để giảm khoảng rY
và thúc đẩy đầu tư là biện pháp kích cầu tốt nhất. nhưng tiết kiệm là nguồn gốc
của đầu tư, do dó, theo Harrod – Domar thì chính tiết kiệm là yếu tố tạo nên tăng
trưởng kinh tế. Đến thời Solow (đại diện của kinh tế học tân cổ điển) là điểm
đánh dấu cho sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật, Solow đã đưa ra các
lập luận phản bác lại Harrod – Domar và cho rằng không phải tiết kiệm mà
17
chính là công nghệ (T) mới là yếu tố quyết định đến tăng trưởng. Và gần đây
nhất là sự ra đời của lý thuyết tăng trưởng hiện đại với đại diện là Samuelson,
chính sự xuất hiện của các nền kinh tế hỗn hợp trên thế giới đã tạo tiền đề cho
nghiên cứu của Samuelson đưa ra các kết luận chung nhất về vai trò của toàn bộ
các yếu tố nguồn lực tác động đến tăng trưởng kinh tế.
Các mô hình kinh tế sau có sự kế thừa và hoàn thiện các yếu tố của mô
hình kinh tế trước. Như Ricacdo và Harrod – Domar đều có yếu tố T nhưng sự
khác biệt ở đây đó là theo Ricacdo T không có tác động gì đến tăng trưởng còn
Harrod – Domar có đưa vai trò của T vào quá trình tăng trưởng, nhưng do ông
nghiên cứu trong ngắn hạn vì vậy ông đã cố định T và không đưa T vào hàm sản

xuất. Harrod – Domar đồng nhất với Ricacdo ở quan điểm có yếu tố vốn (K) tác
động đến quá trình tăng trưởng nhưng điểm hoàn thiện hơn là ông đã có thể định
lượng được tác động của yếu tố K vào tăng trưởng. Phái tân cổ điển mà đại diện
là Solow cũng đưa các yếu tố K, L vào sản xuất và khẳng định vai trò của các
yếu tố này đến tăng trưởng nhưng do có sự xuất hiện của hàm sản xuất Cobb –
Douglas đã có thể định lượng được tác động của cả hai yếu tố này đến tăng
trưởng kinh tế. Điểm hoàn thiện hơn nữa đó là phái tân cổ điển lần đầu tiên mở
ra hướng nghiên cứu mới là tăng trưởng theo chiều rộng với việc phát triển các
yếu tố K và L. Samuelson của trường phái hiện đại đã có sự hoàn thiện tất cả các
yếu tố nguồn lực đến tăng trưởng, ông đồng nhất với phái tân cổ điển ở mối
quan hệ giữa các yếu tố và cũng đồng nhất với mô hình Harrod – Domar về vai
trò của vốn đầu tư với tăng trưởng kinh tế , nhưng ông đã tách vốn thành hai
nhóm : vốn nhân lực và vốn vật chất, do đó yếu tố đầu tư cũng có tác động đến
tăng trưởng trong dài hạn. Đồng nhất với Solow về vai trò của yếu tố công nghệ
trong tăng trưởng, nhưng hoàn thiện yếu tố công nghệ bằng yếu tố TFP (tổng
năng suất các nhân tố) với việc thêm vào các nhân tố khác như công nghệ không
đơn thuần là các cú sốc ngoại sinh mà còn có những yếu tố tổng hợp thúc đẩy
tăng trưởng hiệu quả như thể chế, chính sách phát triển các nghiên cứu khoa
học, khai thác công nghệ ngay trong nước…
18
Ngoài những điểm kế thừa và hoàn thiện các yếu tố của mô hình trước, các
mô hình sau cũng có những nét mới tiến bộ hơn. Như Ricacdo và Harrod –
Domar, do việc giải thích mọi việc bằng nông nghiệp mà Ricacdo cho rằng đất
đai mới là yếu tố quyết định đến tăng trưởng trong khi đó Harrod – Domar lại
chứng minh tiết kiệm đầu tư mới là yếu tố tạo nên tăng trưởng. Cũng bởi đánh
giá quá cao vai trò của thị trường Ricacdo đã quên đi vai trò của nhà nước và
cho rằng nhà nước chỉ kìm hãm tăng trưởng kinh tế nhưng Harrod – Domar đã
nêu lên vai trò của nhà nước trong phát triển kinh tế đó là khắc phục các khuyết
tật của thị trường kích cầu cho nền kinh tế để giảm thiểu khoảng cách suy thoái.
Solow đạt được một bước tiến lớn trong nhận định về các yếu tố nguồn lực tác

động đến tăng trưởng đó là đặt thêm yếu tố T vào hàm sản xuất. Theo ông do có
công nghệ nên hệ số kết hợp hiệu quả giữa vốn và lao động là không cố định, có
nhiều cách kết hợp các yếu tố đó để có được mức chi phí thấp nhất. Yếu tố công
nghệ là yếu tố quyết định đến tăng trưởng trong dài hạn, các yếu tố khác chỉ
đóng vai trò trong ngắn hạn. Solow phản lại quan điểm của Harrod – Domar,
theo ông ngay cả không có đầu tư thì vẫn có tăng trưởng nếu biết cách tận dụng
hiệu quả tất cả các yếu tố ban đầu. Và ngay cả khi đầu tư hiệu quả vẫn không có
tăng trưởng (khi đầu tư chỉ đủ bù đắp cho khấu hao) và khi đó nền kinh tế đạt tới
điểm dừng. Mô hình tăng trưởng hiện đại tuy không đưa thêm yếu tố nào mới
vào trong phân tích tăng trưởng nhưng việc hoàn thiện các yếu tố K, L và đặc
biệt là yếu tố TFP là một thành công lớn của mô hình này.
II. vai trò của các yếu tố nguồn lực trong tăng trưởng kinh tế Việt Nam
hiện nay
Có thể nhận thấy rằng, theo thời gian các lý thuyết về tăng trưởng kinh tế
ngày càng hoàn thiện hơn, đóng góp lớn cho quá trình tăng trưởng và phát triển
kinh tế của các nước dựa trên đặc điểm các yếu tố nguồn lực riêng. Vậy hiện
nay, Việt Nam đang sử dụng các yếu tố nguồn lực như: vốn, lao động, công
nghệ như thế nào?
Ngay sau khi giành độc lập nước ta chọn con đường công nghiệp hoá để
xây dựng 1 nền kinh tế độc lập, tự chủ thực sự. Quan điểm “tự lực cánh sinh
19
truyền thống” đã không phát huy được hiệu quả mà còn làm tiêu tan lợi thế đáng
được hưởng do sự phân công lao động quốc tế mang lại. Tuy nhiên trong bối
cảnh quốc tế mới, việc chuyển sang chính sách công nghiệp hoá theo hướng xuất
khẩu đã mang lại lợi thế cho nước ta đẩy mạnh tăng trưởng trên cơ sở tận dụng
những lợi thế so sánh của mình.
Đi lên từ 1 nước công nghiệp lạc hậu, nền sản xuất hàng hoá giản đơn nên
việc tạo vốn cho tăng trưởng nhanh là vấn đề gay gấn đối với nước ta. Xuất phát
điểm thấp nên tích trữ tư bản thấp không đủ cho đầu tư phát triển nhanh chóng
nền công nghiệp còn non trẻ. Vào những năm gần đây với những nỗ lực không

ngừng của Đảng và Nhà nước về thu hút vốn đầu tư nước ngoài đã đẩy nhanh
lượng vốn đầu tư vào trong nước tạo điều kiện cho xây dựng và phát triển kinh
tế. Nhưng cũng không thể phủ nhận rằng hiệu quả sử dụng nguồn vốn ở nước ta
còn thấp, hiện tượng thất thoát vốn và đầu tư tràn lan gây nên lãng phí nguồn
vốn. Nước ta cần tập trung khai thác tất cả nguồn lực nhằm thu hút vốn cho phát
triển kinh tế, bao gồm cả nguồn vốn trong và ngoài nước. Cần đẩy nhanh các
chính sách khuyến khích đầu tư của khu vực tư nhân và khu vực nước ngoài, ổn
định kinh tế vĩ mô, điều chỉnh thuế, xây dựng kết cấu hạ tầng hoàn thiện…
Một vấn đề nữa có tác động không nhỏ tới tăng trưởng kinh tế nước ta là
vấn đề lao động. Có thể nhận định rằng nguồn lao động vừa là cơ hội vừa là
thách thức của nước ta hiện nay. Dân số trẻ tạo nên lực lượng lao động dồi dào
tạo và những yêu cầu lớn trong các vấn đề về giáo dục, y tế, việc làm…gây nên
áp lực đối với các dịch vụ công cộng. Dân số cao, thu nhập bình quân đầu người
thấp làm giảm khả năng mua sắm và tỉ lệ tiết kiệm. Lượng vốn ban đầu tích luỹ
được đã ít ỏi them vào tỉ lệ tiết kiệm thấp đã kìm hãm sản xuất và đến nạn thất
nghiệp gây ra mất ổn định xã hội. Hơn nữa, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế,
với trình độ công nghệ trên thế giới phát triển cao, đòi hỏi đội ngũ lao động trình
độ, chuyên môn. Trong khi đó, trình độ lao động nước ta còn thấp, chưa đáp ứng
được đòi hỏi của nguồn nhân lực thế giới. Giải pháp cần thực hiện là đẩy mạnh
hệ thống giáo dục, nâng cao dân trí, đào tạo nghề cho lao động. Cần khắc phục
tình trạng thất nghiệp nhưng lại thiếu lao động tay nghề cao.
20
Vấn đề được quan tâm nhất hiện nay là các yếu tố công nghệ tác động đến
quá trình tăng trưởng. Lịch sử phát triển cho thấy yếu tố công nghệ có tác động
vô cùng to lớn đến tăng trưởng. Theo nghiên cứu của PGS.TS Trần Thọ Đạt thì
yếu tố TFP ( tổng năng suất các nhân tố) đã trở thành lực lượng thúc đẩy tăng
trưởng GDP ở nước ta. Tuy nhiên dường như đã có những biểu hiện giảm sút
hiệu quả của yếu tố công nghệ. Hiện nay, các nước phát triển trên thế giới đã đạt
đến trình độ công nghệ tiên tiến với kỹ thuật sản xuất hiện đại, trình độ quản lý
thành thạo, kĩ năng marketing cao và những tài sản vô hình khác… nhưng nước

ta chỉ mới bước đầu tiếp cận các tiến bộ khoa học ấy, công nghệ giữa nước ta và
nước phát triển vẫn là 1 khoảng cách dài, bài toán đặt ra là thu hẹp khoảng cách
này. Nước ta nên tận dụng lợi thế của nước đi sau , thông qua nhập khẩu đầu tư
trực tiếp nước ngoài để thu hút công nghệ tiên tiến của thế giới và sau đó thông
qua quá trình sản xuất chuyển hoá thành công nghệ của mình để cuối cùng tự
phát minh ra công nghệ mới rồi đưa vào sản xuất cho xuất khẩu. Tuy nhiên trên
thực tế quá trình tiếp thu công nghệ cao của nước ta vẫn khá chậm, vì vậy sản
phẩm xuất khẩu chủ yếu là sản phẩm thô, sơ chế hoặc mới chỉ được sơ chế bước
đầu nên giá trị sản phẩm chưa cao, hạn chế cho quá trình tăng trưởng. Quá trình
tăng trưởng ở nước ta chủ yếu là dựa vào khai thác các nguồn nguyên liệu tự
nhiên nên tăng trưởng không bền vững, cần thực hiện nghiên cứu và áp dụng
tiến bộ công nghệ để khai thác hiệu quả hơn nữa các tiềm năng tự nhiên vốn có,
nước ta cũng cần trang bị cho mình những yếu tố cần thiết để có thể tiếp thu tốt
công nghệ được chuyển giao từ nước ngoài.

Có thể nhận thấy rằng tăng trưởng của nước ta trong thời gian qua là khá
cao( trung bình là 7,56% từ năm 1991 đến năm 2008) nhưng theo nhận định của
1 số chuyên gia thì tăng trưởng của nước ta chưa thực sự ổn định và bền vững.
Tăng trưởng có xu hướng dựa ngày càng nhiều vào tăng vốn đầu tư và ngành
công nghiệp chế biến, ít tạo ra việc làm và hiệu quả chưa cao. Đóng góp của
năng suất lao động vào tăng trưởng còn thấp. Tăng trưởng chủ yếu dựa vào xuất
khẩu, nhất là các mặt hàng thô: nông sản, khoáng sản và sơ chế. Đáng chú ý là
tăng trưởng nhanh lại đi đôi với tăng ô nhiễm môi trường và những ngành làm
21
tăng ô nhiễm môi trường lại là những ngành tạo ra nhiều công ăn việc làm và là
đàu tầu tăng trưởng của cả nước. Tăng trưởng nước ta dựa vào khai thác tài
nguyên nhưng chưa tạo được các lợi thế cạnh tranh, động lực của tăng trưởng và
chuyển dịch cơ cấu kinh tế là các ngành gia công, chế biến có chi phí trung gian
cao, lệ thuộc vào nhập khẩu…Hơn nữa hiệu quả đầu tư thấp, hệ số ICOR ngày
càng cao, đầu tư mất cân đối, đầu tư cho con người và công nghệ còn thấp. Hiệu

quả quản lý của nhà nước còn thấp, bộ máy quản lý cồng kềnh, hệ thống pháp
luật còn nhiều thiếu sót… Tất cả các yếu tố trên đang gây nên ảnh hưởng không
nhỏ tới tăng trưởng của nước ta hiện nay. Vì vậy, cần có những bước đi phù hợp
để khắc phục các khiếm khuyết trên như: chuyển mô hình tăng trưởng hiện tại
sang mô hình dựa vào tăng hiệu quả sử dụng nguồn lực, lấy mục tiêu tăng năng
suất lao động làm mục tiêu xuyên suốt, làm căn cứ xây dựng chính sách thay
cho chỉ tiêu chạy theo tốc độ tăng trưởng. xoá bỏ các rào cản đối với việc sử
dụng hiệu quả nguồn lực, xây dựng các chỉ tiêu thúc đẩy tăng năng suất bền
vững…
22
KẾT LUẬN
Trong lịch sử phát triển nền kinh tế đã chuyển mình qua rất nhiều các giai
đoạn khác nhau và ứng mỗi giai đoạn đó hình thành các lý thuyết và mô hình
kinh tế đặc trưng tương ứng. Các lý thuyết và mô hình đó đã có vai trò quan
trọng diễn tả những quan điểm cơ bản nhất về sự phát triển kinh tế qua các thời
kì thông qua các biến số kinh tế và mối liên hệ giữa chúng. Và trải qua các thời
kì khác nhau các lý thuyết và mô hình kinh tế này cũng không ngừng phát triển
và hoàn thiện dựa trên cơ sở kế thừa và phát triển các lý thuyết và mô hình trước
nó để phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế.
23

×