Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

Đánh giá hiệu quả thực hiện dự án 3R tại Hà Nội trong giai đoạn 2006-2009

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.14 MB, 31 trang )

MỤC LỤC
MỤC LỤC 1
LỜI MỞ ĐẦU 1
I. Lý do chọn đề tài 1
II. Những vấn đề cơ bản 2
i. Mục đích nghiên cứu 2
ii. Mục tiêu nghiên cứu cụ thể 2
iii. Phạm vi nghiên cứu 2
iv. Phương pháp nghiên cứu 2
Phần I. Những lý luận chung về chất thải rắn sinh hoạt 3
I. Nguồn gốc và thành phần chất thải rắn sinh hoạt 3
II. Tính chất của chất thải rắn sinh hoạt 5
1.Lý tính 5
2. Hóa tính 6
v. Tính chất sinh học 6
III. Tác hại của chất thải rắn sinh hoạt đến sức khỏe con người 6
7
IV. IV. Tái sử dụng, tái chế chất thải rắn sinh hoạt 8
V. Lợi ích của việc tái chế, tái sử dụng rác thải 10
1.Tận dụng rác 10
2. Tái chế rác 10
3. Tái sinh rác 11
Phần II. Dự án 3R-Hà Nội giai đoạn 2006-2009 12
I. Giới thiệu chung về dự án 3R-Hà Nội trong giai đoạn 2006-2009 12
1.Thực trạng quản lý chất thải rắn ở Việt Nam 12
2. Lịch sử hình thành và phát triển sáng kiến 3R 13
3. Áp dụng 3R vào Việt Nam (3R Hà Nội) 16
II. Các hoạt động chính của dự án 3R-Hà Nội giai đoạn 2006-2009 19
1. Hoạt động phân loại rác tại nguồn 19
2. Hoạt động nâng cao nhà máy chết biến phế thải Cầu Diễn 20
III. Kết quả đạt được và những khó khăn trong quá trình thực hiện dự án 21


1.Kết quả 21
2. Khó khăn 22
Phần III. Giải pháp, đề xuất, kiến nghị 24
I. Mục tiêu của dự án 24
II. Đánh giá dự án 24
III. Giải pháp nhằm thực hiện mục tiêu 25
IV. Đề xuất, kiến nghị 26
KẾT LUẬN 27
LỜI CẢM ƠN 28
TÀI LIỆU THAM KHẢO 29
1
LỜI MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài
Đi cùng với sự phát triển không ngừng của nền kinh tế thế giới là sự gia tăng
không ngừng của những vấn đề môi trường, chúng ta đang phải đối mặt với tình
trạng suy thoái nghiêm trọng tài nguyên thiên nhiên và ô nhiễm môi trường. Đó
đang là vấn đề đặt ra đối với tất cả các quốc gia trên thế giới và đòi hỏi sự nỗ lực
của toàn cầu để cải thiện tình hình này. Đối với một nước đang phát triển, quá trình
đô thị hóa diễn ra nhanh chóng như ở Việt Nam thì các vấn đề môi trường đặt ra
càng bức thiết. Sự nỗ lực bảo vệ môi trường của Việt Nam đã được thể hiện thông
qua Luật Bảo vệ Môi trường ra đời vào năm 1993 và đã được Quốc hội khóa XI, kì
họp thứ 8 thông qua. Luật sửa đổi vào ngày 29/11/2005, bắt đầu có hiệu lực thi
hành từ ngày 1/7/2006. Luật bảo vệ môi trường là cơ sở pháp lý để điều chỉnh các
hành vi của các cá nhân và tổ chức hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam về các tác
động đến môi trường.
Sau gần 20 năm đổi mới nền kinh tế Việt Nam không ngừng tăng trưởng với
tốc độ tăng GDP hàng năm đạt khoảng 7-8%, các hoạt động kinh tế xã hội diễn ra
sôi nổi mạnh mẽ và điều tất yếu kéo theo đó là lượng rác thải gia tăng không ngừng
theo nhịp độ đô thị hoá, tốc độ phát triển công nghiệp. Từ đó đặt ra một vấn đề mà
hiện nay chúng ta đang quan tâm và nỗ lực giải quyết đó là công tác quản lý rác thải

đô thị còn rất nhiều bất cập. Lượng rác thải ra môi trường mỗi ngày, ngày một tăng
khủng khiếp đồng thời chúng ta chưa có được một hệ thống xử lý rác thải hiệu quả,
đó là nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng xấu đến cảnh quan đô thị và
sức khoẻ cộng đồng, gây tốn kém kinh phí của thế hệ hiện tại và tương lai, cho
những kế hoạch, cải thiện môi trường. Giảm thiểu rác thải ngày càng trở nên cấp
thiết, nếu chúng ta không quan tâm tới vấn đề này đúng mức thì sẽ là mối đe doạ
đến tốc độ phát triển của đất nước trong tương lai. Với mục tiêu góp phần xây dựng
xã hội bền vững thông qua những hoạt động thân thiện với môi trường, điển hình là
phân loại rác tại nguồn và những hành động tiết kíệm cho xã hội, 3R là một hoạt
động bảo vệ môi trường, một trào lưu được hưởng ứng trên toàn cầu mà nhân tố
chính nằm trong ý thức và hành vi của con người. Việc thực hiện 3R thành công sẽ
xây dựng được một xã hội tuần hoàn vật chất, tiết kiệm được nguồn tài nguyên
thiên nhiên và đảm bảo môi trường sống cho người dân. Sáng kiến 3R đã được thực
hiện thành công tại nhiều quốc gia trên thế giới và đó là xu hướng tất yếu hướng tới
phát triển bền vững. Vì vậy, việc nghiên cứu các hoạt động 3R đang, từ đó thấy
được kết quả của hoạt động và biết được những hạn chế trong thực hiện, tìm ra
những giải pháp thực hiện thành công 3R tại Hà Nội và nhân rộng mô hình thực
2
hiện ra các tỉnh thành trên toàn quốc là một đề tài nghiên cứu thú vị và có tính thực
tiễn cao.
Xuất phát từ những lí do đó, “Đánh giá hiệu quả thực hiện dự án 3R tại Hà
Nội trong giai đoạn 2006-2009” được chọn làm đề tài nghiên cứu.
II. Những vấn đề cơ bản
i. Mục đích nghiên cứu
Đánh giá hiệu quả của dự án 3R tại Hà Nội giai đoạn 2006-2009 và đề xuất
các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của dự án.
ii. Mục tiêu nghiên cứu cụ thể
+Tổng quan về dự án 3R Hà Nội
+Đánh giá kết quả đạt được và những khó khăn trong quá trình thực hiện dự
án

+Đúc rút các bài học kinh nghiệm về việc thực hiện triển khai dự án 3R
+ Đề xuất các kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện dự án
iii. Phạm vi nghiên cứu
Mô hình 3R được thí điểm áp dụng ở 4 phường: Phan Chu Trinh, Nguyễn
Du, Láng Hạ, Thành Công. Đề tài chủ yếu nghiên cứu việc áp dụng 3R trong công
tác quản lý chất thải rắn.
iv. Phương pháp nghiên cứu
+Tổng quan số liệu: sử dụng những số liệu thu thập được qua các phương
tiện thông tin đại chúng, mạng internet, …
+Phương pháp chuyên gia
3
Phần I. Những lý luận chung về chất thải rắn sinh hoạt
Chất thải trong sinh hoạt có nhiều loại: ở thể rắn, thể nước và thể khí phát
sinh từ các hộ gia đình, cơ quan, trường học. Đề án này chủ yếu tập trung nghiên
cứu vầ chất thải rắn sinh hoạt.
I. Nguồn gốc và thành phần chất thải rắn sinh hoạt
Chất thải rắn nói chung phát sinh từ nguồn chủ yếu sau đây: các hộ gia đình
(nhà ở riêng biệt, khu tập thể, chung cư…) các trung tâm thương mại (nhà kho,
quán ăn, chợ, văn phòng, khách sạn, nhà in, trạm xăng dầu, gara…) cơ quan (trường
học, bệnh viện, các cơ quan hành chính …) các công trường xây dựng, dịch vụ công
cộng (rửa đường, tu sửa cảnh quan, công viên, bãi biển…)
Các chất thải rắn sinh hoạt gồm những chất hữu cơ, các chất vô cơ, chất thải
đặc biệt. Thành phần hữu cơ tiêu biểu trong chất thải sinh hoạt chủ yếu là thực
phẩm thừa, giấy, các tong, nhựa, vải, cao su, da, gỗ. Thành phần vô cơ gồm thủy
tinh, nhôm, sắt, thép, bụi …
Các chất dễ phân hủy, đặc biệt trong điều kiện thời tiết ấm áp, được gọi là
các chất thối rữa. Nguồn phát sinh chất thối rữa chủ yếu là thức ăn, vật liệu chế biến
thực phẩm … Thường chất thối rữa phát sinh mùi hôi thối và sinh ruồi, nhặng. Bản
chất của các chất thối rữa trong rác là một yếu tố gây ảnh hưởng đến thiết kế và vận
hành hệ thống thu gom rác.

Chất thải đặc biệt phát sinh từ các hộ dân và các khu thương mại gồm đồ
điện tử gia dụng, rác sân vườn, bình điện, dầu mỡ, lốp xe … Những loại rác này
thường được tách riêng ra khỏi rác thải sinh hoạt.
Các thứ rác cồng kềnh là các đồ dùng hỏng hóc, hết hạn sử dụng hay phế
phẩm như các loại đồ gỗ, lavabo, đèn, quạt,… và những loại tương tự khác. Các loại
đồ điện tử gia dụng như radio, tivi, … bị hỏng hóc, hết hạn sử dụng hay phế phẩm.
Các loại máy móc gia dụng như tủ lạnh, lò , bếp, … hỏng. Khi thu gom rác, các loại
máy móc hỏng này được để riêng.
Các loại máy móc nguồn lưu trữ điện gia dụng, ô tô, xe máy … pin, bình
điện chất chưa alkaline, thủy ngân, … Các kim loại trong pin, bình điện gia dụng có
thể gây ô nhiễm nguồn nước ngầm, chúng cũng có thể gây ô nhiễm khí thải và tro
từ các lò đốt rác. Nhiều nước ngày nay đã cấm việc chôn lấp pin, bình điện hỏng.
4
Nguồn phát sinh dầu thải chủ yếu là ô tô, xe máy … Dầu thải nếu không
được thu gom để tái sinh thì thường được đổ xuống đất, đổ vào hệ thống thoát nước
sinh hoạt, cống rãnh. Trong trường hợp đó, chúng gây ô nhiễm nguồn ngước ngầm
và nước mặt cũng như đất. Mặt khác, nếu đổ dầu thải vào cùng với rác chúng sẽ làm
bẩn rác và làm giảm giá trị của các chất tái sinh.
Lốp xe cũ đặt ra nhiều vấn đề nan giải trong xử lý chất thải rắn. Do chúng
cồng kềnh nên việc chôn lấp chiếm nhiều không gian của bãi rác, nếu chất đống
trên mặt đất sẽ làm mất vẻ mỹ quan, là nơi sinh muỗi và trong trường hợp bị hỏa
hoạn, rất khó dập tắt.
Lượng chất thải rắn sinh hoạt phát sinh cũng như thành phần của nó phụ
thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó có tình trạng kinh tế ( mức sống của người dân),
trình độ công nghiệp và thời điểm khảo sát trong năm.
5
Hình. Sơ đồ dòng đời vật chất của chất thải rắn sinh hoạt
II. Tính chất của chất thải rắn sinh hoạt
1.Lý tính
Những tính chất vật lý quan trọng của chất thải rắn đô thị bao gồm khối

lượng riêng, độ ẩm, kích cỡ và sự phân bố kích cỡ, thể tích chiếm dụng trên hiện
trường, độ xốp.
Khối lượng riêng được tính theo kg/m
3
. Do khối lượng riêng của rác thay
đổi theo cách lấy mẫu nên số liệu này cần được nói rõ lấy mẫu gtrong điều kiện nào.
Khối lượng riêng là thông số cần thiết để xác định khối lượng và thể tích chất thải
rắn cần xử lý.
Độ ẩm của chất thải rắn được thể hiện theo một trong hai cách: theo phương
pháp đo lường khối lượng ướt, độ ẩm trong mẫu đo được tính theo phần trăm của
chất thải ở trạng thái ướt, theo phương pháp khối lượng khô, độ ẩm được tính theo
6
phần trăm so với khối lượng chất thải khô. Phương pháp khối lượng ướt được sử
dụng rộng rãi nhất trong lĩnh vực quản lý chất thải rắn.
Cỡ và phân bố kích cỡ các loại vật liệu trong rác thải có ý nghĩa quan trọng
trong thu hồi vật liệu, đặc biệt bằng phương pháp cơ học và từ tính.
Tính thẩm thấu lưu chất của chất thải nén là một thông số vật lý quan trọng
khống chế sự dịch chuyển của chất lỏng và khí trong bãi chôn lấp rác.
2. Hóa tính
Các thông tin liên quan đến thành phần hóa học của chất thải rắn có ý nghĩa
quan trọng trong ước tính các biện pháp xử lý và phương pháp thu hồi, ví dụ khả
năng cháy của rác phụ thuộc vào thành phần hóa học của nó. Nói chung chất thải
rắn có thể xem là một hỗn hợp những chất có thể cháy được và những chất không
thể cháy được.
v. Tính chất sinh học
Chất thải rắn sinh hoạt chứa phần lớn các chất hữu cơ dễ phân hủy. Do vậy,
các bãi chứa chất thải rắn sinh hoạt thường có mùi hôi thối. Tốc độ phân hủy chất
hữu cơ phụ thuộc vào nhiệt độ và độ ẩm của môi trường. Để khư mùi hôi của rác
thải sinh hoạt, hiện nay người ta dùng men vi sinh (chế phẩm EM là một ví dụ). Sau
khi phân loại rác, các chất hữu cơ được ủ lên men để chế biến thành phân compost.

III. Tác hại của chất thải rắn sinh hoạt đến sức khỏe con người
Chất thải rắn sau khi được phát sinh có thể thâm nhập vào môi trường không
khí dưới dạng bụi hay các chất khí bị phân hủy như H
2
S, NH
3
, … rồi theo đường hô
hấp đi vào cơ thể con người hay động vật. Một bộ phận khác, đặc biệt là các chất
hữu cơ, các loại kim loại nặng thâm nhập vào nguồn nước hay môi trường đất rồi
vào cơ thể con người qua thức ăn, thức uống.
Ngoài những chất hữu cơ có thể bị phân rã nhanh chóng, chất thải rắn có
chứa những chất rất khó bị phân hủy (như nhựa chẳng hạn) làm tăng thời gian tồn
tại của chúng trong môi trường. Mặt khác, việc xử lý chất thải rắn luôn phát sinh
những nguồn ô nhiễm mới, nếu không có biện pháp xử lý triệt để các chất ô nhiễm
dạng rắn có thể dịch chuyển thành các chất ô nhiễm dạng khí hay dạng lỏng.
Chất thải rắn “thân thiện” với môi trường là các loại chất thải dễ phân hủy và
không gây tác hại đến môi trường đất, nước và không khí. Một ví dụ điển hình của
các chất thải rắn loại này là các loại bao gói chế biến từ thực vật (như tre, nứa, lá
7
chuối, …) thay cho bao gói bằng nhựa, hoặc các loại vải từ bông, tơ tằm, sợi tự
nhiên … thay cho sợi tổng hợp, nilon. Các loại chất thải này sau khi thải ra môi
trường sẽ phân hủy nhanh chóng, trở thành những chất hữu cơ thân thiện với môi
trường.
Hình. Tác hại của chất thải rắn sinh hoạt đến sức khỏe con người
8
IV.IV. Tái sử dụng, tái chế chất thải rắn sinh hoạt
Sự giảm thiểu chất thải có thể được thực hiện thông qua thiết kế, chế tạo sản
phẩm với thể tích vật liệu bé nhất và tuổi thọ lớn nhất. Sự giảm thiểu chất thải cũng
có thẻ được thực hiện tại nơi tiêu thụ, thương mại hay công nghiệp thông qua việc
tái sử dụng sản phẩm. Hiện nay, việc giảm chất thải ngay từ nguồn không phải là

yếu tố chính làm giảm lượng chất thải phát sinh. Tuy nhiên với trình độ công nghệ
ngày một nâng cao, trong tương lai việc thiết kế chế tạo sản phẩm tiêu dùng sẽ thực
hiện theo hướng giảm thiểu chất thải ngay từ nguồn. Khi đó sự giảm thiểu chất thải
ngay nơi tiêu thụ sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc làm giảm lượng chất thải rắn
nói chung.
Một yếu tố khác góp phần làm giảm lượng chất thải là nâng cao nhận thức
của người dân trong quản lý chất thải. Giáo dục người dân thay đổi thói quen, cách
sống trong việc bảo tồn thiên nhiên, tiết kiệm vật liệu sẽ làm thay đổi đáng kể lượng
chất thải phát sinh.
Các loại chất thải rắn được phân loại để tái chế chung nhất là nhôm, giấy,
nhựa, thủy tinh, kim loại đen, kim loại màu …
Nhôm trong chất thải rắn tập trung chủ yếu từ 2 nguồn: lon nhôm và nhôm
thứ cấp. Nhôm thứ cấp chẳng hạn như khung cửa, thanh dẫn hướng, máng nước…
Vì nhôm thứ cấp có chất lượng rất khác nhau nên khi thu hồi để tái chế chúng cần
được kiểm tra kĩ lưỡng để có được giá trị thu hồi cao nhất. Việc tái chế lon nhôm rất
đáng quan tâm vì nó làm giảm 95% năng lượng để sản xuất lon nhôm từ lon đã có
sẵn so với khi sản xuất từ quặng nhôm.
Dạng chính của giấy loại là báo cũ, các tong, giấy có chất lượng cao, giấy
hỗn hợp … mỗi một loại giấy trong 4 loại vừa nêu có chất lượng riêng được xác
định theo chất lượng của sợi, độ đồng nhất cũng như các tính chất vật lý, hóa khác.
Nhựa có thể phân chia thành hai loại chính: nhựa thừa sử dụng và nhựa đã
qua sử dụng. Loại nhựa đã qua sử dụng được dùng để tái chế phổ biến nhất là
polyethylene terephthalate (PETE/1) được dùng để chế tạo chai nước giải khát và
polyethylene mật độ cao (HDPE/2) được dùng để chế tạo chai đựng nước, sữa, bột
giặt.
Thủy tinh cũng là vật liệu tái sinh xuất phát từ bình, lọ, chai đựng thức ăn,
nước uống, kính xây dựng… thủy tinh tái chế thường được phân làm 3 loại theo
màu sáng, màu xanh và màu hổ phách.
9
Một lượng lớn thép có thể được thu hồi từ những đồ vật như xe hơi, thiết bị

cũ… Ở những nước phát triển, người ta thường xây dựng các trạm nén, ép kim loại
ngay tại bãi chôn lấp rác hay trạm trung chuyển. Nhiều trường hợp các trạm này
không được tổ chức tốt nên kim loại thu gom lẫn lộn nhiều chất khác nhau làm
giảm chất lượng vật chất tái chế. Thu hồi lon bằng thép là phổ biến nhất. Các lon
thép đựng thức ăn, nước uống có thể phân loại dễ dàng bằng phương pháp từ tính.
Kim loại màu được thu hồi từ những đồ vật gia dụng, từ xây dựng hay di dời
(dây dẫn điện, ống nước, ga, …). Tất cả các loại kim loại màu đều có thể thu hồi để
tái chế nếu nó không có lẫn những tạp chất khác.
Bảng: Các loại vật liệu có thể thu hồi từ chất thải rắn sinh hoạt
Vật liệu thu hồi Dạng chất thải
Nhôm Lon nước giải khát, bia
Giấy
Giấy báo Trong rác thải cơ quan hay nhà dân
Các tông Bao bì (nguồn phát sinh lớn nhất trong thu hồi giấy)
Giấy chất lượng cao Giấy in máy tình, giấy in thiệp, quảng cáo …
Giấy hỗn hợp Hỗn hợp nhiều loại giấy sạch bao gồm giấy tạp chí và
những giấy có sợi dài khác
Nhựa
Polyethylene
terephthalate
(PETE/1)
Chai đựng nước giải khát, chia đựng dầu trộn xà lách,
phim ảnh
Polyethylene mật độ cao
(HDPE/2)
Bình đựng sữa, chai đựng nước, hộp đựng bột giặt, chai
đựng dầu ăn
Plyvinyl Chloride
(PVC/3)
Ống dẫn nước gia dụng, vải loại hộp đựng thức ăn và

chai lọ
Polyethylene mật độ thấp
(LDPE/4)
Giấy nhựa bao gói
Polypropylene (PP/5) Màng co để giữ lọ, chai, bao quanh bánh mì, pho mát,
bình điện …
Polystyrene (PS/6) Đóng gói bảo vệ đồ điện tử, đồ thủy tinh, hộp đựng
thức ăn nhanh …
Các loại nhựa khác Chai nhựa đựng nước cà chua, mù tạt …
Thủy tinh Các chai lọ thủy tinh trong suốt, hoặc có màu xanh, nâu
Kim loại đen Đồ hộp, máy móc gia dụng
Kim loại màu Nhôm, đồng, chì …
Gỗ Thùng đóng gói, bệ đỡ, các đồ dùng bằng gỗ …
Lốp xe Xe hơi, xe chuyên dụng, xe gắn máy …
Bình điện Phương tiện cơ giới nói chung
10
Pin Các thiết bị gia dụng
V. Lợi ích của việc tái chế, tái sử dụng rác thải
Đối với những loại rác không độc hại thì mọi người có thể sử dụng nhiều
cách để làm cho rác mang lại lợi ích qua những việc làm như:
1.Tận dụng rác
Những thứ rác bị bỏ loại nhưng còn có thể dùng cho mục đích khác thì mọi
người nên tận dụng chúng để tiết kiệm của cải vật chất, tài nguyên thiên nhiên, thời
gian và công sức sản xuất ra chúng như:
- Đồ dùng trong nhà, quần áo, đồ chơi cũ không dùng nữa thì cho người khác
tiếp tục dùng. Các loại vải vụn nối ráp thành đồ dùng, vật trang trí, quần áo rách
dùng làm giẻ lau
- Sách báo, tập vở cũ dùng làm bao bì, giấy gói…
- Chai lọ, bình, hũ dùng đựng món đồ khác hay tạo thành những vật trang trí
trong nhà…

- Các vật liệu xây dựng như: cát, đá, sỏi, sành sứ vụn dùng trải đường, làm
móng nền nhà
2. Tái chế rác
Những thứ phế thải không dùng được cho việc gì nữa nhưng còn có thể sử
dụng để sản xuất ra sản phẩm khác thì cần phải được thu gom bán phế liệu để tái
chế như:
- Kim loại: gồm đồng, kẽm, chì, sắt, thép, thau được huyện lại và chế tạo ra
đồ dùng vật liệu.
- Chai lọ, ống thuốc thuỷ tinh được thu gom về lò nấu lại và thổi thành các
dạng chai lọ mới.
- Các đồ dùng vật liệu nhựa, bao nylon được tập hợp tái chế lại thành đồ
dùng, bao bì, bục kê
- Giấy vụn được tái chế thành giấy bao bì, thùng các tông
11
3. Tái sinh rác
Các thứ rác hữu cơ rất dễ phân huỷ như thức ăn thừa, rau, củ, quả hư hỏng,
rác nhà bếp, cành cây, lá cỏ, xác súc vật, phân chuồng được tái sinh như sau:
- Tập hợp rác hữu cơ ủ thành phân bón cho cây trồng, hoa màu, lúa thêm
tươi tốt và làm cho đất đai màu mỡ, thêm tơi xốp, canh tác hiệu quả lâu dài.
- Các loại phân chuồng, thức ăn thừa của người và gia súc cho vào hầm ủ
Biogas để tạo thành chất đốt phục vụ việc đun nấu, thắp sáng.
Nếu mọi người, gia đình đều được làm như vậy là đã góp phần giảm lượng
chất thải đưa ra môi trường, giữ cho môi trường được sạch đẹp hơn.
12
Phần II. Dự án 3R-Hà Nội giai đoạn 2006-2009
I. Giới thiệu chung về dự án 3R-Hà Nội trong giai đoạn 2006-2009
1.Thực trạng quản lý chất thải rắn ở Việt Nam
Theo báo cáo diễn biến môi trường Việt Nam năm 2004, lượng chất thải rắn
bình quân ở các đô thị khoảng từ 0,7kg/người/ngày và ở các vùng nông thôn là
0,3kg/người/ngày. Ở các thành phố lớn như thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Hải

Phòng, Bà Rịa – Vũng Tàu tổng lượng rác thải đã tăng lên đáng kể trong những
năm gần đây. Chất thải rắn thường tập trung ở những vùng kinh tế trọng điểm, khu
công nghiệp, khu đô thị phát triển. Lượng rác thải đô thị và công nghiệp ngày càng
tăng trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta.
Chất thải phát sinh từ các hộ gia đình, các khu kinh doanh ở vùng nông thôn
và đô thị có thành phần khác nhau. Ở nông thôn chủ yếu là chất thải hữu cơ dễ phân
hủy. Ở thành phố, chất thải vô cơ ngày càng tăng. Chất thải sinh hoạt từ các hộ gia
đình,các khu chợ và các khu kinh doanh ở nông thôn chứa một tỉ lệ lớn các chất hữu
cơ dễ phân hủy chiếm 60-70%. Ở vùng đô thị, chất thải có thành phần của các chất
hữu cơ dễ phân hủy thấp hơn, chiếm khoảng 50% tổng lượng chất thải sinh hoạt. Sự
thay đổi về mô hình tiêu thụ và sản phẩm là nguyên nhân dẫn đến làm tăng tỷ lệ
phát sinh chất thải nguy hại và chất thải không phân hủy được như nhựa, kim loại
và thủy tinh.
Bảng: Mức độ gia tăng rác thải ở Hà Nội trong những năm gần đây (Đơn vị:
tấn/năm)
1996 1997 1998 1999 2000 2001
Công
nghiệp
51,00 119,70 131,70 137,10 142,70 148,20
Sinh hoạt 413,50 499,30 544,20 555,60 578,40 600,90
Bệnh viện 4,02 4,38 5,43 5,52 5,57 5,65
Nguồn: Cục Môi Trường – Báo cáo hiện trạng Môi trường Hà Nội 2001
Bảng giới thiệu nguồn phát sinh rác thải và biến thiên số lượng của chúng
trong những năm (1996-2001) điển hình của thủ đô Hà Nội. Rác thải do sinh hoạt
gấp 5 lần rác thải công nghiệp, rác thải từ các bệnh viện chỉ chiếm khoảng 1%
lượng rác thải sinh hoạt. Trong vòng 5 năm, lượng rác thải do sinh hoạt của thủ đô
Hà Nội đã tăng lên khoảng 1,5 lần do cuộc sống người dân được nâng cao và một
phần do sự gia tăng dân số.
13
Việc thu gom chất thải sinh hoạt ở thành phố và nông thôn cũng đã có những

chuyển biến tích cực. Hoạt động thu gom chất thải rắn ở các thành phố đang đi vào
nền nếp. Ở các vùng nông thôn, việc thu gom chất thải cũng đang chuyển biến. Tỷ
lệ thu gom chất thải ở các vùng đô thị trung bình đạt khoảng 71% và kể từ năm
2000, tỷ lệ thu gom đang tăng dần. Nhìn chung, các thành phố lớn có tỷ lệ thu gom
chất thải đạt ở mức cao hơn so với các thành phố nhỏ. Ở các vùng nông thôn tỷ lệ
thu gom chất thải đã dần được tổ chức. Một tỷ lệ lớn người nghèo được hưởng các
dịch vụ thu gom chất thải đô thị. Các chương trình thu gom chất thải dựa vào cộng
đồng, khu phố hoặc các dịch vụ tư nhân đảm nhiệm đang được triển khai ở các khu
vực đô thị. Các dịch vụ thu gom chất thải ở thành phố và các vùng nông thôn đang
phát triển để bảo vệ môi trường.
Các phương thức tiêu hủy chất thải sinh hoạt đang được cải tiến nhưng vẫn
còn là mối hiểm họa đối với sức khỏe và môi trường. Hình thức tiêu hủy chất thải
phổ biến vẫn là đổ chất thải ra các bãi rác lộ thiên và trong số này 49 bãi rác bị xếp
vào số các cơ sở gây ô nhiễm nghiêm trọng nhất có khả năng gây ra những rủi ro
cao đối với môi trường và sức khỏe con người. Trong số 91 điểm tiêu hủy chất thải
trong cả nước, chỉ có 17 điểm là các bãi chôn lấp hợp vệ sinh mà phần lớn đều được
xây dựng bằng nguồn vốn ODA. Ở nhiều vùng, việc áp dụng các phương pháp tự
thiêu hủy chất thải như đốt, hoặc chôn lấp chất thải, đổ bỏ ra các con sông, kênh,
rạch và các khu đất trống khá phổ biến. Các bãi chôn lấp được vận hành không
đúng kỹ thuật và các bãi rác lộ thiên gây ra nhiều vấn đề về môi trường cho dân cư
quanh vùng như nước rác làm ô nhiễm nguồn nước mặt và nước ngầm, các chất ô
nhiễm, không khí, ô nhiễm mùi, ruồi, muỗi, bọ, ô nhiễm bụi và tiếng ồn làm tăng tỷ
lệ người bị mắc bệnh về da, tiêu hóa và hô hấp.
Việc phân loại chất thải sinh hoạt tại nguồn gốc phát sinh cần được áp dụng
ở nước ta để người tiêu dùng có ý thức và hành động xử lý chất thải không làm
thương tổn đến môi trường và cuộc sống của cộng đồng.
2. Lịch sử hình thành và phát triển sáng kiến 3R
2.1. Sáng kiến 3R trên thế giới
Nhật Bản từ những năm 1990 tái chế lại thủy tinh vụn, tỷ lệ tái chế này đã và
đang tăng mỗi năm từ năm 1990 và đạt tới 90,3% vào năm 2003, vượt mức mong

đợi là 85% vào năm 2005, tại Mỹ đã tái chế và sản xuất compost từ những năm
1999 và đã giảm thiểu khoảng 64 triệu tấn nguyên liệu sẽ đáng ra được đem chon
lâp hoặc cho vào lò thiêu. Mỹ đã tái chế 28% rác thải, đây là một con số đã tăng gấp
14
đôi trong 15 năm qua, 42% giấy, 40% chai nước mềm, 55% nững hộp nước ngọt và
lon bia nhôm, 57% việc đóng gói thép, và 52% những thiết bị đã đang được tái chế.
Tại Đức nwam 1998 đã đưa ra lời kêu gọi giảm thiểu tối đa và tái sinh lại những
bao gói để tránh hoặc giảm tác động đến môi trường. Vào tháng 6/2001, phần bao
gói được phục hồi là 65% trọng lượng và phân bao gói tái chế là 45% trọng lượng.
Công nghệ này đã được Nhật Bản tìm hiểu và đưa ra “ Sáng kiến 3R” áp dụng vào
đời sống hàng ngày và vào các hoạt động sản xuất rất thành công đem lại nhiều hiệu
quả lớn.
Tháng 6/2004, hội nghị cấp bộ trưởng các nước G8 được tổ chức tại Mỹ đã
chấp nhận kế hoạch hành động về khoa học và công nghệ phát triển bền vững (kế
hoạch hành động 3R) và xúc tiến việc thực thi. Từ ngày 28 – 30/4/2005 tại thành
phố Tokyo ( Nhật Bản), Hội nghị bộ trưởng về sáng kiến 3R được tổ chức với sự
tham gia của 20 quốc gia trên thế giới (Mỹ, Nhật, Đức,Hàn Quốc, Thái Lan, Việt
Nam,…) và 4 tổ chức quốc tế (UNEP, OECD, nhóm thư ký của công ước Basel và
cộng đồng các nước Ả Rập …) để chính thức triển khai thực hiện “ Sáng kiến 3R”
và kết hợp giữa các nước, các tổ chức.
2.2. Các nội dung cơ bản của 3R
3R là từ viết tắt của 3 chữ cái đầu trong tiếng Anh: Reduce- Reuse-Recycle
Reduce (Giảm thiểu): Trong thực hiện 3R, giảm thiểu phát sinh chất thải rắn
đô thị là một trong những vấn đề cần thiết phải ưu tiên. Ví dụ trong quá trình thay
đổi cách sống trong quá trình đô thị hóa thì rất cần thúc đẩy giảm lượng chất thải
thực phẩm phát sinh từ các hộ gia đình, nhà hàng và ngươi bán lẻ và khuyến khích
sự nỗ lực của ngành công nghiệp thực phẩm để xem xét lại thành phần bao bì và
quá trình sản xuất để giảm thải. Mặt khác, do thành phần của chất thải rắn đô thị rất
phong phú, vì vậy việc phân loại chất thải phải được thực hiện. Khi thực hiện phân
loại chất thải tại nguồn, rác sẽ được phân ra làm 3 loại là rác hữu cơ, rác vô cơ và

rác tái chế. Điều này sẽ kéo theo nhiều tác động tích cực như: hạn chế việc khai thác
tài nguyên thiên nhiên, giảm bớt khối lượng chất thải kể cả tiết kiệm mặt bằng cho
việc chôn lấp chất thải rắn, tạo điều kiện thuận lời cho việc xử lý cuối cùng các
thành phần không có khả năng tái chế. Giảm thiểu chất thải rắn ngay tại nguồn được
thực hiện bằng việc áp dụng các giải pháp sử dụng tối ưu nguyên liệu, thay đổi công
thức sản phẩm, giảm các vật liệu bao bì và đóng gói sản phẩm, thay đổi thói quen
trong tiêu dùng.
15
Reuse (Tái sử dụng): Là một dạng của việc làm giảm chất thải – mở rộng các
nguồn cung cấp nguyên liệu, giảm năng lượng sử dụng và giảm ô nhiễm thậm chí
còn hơn cả tái chế. Hoạt động tái sử dụng chất thải rắn có thể được thực hiện tốt ở
các khu công nghiệp tập trung trên cơ sở hình thành một hệ thống thông tin để trao
đổi chất thải vì trong một số trường hợp chất thải cần phải loại bỏ ở nơi này thành
nguyên liệu đầu vào ở nơi khác. Hoạt động tái sử dụng tập trung vào thu hồi sản
phẩm đã sử dụng để dùng lại cho cùng một mục đích, hoặt tìm ra một mục đích sử
dụng khác. Trong tái ử dụng, sản phẩm được giữ nguyên về chất liệu kết cấu và
hình dáng cũng như chức năng ban đầu và được đưa vào quá trình chuyển hóa ( ví
dụ như bao bì đóng gói nhiều lần). Thông lệ thì những sản phẩm như vậy không
phải là chất thải, do đó trong nghĩa rộng có thể được hiểu là tái sinh, nhưng số lượt
của chu trình tái sử dụng bị hạn chế. Ví dụ chai được sử dụng nhiều lần bị mất đi
tính năng sử dụng đặc trưng. Người ta tính trung bình một chai có thể tái sử dụng
được khoảng 20 lượt. Đôi khi cũng có thể tiếp tục sử dụng sản phẩm được nếu như
sản phẩm với kết cấu chất liệu, hình dáng ban đầu được sử dụng theo một chức
năng khác. Ví dụ, cốc đựng mỳ ăn liền làm cốc uống nước, bình nhựa làm thùng
chứa nước mưa, lốp ô tô làm ghế xích đu hay đài hoa.
Recycle (Tái chế): có thể ở dạng tái sinh hoặc tái tạo lại giá trị hoặc tiếp tục
tận dụng giá trị. Tái sinh là một khái niệm thời sự thông qua hình thức sử dụng lại
hay tận dụng lại giá trị của những sản phẩm đã qua sử dụng, khái niệm này liên
quan đến chất thải của sản xuất và tiêu dùng, những vật mà trước khi đưa vào quá
trình tái sinh đã được chủ của nó coi là những thứ muốn vứt bỏ đi. Tái sinh là sự

kéo dài thêm một khoảng ngắn thời gian lưu của nguyên liệu và năng lượng trong
quá trình chuyển hóa. Vì thế công nghệ có tính đến giảm thiểu và công nghệ có tính
đến phòng ngừa ô nhiễm môi trường. Việc tiếp tục sử dụng có thể thực hiện dưới
nhiều hình thức, song tất cả các quá trình cũng chỉ là những việc sử dụng lại nhiều
lần, do đó vật chất và năng lượng đã có thể được giữ lại trong một thời gian có hạn
và riêng biệt trong phạm vi của quá trình chuyển hóa kế tiếp nhau và sau đó được
đưa vào chu trình. Tái tạo giá trị là quá trình trong đó chất liệu kết cấu ban đầu được
tái tạo lại thông qua một quá trình xử lý. Hình thái ban đầu và chủ đích sử dụng ban
đầu có thể tái tạo. Ví dụ, sử dụng sắt vụn trong công nghiệp luyện thép, nấu chảy
mảnh kính trong công nghiệp thủy tinh, giấy vụn trong công nghiệp giấy … Tiếp
tục tận dụng giá trị có thể áp dụng với cả hình thức vật chất và năng lượng. Đặc tính
của việc tiếp tục tận dụng giá trị vật chất là sự chuyển hóa vật chất thông qua một
quá trình xử lý và làm thay đổi chức năng của sản phẩm mới hình thành. Ví dụ, ủ
16
các chất hữu cơ, sản xuất ván ép từ mùn cưa, sản xuất vật liệu cách âm từ giấy phế
thải, vật liệu xây dựng từ chất dẻo cũ.
3. Áp dụng 3R vào Việt Nam (3R Hà Nội)
Dự án thực hiện sáng kiến 3R góp phần phát triển xã hội bền vững Thủ đô
Hà Nội (gọi tắt là Dự án 3R-HN) do Tổ chức JICA tài trợ được bắt đầu từ tháng 11
năm 2006 và sẽ kết thúc giai đoạn 1 vào tháng 11 năm 2009. Thực hiện dự án phía
Nhật Bản là Công ty Yachiyo Engineering và phía Việt Nam là Công ty Môi trường
Đô thị Hà Nội. Những kết quả từ giai đoạn một đã cho thấy những thành công ban
đầu của mô hình này
Dự án "Thực hiện sáng kiến 3R tại Hà Nội để góp phần phát triển xã hội bền
vững" được UBND thành phố Hà Nội phát động có tổng vốn đầu tư 3 triệu USD
bằng nguồn vốn ODA không hoàn lại của Chính phủ Nhật Bản, thực hiện đến năm
2009, thí điểm tại các phường nội thành, thì chỉ có khoảng 160 tấn rác vô cơ là
không thể tái chế được cần phải chôn lấp, hai loại rác còn lại đều có thể tận dụng để
chế biến làm phân bón, phục vụ sản xuất nông nghiệp hoặc tái chế thành các sản
phẩm có ích.

Dự án triển khai hoạt động nhằm gắn kết các bên liên quan: đơn vị thu gom -
người dân thải rác - nhà máy xử lý rác - nông dân sử dụng phân bón chế biến từ rác.
Các bên liên quan sẽ phối hợp, cùng nhau quản lý rác thải, tạo ra mối quan hệ thân
thiết, thiết lập được chu trình xử lý: Rác - sản phẩm - rác - sản phẩm. Ngoài các nhà
máy thu gom rác, chế biến rác, có hai thành phần tư nhân đóng góp quan trọng vào
thành công của dự án.
Dự án 3R được thực hịên với dự tham gia rất nhiệt tình và hiệu quả của Câu
lạc bộ 3R-HN. Các tình nguỵên viên đa số còn rất trẻ, là học sinh, SV, chia làm
nhiều nhóm kết hợp với các công nhân thu gom đi hướng dẫn người dân đổ rác
đúng nơi quy định. Thay vì chôn lấp hoặc đốt, rác sẽ được tận dụng trong một số
hoạt động có lợi ích kinh tế lớn như chăn nuôi lợn, sản xuất phân com-pốt
17
Mô hình thí điểm phân loại rác tại nguồn được thực hiện trên 4 phường thí
điểm:
• Phường Phan Chu Trinh thuộc Quận Hoàn Kiếm.
• Phường Nguyễn Du thuộc Quận Hai Bà Trưng.
• Phường Thành Công thuộc Quận Ba Đình.
• Phường Láng Hạ thuộc Quận Đống Đa.
18
Hình : Bản đồ địa bàn thí điểm PLRTN trong thành phố Hà Nội
(Nguồn: Báo cáo đầu kỳ của dự án 3R-HN)
Láng Hạ
Thành Công
Nguyễn Du
Phan Chu
Trinh
19
II. Các hoạt động chính của dự án 3R-Hà Nội giai đoạn 2006-2009
1. Hoạt động phân loại rác tại nguồn
Hình: Đường đi của rác thải Hà Nội

(Nguồn: Trang web: www.3r-hn.vn)
Dự án thí điểm phân loại rác tại nguồn đã được thực hiện tại 4 phường
Nguyễn Du, Phan Chu Trinh, Thành Công và Láng Hạ. Người dân tại các khu vực
này sẽ được nhận 2 thùng rác vô cơ và rác hữu cơ để thực hiện phân loại trực tiếp
tại gia đình. Để khuyến khích người dân thực hiện phân loại rác tại nguồn và tạo
điều kiện cho người dân dễ hiểu và dễ nhớ hơn về hệ thống, các thùng đựng rác với
màu và logo từng loại rác khác nhau được chuẩn bị và phân phát.
Tại điểm thu gom tập kết đặt thùng thu gom màu xanh và màu da cam. Hàng
ngày từ 18:00 đến 20:00 sẽ đặt các điểm thu gom tại từng khu vực dân cư, số lượng
thùng thu gom tại mỗi điểm phụ thuộc vào số lượng dân tại điểm đó. Người dân
mang thùng rác hộ gia đình tới điểm thu gom tập kết và đổ vào 2 thùng thu gom
riêng biệt. Sau đó rác sẽ được thu gom bằng 2 xe riêng biệt vào lúc 20:00 hàng
ngày, rác hữu cơ sẽ được chuyển đến nhà máy chế biến phân hữu cơ Cầu Diễn, rác
vô cơ sẽ được chở đến bãi chôn lấp rác Nam Sơn để chôn lấp và xử lý.
20
2. Hoạt động nâng cao nhà máy chết biến phế thải Cầu Diễn
Khi rác hữu cơ được phân loại tại nguồn xong thì sẽ chuyển đến nhà máy chế
biến phân hữu cơ Cầu Diễn để sản xuất thành phân hữu cơ Compost. Dự án thí
điểm tái chế rác hữu cơ thông qua sản xuất phân compost bao gồm hai hợp phần
chính:
• Nâng cấp nhà máy chế biến phế thải Cầu Diễn.
• Mở rộng nhu cầu và đảm bảo thị trường Compost.
* Nâng cấp nhà máy chế biến phế thải Cầu Diễn
Bốn nội dung chính nhằm nâng cấp nhà máy chế biến phế thải Cầu Diễn bao
gồm gồm:
a) Tăng năng suất của Nhà máy CBPT Cầu Diễn:
• Tăng lượng rác hữu cơ đầu vào.
• Xây dựng thêm 8 bể ủ lên men (dung tích 155m
3
/bể).

• Thay thế việc đảo trộn cấp khí bởi quạt gió hiện nay bằng xe xúc lật.
b) Cải tiến chất lượng Compost
• Thay thế hệ thống quạt hút cyclon hiện nay bằng hệ thống sàng rung mắt
lưới 5mm.
• Lắp đặt và điều chỉnh hệ thống tuyển gió.
• Phân tích để kiểm tra thành phần hóa học của Compost.
c) Cải thiện điều kiện làm việc.
d) Cung cấp thiết bị phân tích chất lượng Compost.
* Mở rộng nhu cầu và đảm bảo thị trường Compost
a) Khảo sát nhu cầu compost
b) Mở rộng thị trường
21
Hình : Quy trình sản xuất phân hữu cơ Compost từ rác hữu cơ
(Nguồn: Báo cáo đánh giá dự án 3R-HN)
III. Kết quả đạt được và những khó khăn trong quá trình thực hiện dự án
1.Kết quả
Do việc thực hiện còn chưa thực sự bền vững, vì vậy, để nhân rộng hiệu quả
của chương trình, các chuyên gia và người dân đều cho rằng, cần có chế tài để việc
thực hiện đi vào quy luật . Rác thải không được xử lý đúng cách là mối nguy lớn
cho môi trường sống mọi cá nhân, hộ gia đình, tổ chức xả thải có trách nhiệm kiểm
soát, phân loại rác thải, xả thải ngay tại nguồn. Nhưng trường hợp vi phạm hành
chính sẽ bị cảnh cáo và tịch thu phương tiện được sử dụng để vi phạm, phạt tiền và
buộc thu dọn hoặc chịu toàn bộ kinh phí thuê thu dọn để phục hồi lại hiện trạng ban
đầu. Các đơn vị kinh doanh ăn uống nếu vi phạm nhiều lần sẽ bị thu hồi đăng ký
kinh doanh.Tuy nhiên, theo kế họach, tháng 5 quy định này sẽ được áp dụng trên
thực tế là hơi khó Vấn đề đặt ra ở đây là cần tuyên truyền cho người dân thực hiện
tốt.
Việc thực hiện 3R gặp rất nhiều khó khăn. Với đặc điểm của phường là
nhiều chợ, nhà cao tầng, không ít người dân thiếu ý thức cứ vô tư quẳng rác từ trên
tầng cao xuống đường, sân chung, vận động mỗi người hàng ngày xách hai thùng

rác đã phân lọai xách xuống điểm tập kết quả là không dễ dàng. Lúc đầu, chỉ việc
hướng dẫn người dân phân loại rác cũng rất khó, việc phối hợp hướng dẫn cho
người dân thực hiện 3R giữa phường với Công ty môi trường đô thị chưa hợp lý,
dẫn đến một số người dân phản ứng. Phải 4 tháng sau mới bắt đầu “xuôi chèo”.
Hệ sàng tuyển được cải tiếnXe nâng vận chuyển Băng tải con lăn
Đảo trộn bằng xe xúc lật
Các bể ủ mới
Rác hữu cơ được phân loại
Sân ủ
chín
Sản xuất từ rác hữu cơ được
phân loại tại nguồn, phân
hữu cơ Cầu Diễn cho thấy
rác được phân loại có thể
trở thành một nguồn tài
nguyên quý giá,ngoài ra
còn tốt cho canh tác an toàn
và đóng góp cho phát triển
bền vững.
22
Việc phân loại rác tại nguồn công tác quản lý chất thải rắn ở nước ta còn
chưa tiếp cận được với phương thức quản lý đồng bộ 3R để giảm tỷ lệ chất thải phải
chôn lấp. “Quyết định 1390 mức phạt chưa đủ răn đe đối với những cá nhân xả rác
bừa bãi gây ô nhiễm môi trường Khâu chuẩn bị chưa kỹ, lại chưa hình thành được
cơ chế hoạt động. Hệ thống cơ sở hạ tầng yếu kém, sự quản lý không đồng bộ và
nhiều khi chất thải rắn đã được phân loại lại được thu gom, xử lý chung nên hiệu
quả các dự án chưa cao.
Lợi ích có thể thấy rõ nhưng việc thực hiện vẫn chưa như ý, vì thói quen xả
rác bừa bãi của nhiều người đã trở nên rất khó bỏ. việc phân loại rác tại nguồn chưa
được thực hiện nghiêm chỉnh. Một số chủ nguồn thải quy mô lớn lại chưa thực hiện

phân loại rác tại nguồn, trong khi đây là nơi thải ra lượng rác rất lớn.
Nếu hoạt động phân loại rác tại nguồn triển khai có hiệu quả thì lượng rác
hữu cơ đầu vào sản xuất phân bón sẽ tăng lên. Song ở nhiều vùng nông thôn, người
nông dân thường chỉ dùng phân hữu cơ tự ủ hoặc phân vô cơ. Cùng với sự phát
triển kinh tế, xã hội, chất thải rắn ngày càng gia tăng về số lượng, chủng loại và tính
độc hại, đã đặt ra nhiều thách thức đối với công tác quản lý chất thải rắn. Lượng
chất thải ngày càng nhiều thách thức đối với công tác quản lý chất thải rắn. Lượng
chất thải rắn ngày càng nhiều, xử lý và phân loại “không xuể”.
Bên cạnh đó, việc giảm thiểu chất thải trong các hoạt động sản xuất, dịch vụ,
tiêu dùng hầu như chưa được chú trọng. Trong khi đó việc giảm thiểu phát sinh chất
thải rắn là một trong những giải pháp quan trọng, hiệu quả nhất đối với quản lý chất
thải rắn.
2. Khó khăn
Kết quả dự án cho thấy, các khu vực thực hiện thí điểm dự án đã sạch đẹp
hơn, người dân tích cực tham gia cùng với chính quyền và đoàn thể các cấp để thực
hiện các hoạt động 3R và phân loại chất thải tại nguồn.
Sáng kiến 3R: Giảm thiểu - Tái sử dụng – Tái chế được thực hiện ở Hà Nội
từ năm 2007 đến 2009. Giai đoạn đầu của dự án tập trung vào việc phân loại rác tại
nguồn ở một vài quận trung tâm thành phố.
Dự án 3R-HN nhằm thiết lập một hệ thống 3R cân bằng và độc đáo tập trung
vào việc phân loại tại nguồn và tái chế chất thải hữu cơ theo Sáng kiến 3R, và gắn
kết với việc xây dựng một “xã hội tuần hòan vật chất hợp lý” ở thành phố Hà Nội.
Đó là giảm thiểu đồ đóng gói và chứa đựng; sản xuất xanh và tiêu thụ xanh; Tái sự
dụng những vật dụng còn sử dụng lại được; Phân loại rác tại nguồn và tái chế
Theo báo cáo, tỉ lệ bình quân lượng rác thải sinh hoạt từ các hộ gia đình ở
các khu vực thực hiện dự án giảm 30-40% lượng rác phải chôn lấp, giảm ô nhiễm,
tạo nguồn thu từ phân vi sinh hữu cơ. Trong hơn 2 năm thực hiện, dự án 3R đã thu
23
được khoảng 25.000 tấn rác hữu cơ để chế biến 10.000 tấn phân hữu cơ … Hiệu quả
đã chứng minh Dự án 3R đang triển khai trên 4 phường tại Hà Nội và bước đầu các

chuyên gia đã khẳng định, việc phân loại rác thải tại nguồn, tăng tái chế, giảm chôn
lấp, đã giúp giảm thiểu lượng rác thải phải chôn lấp lên tới 30-40%, giúp tiết kiệm
chi phí, giảm ô nhiễm môi trường, và còn có thể sản xuất phân vi sinh hữu cơ từ
nguồn rác đã phân loại, đem lại hiệu quả kinh tế cao.
13,5 tấn/ngày là khối lượng rác hữu cơ thu được để tái chế, sản xuất phân vi
sinh tại 4 phường (Phan Chu Trinh, Nguyễn Du, Láng Hạ, Thành Công ) thực hiện
dự án 3R-HN, giảm từ 30-40 lượng rác phải chôn lấp. Sau 2 tuần thực hiện, kết quả
thống kê cho thấy, trung bình mỗi ngày toàn phường Phan Chu Trinh thu được 2 tấn
rác hữu cơ, nhiều hơn 1,2 tấn so với trước khi thực hiện phân loại rác tại nguồn.
Điều này đồng nghĩa với việc giảm thiểu lượng rác hữu cơ mang đi chôn lấp
Tái sử dụng và tái chế chất thải là hoạt động phổ biến hơn, được thực hiện
bởi hệ thống những người thu mua cá nhân và những người nhặt rác. Phần lớn các
hộ gia đình đều đã có thói quen phân loại riêng các chất thải có thể tái chế như
nhựa, giấy, kim loại để bán cho những người thu mua đồng nát. Hoạt động này góp
phần làm giảm 15 - 20% khối lượng chất thải rắn phát sinh.
Từ khi thực hiện 3R, phường Thành Công đã giải quyết được 80-90% nạn
vứt rác bừa bãi ra đường, gây mất vệ sinh môi trường Thực hiện 3R 6 tháng qua,
phường đã tiết kiệm được cho công tác xử lý rác 120 triệu đồng.
Thực hiện sáng kiến 3R, Việt Nam không chỉ giải quyết được các vấn đề ô
nhiễm môi trường do chất thải gây ra, giảm thiểu được chi phí quản lý mà còn tiết
kiệm được đất dành cho việc chôn lấp chất thải rắn.

×